Chủ Nhật, 18 tháng 1, 2015

TÂY DU KÝ - Hồi 86-100 (Hết)



HỒI THỨ TÁM MƯƠI SÁU Bát Giới giúp oai trừ quái vật Ngộ Không trổ phép diệt yêu tà
Lại nói chuyện Tôn Đại Thánh dắt ngựa gánh đồ đi khắp núi
tìm gọi sư phụ, bỗng thấy Trư Bát Giới thở hồng hộc chạy lại hỏi:

- Anh gọi gì đấy? Hành Giả nói:
- Chú có thấy sư phụ ở đâu không? Bát Giới nói:
- Tôi vốn chỉ theo Đường Tăng làm hòa thượng, anh lừa dối tôi, bảo tôi làm tướng quân này nọ, tôi xả thân đánh nhau với yêu quái một chập, sống sót quay lại đây. Anh và Sa Tăng trông nom sư phụ, lại còn hỏi tôi nỗi gì?

Hành Giả nói:

- Chú đừng trách tôi nữa. Chẳng biết chú hoa mắt thế nào, để sổng yêu quái quay lại bắt sư phụ. Tôi phải xông ra đánh nhau với nó, bảo Sa Hòa Thượng trông nom sư phụ. Bây giờ đến Sa Hòa Thượng cũng chẳng thấy đâu cả.

Bát Giới cười nói:

- Chắc là Sa Hòa Thượng dắt sư phụ đi ị ở đâu đấy thôi. Vừa dứt lời, đã thấy Sa Hòa Thượng về. Hành Giả hỏi:
- Sa Tăng, sư phụ đâu? Sa Tăng nói:
- Hai mắt anh mờ cả hay sao mà để sổng yêu quái quay lại định bắt sư phụ. Lão Sa này phải xông ra đánh nhau với yêu quái. Sư phụ vẫn ngồi trên mình ngựa cơ mà.

Hành Giả tức nhảy người lên nói:

- Trúng kế của nó rồi! Trúng kế của nó rồi! Sa Tăng hỏi:
- Trúng kế gì của nó? Hành Giả đáp:
- Đó là kế “chia cánh hoa mai”. Chúng dụ anh em ta ra xa, rồi rắp tâm bắt cóc sư phụ mang đi. Trời ơi! Trời ơi! Biết làm sao bây giờ?

Đoạn không ngăn được hai dòng nước mắt lăn dài trên gò má. Bát Giới nói:

- Đừng khóc. Khóc chỉ tổ hỏng việc. Bọn chúng đi chưa xa, chỉ ở quả núi này thôi, chúng ta phải đi tìm ngay!

Ba người chẳng biết làm gì, đành vào núi tìm. Đi chừng hai chục dặm, bỗng nhìn thấy dưới chân vách núi dựng đứng một tòa động phủ:

Đỉnh non cao óng ánh, Đá quái dựng nguy nga.
Cỏ ngọc hoa kỳ hương thoảng, Hạnh hồng đào biếc rườm rà.
Cổ thụ vách non, da dẻ tuyết sương mấy vòng ôm Tùng xanh trước cửa, sắc đậm in trời nghìn trượng thẳm. Hạc núi từng đôi vờn cửa động,
Chim rừng ríu rít hót ban mai. Óng vàng khắp lối bụi bụi song mây,
Ánh xanh ngọc treo hàng hàng yên liễu.

Ao vuông nước biếc, Vực thẳm chân non…
Ao vuông nước biếc, thuồng luồng ẩn náu tự ngàn xưa, Vực thẳm chân non, yêu quái chực rình ăn thịt sống. Nơi đây so non Bồng chẳng kém,
Cũng nơi sào huyệt tụ phong sương.

Hành Giả thấy vậy bèn bước tới hai ba bước, đoạn nhẩy tới trước cửa quan sát, thấy tấm cửa đá đóng im ỉm, trên cửa gắn một tấm biển đá, trên tấm biển đá khắc tám chữ đại tự “Động Triết Nhạc liên hoàn núi Ẩn Vụ”.

Hành Giả nói:

- Bát Giới, động thủ thôi! Đây chính là sào huyệt của yêu tinh, sư phụ chắc bị nhốt ở trong đó.

Chú ngốc nổi máu hành hung, vung đinh ba lấy hết sức bổ xuống, tấm cửa đá vỡ toác một miếng, đoạn quát:

- Yêu quái! Mau đưa sư phụ ra trả ta, nếu không cây đinh ba này bổ xuống thì cả ở nhà mày sẽ chết hết!

Bọn tiểu yêu giữ cửa vội vàng chạy vào bảo:

- Thưa Đại vương, tai họa đến nơi rồi. Lão quái hỏi:
- Tai họa gì? Tiểu yêu đáp:
- Ngoài cửa có một tên phá vỡ cửa, đang hò hét đòi trả sư phụ.

Lão quái sợ hãi lẩm bẩm;
- Không biết thằng nào tìm đến thế nhỉ? Tiên phong nói:
- Đại vương đừng sợ, để tôi ra xem sao.

Tên tiểu yêu này bèn chạy thẳng ra ngoài cửa trước, nghiêng đầu dòm qua lỗ cửa bị phá vỡ, thấy một người tai to mõm dài, vội vàng quay vào la lớn:

- Đại vương đừng sợ, tên này là Trư Bát Giới, hắn chẳng có tài cán, chẳng dám làm gì đâu, nếu hắn cả gan mở cửa, thì tôi sẽ bắt hắn về nấu thịt một thể. Chỉ sợ cái lão hòa thượng mặt đầy lông lá, nom như ông thiên lôi thôi.

Bát Giới đứng bên ngoài nghe thấy bèn nói:

- Anh ơi, chúng chẳng sợ em, chỉ sợ anh thôi. Sư phụ chắc chắn bị nhốt ở trong đó rồi, anh xông vào đi.

Hành Giả quát mắng:

- Đồ nghiệt súc khốn kiếp kia! Ông ngoại Tôn của các ngươi đang ở đây, mau đưa sư phụ ra trả thì ta tha chết cho!

Tiên phong nói:

- Đại vương ơi, không may rồi, Tôn Hành Giả cũng tìm tới đó.

Lão quái oán trách nói:

- Chỉ tại nhà ngươi bày ra cái mẹo “chia cánh hoa mai” mang họa tới tận cửa đó. Biết làm sao bây giờ?

Tiên phong nói:

- Đại vương cứ yên tâm, chớ oán trách nữa. Tôi biết Tôn Hành Giả là con khỉ khoan dung đại lượng, tuy có tài thần thông biến hóa, nhưng lại ưa tâng bốc phỉnh phờ. Chúng ta đưa một cái đầu người giả ra lừa bịp hắn một chập, phỉnh nịnh hắn vài câu, rằng sư phụ hắn bị chúng ta ăn thịt mất rồi. Nếu lừa được
để hắn đi, thì nghiễm nhiên Đường Tăng sẽ thuộc chúng ta chén thịt, lừa không xong sẽ tìm cách khác.

Lão quái hỏi:

- Lấy đâu ra đầu người giả? Tiên phong thưa:
- Để con làm một cái đại vương xem.

Đoạn tên tiên phong cầm lưỡi rìu sắt chặt một đoạn gốc cây liễu đẽo thành một cái đầu người, phun vào một ít máu người, bôi bôi vẽ vẽ, đặt trong chiếc khay sơn, hai tiểu yêu bưng ra cửa cất tiếng gọi:

- Thưa ngài Đại Thánh, xin ngài nguôi giận tha thứ cho.

Quả nhiên Tôn Hành Giả ưa phỉnh nịnh, vừa nghe nói “ngài
Đại Thánh”, tay đã giữ chặt lấy Trư Bát Giới nói:

- Đừng động thủ vội, để xem hắn nói gì. Tên tiểu yêu bưng khay nói:
- Sư phụ ngài bị đại vương tôi bắt vào động, bọn tiểu yêu trong động hỗn láo, chẳng kể hay dở xông ngay vào đứa cắn, đứa xẻ, đứa dứt, đứa nhai, ăn loáng một cái hết sạch sư phụ, chỉ còn lại cái đầu lâu này thôi.

Hành Giả nói:

- Ăn hết rồi thì thôi, nhưng mang cái đầu lại đậy để ta xem thật hay giả.

Tên tiểu yêu ném cái đầu lâu qua lỗ cửa vỡ. Trư Bát Giới nhìn thấy khóc òa lên:

- Thương thay! Sư phụ khi vào thế kia, khi ra thế này ư? Hành Giả nói:
- Chú ngốc coi xem thật hay giả rồi hẵng khóc.
Bát Giới nói:

- Không biết xấu hổ, đầu người lại còn thật giả gì nữa! Hành Giả nói:
- Cái đầu này là giả. Bát Giới hỏi:
- Sao anh biết là giả? Hành Giả nói:
- Đầu người thật khi ném chỉ kêu cộc một cái chứ không vang. Còn đầu giả khi ném vang như tiếng mõ. Không tin, tôi ném cho chú xem.

Bèn nhặt lấy cái đầu giả ném mạnh vào tảng đá, một tiếng cốc vang lên. Sa Hòa Thượng nói:

- Anh ơi, kêu vang rồi đó. Hành Giả nói:
- Kêu vang là đầu giả. Để tôi bắt nó hiện nguyên bản tướng cho các chú xem.

Đoạn rút ngay cây gậy nạm vàng ra, nhằm cái đầu đập một phát vỡ tan. Bát Giới nhìn kỹ té ra là gốc cây liễu, bèn tức quá chửi mắng om sòm:

- Đồ giặc cỏ đê tiện kia, các ngươi giấu sư phụ ta trong động rồi đưa gốc liễu ra bịp ông tổ họ Trư của các ngươi hả? Chẳng phải sư phụ ta, chỉ là tinh cây liễu biến thành đấy chứ!

Tên tiểu yêu bưng khay sợ quá run rẩy chạy vào báo:

- Gay to! Gay to! Láo yêu hỏi:
- Gay to cái gì? Tiểu yêu thưa:
- Đã lừa được Trư Bát Giới và Sa Hòa Thượng rồi. Nhưng Tôn Hành Giả là tay “buôn đồ cổ bợm”. Hắn biết tỏng món hàng! Hắn nhận ra ngay là cái đầu giả. Bây giờ phải đưa cái đầu người thật ra, hắn mới chịu đi.

Lão quái nói:

- Lấy đâu ra đầu người thật bây giờ?… Hay là chọn một cái đầu chưa ăn hết ở đình Lột Da mang ra cho chúng?

Bọn tiểu yêu lập tức chạy tới đình Lột Da, chọn một cái đầu còn bê bết máu tươi, lột bỏ sạch da nom nhãy nhụa, sai tên tiểu yêu đặt vào khay bê ra cất tiếng gọi:

- Thưa ngài Đạt Thánh, cái đầu trước đúng là giả. Cái đầu này mới thật là đầu Đường trưởng lão, đại vương tôi định giữ lại để trấn trạch, nay xin đem ra dâng.

Đoạn ném đánh cạnh qua lỗ cửa, cái đầu lăn lông lốc ròng ròng máu tươi.

Tôn Hành Giả nhận ra là đầu người thật, chẳng còn biết thế nào cũng bật khóc. Bát Giới, Sa Tăng cũng khóc rống lên. Bát Giới nuốt nước mắt nói:

- Anh ơi, đừng khóc nữa. Hôm nay xấu trời, để thêm e sinh hôi thối. Đang lúc còn tươi để em mang đi chôn cất xong xuôi rồi hẵng khóc.

Hành Giả nói:

- Chú nói đúng lắm,

Chú ngốc chẳng kể bẩn thỉu, ôm cái đầu vào lòng chạy lên sườn núi, chọn chỗ quang đãng, sáng sủa tàng phong tự khí, lấy đinh ba đào một cái hố, chôn cái đầu xuống, rồi đắp thành nấm mộ, đoạn gọi Sa Tăng:

- Chú và anh khóc đi, để tôi đi tìm thức gì cúng sư phụ.
Bát Giới đi ra bờ suối, bẻ mấy cành liễu, nhặt mấy hòn đá cuội, mang về đặt mấy hòn cuội vào giữa mộ, cắm mấy cành liễu ở hai bên, gọi là cúng sư phụ!

Hành Giả hỏi:

- Chú làm cái trò gì đấy? Bát Giới đáp:
- Mấy cành liễu tạm làm mấy cây tùng bách che cho mộ sư phụ, vài hòn cuội tạm làm đổ điểm tâm để cúng sư phụ.

Hành Giả quát lên:

- Đồ khốn kiếp, người đã chết, còn lấy đá cúng sao? Bát Giới nói:
- Gọi là tấm lòng báo biếu của người sống mà. Hành Giả nói:
- Thôi, chú đừng nói lung tung nữa. Gọi Sa Tăng lại đây: một là làm nhà mộ cho sư phụ, hai là trông coi con ngựa, hành lý, để tôi và chú đi phá động phủ của bọn chúng, bắt sống yêu quái, phanh thây làm muôn đoạn, báo thù cho sư phụ.

Sa Hòa Thượng nước mắt ròng ròng nói:

- Anh cả nói đúng lắm. Hai anh cứ đi đi, để em ngồi đây coi giữ.

Bát Giới cởi ngay chiếc áo dài gấm đen ra, thắt lại chiếc áo lót cho gọn, vác đinh ba đi theo Hành Giả. Hai người hăng hái bước tới, chẳng nói chẳng rằng, đập phá luôn cửa động. Tiếng phá cửa vang trời. Hai người lớn tiếng gọi:

- Trả lại Đường Tăng sống cho chúng tao.!

Bọn tiểu yêu lớn nhỏ trong động, con nào con nấy hồn vía rụng rời, oán trách tên tiên phong mãi không thôi.
Lão quái hỏi tên tiên phong:

- Bọn hòa thượng ấy đã đánh tới cửa, biết làm sao bây giờ. Tiên phong đáp:
- Cổ nhân nói đúng lắm: “Đâm lao phải theo lao”[315]. Đã không làm thì thôi, làm phải làm tới. Đại vương sai tả hữu đốc suất hết quân lính xông ra giết sạch bọn hòa thượng ấy đi.

Lão quái nghe xong, chẳng còn cách nào, đành hạ lệnh:

- Các con hãy dốc sức đồng lòng cầm binh khí tinh nhuệ xông ra đánh trận!

Bọn tiểu yêu hò hét vang lừng xông ra ngoài cửa động. Đại Thánh và Bát Giới vội vã lùi lại vài bước tới chỗ rộng rãi bằng phẳng, mới chặn bọn tiểu yêu lại quát:

- Tên nào là yêu quái sừng sỏ? Tên nào bắt sư phụ ta?

Bọn tiểu yêu cắm doanh trại bày trận, phất một lá cờ gấm thêu bay phần phật, lão quái cầm chày sắt bước ra lớn tiếng quát:

- Đồ hòa thượng khốn kiếp kia, các ngươi không nhận ra ta sao? Ta là Nam Sơn đại vương đã lêu lổng ở đây mấy trăm năm rồi. Đường Tăng của các ngươi đã bị ta ăn thịt, ngươi dám làm gì ta nào?

Hành Giả quát mắng:

- Đồ đê tiện to gan kia! Nhà ngươi bao nhiêu tuổi mà dám
dùng hai chữ “Nam Sơn”. Lão Quân họ Lý[316]


là ông tổ khai
thiên lập địa, chỉ được ngồi ở bên phải cung Thái Thanh. Phật tổ Như Lai là bậc tổ giúp đời chỉ được ngồi ở dưới cánh chim Đại Bàng, đức thánh Khổng là ông tổ đạo Nho cũng chỉ được gọi là “phu tử” thôi. Nhà ngươi là đồ nghiệt súc mà dám xưng là “Nam Sơn đại vương”, lêu lổng ở đây mấy trăm năm cơ à? Chớ có
chạy! Nếm một gậy của ông ngoại nhà ngươi đây!

Yêu quái nghiêng mình tránh, giơ cây chày lên đỡ cây gậy sắt, đoạn tròn xoe đôi mắt hỏi:

- Nhà ngươi mặt mũi giống hệt loài khỉ, lại dám cả vú lấp miệng em hả? Liệu nhà ngươi có tài nghệ gì mà dám tới cửa nhà ta ngông cuồng?

Hành Giả cười:

- Đồ nghiệt súc vô danh tiểu tốt kia! Nhà ngươi không biết lão
Tôn sao? Đứng cho vững, dỏng tai nghe ta nói đây:

Quê ta Đông Thắng Thần Châu, Trời che đất chở muôn thâu bao hàm. Núi Hoa Quả sinh đá tiên.
Nở ra thành tớ căn nguyên nhiệm màu.

Sinh ra khác hẳn mọi loài,

Tấm thân thành thánh đất trời sánh ngang.

Bản tính tụ tập luyện rèn. Thiên tư đĩnh ngộ nhất trên cõi đời, Quan phong Đại Thánh trên trời, Hung đồ quấy phá coi ai ra gì
Binh trời mười vạn sợ uy,

Bao nhiêu tinh tú làm gì được ta.

Tiếng đồn vũ trụ gần xa.

Khắp trong trời đất biết ta anh hùng.

Nay theo chính quả Sa Môn,

Phù trì trưởng lão lên đường sang Tây, Gặp núi chắn lối mở ngay
Gặp sông cầu bắc, diệt bầy quái yêu

Sườn non diệt lũ tỳ hươu

Rừng sâu diệt hổ, lưng đèo diệt lang, Sang Tây chính quả rõ ràng
Yêu tà nào dám chắn đường hành hung

Nhà ngươi đã hại Đường Tăng

Mệnh ngươi quyết đập tan tành mới nghe!

Yêu quái nghe xong vừa sợ vừa giận, nghiến răng nghiến lợi nhảy bổ đến vung chày sắt đánh Hành Giả. Hành Giả nhẹ nhàng giơ cây gậy sắt gạt ra, ý còn muốn đấu khẩu với yêu quái nữa. Bát Giới nhịn không nổi vung đinh ba đánh nhau với tên tiên phong. Tên tiên phong dẫn bọn tiểu yêu kéo ồ cả lại. Một trận hỗn chiến khốc liệt diễn ra nơi vạt rộng trong núi thẳm:

Thượng quốc thánh tăng ở cõi Đông Sang miền Cực Lạc cầu kinh tông Nam Sơn yêu báo phun mù gió Chắn lối hang sâu giở thói hung Giở trò bày đặt mẹo tinh vi
Bắt lấy Đường Tăng thật ngốc là Đụng phải Ngộ Không nhiều võ nghệ Lại thêm Bát Giới cũng tài ba
Bãi bằng hỗn chiến với quần yêu

Mù mịt bụi bay kín đất trời Giáp trận tiểu yêu đao múa loạn Thần tăng hò hét đánh tơi bời. Đại Thánh anh hùng ai dám địch
Ngộ Năng hăng hái sức tài trai

Tiên phong, lão quái Nam Sơn ấy Muốn chén Đường Tăng mấy cũng liều Bên này quyết chiến báo thù sư phụ
Bên nọ quyết chí thịt thánh tăng Qua lại đánh nhau liền một chập Hơn thua thắng bại khó tranh phân.
Tôn  Đại  Thánh  thấy  bọn  tiểu  yêu  dũng  mãnh,  đánh  mãi không lui, bèn dùng phép phân thân nhổ một sợi lông bỏ vào miệng nhai nát rồi phun ra, hô “biến” lập tức mỗi mẩu lông đều biến thành một Hành Giả, tay cũng cầm gậy sắt nạm vàng xông vào đánh. Mấy trăm tên tiểu yêu đánh trước không đỡ được sau, đâm trái không che được bên phải, con nào con ấy bỏ chạy tán loạn, cầu sống về bản động.


Hành Giả, Bát Giới từ trong trận đánh thốc ra ngoài. Đáng thương thay bọn yêu quái không địch nổi, đinh ba bổ xuống, chín mũi máu phun. Gậy sắt vung lên, thịt xương nát vụn! Nam Sơn đại vương sợ quá vội vàng thổi gió phun mù, thoát thân chạy về. Tên tiên phong không biết biến hóa, bị Hành Giả vung gậy sắt đập chết, hiện nguyên hình là con lang xanh lưng sắt thành tinh. Bát Giới bước tới túm chân lật lên xem, rồi nói:

- Tên này từ nhỏ không biết đã ăn trộm bao nhiêu lợn dê của người ta mang về ăn rồi đây!

Hành Giả lắc mạnh một cái, thu sợi lông lên mình, nói:

- Chú ngốc, không được chậm trễ, mau đuổi theo lão quái, đòi tính mạng sư phụ!

Bát Giới quay lại đã không thấy các tiểu Hành Giả đâu cả, bèn nói:

- Anh ơi, pháp tướng của anh biến đâu mất rồi? Hành Giả nói:
- Tôi đã thu về hết rồi. Bát Giới nói:
- Thật tuyệt vời! Thật tuyệt vời!

Hai người vui mừng khôn xiết, đắc thắng đuổi theo.

Lại nói chuyện lão quái chạy thoát về động, sai ngay bọn tiểu yêu khuân đá, gánh đất lấp kín cửa trước. Một số tiểu yêu sống sót con nào con nấy run rẩy sợ hãi khuân đá lấp kín cửa lại, không dám thò đầu ra nữa. Hành Giả dẫn Bát Giới đuổi tới cửa hò hét om sòm, nhưng tịnh không một tiếng trả lời. Bát Giới vung đinh ba bổ xuống, nhưng cửa hang vẫn trơ trơ. Hành Giả đã biết bèn nói:

- Bát Giới đừng phí sức. Bọn chúng đã lấp kín cửa hang rồi.
Bát Giới nói:

- Lấp cửa hàng, thì mối thù của sư phụ làm sao báo được. Hành Giả nói:
- Hẵng quay về chỗ ngôi mộ, xem Sa Tăng thế nào đã.

Hai người quay về chỗ cũ, thấy Sa Tăng vẫn còn đang khóc. Bát Giới lòng thêm đau đớn, quẳng đinh ba, phủ phục xuống bên mộ, hai tay bóp đất, khóc rống lên:

- Sư phụ khốn khổ, sư phụ tha hương ơi! Con tìm thấy sư phụ ở đâu bây giờ?

Hành Giả nói:

- Chú đừng khóc nữa cho thêm đau lòng. Yêu quái lấp cửa trước, nhất định có cửa sau để ra vào. Hai chú ngồi đây, để tôi đi xem sao.

Bát Giới ứa nước mắt nói:

- Anh phải cẩn thận nhé! Không khéo ngay anh cũng bị chúng bắt mất, chúng tôi khóc chẳng giỏi, khóc sư phụ một câu, lại khóc sư huynh một câu, rồi thì khóc lẫn lộn tuốt mất.

Hành Giả nói:

- Không sao. Tôi khắc có cách!

Đoạn Đại Thánh thu gậy, thắt lại quần rảo bước sang bên kia sườn núi. Chợt Hành Giả nghe tiếng nước chảy rì rầm, bèn quay đầu nhìn, hóa ra là dòng suối từ phía thượng lưu tung bọt chảy tới. Hành Giả lại nhìn thấy một tòa cổng bên bờ suối, bên cổng có một khe nước ngầm phun nước ra, bèn nghĩ thầm:

- Chẳng cần nói cũng biết đây là cửa sau của yêu quái. Nhưng cứ để nguyên mặt mũi thế này, bọn tiểu yêu canh cửa sẽ nhận ra, để ta biến thành con rắn nước chui vào… À, hãy khoan. Biến thành rắn nước sợ linh hồn sư phụ biết sẽ trách mình là người
xuất gia mà lại biến thành loài rắn bò trườn. Biến thành con cua bể chui vào vậy. Cũng không được. Sợ sư phụ trách mình là người xuất gia mà lại lắm chân.

Hành Giả biến thành một con chuột nước, tõm một tiếng, nhảy xuống khe nước ngầm, lặn xuống tận đáy khe quan sát, thấy chỗ có nắng, mấy chú tiểu yêu đang phơi từng lát thịt người. Hành Giả nghĩ bụng:

- Các con của bố ơi, đúng là thịt của sư phụ bố rồi. Chúng bay ăn không hết đem phơi khô để dành lúc mưa dầm gió bấc chứ gì. Ta mà hiện nguyên hình đuổi tới, một gậy đập chết hết thì chúng chê ta là đồ hữu dũng vô mưu. Thôi được, để ta biến hóa lần nữa, tìm bằng được lão quái xem sao.

Đoạn nhảy ra khỏi khe, lắc mình một cái biến thành một con kiến ngựa có cánh. Thật là:

Bé teo tên gọi ngựa huyền,

Lâu ngày mọc cánh bay lên nhẹ nhàng

Khi nhàn bày trận bên đường, Lúc vui gậm phản dọn bàn cờ tiên. Biết mưa đắp tổ lấp hang,
Tha đất xây lũy dọc ngang như thành.

Thân hình hoạt bát tinh nhanh,

Mấy phen phên trúc cửa mành bò chơi.

Hành Giả đang cánh nhẹ nhàng bay thẳng vào nhà giữa, thấy lão quái đang ngồi buồn rười rượi. Bỗng một tiểu yêu từ phía sau nhảy ra báo:

- Đại vương có tin cực kỳ vui! Lão quái hỏi:
- Tin vui gì?

Tên tiểu yêu thưa:

- Chúng con đi thám thính ở bên suối ngoài cổng sau, bỗng nghe thấy tiếng khóc, con bèn lên đỉnh núi quan sát, hóa ra là Trư Bát Giới, Tôn Hành Giả, Sa Hòa Thượng đang khóc rống bên ngôi mộ. Hẳn là bọn chúng ngỡ cái đầu đó là đầu Đường Tăng, đem chôn cất rồi khóc rống bên mộ.

Hành Giả nghe trộm được câu nói ấy, trong bụng mừng rỡ nghĩ thầm:

- Cứ như lời nói ấy, thì sư phụ đang còn bị giam giữ trong này, chưa bị ăn thịt. Mình phải đi tìm sư phụ xem sư phụ sống chết ra sao, sẽ nói chuyện với chúng sau.

Đoạn Đại Thánh bay vào nhà giữa, ngó đông ngó tây, thấy tường bên có một cái cửa nhỏ đóng im ỉm, bèn lách qua khe cửa chui vào xem xét, hóa ra là một khu vườn, tiếng khóc bi thiết văng vẳng đâu đây. Hành Giả bay thẳng vào giữa vườn, thấy có hai người bị trói dưới gốc cây to, một người rõ ràng là Đường Tăng. Hành Giả vừa nhìn thấy, bụng dạ ngứa ngáy, chịu không nổi, hiện nguyên bản tướng, chạy tới bên cất tiếng gọi:

- Sư phụ!

Tam Tạng nhận ra tiếng Hành Giả, ứa nước mắt nói:

- Ngộ Không, con đến đấy ư? Mau cứu ta với Ngộ Không ơi! Ngộ Không ơi!

Hành Giả nói:

- Sư phụ đừng gọi tên con, đằng trước có người e lộ mất. Sư phụ còn sống, con chắc chắn sẽ cứu được. Yêu quái nói rằng đã ăn thịt sư phụ, rồi mang cái đầu người giả ra lừa chúng con, chúng con bèn đánh nhau quyết liệt với chúng. Sư phụ yên tâm, gắng chịu đựng chút nữa, chừng nào con đánh gục được yêu
quái, mới cứu sư phụ được.

Đại Thánh niệm chú, rồi lắc mình một cái, lại biến thành con kiến ngựa, bay vào nhà giữa, đậu trên chiếc xà nhà, thấy số tiểu yêu chưa bị thương tích gì tụm năm tụm ba xì xào bàn tán. Bỗng một con trong số đó nhảy ra tâu:

- Thưa đại vương, bọn chúng thấy cửa bị lấp, đánh mãi chẳng ăn thua, đành bỏ mặc Đường Tăng, mang cái đầu giả đi chôn, hôm trước khóc, hôm rồi khóc, hôm sau lại khóc là đủ ba ngày, có lẽ bỏ đi rồi. Chúng con nghe ngóng biết chúng bỏ đi ấy à, lúc ấy sẽ lôi Đường Tăng ra pha thịt cắt nhỏ thành từng miếng ướp gia vị, rồi nướng lên thơm phức, một người chén một miếng cho được trường thọ sống lâu.

Lại một tên khác vỗ tay nói:

- Ấy chớ! Ấy chớ! Đem hấp lên ăn ngon hơn! Lại một tên nữa nói:
- Hắn là một vật hiếm hoi, đem ướp muối để ăn được lâu.

Hành Giả đậu trên xà nhà nghe thấy hết, trong lòng giận sôi lên nghĩ bụng:

- Sư phụ ta có độc ác gì với các ngươi, mà các ngươi tính kế ăn thịt người như vậy!

Đoạn dứt nắm lông tơ, cho vào miệng, nhai nát, nhẹ nhàng phun ra, miệng thầm niệm chú, biến những mẩu lông thành những con bọ ngủ, bay đậu khắp mặt rồi chui vào mũi bọn tiểu yêu. Bọn tiểu yêu dần dần buồn ngủ rũ ra. Một lát sau, chúng đã ngủ lăn lóc. Duy lão yêu ngủ chập chờn, đưa hai tay vò đầu bứt tai, bóp mũi hắt hơi liên tục. Hành Giả nghĩ:

- Lẽ nào hắn không ngủ say? Cho hắn thêm hai con nữa!

Đoạn lại nhổ một sợi lông tơ, làm phép như lần trước, rồi ném vào mặt lão quái. Hai con bọ ngủ chui vào lỗ mũi, một con chui
vào lỗ trái, một con chui vào lỗ phải. Lát sau, lão quái ngả người ra, vươn vai ngáp đài hai tiếng, rồi ngáy khò khò.

Hành Giả mừng thầm nhảy xuống, hiện nguyên hình, rút cây gậy sắt trong tại ra múa tít một vòng, cây gậy to bằng quả trứng vịt, đập đánh rầm một tiếng phá vỡ tấm cửa bên, chạy thẳng vào vườn sau lớn tiếng gọi:

- Sư phụ ơi! Tam Tạng nói:
- Đồ đệ ơi, mau cởi dây thừng cho ta, ta đau đến chết mất. Hành Giả nói:
- Sư phụ đừng vội, để con giết yêu quái rồi lại cởi dây cho sư phụ.

Đoạn quay người chạy thẳng tới nhà giữa toan vung gậy đánh, song lại dừng tay lại nghĩ:

- Không được. Phải cứu sư phụ đã rồi giết chúng sau. Đoạn lại chạy vào vườn, rồi lại nghĩ:
- Giết chúng xong rồi hẵng cứu.

Cứ như vậy đến vài lần, rồi lại nhảy múa bước vào vườn. Tam
Tạng thấy vậy vừa buồn vừa vui nói:

- Con khỉ kia thấy ta chưa chết, mừng quá không biết làm gì, nên nhảy múa phỏng?

Lúc ấy Hành Giả mới bước tới bên cởi dây trói, đỡ sư phụ xuống, toan đi. Bỗng thấy một người bị trói ở trên cây trước mặt gọi:

- Xin trưởng lão mở lòng đại từ đại bi cứu tôi với! Tam Tạng đứng sững lại gọi:
- Ngộ Không, cởi trói cho người kia với.



Hành Giả hỏi:

- Người ấy là ai? Tam Tạng đáp:
- Bác ấy là tiều phu, bị bắt vào đây trước ta một ngày. Bác ấy có mẹ già, ngày đêm mong nhớ mẹ. Thật là một người chí hiếu. Con cứu bác ta luôn một thể.

Hành Giả vâng lời, cởi dây trói cứu luôn người tiều phu, đoạn dẫn cả hai người ra lối cửa sau, bò lên sườn núi, vượt qua con suối. Tam Tạng cảm tạ nói:

- Đồ đệ ơi, may nhờ có con cứu ta thoát chết. Ngộ Năng, Ngộ
Tĩnh đâu cả rồi?

Hành Giả thưa:

- Hai chú ấy đang khóc sư phụ ở đằng kia kìa. Sư phụ gọi hai chú ấy một tiếng.
Tam Tạng bèn lớn tiếng gọi:

- Bát Giới! Bát Giới.

Bát Giới khóc đến nỗi tối tăm đầu óc, quệt nước mắt nước mũi nói:

- Sa Hòa Thượng ơi, linh hồn sư phụ hiện về đang gọi chúng ta đó.

Sa Tăng ngẩng đầu nhìn thấy, vội vàng quỳ sụp xuống nói:

- Sư phụ ơi, sư phụ chịu nhiều hoạn nạn quá! Anh con làm thế nào cứu được sư phụ ra đấy?

Hành Giả đem chuyện cứu sư phụ kể hết một lượt.

Bát Giới nghe xong nghiến răng căm giận, không nhịn nổi, vác đinh ba xới tung ngôi mộ lên, moi lấy cái đầu lâu, đập cho một phát đinh ba, cái đầu lâu nát bét như cám. Đường Tăng nói:

- Đập nát nó làm gì? Bát Giới nói:
- Sư phụ ơi, chẳng rõ hắn là vong nhân nhà ai mà bắt chúng con phải sụp lạy khóc suốt.

Tam Tạng nói:

- Chính nó cứu ta thoát chết đấy. Khi anh em chúng con đánh tới cửa chúng nó, hò hét đòi thả ta, bọn chúng nghĩ rằng đưa nó ra là xong xuôi. Nếu không thế, chắc ta đã bị chúng giết chết rồi. Hãy chôn cất cái đầu đó để tỏ tấm lòng của người xuất gia chúng ta.

Chú ngốc nghe Tam Tạng nói như vậy, bèn đem đống thịt xương bầy nhầy mang đi chôn, rồi lại vun thành nấm mộ.

Hành Giả cười nói:

- Sư phụ hãy tạm ngồi đây để con vào diệt yêu quái đã.
Bèn từ sườn nút nhảy xuống, vượt qua suối vào động, cầm sợi thừng trói Đường Tăng và bác tiều phu vào thẳng nhà giữa. Lão quái vẫn đang ngủ say. Hành Giả trói túm bốn vó hắn lại, lấy gậy sắt xỏ vào, quẩy lên vai, ra thẳng cửa sau. Trư Bát Giới từ xa trông thấy bèn nói:

- Ông anh gánh một đầu giỏi nhỉ! Sao không tìm đứa nữa gánh hai đầu có hơn không?

Hành Giả bước tới đặt lão yêu xuống đất. Bát Giới giơ đinh ba toan bổ. Hành Giả nói:

- Hãy khoan! Trong động còn bọn tiểu yêu chưa bắt! Bát Giới nói:
- Anh đưa tôi vào diệt chúng luôn thế đi. Hành Giả nói:
- Đánh làm gì cho phí sức, chi bằng tìm ít củi thui cho tiệt nọc nhà chúng.

Bác tiều phu nghe nói bèn dẫn Bát Giới tới thung lũng phía đông nhặt ít gốc trúc, cành liễu, sợi mây, cành lau, lá sậy, gỗ dâu khô cong bó thành vài bó, gánh về chất kín cửa sau. Hành Giả châm lửa, Bát Giới lấy hai tai quạt gió. Đại Thánh co người nhảy lên chỗ cao, rùng mình thu hết những sợi lông đã biến thành những con bọ ngủ khi trước lên người. Vừa lúc bọn tiểu yêu tỉnh dậy đúng lúc lửa cháy lem lém. Than ôi! Nửa chú tiểu yêu cũng chẳng thoát, một tòa động phủ thoắt thành tro. Bấy giờ Hành Giả mới quay về gặp sư phụ. Sư phụ thấy lão yêu tỉnh dậy la lối, bèn gọi:

- Đồ đệ ơi, yêu quái dậy rồi!

Bát Giới bước tới vung đinh ba bổ yêu quái chết tươi, hiện nguyên bản tướng là con báo hoa thành tinh. Hành Giả nói:

- Loại báo hoa này ăn được cả thịt hổ, nay lại biết biến hóa
thành người. Phải đánh cho chết mới trừ được hậu họa!

Tam Tạng cảm tạ rối rít, vịn yên lên ngựa. Bác tiều phu nói:

- Thưa trưởng lão, theo hướng tây nam không xa là nhà tôi, xin mời trưởng lão vào chơi, cho mẹ tôi được gặp, được dập đầu tạ ơn cứu mạng của trưởng lão, sau đó tôi xin đưa tiễn trưởng lão lên đường.

Tam Tạng vui vẻ xuống ngựa, cùng bác tiều phu thành đoàn năm người đi bộ theo hướng tây nam. Một lát sau, quả nhiên thấy:

Đường đá rêu phong kín

[317]
Hoa mây rủ cửa sài

Bốn phía núi sừng sững, Khắp rừng chim hót vui, Tùng bách rợp bóng mát. Hoa cỏ ngát hương bay. Chốn núi sâu tịch mịch, Thấp thoáng bóng nhà ai.
Từ xa họ đã nhìn thấy một bà cụ tựa cánh cửa sài, nước mắt rưng rưng đang kêu trời khóc đất. Bác tiều phu nhìn thấy mẹ mình, bỏ cả Tam Tạng chạy vội về bên cửa, quỳ xuống nói:

- Mẹ ơi, con đã về!

Bà cụ ôm chầm lấy người con nói:

- Con ơi, mấy ngày con chẳng về, mẹ tưởng chúa núi đã bắt con đi, ăn thịt mất con rồi, mẹ đau lòng quá. Con đã không bị chúa núi ăn thịt, làm sao bây giờ con mới về? Quang gánh, rìu búa của con đâu cả rồi?

Bác tiều phu dập đầu thưa:
- Thưa mẹ, con bị chúa núi bắt đi, trói vào gốc cây. May nhờ có ba vị đồ đệ của trưởng lão đầy thần thông quảng đại, giết chết chúa núi, hóa ra hắn là con báo hoa thành tinh, còn bọn tiểu yêu thì bị đốt chết hết, cứu thoát trưởng lão và cả con nữa. Ơn này thật cao như trời, dày như núi. Không có họ, con chắc chắn sẽ bị chúng ăn thịt. Giờ đây, trong núi bình yên, con có đi suốt đêm cũng chẳng còn lo gì nữa.

Bà cụ nghe xong, bước một bước lại lạy một lạy, lạy khắp bốn thầy trò rồi mới vào trong nhà nghỉ ngơi. Vào nhà, mẹ con còn dập đầu tạ ơn mãi, rồi lật đà lật đật đi sửa soạn cơm chay mời thầy trò. Bát Giới nói:

- Bác tiều ơi, chúng tôi biết nhà bác nghèo túng, chỉ ăn cơm thường là được, đừng bày vẽ làm gì.

Bác tiều phu nói:

- Chẳng giấu gì trưởng lão, thung lũng chúng tôi đây thật là nghèo, chẳng có nấm hương, mộc nhĩ, gia vị hạt tiêu, chỉ có vài thứ rau rừng dâng trưởng lão tỏ chút lòng thành.

Bát Giới cười nói:

- Vẽ chuyện, vẽ chuyện. Thôi mau mau lên, chúng tôi đói bụng lắm rồi đây.

Bác tiều phu nói:

- Xin có ngay! Có ngay!

Một lát sau, mâm cơm đã được dọn ra, quả nhiên chỉ là mấy loại rau rừng. Chỉ thấy:

Rau cải non chần nóng, Rau tê trắng muối chua. Rau răng ngựa ngon lành, Hoa ruột én thơm phức.
Rau yến tử, bất lai vừa non vừa hắc, Rau nha nhi, quyền tiểu vừa mát vừa thanh Mã lam đầu nấu chín ngon lành.
Cẩu cước tích bung dừ trắng toát

Đóa tai mèo, hoa dã lạc nấu ăn ngon tuyệt, Rau gạo vụn, rau diếp rừng ăn sống mát thơm. Hoa điểu anh trộn với dầu thơm.
Củ ấu luộc vừa bùi vừa béo.

Rau bồ căn, giao nhi mọc bên bờ suối, Rau khổ na, tước nhĩ xanh tốt bờ rào. Rau tai dê, rau cẩu kỷ ăn bổ làm sao. Rau ô lam chẳng cần dầu trộn đảo.
Mấy loại rau rừng làm bữa cơm thơm thảo.

Của bác tiểu phu tỏ chút lòng thành.

Bốn thầy trò ăn no căng rồi sửa soạn hành lý lên đường, bác tiều phu không dám giữ lâu, mời mẹ già ra lạy thầy trò hai lạy cảm tạ. Riêng bác tiều phu cứ một mực dập đầu lạy, rồi sửa lại quần áo cho gọn ghẽ, chống cây gậy gỗ lần theo ra cửa tiễn thầy trò. Sa Tăng dắt ngựa, Bát Giới gánh hành lý, Hành Giả đi sát bên cạnh. Tam Tạng ngồi trên ngựa chắp tay nói:

- Bác tiều phu ơi, phiền bác dẫn ra đường cái rồi chúng ta chia tay nhau.

Cả đoàn người lên dốc xuống đèo, vượt qua khe suối sang bên kia sườn núi. Tam Tạng ngồi trên mình ngựa tư lự nói:

- Đồ đệ ơi!

Kể từ tạm biệt vua Đường
Sang Tây bái Phật dặm trường gian nan

Núi sông hiểm trở tai ương

Hết yêu đến quái mệnh thường khó qua

Lấy kinh một dạ thật là

Cầu mong trời Phật tai qua công thành

Quản gì gian khổ đủ vành

Ngày nào hành mãn dâng kinh triều Đường

Bác tiều phu nghe xong nói:

- Trưởng lão đừng buồn. Theo con đường lớn này sang Tây còn không đầy một nghìn dặm nữa thì tới cõi Cực Lạc, nước Thiên Trúc.

Tam Tạng nghe xong nghiêng người xuống ngựa nói:

- Phiền bác đi xa vất vả quá! Đã tới đường cái rồi, xin mời bác quay về thôi. Bần tăng gửi lời đa tạ lão mẫu đã thết đãi cơm chay thịnh soạn. Bần tăng chẳng lấy gì báo đáp, xin được sớm tối tụng kinh phù hộ cho lão mẫu được bình an, sống lâu trăm tuổi.

Bác tiều phu vâng dạ cảm ơn, rồi quay lại đường cũ. Thầy trò tiếp tục nhằm hướng Tây thẳng tiến. Thật là:

Diệt quái giải oan qua khổ nạn

Chịu ơn thẳng bước một lòng son.

Cuối cùng không biết ngày nào mới sang được trời Tây, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ TÁM MƯƠI BẢY Quận Phượng Tiên khinh trời bị hạn Tôn Đại Thánh khuyến thiện làm mưa
Đại đạo sâu xa

Nào hay tin tức

Nói ra quỷ thần cũng hãi

Chứa gồm vũ trụ

Cắt đứt ánh huyền Thế gian lạc nào bằng? Trước đỉnh Linh Thứu Bắt lấy ngọc châu,
Lấp lánh ánh sáng năm màu Chiếu khắp càn khôn thượng hạ Kẻ nào hay thọ ngang non biển.
Lại nói chuyện bốn thầy trò Tam Tạng chia tay bác tiều phu,
rời núi Ẩn Vụ thẳng bước ra đường cái. Đi được mấy hôm, bỗng nhìn thấy một tòa thành trì trước mặt. Tam Tạng hỏi:

- Ngộ Không ơi, trước mặt có tòa thành trì, hay là nước Thiên
Trúc chăng?

Hành Giả xua tay nói:

- Không! Không! Xứ của Như Lai tuy gọi là nước Cực Lạc nhưng không có thành trì, mà chỉ là một quả núi lớn, trên núi có lâu đài điện các, đó gọi là chùa Đại Lôi Âm núi Linh Sơn. Còn
dù có tới nước Thiên Trúc, thì đó cũng không phải là nơi ở của Như Lai. Không biết nước Thiên Trúc cách Linh Sơn bao nhiêu dặm. Có lẽ thành này là quận ngoài của nước Thiên Trúc chăng, phải đến tận nơi mới biết rõ được.

Một lát sau, thầy trò đã đi tới bên thành. Tam Tạng xuống ngựa, đi vào trong ba tầng cổng, thấy cảnh vật thê lương, phố xá hoang vắng. Khi đi tới cổng một cái chợ, thầy trò lại thấy rất nhiều người mặc áo chàm đứng xếp hàng hai bên, mấy người đai mũ chỉnh tề đứng dưới hiên nhà. Bốn thầy trò cứ dọc đường mà đi, số người kia vẫn sừng sững chẳng hề nhường lối. Trư Bát Giới bực mình, vẫy vẫy đôi tai dài, cất tiếng quát:

- Dẹp ra! Dẹp ra!

Những người kia chợt ngẩng đầu, nhìn thấy Bát Giới xấu xí như vậy, ai nấy bủn rủn chân tay, ngã lăn ngã lóc, miệng lắp bắp:

- Yêu tinh tới! Yêu tinh tới!

Mấy người mũ đai chỉnh tề đứng trước hiên nhà sợ quá run như cầy sấy, cúi mình hỏi:

- Các ngài từ đâu tới?

Tam Tạng sợ họ gây rắc rối, vội bước dấn lên, nói với mọi người:

- Bần tăng ở nước Đại Đường bên phương Đông vâng mệnh nhà vua sang bái đức Phật tổ ở chùa Đại Lôi Âm nước Thiên Trúc cầu kinh. Hôm nay đi qua quý xứ ta, một là không biết tên nước, hai là chưa tìm được chỗ nghỉ nên mới bước vào thành đường đột như vậy, mong các vị xá tội.

Vị quan kia bấy giờ mới thi lễ đáp:

- Xứ chúng tôi là quận ngoài nước Thiên Trúc, tên gọi là quận
Phượng Tiên. Mấy năm nay hạn hán liên tiếp, ngài quận hầu sai
chúng tôi treo bảng ở đây, tìm pháp sư cầu mưa cứu dân.

Hành Giả nghe vậy bèn hỏi:

- Bảng văn treo ở đâu? Mấy quan nhân thưa:
- Bảng văn đây ạ. Vừa rồi mới quét dọn xong thềm nhà, đang định treo lên.

Hành Giả nói:

- Đưa đây chúng tôi xem nào.

Mấy vị quan treo tờ bảng văn lên. Mấy thầy trò Tam Tạng cũng bước tới xem. Bảng văn viết:

“Thượng Quan quận hầu quận Phượng Tiên nước Đại Thiên
Trúc treo bảng cầu minh sư làm việc đại pháp sư.

Quận quốc ta đất đai rộng lớn, quan dân thịnh giàu. Trải qua mấy năm hạn hán liên tiếp đến nỗi ruộng nẻ giếng khô cong. Nhà giàu chỉ tạm sống qua ngày, kẻ nghèo cũng khó mong thoát chết. Đấu gạo giá chợ đắt nghìn vàng, bó củi mất đứt hai lạng bạc. Con gái mười tuổi đổi gạo ba thăng, con trai năm tuổi mặc cho người nhặt. Trong thành sợ phép nước bán cả quần áo để nuôi thân, ngoài thôn dối cửa công ăn cả thịt người mong đỡ đói.  Vậy  nay  ta  treo  bảng  này,  chúng  mong  hiền  triết  thập phương tới cầu mưa giúp dân. Ơn sâu ấy nguyện dâng nghìn vàng đền báo, quyết chẳng sai lời. Vậy nay yết bảng.”

Hành Giả xem xong, hỏi mấy vị quan:

- Thượng Quan quận hầu là thế nào? Mấy vị quan thưa:
- Thượng Quan là họ của ngài ấy. Đó là họ của quận hầu chúng tôi.

Hành Giả cười nói:
- Họ ấy ít lắm nhỉ? Bát Giới nói:
- Anh không đọc sách à? Ở cuối mỗi cuốn “Bách gia tinh” có câu: “Thượng Quan Âm Dương” đó sao?

Tam Tạng nói:

- Đồ đệ ơi, chớ tán lan man nữa. Ai biết cầu đảo thì cầu một trận mưa ngọt cho họ để cứu muôn dân. Đó là một việc rất thiện đấy. Bằng không thì đi ngay kẻo nhỡ độ đường.

Hành Giả nói:

- Cầu đảo có gì là khó! Lão Tôn đây lật sông dốc biển, đổi vật dời sao, phun mây nhả mù, đuổi trăng gánh núi, lật trời đào giếng hô gió gọi mưa. Những việc ấy chỉ là trò trẻ con, có gì là ghê gớm?

Mấy vị quan nghe nói, sai ngay hai người chạy ngay về quận báo:
- Thưa ngài Thượng Quan, việc vui ngàn vạn lần đã đến rồi. Quận hầu đang thắp hương lầm rầm khấn, nghe báo có tin vui
đến, vội vàng hỏi:

- Việc vui gì? Viên quan thưa:
- Hôm nay lĩnh bảng, đang định treo ở cổng chợ, bỗng có bốn vị hòa thượng nói rằng họ từ nước Đại Đường bên phương Đông vâng lệnh nhà vua sang chùa Đại Lôi Âm nước Thiên Trúc bái Phật cầu kinh, thấy bảng họ nói ngay rằng có thể cầu được mưa ngọt, vậy tôi chạy về báo cho ngài biết.

Quận hầu lập tức sửa lại quần áo cho gọn ghẽ, đoạn chẳng dùng ngựa xe nhiều người, đi bộ thẳng tới cổng chợ để đón tiếp cho ân cần. Bỗng có người báo:
- Ngài quận hầu đã tới.

Mọi người dẹp cả ra. Quận hầu vừa nhìn thấy Đường Tăng, chẳng sợ mấy đồ đệ mặt mũi xấu xí, cúi người lạy ngay giữa lòng đường nói:

- Hạ quan họ là Thượng Quan, quận hầu quận Phượng Tiên, chay giới sạch sẽ mời trưởng lão cầu đảo cứu dân. Mong trưởng lão mở lòng từ bi, vận dụng thần thông cứu cho! Cứu cho!

Tam Tạng đáp lễ nói:

- Ở đây không phải chỗ nói chuyện, để bần tăng tới một ngôi chùa nào đó mới tiện làm việc.

Quận hầu nói:

- Trưởng lão cùng tới công đường của hạ quan, ở đó có chỗ thanh tịnh.

Thầy trò bèn dắt ngựa gánh đồ tới thẳng cửa phủ. Hai bên làm lễ tương kiến xong, quận hầu sai pha trà, dọn cơm chay. Trong chốc lát cơm chay được dọn ra, Bát Giới thỏa sức ăn như hổ dói. Mấy người hầu hạ bưng mâm sợ lè lưỡi, thêm canh thêm cơm chạy như đèn cù. Loáng một cái, Bát Giới đã ních chặt bụng mới thôi. Ăn xong, Đường Tăng tạ ơn, đoạn hỏi:

- Thưa quận hầu đại nhân, quý xứ ta hạn hán đã bao lâu rồi? Quận hầu thưa:
Quận tôi thuộc nước Đại Thiên Trúc, Tên gọi Phượng Tiên, tôi chức mục. Liên tiếp ba năm hạn hán to,
Chết khô cây cỏ cùng ngũ cốc.

Già trẻ lớn bé khó làm ăn,

Thôn xóm phố phường thảy than khóc.
Người sống ba phần, hai đã chết, Phần còn thoi thóp tựa tro than.
Hạ quan treo bảng cầu người hiền, May gặp chân tăng tới xứ mình. Cứu giúp lê dân cầu mưa ngọt, Nghìn vàng đa tạ báo ân nhân.
Hành Giả nghe xong, mặt mày hớn hở, cười khanh khách nói:

- Đừng nói nữa! Đừng nói nữa! Nếu lấy nghìn vàng tạ ơn thì nửa giọt mưa cũng không có. Nhưng biết tích công chứa đức thì lão Tôn giúp cho một trận mưa to.

Quận hầu vốn là một người ngay chính hiền lương, thương dân rất mực, lập tức mời Hành Giả ngồi trên cúi đầu vái nói:

- Lão sư thật là người từ bi, hạ quan đâu dám trái đức. Hành Giả nói:
- Hãy khoan chuyện trò vội, mời ngài đứng dậy thôi. Chỉ phiền ngài trông nom sư phụ tôi cẩn thận, để tôi hành sự.

Sa Tăng hỏi:

- Anh ơi, anh hành sự thế nào? Hành Giả đáp:
- Chú và Bát Giới qua đây, đứng dưới thềm giúp tôi làm việc, để lão Tôn đi gọi Long Vương tới làm mưa.

Bát Giới, Sa Tăng sửa lại quần áo theo lệnh. Ba người đứng ở dưới thềm. Quận hầu thắp hương khấn khứa. Tam Tạng ngồi tụng kinh.

Hành Giả vừa niệm chú, đã thấy từ hướng chính đông một đám mây đen xuất hiện và dần dần bay xà xuống trước công đường. Đó là Ngao Quảng, lão long vương Đông Hải. Ngao
Quảng thu mây, biến ra hình người bước xuống cúi người vái chào Hành Giả, nói:

- Đại Thánh gọi tiểu thần chắc có việc gì sai bảo? Hành Giả nói:
- Xin mời ngài đứng dậy. Ngài từ xa tới vất vả quá! Chẳng có việc gì đặc biệt đâu. Vùng đây là quận Phượng Tiên, mấy năm nay bị hạn hán liên tiếp, thử hỏi ngài xem có thể làm một trận mưa được không?

Long Vương nói:

- Tâu Đại Thánh được rõ, Tôi tuy làm được mưa thật, nhưng phải được Thượng Thiên sai khiến. Thượng Thiên không sai, đâu dám tự tiện làm mưa?

Hành Giả nói:

- Ta nhân đi đường qua đây, thấy hạn hán lâu ngày, dân tình cực khổ, vội vàng mời ngài tới đây làm mưa giúp dân, sao ngài lại thoái thác?

Long Vương nói:

- Tôi đâu dám thoái thác? Đại Thánh đã niệm chân ngôn gọi tôi, tôi đâu dám không tới. Nhưng một là chưa có ngự chỉ của Thượng Đế, hai là không mang theo thần tướng làm mưa, nên không thể làm mưa được. Đại Thánh đã có lòng thương dân, xin cho tiểu thần về biển điều binh tới, còn Đại Thánh lên thiên cung thưa với Thượng Đế, xin một đạo thánh chỉ làm mưa, cho mời long vương ở long cung tới, bấy giờ tôi xin y theo các điều trong thánh chỉ thi hành.

Hành Giả nghe Long Vương nói có lý, đành bằng lòng để Long Vương về biển, còn mình quay lại thưa hết chuyện của Long Vương cho Đường Tăng nghe, Đường Thăng nói:

- Đã như vậy, con làm ngay đi, đừng để họ cho mình là dối
trá.

Hành Giả dặn dò Bát Giới, Sa Tăng:

- Hai chú bảo vệ sư phụ, tôi lên thiên đình nghe.

Vừa dứt lời đã không thấy Đại Thánh đâu cả. Quận hầu vô cùng sợ hãi hỏi:

- Tôn trưởng lão biến đâu rồi? Bát Giới cười đáp:
- Cưỡi mây lên trời rồi.

Quận hầu vô cùng khâm phục, đoạn lập tức truyền lệnh phi báo cho phố to ngõ nhỏ khắp thành, bất kể là công khanh sĩ thứ hay quân lính, nhà nào nhà nấy phải lập bàn thờ có đặt bài vị long vương, cửa nhà đặt vò nước trong, trong vò cắm cành dương liễu, đốt đèn thắp nhang khấn trời lạy đất, chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện Hành giả đùng phép cân đẩu vân bay tới thẳng ngoài cửa Tây Thiên, đã thấy Hộ Quốc thiên vương dẫn thiên binh, lực sĩ bước ra đón tiếp chào hỏi:

- Kính chào Đại Thánh, lấy kinh đã xong chưa? Hành Giả nói:
- Sắp tới nơi rồi. Hiện giờ chúng tôi đã đi tới giáp giới nước Thiên Trúc, tới một quận ngoài tên gọi là quận Phượng Tiên. Vùng này đã ba năm nay không mưa, dân tình cực khổ, lão Tôn muốn cầu đảo cứu dân, gọi được long vương tới nơi. Nhưng long vương nói không có thánh chỉ, không dám tự tiện làm mưa. Nay tôi lên yết kiến Thượng Đế, xin Thượng Đế ban cho thánh chỉ làm mưa đây.

Thiên vương nói:

- Long vương không dám làm mưa là phải. Gần đây tôi nghe
nói viên quận hầu ấy càn rỡ, mạo phạm trời đất. Thượng Đế trừng phạt, bèn lập ra một quả núi gạo, một quả núi bột, một chiếc khóa lớn bằng vàng, chỉ khi nào ba thứ đó đổ hết, đứt rời thì mới cho mưa xuống.

Hành  Giả  không  hiểu  việc  đó  ra  sao,  nằng  nặc  đòi  gặp Thượng Đế. Thiên vương không dám ngăn cản, phải để cho Hành Giả vào. Hành Giả đến thẳng bên ngoài điện Thông Minh, gặp bốn đại thiên sư ra nghênh đón hỏi:

- Đại Thánh lên đây có việc gì? Hành Giả thưa:
- Tôi nhận hộ vệ Đường Tăng đi tới quận Phượng Tiên bên ngoài nước Thiên Trúc, thấy quận này đã lâu không mưa, quận hầu vời thầy cầu đảo. Lão Tôn gọi long vương tới, lệnh phải làm mưa. Nhưng long vương nói chưa có thánh chỉ của Thượng Đế, không dám tự tiện. Nay tôi lên đây xin thánh chỉ làm mưa cứu giúp dân tình.

Bốn đại thiên sư nói:

- Vùng ấy không thể làm mưa được. Hành Giả cười nói:
- Được hay không, phiền các ngài cứ dẫn tôi vào tâu, cho
Thượng Đế thấy tình cảm của lão Tôn như thế nào?

Cát Tiên Ông nói:

- Thật đúng như câu tục ngữ: “ếch ngồi đáy giếng, coi trời bằng vung”.

Hứa Tinh Dương nói:

- Thôi đừng nói linh tinh nữa, đưa ngài ấy vào cho rảnh.

Bốn chân nhân Khâu Hồng Tế, Trương Đạo Lãng, Cát Tiên
Ông và Hứa Tinh Dương đưa Hành Giả vào trước điện Linh
Tiêu tâu rằng:

- Vạn tuế! Có Tôn Ngộ Không đi đường tới quận Phượng Tiên, nước Thiên Trúc, muốn làm mưa cho quận ấy, nay đến xin thánh chỉ.

Thượng Đế nói:

- Ba năm trước đây, vào ngày hai mươi nhăm tháng mười hai, trẫm xuất hành đi du lãm muôn phương, ngao du ba cõi, trẫm thấy tên Thượng Quan ấy đang làm việc bất nhân, quẳng những thứ để thanh khiết cúng Thượng Đế cho chó ăn, miệng lại nói những lời bẩn thỉu, mắc tội mạo phạm. Trẫm lập tức sai làm ba việc ở trong điện Phi Hương. Các ngươi hãy dẫn Tôn Ngộ Không vào xem, nếu thấy ba việc đó đổ hỏng cả thì sẽ xuống chiếu cho phép làm mưa. Bằng không thì đừng có nói cho rườm lời.

Khi bốn thiên sư dẫn Hành Giả vào trong điện Phi Hương xem xét, thấy có một tòa núi gạo cao chừng mười trượng, một tòa núi bột cao chừng hai mươi trượng. Bên tòa núi cao có một con gà nhỏ bằng nắm tay đang thủng thẳng mổ gạo ăn. Bên tòa núi bột có một con chó sư tử lông vàng đang thong thả liếm bột. Bên trái kê một chiếc giá sắt, trên giá treo một chiếc khóa vàng dài chừng một thước ba bốn phân. Cần khóa to bằng ngón tay, bên dưới đặt một chiếc đèn đang thắp sáng, ngọn lửa cháy tới cần khóa.



Hành Giả chẳng biết đầu cua tai nheo thế nào, quay lại hỏi thiên sư:

- Như thế là có ý gì nhỉ? Thiên sư đáp:
- Người ấy xúc phạm Thượng Thiên, Thượng Đế bèn nghĩ ra ba việc này. Chừng nào con gà mổ hết gạo, con chó liếm hết bột, ngọn đèn đốt đứt cần khóa, lúc ấy mới làm mưa.

Hành Giả nghe xong sợ hãi tái mặt, không dám thưa chuyện, đành xấu hổ bước ra ngoài điện. Bốn thiên sư cười nói:

- Đại Thánh đừng buồn. Việc này chỉ có làm việc thiện mới giải được thôi. Một ý nghĩ thiện, kinh động cả Thượng Thiên, núi gạo núi bột khi ấy sẽ sụp đổ, cần khóa cũng sẽ đứt. Đại Thánh cứ về khuyên hắn theo thiện, thì phúc quả tự khắc sẽ đến.

Hành Giả nghe lời, không vào điện Linh Tiêu chào từ biệt
Thượng Đế nữa, mà bay thẳng về hạ giới. Trong khoảng khắc, Hành Giả đã tới cửa Tây Thiên lại gặp Hộ Quốc thiên vương ở đó. Thiên vương hỏi:

- Việc xin thánh chỉ ra sao?

Hành Giả đem chuyện núi gạo, núi bột, khóa vàng kể hết một lượt, và nói:

- Quả đúng như lời ngài nói, Thượng Đế không ban thánh chỉ đâu. Vừa rồi thiên sư tiễn tôi, bảo tôi khuyên người ấy làm việc thiện, tực khắc phúc quả sẽ đến.

Đoạn từ biệt thiên vương, hạ mây về trần giới.

Quận hầu cùng Tam Tạng, Bát Giới, Sa Tăng và các quan lớn nhỏ đón tiếp Hành Giả, ai nấy xúm xít quanh Hành Giả hỏi chuyện. Hành Giả chỉ mặt quận hầu quát:

- Chỉ tại nhà ngươi vào ngày hai mươi nhăm tháng mười hai ba năm về trước đã mạo phạm trời đất, khiến cho lê dân gặp hoạn nạn, đến nay Thượng Đế vẫn chẳng chịu làm mưa!

Quận hầu sợ quá quỳ mọp xuống đất nói:

- Ba năm trước đây, vào ngày hai mươi năm tháng mười hai, trong khi cúng chay trời đất ở trước công đường, do vợ tôi lăng loàn cãi cọ với tôi, lúc ấy tôi giận quá mất khôn, ẩy đổ bàn thờ, quẳng cả đồ cúng, rồi gọi chó cho ăn. Hai năm nay, mỗi khi nghĩ tới việc ấy, tâm thần tôi vẫn thảng thốt hãi hùng không sao giải thích được. Không ngờ Thượng Thiên trừng phạt di hại tới lê dân. Nay gặp lão sư giáng lâm, muôn xin lão sư chỉ giáo cho biết thượng giới đã dùng kế sách gì trừng phạt?

Hành Giả nói:

- Chính vào ngày hôm ấy, Thượng Đế đi chu du hạ giới, thấy nhà ngươi quẳng đồ cúng cho chó ăn, lại còn nói lời tục tĩu, Thượng Đế bèn nghĩ ra ba việc để trừng phạt.
Bát Giới hỏi:

- Ba việc gì? Hành Giả đáp:
- Trong điện Phi Hương, Thượng Đế sai dựng một quả núi gạo gao chừng mười trượng, một quả núi bột cao chừng hai mươi trượng. Bên quả núi gạo có một con gà bằng nắm tay thủng thẳng mổ gạo ăn. Bên quả núi bột có một con chó sư tử lông vàng đang thong thả liếm bột. Bên trái điện kê một chiếc giá sắt, trên giá treo một chiếc khóa lớn bằng vàng, cần khóa to bằng ngón tay, bên dưới đặt một ngọn đèn thắp sáng, ngọn lửa đốt vào cần khóa. Đợi khi nào con gà mổ hết gạo, con chó liếm hết bột, ngọn lửa đốt đứt rời cần khóa thì mới cho phép vùng này làm mưa.

Bát Giới cười nói:

- Không lo! Không lo! Ông anh cứ mang em đi biến ra pháp thân khác, nốc một bữa hết sạch gạo bột, bẻ gãy cần khóa, rồi xin cho mưa xuống.

Hành Giả nói:

- Chú ngốc đừng nói lung tung. Đó là kế Thượng Đế bày ra, chú làm sao lấy được?

Tam Tạng nói:

- Như thế thì biết làm thế nào bây giờ? Hành Giả nói:
- Dễ thôi! Dễ thôi! Khi con quay về, bốn thiên sư có nói với con rằng chỉ cần làm điều thiện là có thể giải cứu được.

Quận hầu lạy sụp xuống tha thiết van xin:

- Mong lão sơ chỉ giáo, hạ quan xin nhất nhất quy y. Hành Giả nói:
- Ngài đã hồi tâm hướng thiện thì hãy niệm Phật tụng kinh ngay đi, có gì ta sẽ giúp cho. Còn nếu cứ giữ thói cũ chẳng chịu sửa đổi, thì ta chẳng thể cứu nổi, và chẳng bao lâu nữa, chính ngài cũng bị trừng phạt, tính mạng khó toàn.

Quận hầu cúi đầu lạy thề nguyện quy y. Ngay hôm ấy cho mới hết tăng đạo trong vùng, dựng một đạo tràng, mọi người thảo bức sớ tâu với tam thiên. Quận hầu dẫn mọi người tới thắp hương lễ bái, tạ ơn trời đất nhận hết lỗi lầm. Tam Tạng cũng tụng kinh giúp họ. Mặt khác, lại phi báo cho dân chúng khắp thành, bất kể già trẻ gái trai đều phải thắp hương niệm Phật. Từ lúc ấy, tiếng thiện vang khắp nơi. Bấy giờ Hành Giả mới nói với Bát Giới, Sa Tăng:

- Hai chú bảo vệ sư phụ cẩn thận để lão Tôn lại đi hộ họ một phen nữa.

Bát Giới hỏi:

- Anh định đi đâu? Hành Giả đáp:
- Quận hầu nghe lời lão Tôn, đã thành tâm thụ giáo, cung kính từ thiện, một lòng niệm Phật, ta lại đi tâu với Thượng Đế cầu mưa.

Sa Tăng nói:

- Anh đã định đi, thì nên đi ngay đừng có chậm trễ, kẻo dây dưa tới việc đi đường của chúng ta. Cầu được mưa cũng giúp chúng ta thành chính quả đấy.

Đại Thánh lại nhảy vút lên mây, bay thẳng tới cửa thiên môn, gặp ngay Hộ Quốc thiên vương. Thiên vương hỏi:

- Đại Thánh lại lên có việc gì? Hành Giả thưa:
- Viên quận hầu đã quy thiện rồi.

Thiên vương cũng vui lắm. Đang trò chuyện, bỗng thấy Trực Phù sứ giả bưng bức sớ của đạo gia, quan điệp của tăng gia đứng ngoài cửa thiên môn đợi vào tâu. Viên sứ giả thấy Hành Giả, cúi chào nói:

- Việc này là công khuyến thiệu của Đại Thánh đấy. Hành Giả nói:
- Ngài mang bức sớ và quan điệp đi đâu? Sứ giả thưa:
- Vào thẳng điện Thông Minh, đưa cho thiên sư dâng lên
Thượng Đế.

Hành Giả nói:

- Đã vậy, ngài đi trước đi, tôi theo vào sau thì hơn.

Trực Phù sứ giả vào rồi. Hộ Quốc thiên vương mới nói:

- Đại Thánh không cần vào yết kiến Thượng Đế làm gì, mà nên đến thẳng phủ Cửu Thiên Ứng Nguyên, xin mượn lôi thần, tự mình làm ra sấm vang chớp giật rồi trả lại cho họ là có mưa ngay thôi.

Hành Giả nghe lời, vào cửa thiên môn, không lên điện Linh Tiêu cầu thánh chỉ nữa, mà quay mày rẽ sang phủ Cửu Thiên Ứng Nguyên. Tới nơi, thấy Lôi Môn sứ giả, Củ Lục điển giả, Liêm Phỏng điển giả bước ra đón tiếp, vái chào hỏi:

- Đại Thánh tới có việc gì? Hành Giả đáp:
- Có việc cần gặp Thiên Tôn.

Ba vị sứ giả lập tức quay vào báo. Thiên Tôn trở vào bên trong bức bình phong Cửu Phượng ráng đỏ sửa lại quần áo rồi
bước ra nghênh đón. Làm lễ tương kiến xong, Hành Giả nói:

- Có một việc muốn nhờ vả đến ngài. Thiên Tôn hỏi:
- Việc gì?

Hành Giả thưa:

- Tôi nhân hộ vệ Đường Tăng sang phương Tây, đi qua quận Phượng Tiên, thấy vùng đó bị hạn hán nặng nề. Tôi có hứa cầu mưa giúp họ, nên hôm nay lên đây mượn quan tướng của quý bộ tới đó làm mưa.

Thiên Tôn nói:

- Tôi có biết chuyện viên quận hầu ấy mạo phạm Thượng Thiên, Thượng Đế đã lập ba việc, không biết bây giờ đã có thể làm mưa được hay chưa?

Hành Giả cười nói:

- Hôm qua tôi đã yết kiến Thượng Đế xin thánh chỉ. Thượng Đế sai thiên sư dẫn tôi vào điện Phi Hương xem ba việc đó. Đó là một quả núi gạo, một quả núi bột và một chiếc khóa vàng. Khi nào ba thứ đó đổ hết và đứt hết mới cho phép mưa xuống. Tôi nghĩ ba thứ đó đổ hết, đứt hết thì khó quá đâm buồn, thiên sư bảo tôi nên khuyên quận hầu và chúng dân vùng đó làm việc thiện, “người làm việc thiện, trời tất ứng theo”, như thế may ra vãn hồi được lòng trời, cứu được tai nạn. Nay việc thiện đã nảy nở, tiếng thiện đã vang xa. Vừa rồi Trực Phù sứ giả mang sớ và quan điệp sửa đức theo thiện tâu lên Thượng Đế rồi. Lão Tôn vội đến ngay quý phủ ta, xin mượn quan tướng ở bộ Lôi giúp đỡ làm mưa cho.

Thiên Tôn nói:

- Đã như vậy, ta sẽ ra lệnh ngay cho các tướng Đặng, Tân, Trương, Đào sai khiến bà chớp theo Đại Thánh xuống quận
Phượng Tiên nổi sấm.

Trong giây lát, bốn tướng cùng Đại Thánh đã xuống tới địa giới quận Phượng Tiên, họ trổ phép ngay ở giữa không trung. Tiếng sấm ầm ĩ bỗng chốc nổi lên, những tia chớp loang loáng xuất hiện. Thật là:

Chớp rạch rắn vàng trườn

Sấm vang sâu rền rĩ

Ầm ĩ núi động đổ Loang loáng ánh lửa bay Ngoằn ngoèo sóng trời mây Ùng oàng rung đất rộng
Muôn dặm núi sông đều cảm động

Lò hồng chớp lóe nảy mầm xanh.

Khắp nơi trong quận Phượng Tiên, quan viên lớn nhỏ, quân lính dân thường suốt ba năm không được nghe tiếng sấm, không được nhìn ánh chớp. Hôm nay thấy sấm vang, chớp giật, thì ai nấy đều quỳ cả xuống, đầu cúi sát lư hương, tay cầm cành dương liễu, miệng lầm rầm khấn:

- Nam vô A Di Đà Phật! Nam vô A Di Đà Phật!



Lời thiện ấy được nhiệm vang quả nhiên kinh động Thượng
Thiên. Đúng như bài thơ cổ nói:

Một ý nghĩ nảy sinh Trời đất đều hay biết Thiện ác nếu không báo Trời đất chẳng công sao?
Tạm gác chuyện Tôn Đại Thánh chỉ bảo lôi thần đang làm sấm vang chớp giật ở quận Phượng Tiên và mọi người đều quy hiện lại.

Lại nói chuyện trên thượng giới, Trực Phù sứ giả mang sớ, quan điệp của hai nhà tăng đạo vào điện Thông Minh. Bốn thiên sư mang vào điện Linh Tiêu dâng Thượng Đế. Thượng Đế xem xong bèn nói:

- Người ấy đã hết lòng thiện niệm, thì vào xem ba việc ra sao.
Đang nói, bỗng thấy viên quan coi giữ ở điện Phi Hương vào báo:

- Hai quả núi gạo và núi bột đều đổ cả. Trong chớp mắt, số gạo và bột đều biến mất, cần khóa cũng đứt rời.

Vừa tâu xong, lại thấy viên thiên quan đương giá dân thổ địa, thành hoàng, xã lệnh cùng các thần ở quận Phượng Tiên vào sụp lạy và tâu rằng:

- Viên quận hầu và mọi người già trẻ gái trai khắp thành trong bản  quận  đều  quy  y  thiện  quả,  lạy  Phật  kính  trời.  Nay  xin Thượng Đế rủ lòng từ bi, giáng trận mưa ngọt xuống khắp quận, cứu vớt lê dân.

Thượng Đế nghe xong vô cùng hoan hỉ, bèn truyền lệnh

- Bộ Gió, bộ Mây, bộ Mưa tuân theo hiệu lệnh: xuống quận Phượng Tiên dưới hạ giới, ngay giờ này hôm nay rải mây nổi sấm, làm mưa ba thước bốn mươi hai giọt.

Bốn đại thiên sư lĩnh chỉ, truyền báo cho các bộ xuống ngay hạ giới trổ hết thần uy theo lệnh thánh chỉ.

Hành Giả đang cùng bốn tướng Đặng, Tân, Trương, Đào chỉ bảo bà Chớp nổi chớp trên không trung, thì thấy các thần đều tới hội họp đầy bầu trời. Lúc ấy gió mây vần vũ, mưa ngọt đầm đìa. Thật là trận mưa tốt lành:

Mây xám kéo ùn ùn Mù đen chăng dày đặc Xe sấm chạy ầm ầm
Chớp rạch lòe nhằng nhịt

Cuồng phong thổi ào ào

Mưa nặng bay dào dạt.

Thế mới gọi là:
Nghĩ thiện trời ứng theo

Muôn dân mong tha thiết

Ấy do Đại Thánh trổ thần thông Muôn dặm núi sông tối mù mịt Mưa rơi lật biển và dốc sông
Tuôn khắp đất trời nom mông lung.. Mưa rơi: Trước thềm như thác đổ Ngoài song gõ lanh canh
Muôn hộ nghìn nhà thảy niệm Phật Phố phường chợ búa nước dâng dâng Sông đông, suối tây đầy ăm ắp
Khe bắc, ngòi nam trắng mênh mang

Lúa mạ có nước xanh tốt Cây cối được nước hồi sinh Ruộng đồng ngũ cốc phơi phới Xóm thôn hoa màu xanh xanh Thương khách vui reo buôn bán Nông phu cày cấy no đủ
Mùa màng trời giúp phong đàng

Mưa hòa gió thuận dân an lạc

Biển lặng sông trong hưởng thái bình.

Ngày hôm ấy, sau khi làm mưa đủ ba thước bốn mươi hai giọt, các thần lục tục thu xếp định kéo về. Tôn Đại Thánh cao tiếng dõng dạc nói:

- Thưa thần thánh bốn bộ, mời các ngài hãy tạm dừng mây, để
lão tôn gọi quận hầu ra cảm tạ các ngài. Các ngài hãy vén may thu mù, hiện rõ chân thân cho người hạ giới tận mắt nhìn thấy, khi ấy họ mới tin thật và cúng dâng các ngài.

Các thần nghe theo dừng lại trên không trung.

Hành Giả hạ mây bước xuống, vào thẳng trong quận. Tam Tạng, Bát Giới, Sa Tăng đều ùa cả lại đón tiếp. Viên quận hầu thì cứ bước một bước lại lạy một lạy tạ ơn.

Hành Giả nói:

- Khoan tạ ơn vội. Ta đã lưu các thần ở bốn bộ nán lại, ngài hãy ra lệnh cho mọi người cùng ra lạy tạ, xin các ngài ấy từ nay về sau thường xuyên đến làm mưa giúp.

Viên quận hầu vội vàng cho phi báo, lệnh cho mọi người đốt hương ngửa mặt lên trời bái tạ. Ai nấy nhìn thấy rõ các thần ở bốn bộ thu mây vén mù, hiện rõ chân thân. Bốn bộ đó là bộ Mưa, bộ Sấm, bộ Gió, bộ Mây. Chỉ thấy:

Long vương hiện chân thân Lôi tướng hiện chân tượng Chú mây hiện rõ mình
Bác gió hiện rõ dáng

Long vương hiện chân thân, râu bạc mặt xanh khác thế gian Lôi tướng hiện chân tượng, môi cong lẫm liệt nào ai sánh? Bác gió hiện rõ mình, mi cong mắt sáng đẹp vô cùng
Chú mây hiện rõ mình, mũ vàng mặt ngọc nom rực rỡ.

Giữa trời sao, hiện thân lồ lộ Dáng uy nghi của những thiên thần Quận Phượng Tiên ai nấy ngay ác tính Hôm nay ngước thấy bao thần thánh
Rửa lòng theo thiện thảy quy y…

Các thần nán lại một lát, dân chúng ai nấy sì sụp lễ bái mãi. Hành Giả lại nhảy vút lên mây xanh, vái chào các thần rồi nói:

- Các ngài vất vả quá! Mời các ngài trở về bản phủ, lão Tôn sẽ nhắc nhở dân chúng trong quận bốn mùa cúng trời cảm tạ. Từ nay về sau, mong các ngày cứ năm ngày nổi một cơn gió, mười ngày làm một trận mưa cứu vớt lê dân cho!

Các thần nghe lời, ai nấy quay về bản phủ. Chuyện không nói nữa

Lại nói chuyện Đại Thánh hạ mây bước xuống nói với Tam
Tạng:

- Xong việc dân vui, ta mau thu xếp lên đường. Quận hầu nghe thấy thế, vội vàng chắp tay nói:
- Tôn trưởng lão nói gì vậy! Công việc hôm nay là đức ân vô biên vô lượng, hạ quan đã sai người sửa soạn yến tiệc khoản đãi tạ ơn, lại xin mua ruộng của dân dựng tự viện, sinh từ cho trưởng lão, khắc tên vào bia, bốn mùa cúng lễ. Chúng tôi dù có khắc cốt ghi xương cũng chỉ gọi là báo đền được muôn một, sao trưởng lão đã bảo lên đường ngay?

Tam Tạng nói:

- Lời dạy của đại nhân tuy chí phải, nhưng chúng tôi chỉ là những nhà sư hành cước tìm đường sang Tây, không dám ở lâu, nấn ná một hai ngày là phải đi thôi.

Viên quận hầu đâu có chịu buông, ngay đêm ấy, sai người sửa soạn tiệc rượu, xây dựng sinh từ.

Ngày hôm sau, tiệc lớn được bày ra, quận hầu mời Đường Tăng ngồi chỗ cao nhất, Tôn Đại Thánh, Bát Giới và Sa Tăng ngồi nối tiếp theo. Quận hầu và hết thảy các quan viên lớn nhỏ trong quận đều dâng chén ân cần kính mời, khoản đãi suốt một
ngày. Bữa tiệc ấy thật là vui vẻ. Có bài thơ làm chứng rằng:

Đồng ruộng lâu ngày mưa ngọt tươi, Sông ngòi đầy ắp tiện giao thông. Thần Tăng đến quận lòng thâm tạ, Đại Thánh lên trời dạ khắc ân.
Ba việc giải trừ ác cũ,

Một niềm quy thiện thấy thành công. Từ đây thịnh trị đời Nghiêu Thuấn, Gió thuận mưa hòa lúa nặng bông.
Cứ thế, một ngày tiệc, một ngày yến, hôm nay tạ, ngày mai ơn, nấn ná đến nửa tháng chờ cho tự viện sinh từ làm xong. Một hôm quận hầu mời bốn thầy trò đến xem. Đường Tăng sững sờ nói:

- Công trình đồ sộ thế này mà hoàn thành nhanh thế sao? Quận hầu nói:
- Hạ quan đốc thúc dân phu ngày đêm không nghỉ, vừa hoàn thành là mời mấy trưởng lão đến xem ngay.

Hành Giả cười nói:

- Ngài quả là một viên quận hầu hiền lương tài giỏi.

Đoạn mọi người tới xem chùa mới, thấy chùa xây điện các nguy nga, sơn môn tráng lệ, ai nấy đều khen ngợi rối rít. Hành Giả mời sư phụ đặt tên cho chùa. Tam Tạng nói:

[318]
- Được, tên chùa ta đặt là “chùa Cam Lâm Phổ Tế”

Quận hầu tán thưởng:

- Hay lắm! Hay lắm!

Bèn lệnh cho dát vàng tên chùa, rồi mời các sư tăng đến thờ
phụng đèn hương. Bên phải lập sinh từ bốn thầy trò, hàng năm bốn mùa cúng tế. Lại sai dựng các miếu thờ Lôi thần, Long thần để tạ ơn. Xem xong Tam Tạng bảo đồ đệ chuẩn bị lên đường.

Dân chúng trong quận biết không giữ lâu được, bèn chuẩn bị lễ vật tiễn chân, nhưng thầy trò không nhận một ly. Vì vậy, quan dân khắp quận gióng trống mở cờ, gảy đàn thổi sáo, tiễn đưa ba mươi dặm mà vẫn chưa nỡ chia tay, họ gạt nước mắt trông theo, tới khi không nhìn thấy bóng thầy trò nữa mới quay về. Đó mới thật là:

Đức lớn thần thăng ghi chùa Phổ Tế

Tề Thiên Đại Thánh trổ phép thi ân.

Cuối cùng không biết chuyến đi này bao lâu nữa mới gặp được Như Lai, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ TÁM MƯƠI TÁM Thiền đến Ngọc Hoa thi võ nghệ Ba trò xin phép nhận môn đồ
Lại nói chuyện Đường Tăng vô cùng hoan hỉ từ biệt quận
hầu, ngồi trên lưng ngựa nói với Hành Giả:

- Đồ đệ ơi, thiện quả vừa rồi toàn là nhờ công của con đấy, nó còn lớn hơn cả công đức cứu trẻ ở nước Tỳ Kheo nữa kia.

Sa Tăng nói:

- Ở nước Tỳ Kheo chỉ cứu được một nghìn một trăm linh một trẻ con, sánh làm sao được với trận mưa ngọt lai láng đầm đìa cứu sống tính mạng hàng nghìn hàng vạn sinh linh này. Con cũng thầm thán phục thần thông pháp lực ngang trời, lòng đại từ đại bi tày đất của anh cả đấy.

Bát Giới cười nói:

- Anh con ơn cũng có, thiện cũng có, nhưng chỉ là “miệng nam mô, bụng bồ dao găm” mà thôi. Cùng đi với lão Trư mà toàn là xỏ lá.

Hành Giả nói:

- Tôi xỏ lá chú cái gì? Bát Giới nói:
- Thôi đủ rồi! Thôi đủ rồi! Thường nhường cho tôi bị trói, bị treo, bị hầm, bị nấu đó thôi! Hôm nay ở quận Phượng Tiên thì ơn cứu sống hàng vạn vạn người, lẽ ra nên nán lại độ nửa năm, đưa tôi đi chén vài bữa no căng đã chứ, đằng này chưa chi đã giục phải đi ngay!
Tam Tạng nghe nói bèn quát lên:

- Đồ ngốc, chỉ suy tính thiệt hơn làm phiền người khác! Đi mau lên, không được đấu khẩu nữa!

Bát Giới chẳng dám nói năng, chúi chúi cái mõm cười hà hà gánh hành lý. Bốn thầy trò đi thẳng ra đường cái.

Khi ấy, quang âm vùn vụt, thấm thoắt đã sang tiết giữa thu, chỉ thấy:

Mây mưa vừa thu hết, Vóc núi xa hao gầy. Lá đỏ bay lả tả,
Cúc vàng nở hây hây. Trăng sáng soi song cửa. Sương lạnh hay đêm dài. Khói bếp chiều lan tỏa. Mặt hồ trong vơi đầy. Ngô tía xanh tươi tốt,
Bèo trắng hương thoảng bay, Quýt xanh, chanh vàng ửng.
Lúa chín, liễu khô gầy, Bông lau bay xào xạc, Xóm hoang én lạc bầy. Điếm vắng gà đâu gáy. Mùa gặt đến rồi đây.
Bốn thầy trò đi đã khá lâu, chợt lại nhìn thấy thấp thoáng bóng tường thành. Tam Tạng chỉ roi nói:

- Ngộ Không, con nhìn xem, hình như kia lại là một tòa thành
trì, nhưng không biết là nơi nào.

Hành Giả nói:

- Con và sư phụ đều chưa tới bao giờ, làm sao biết được? Cứ đi tới đó rồi hỏi.

Chưa đứt lời, bỗng thấy một cụ già tay chống gậy trúc, mình mặc áo the mỏng, chân đi đôi hài gai, lưng thắt sợi dây mảnh từ trong bụi cây đi ra. Đường Tăng vội vàng buông cương xuống ngựa, bước tới hỏi thăm. Cụ già chống gậy đáp lễ rồi hỏi:

- Trường lão từ đâu tới? Đường Tăng chắp tay thưa:
- Bần tăng từ nước Đại Đường bên phương Đông, vâng lệnh nhà vua sang chùa Đại Lôi Âm bái Phật cầu kinh. Hôm nay tới quý xứ ta, từ xa đã nhìn thấy thành trì nhưng chưa biết tên là gì, mong cụ chỉ giáo.

Cụ già nghe xong thán phục:

- Đúng là bậc thiền sư có đạo! Vùng chúng tôi là hạ quận của nước Thiên Trúc, tên gọi huyện Ngọc Hoa. Người chủ thành của huyện chúng tôi là tôn thất của hoàng đế nước Thiên Trúc, được phong là Ngọc Hoa Vương. Vương là người rất mực hiền lương, kính trọng tăng đạo, yêu mến lê dân. Lão thiền sư nếu đến yết kiến, chắc chắn sẽ được Vương rất tôn kính.
Tam Tạng cảm tạ xong, cụ già lại rời gót đi về phía rừng cây. Tam Tạng quay lại kể hết với đồ đệ của mình. Ba người mừng
rỡ, đỡ sư phụ lên ngựa. Tam Tạng nói:

- Gần tới nơi rồi, chẳng cần phải cưỡi ngựa đâu.

Bốn người đi bộ tới bên thành ngắm nghía phố phường, thấy nhà cửa phố xá buôn bán sầm uất. Cảnh vật cực kỳ phồn thịnh. Xem xét giọng nói dáng người, thấy chẳng kém gì ở Trung Hoa.
Tam Tạng dặn dò:

- Các đồ đệ nên cẩn thận, chớ có buông tuồng.

Bát Giới cúi đầu, Sa Tăng giấu mặt, còn Tôn Hành Giả thì đi bên cạnh dìu sư phụ. Người hai bên đường đổ xô lại xem, rồi nói ồn ào:

- Vùng ta từng có cao tăng hàng long phục hổ, chưa từng thấy hòa thượng hàng lợn phục khỉ bao giờ.

Bát Giới không nhịn nổi, dẩu mõm nói:
- Thế các người đã thấy hòa thượng hàng lợn vương chưa? Đám người sợ quá xô nhau giạt sang hai bên. Hành Giả cười
nói:

- Chú ngốc, mau giấu cái mõm đi, chớ có làm bộ nữa, cẩn thận chân bước qua cầu đấy.

Chú ngốc cúi gằm mặt, chỉ cười hề hề, bước qua cầu treo vào trong cửa thành. Tới đây, họ lại nhìn thấy một phố lớn, san sát quán rượu, nhà hát, náo nhiệt ồn ào. Thật là một nơi thần châu đô hội. Có bài thơ làm chứng rằng:

Thành đồng lũy sắt vững ngàn năm

Dựa núi kề sông sắc vẻ tân Hàng hóa lưu thông thuyền cập bến Quán hàng nhộn nhịp cửa treo rèm Lâu đài san sát dân đông đúc
Phố xá quanh co khách rảo chân Chẳng kém Tràng An phong cảnh đẹp Gà kêu chó sủa rộn xa gần.
Tam Tạng trong lòng mừng thầm nói:

- Người ta đồn về các nước ở Tây vực, nhưng ta chưa từng
đến bao giờ. Giờ đây ngắm kỹ cảnh này, nào có khác gì nước
Đại Đường ta đâu. Thế giới cực lạc chính là nơi đây vậy. Ta
[319]
nghe thấy người ta rao gạo trắng bốn đồng một thạch

, dầu
vừng tám quan một cân. Thật là một nơi dồi dào thực phẩm.

Đi một lát lâu thì tới vương phủ Ngọc Hoa, hai bên cửa phủ còn có Trưởng Sứ phủ, Thân lý sảnh, Điển Thiện sở, Đãi Khách quán. Tam Tạng nói:

- Đồ đệ ơi, đây là vương phủ rồi, để ta vào yết kiến huyện vương xem xét điệp văn rồi đi.

Bát Giới nói:

- Sư phụ vào để chúng con đứng chôn chân ở trước cửa nha môn sao?

Tam Tạng nói:

- Nhà ngươi không trông thấy ba chữ “Đãi Khách Quán” nơi cửa kia à? Các con vào đấy ngồi đợi xem có cỏ giả thì mua cho ngựa ăn. Ta yết kiến vương rồi, thảng hoặc ngài có mời cơm chay, sẽ về gọi các con cùng ăn.

Hành Giả nói:

- Sư phụ cứ yên tâm vào trước đi. Chúng con khắc có cách khu xử.

Sa Tăng gánh hành lý vào trong quán. Số người hầu trong quán thấy mặt mũi bọn Hành Giả xấu xí, không dám hỏi, cũng không dám đuổi đi, để mặc ngồi đó. Chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện lão sư phụ thay quần áo, cầm điệp văn đến thẳng trước cửa vương phủ, đã thấy viên quan dẫn lễ bước ra đón rồi hỏi:

- Trưởng lão đi từ đâu tới? Tam Tạng thưa:
- Bần Tăng người nước Đại Đường bên phương Đông, vâng lệnh nhà vua sang chùa Đại Lôi Âm bái Phật cầu kinh, hôm nay tới quý xứ ta, muốn vào đổi điệp văn và chúc vương vạn tuế.

Quan dẫn lễ vội trở vào báo. Vương tử quả nhiên là bậc hiền lương đạt đạo, lập tức cho gọi vào. Tam Tạng bước tới trước điện thi lễ. Vương tử mời ngay vào giữa điện ngồi. Tam Tạng dâng điệp văn lên, vương tử nhìn thấy dấu ấn tín của các nước, cũng vui vẻ đóng dấu báu cho. Sau khi đặt con dấu lên án, vương tử hỏi:

- Thưa trưởng lão quốc sư, trưởng lão từ nước Đại Đường tới đây, vượt qua nhiều nước, tất cả mất bao nhiêu độ đường?

Tam Tạng thưa:

- Bần tăng cũng không nhớ được là bao nhiêu. Nhưng nhớ ngày ra đi, đức Quan Âm Bồ Tát hiển thân trước mặt nhà vua chúng tôi, ngài có gửi cho một câu tụng, có nói rằng đường sang phương Tây mười vạn tám ngàn dặm. Bần tăng đi đường đã trải qua mười bốn lần nóng lạnh rồi.

Vương tử cười nói:

- Mười bốn lần nóng lạnh, vị chi là mười bốn năm. Chắc là dọc đường vất vả lắm nhỉ?

Tam Tạng thưa:

- Một lời nói sao hết! Muôn quái nghìn ma, trải qua không biết bao nhiêu là gian nan khổ sở, mới tới được quý xứ ta đây.

Vương tử vô cùng mừng rỡ, lập tức sai quan Điển Thiện sửa soạn cơm chay thết đãi. Tam Tạng lại thưa tiếp:

- Bần tăng còn có ba đồ đệ nữa đang đứng đợi bên ngoài nên không dám ăn uống sợ lỡ độ đường.

Vương tử bèn ra lệnh:
- Quan Dương Diện, ngài mau ra mời ba đồ đệ của trưởng lão vào cùng xơi cơm một thể.

Quan Dương Diện ra ngoài mời, miệng lẩm bẩm:

- Chẳng thấy đâu cả. Chẳng thấy đâu cả. Người đi theo nói:
- Thấy ba hòa thượng mặt mũi xấu xí ngồi trong Đãi Khách quán, chắc là họ.

Quan Dương Diện cùng mọi người bước vào quán, hỏi viên trông coi quán:

- Ai là đồ đệ của hòa thượng Đại Đường đi lấy kinh? Chúa ta đã có lệnh mời họ vào xơi cơm.

Bát Giới đang, ngồi ngủ gật, vừa nghe thấy tiếng “cơm”, không nhịn nổi, nhảy cả người lên đáp:

- Chúng tôi đây! Chúng tôi đây!

Quan Dương Diện vừa nhìn thấy hồn vía đã rụng rời, run như cầy sấy, miệng lắp bắp:

- Ôi, quỷ lợn! Quỷ lợn!

Hành Giả thấy thế, túm chặt lấy Bát Giới nói:

- Chú em, phải có lễ độ một tý chứ, đừng giở cái thói quê mùa
ra.




Mọi người nhìn thấy Hành Giả, lại kêu toáng lên:

- Ôi, tinh khỉ! Tinh khỉ! Sa Tăng chắp tay nói:
- Các vị đừng sợ. Ba chúng tôi là đồ đệ của Đường Tăng đấy. Mọi người nhìn thấy lại la rầm lên:
- Ôi! Táo quân! Táo quân!
Tôn Hành Giả bảo Bát Giới dắt ngựa, Sa Tăng gánh hành lý cùng vào cả trong phủ Ngọc Hoa. Quan Dương Diện vào trước báo.

Vương tử vừa, nhìn thấy ba người mặt mũi xấu xí, trong bụng cũng hơi sợ. Tam Tạng chắp tay nói:

- Vương tử yên tâm. Đồ đệ tôi tuy mặt mũi xấu xí, nhưng bụng dạ hiền lành.

Bát Giới bước tới dạ một tiếng thật to, rồi chào:

- Bần tăng xin có lời chào.

Vương tử thấy thế càng sợ hãi, Tam Tạng nói:

- Mấy đồ đệ này tôi đều thu phục được ở nơi thôn dã, chưa tường lễ nghi, muôn xin xá tội.

Vương tử đành nén sợ hãi, sai quan Điển Thiện mời thầy trò vào đình Bộc Sa ăn cơm. Tam Tạng tạ ơn, bước xuống điện, cùng ba đồ đệ vào trong đình, vừa đi vừa oán trách Bát Giới:

- Nhà ngươi thô lỗ, chẳng biết chút lễ nghĩa gì cả. Cứ đừng mở mồm ra lại còn hơn. Đằng này lại quá thô lỗ, một câu nói đến đổ cả núi Thái Sơn.

Hành Giả cười nói:

- Cứ như tôi chẳng nói năng gì, lại đỡ được một ít sức lực. Sa Tăng nói:
- Anh nói năng lại không thế à, chưa chi đã đầy một miệng quát tháo.

Bát Giới nói:

- Rõ lắm chuyện! Rõ lắm chuyện! Hôm trước sư phụ bảo tôi gặp người phải chào hỏi mới là có lễ độ. Hôm nay tôi chào thì lại chê. Biết làm thế nào cho phải!
Tam Tạng nói:

- Ta bảo nhà ngươi gặp người phải chào, nhưng có bảo nhà ngươi gặp vương tử lại nhố nhăng như thế đâu. Thường có câu: “Người ba đấng của ba loài”, tại sao nhà ngươi không biết phân biệt kẻ sang người hèn.

Đang nói, đã thấy quan Điển Thiện dẫn người hầu dọn dẹp bàn ghế, bày mâm cơm ra. Bốn thầy trò chẳng nói năng cứ việc ăn uống.

Lại nói chuyện vương tử rời điện vào nội cung. Trong cung có ba tiểu vương tử. Ba người thấy cha mặt mũi tái nhợt bèn hỏi:

- Phụ vương hôm nay có việc gì mà trông có vẻ sợ hãi thế? Vương tử đáp:
- Vừa rồi có một hòa thượng từ nước Đại Đường bên phương Đông vâng lệnh nhà vua sang chùa Đại Lôi Âm bái Phật cầu kinh đến xin đổi diệp văn. Ngài ấy dáng mạo phi phàm, cha có mời ngài ở lại xơi bữa cơm chay. Ngài ấy nói còn có ba đồ đệ ở ngoài phủ. Cha cho mời vào. Vừa vào, nhìn thấy cha, họ chẳng lấy đại lễ ra mắt, chỉ dạ chào một tiếng, cha đã thấy không hài lòng rồi. Thế rồi khi cha ngẩng đầu nhìn, thấy bọn họ ai nấy dữ tợn như yêu quái, nên trong lòng sợ hãi, mặt mũi nhợt nhạt đi như vậy.

Nguyên ba tiểu vương tử vốn tài đảm khác người, ai nấy khỏe mạnh, võ nghệ cao cường, nghe nói vậy bèn xắn tay giơ đấm nói:

- Hẳn là yêu quái trong núi mò tới, giả trang hình người, để chúng con cầm binh khí ra xem sao.

Đoạn vương tử cả cầm cây côn tề mi, vương tử hai múa cây đinh ba chín răng, vương tử út vác cây gậy sơn đen bóng, hùng dũng hiên ngang bước ra ngoài vương, phủ quát lớn:
- Hòa thượng lấy kinh lấy kệ gì đâu rồi?

Khi ấy, quan Điển Thiện vội quỳ xuống thưa:

- Thưa tiểu vương, họ đang ăn cơm trong đình Bộc Sa ạ. Ba tiểu vương tử chẳng kể hay dở, xông ngay vào quát:
- Các ngươi là người hay là quái, mau nói ra thì ta tha chết cho!

Tam Tạng sợ quá mặt mũi tái nhợt, buông vội bát đũa, cúi người nói:

- Bần tăng là người triều Đường đi lấy kinh, là người chứ không phải là yêu quái đâu ạ!

Tiểu vương tử nói:

- Ngài còn giống người, chứ ba tên kia xấu xí dữ tợn, hẳn là yêu quái.

Bát Giới cứ việc điềm nhiên ăn uống. Sa Tăng, Hành Giả nghiêng người nói:

- Chúng tôi cũng là người cả, mặt tuy xấu xí nhưng bụng hiền lành, người tuy thô kệch nhưng tính lương thiện. Ba ngài từ đâu tới mà lớn tiếng ngông cuồng như vậy?

Viên quan Điển Thiện đứng bên cạnh thưa:

- Ba ngài đây là tiểu điện hạ, con trai của vương tử tôi. Bát Giới buông bát quát:
- Tiểu điện hạ mà lại cầm binh khí làm gì? Định muốn đánh nhau với chúng tôi chắc?

Vương tử hai bước tới, hai tay múa đinh ba định đánh Bát
Giới. Bát Giới cười hì hì nói:

- Cây đinh ba của chú chỉ đáng là con cháu cây đinh ba của tớ thôi.
Đoạn vạch áo, rút cây đinh ba bên mạng sườn ra múa tít một vòng, muôn đạo hào quang lấp lánh; đi vài hướng võ, nghìn tia khí đẹp dâng dâng. Vương tử hai sợ quá chân tay mềm nhũn chẳng dám ho he. Hành Giả thấy cậu cả sử cây côn tề mi, lập tức cũng rút gậy sắt nạm vàng từ trong tai ra, xoay tít một vòng, cây gậy to bằng cái miệng bát, dài chừng hai ba trượng vung lên nện xuống đất một gậy, chỗ đất lõm xuống tới ba thước, đoạn cắm thẳng đứng cây gậy, cười nói:

- Ta biếu cậu cả cây gậy này đấy.

Vương tử cả nghe nói, vội buông cây gậy của mình, chạy lại giật cây gậy của Hành Giả, hai tay lấy hết sức nhấc lên, nhưng cây gậy chẳng hề nhúc nhích. Vương tử lại nhổ, lại lay, cây gậy cứ trơ trơ như mọc rễ. Vương tử ba nổi nóng, vác ngay cây gậy sơn đầu đen bóng xông vào đánh, bị ngay Sa Tăng lấy tay gạt ra, đoạn rút cây bảo trượng hàng yêu múa tít, hào quang sáng ngời, ráng đẹp rực rỡ. Đám quan Điển Thiện sợ quá, ai nấy cứ như ngây như dại, chẳng nói được gì. Ba tiểu vương tử đều sụp xuống lạy nói:

- Quả là bậc thần sư! Thần sư! Chúng tôi người trần mắt thịt không biết, muốn xin các thần sư trổ tài một phen nữa, chúng tôi xin bái phục.

Hành Giả bước tới nhẹ nhàng nhấc cây gậy lên nói:

- Chỗ này chật hẹp khó thi thố, để ta nhảy lên trên không trung đi một bài cho các người xem.

Đoạn Đại Thánh dùng phép cân đẩu vân, vút một tiếng, hai chân đã đạp lên đám mây ngũ sắc, cách mặt đất chừng ba trăm bước, múa cây gậy sắt nạm vàng theo bài “tung hoa che đầu” uyển chuyển như rồng vàng uốn lượn, lúc phải lúc trái, khi xuống khi lên. Lúc đầu người và gậy như gấm thêu hoa. Một lát sau chẳng nhìn thấy người đâu, chỉ thấy khắp trời gậy bay loang
loáng. Bát Giới đứng dưới chân tay ngứa ngáy, nhịn không nổi quát lên dõng dạc:

- Để lão Trư múa một bài cho coi!

Đoạn chú ngốc cưỡi lên đần ngọn gió bay tới giữa không trung, rút đinh ba múa kiểu trên ba dưới bốn, trái năm phải sáu, trước bảy sau tám, chỉ nghe thấy tiếng gió thổi vù vù. Đang lúc ầm ĩ, Sa Tăng nói với Đường Tăng:

- Xin phép sư phụ cho lão Sa thi thố võ nghệ một chút.

Đoạn co chân nhảy vút lên không trung, múa tít bảo trượng, chỉ thấy nhuệ khí bừng bừng, hào quang phơi phới. Sa Tăng hai tay cầm bảo trượng múa bài “đan phượng triều dương” khác nào hổ đói vồ mồi, đón trước đỡ sau, khi mau khi chậm. Ba anh em trổ tài võ nghệ giữa không trung. Thật là một cuộc thi tài tuyệt vời. Thế mới gọi là:

Thần tăng khác hẳn người phàm

Căn nguyên đại đạo ngập tràn tầng không.

Ngộ Không sau đó Ngộ Năng,

Rồi Sa Hòa Thượng bừng bừng diễu oai.

Thần binh tinh nhuệ nhất đời,

Múa lên loang loáng khắp trời hoa bay.

Thiên Trúc giữ giới từ nay.

Ngọc Hoa Vương tử theo ngay yên lòng.

Ba tiểu vương tử quỳ sụp xuống mặt đất. Các quan viên lớn nhỏ trong đình Bộc Sa cùng các vương tử trong vương phủ và già trẻ gái trai khắp thành, mọi tầng lớp tăng ni đạo tục, ai nấy lạy Phật cúi đầu, thắp hương lễ bái. Quả thật là:

Quy chân thấy tượng độ chư tăng,
Tạo phúc nhân gian hưởng thái bình.

Lối phẳng Bồ Đề nay đã mở, Ấy do lạy Phật với tham thiền.
Ba người trổ hết tài năng, múa xong bài võ, bèn hạ mây bước xuống, thu cất binh khí, đi tới trước mặt Đường Tăng hỏi han và cảm tạ công ơn sư phụ. Sau đó ngồi an tọa, chuyện không nói nữa.

Ba tiểu vương tử vội vàng quay vào cung thưa với lão vương:

- Phụ vương ơi. Có việc vui lắm! Hôm nay có một công quả không gì sánh bằng! Vừa rồi phụ vương có nhìn thấy cái gì loang loáng giữa không trung không?

Lão vương nói:

- Vừa rồi cha chỉ thấy ráng đẹp rực rỡ giữa không trung, thế là mẫu thân con và mọi người trong cung thắp hương lễ bái, hay là thần tiên giáng lâm ở đâu chăng?

Tiểu vương tử thưa:

- Không phải là thần tiên đâu ạ. Đó là ba đồ đệ xấu xí đi lấy kinh, một người sử cây gậy sắt nạm vàng, một người sử cây đinh ba chín mũi, và một người sử cây bảo trượng hàng yêu, chẳng khác gì ba thứ binh khí của chúng con. Chúng con bảo họ múa một bài, họ nói “mặt đất chật chội khó thi thố, để chúng tôi nhảy lên không trung đi một bài cho các người xem”. Thế là họ cưỡi mây bay lên trổ tài, khắp trời mây lành rực rỡ, khí đẹp tràn dâng. Vừa rồi họ mới hạ mây bước xuống và hiện đang ngồi trong đình Bộc Sa. Chúng con vô cùng khâm phục, muốn tôn họ làm thầy, học tập võ nghệ ở họ để giữ gìn đất nước. Đó là công quả không gì lớn bắng, không biết ý phụ vương thế nào?

Lão vương nghe xong bằng lòng lắm.

Khi ấy bốn cha con lão vương chẳng ngồi xe, chẳng che lọng,
mà rảo bước đi ngay tới đình Bộc Sa. Bốn thầy trò đang thu xếp hành lý, định vào vương phủ tạ ơn và từ biệt lão vương lên đường, bỗng thấy cha con Ngọc Hoa Vương bước vào trong đình cúi rạp xuống lạy. Tam Tạng vội vàng đỡ dậy, đoạn cúi xuống lạy đáp lễ. Bọn Hành Giả tránh sang một bên tủm tỉm cười nhạt. Cha con lão vương chào lạy xong, mời bốn thầy trò vào ngồi chỗ cao sang giữa phủ đường. Bốn thầy trò vui vẻ bước vào. Lão vương lạy xong đứng lên nói:

- Thưa Đường lão sư phụ, tôi có một việc muốn thưa, không biết ba vị đồ đệ có lượng thứ cho không?

Tam Tạng nói:

- Xin lão vương cứ nói, mấy đồ đệ đâu dám không nghe! Lão vương nói:
- Lúc trước, khi mới gặp các vị, tôi cứ ngỡ các vị là những nhà sư hành cước triều Đường, tôi thực người trần mắt thịt, nên cư xử có nhiều điều không phải. Vừa rồi được nhìn thấy Tôn sư phụ, Trư sư phụ và Sa sư phụ múa võ giữa tầng không. Lúc ấy mới biết các vị là tiên là Phật, ba thái tử của tôi, nhất sinh ham chuộng võ nghệ, nay muốn bày tỏ lòng thành tôn mấy cao đệ của lão sư phụ làm thầy để các con tôi xin học tập võ nghệ. Muôn xin lão sư phụ mở rộng tấm lòng bao dung như trời đất, truyền thụ cho các con tôi. Tôi xin dốc hết của cải trong thành bái tạ.

Hành Giả nghe xong, nhịn không nổi, cười khành khạch nói:

- Ngài chẳng hiểu lý lẽ gì cả! Chúng tôi là những người xuất gia, không phải là không muốn truyền cho mấy đồ đệ. Lệnh lang của ngài là có lòng theo thiện, thì thiết nghĩ đừng nói đến lợi lộc làm gì, chỉ cốt có tình nghĩa là cũng đủ được yêu mến rồi.

Vương tử nghe xong, vô cùng mừng rỡ, sai bày ngay yến tiệc ở chính đường của bản phủ, khoản đãi thầy trò. Thật là: một lời
thỏa ý, mọi thứ có ngay. Chỉ thấy:

Đèn treo và hoa kết, Hương đốt ngát mùi thơm, Đồ vàng bạc sáng choang. Thoạt nhìn đến lóa mắt. Bàn ghế gấm mầu bọc, Nom sang trọng hào hoa. Hoa quả tươi bày ra,
Chén trà hương bốc khói. Quà điểm tâm tuyệt diệu, Món vằn thắn thơm ngon. Mật ong càng ngọt hơn, Bánh đường thêm hấp dẫn. Rượu nấu bằng nếp cẩm. Ngọt hơn cả quỳnh tương, Trà tiên tay ai cầm,
Hương át mùi đan quế.

Đủ cao lương mỹ vị

La liệt bày khắp bàn.

Mặt khác, mấy vương tử lại cho ca hát, đàn sáo, diễn trò góp vui. Bốn thầy trò cùng cha con lão vương vui vẻ suốt một ngày! Chẳng mấy chốc trời đã tối, yến tiệc được dọn dẹp. Vương tử lại sai sửa soạn giường màn trong đình Bộc Sa để mời mấy sư phụ đi nghỉ, đợi sáng hôm sau sẽ thắp hương, lạy hai lạy mời thầy dạy võ nghệ. Mọi người vâng lời, mang nước thơm mời sư phụ tắm rửa. Sau đó ai nấy trở về phòng ngủ. Lúc này:
Đêm khuya chim đã yên nằm,

Thi nhân cũng lặng tiếng ngâm thơ rồi.

Sông Ngân vằng vặc sao trời.

Đường đồng hoang vắng cỏ thời mọc xanh.

Chày ai rộn rã xa gần.

Quan san muôn dặm bội phần nhớ quê.

Đế kia đường cũng ê chề, Đêm dài rên rỉ như mê mộng hồn.
Một đêm yên tĩnh đã qua. Sớm hôm sau, cha con lão vương lại tới tương kiến. Tam Tạng hôm qua yết kiến lão vương bằng lễ vua tôi, hôm nay cha con lão vương yết kiến trưởng lão bằng lễ thầy trò. Ba tiểu vương tử dập đầu lạy Hành Giả, Bát Giới và Sa Tăng rồi hỏi:

- Tôn sư mang binh khí của mình ra cho đệ tử coi một tí.

Bát Giới nghe nói, vui vẻ rút cây đinh ba ra quẳng xuống đất. Sa Tăng thì rút cây bảo trượng ra để dựa vào tường. Vương tử hai và vương tử ba chạy tới nhấc thử, thật chẳng khác nào chuồn chuồn lay cột đá, ai nấy đỏ mặt tía tai, mà hai thứ binh khí chẳng nhúc nhích một ly. Vương tử cả thấy vậy nói:

- Các em đừng thử, chỉ tổ phí sức, binh khí của sư phụ toàn là thứ thần binh cả, không biết nặng tới bao nhiêu cân ấy chứ.

Bát Giới cười nói:

- Đinh ba của ta chẳng nặng lắm đâu, cả cán chỉ chừng năm nghìn bốn mươi tám cân thôi.

Vương tử ba hỏi Sa Tăng:

- Cây bảo trượng của sư phụ nặng bao nhiêu? Sa Tăng cười nói:
- Cũng khoảng năm nghìn bốn mươi tám cân.

Vương tử cả có ý muốn xem cây gậy sắt nạm vàng của Hành Giả. Hành Giả bèn rút từ trong tai ra một cây kim thêu, đón gió múa tít một vòng, cây gậy liền to bằng cái miệng bát, sừng sững dựng trước mặt. Cha con lão vương đều lè lưỡi, trăm quan hãi hùng. Ba tiểu vương tử sụp lạy nói:

- Binh khí của Trư sư phụ và Sa sư phụ đều giắt ở bên sườn, dưới lớp áo, rút ra được ngay. Còn binh khí của Tôn sư phụ lại giắt ở trong tai, gặp gió liền dài ra, chẳng hiểu ra làm sao!

Hành Giả cười nói:

- Các ngươi đâu có biết cây gậy của ta. Cây gậy đó không phải là thứ mà trần gian có được. Cây gậy này là:

Sắt thần luyện từ thuở hồng hoang, Đại Vũ thần nhân vốn tự làm.
Hồ biển sông ngòi sâu hoặc cạn. Gậy này cắm xuống biết căn nguyên. Khai sơn trị thủy thuở thanh bình, Lưu lại Đông Dương trấn thủy cung. Năm tháng trôi đi sinh ráng đẹp. Trưởng tiêu nào khó, sáng vô ngần. Lão Tôn có phận lấy đem về,
Biến hóa thần thông thật diệu kỳ. Muốn nhỏ, nhỏ bằng kim bé tẹo, Muốn to, to tựa cả sơn hà.
Tên gậy gọi là Như ý bổng, Trên trời dưới đất tiếng lừng vang.
Mười ba ngàn năm trăm cân nặng, Biến to biến nhỏ giỏi vô ngần.
Đã từng giúp tớ náo thiên cung, Địa phủ dọc ngang tiếng lẫy lừng. Phục hổ, hàng long đều thắng cả, Diệt trừ yêu quái dễ như không. Ngẩng đầu gậy chỉ, trời tối sầm. Thiên địa quỷ thần đều hãi sợ,
Tự thuở hồng hoang truyền lại đó, Phải đâu thứ sắt chốn phàm trần!
Các vương tử nghe vậy, ai nấy đảnh lễ mãi, đoạn bước tới sụp lạy, thành tâm mong được truyền thụ. Hành Giả nói:

- Không biết ba vương tử định học ban võ nghệ nào? Vương tử thưa:
- Ai quen đánh gậy xin học gậy, ai quen đánh đinh ba học đinh ba, ai quen đánh bảo trượng học bảo trượng.

Hành Giả cười nói:

- Dạy thì dễ thôi, nhưng chỉ lo các người không đủ sức, không sử nổi binh khí của chúng tôi, khi ấy học không tinh, thành thử “vẽ hổ chẳng giống, lại giống chó” thì chết. Cổ nhân chẳng có câu: “Dạy dỗ chẳng nghiêm, lỗi ở thầy. Học vấn chẳng rành, tội ở trò” đó sao? Nếu quả các người thật lòng thành tâm, thì hãy thắp hương khấn trời đất, ta sẽ truyền cho một ít sức lực trước, rồi sau đó mới truyền thụ võ nghệ được.

Ba tiểu vương tử nghe nói vô cùng mừng rỡ, lập tức tự tay khiêng hương án, rửa tay thắp hương, ngẩng lên trời khấn. Khấn xong, mời sư phụ truyền phép. Hành Giả quay lại lạy Đường
Tăng nói:

- Thưa tôn sư, tôn sư tha tội cho đệ tử. Từ ngày ở núi Lưỡng Giới, nhờ ơn đức lớn của sư phụ cứu thoát đệ tử, theo đạo Sa Môn, lên đường sang Tây, tuy chưa từng được báo đáp ơn sâu, nhưng cũng đã hết lòng hết sức gìn giữ dọc đường. Hôm nay đã tới nước Phật, may mắn được gặp gỡ ba người con của hiền vương, ba người sụp lạy chúng con xin truyền võ nghệ. Họ đã là đồ đệ của chúng con, cũng tức là đồ đệ cháu của tôn sư. Vậy kính mong tôn sư cho phép, chúng con được truyền thụ.

Tam Tạng mừng lắm. Bát Giới, Sa Tăng thấy Hành Giả sụp lạy, cũng quay người dập đầu lạy Tam Tạng nói:

- Thưa sư phụ, chúng con đầu óc ngu muội, mồm miệng vụng về, chẳng biết ăn nói thế nào, mong sư phụ ngồi cao nơi pháp vị, cũng cho phép hai chúng con được chiêu tập đệ tử truyền thụ võ nghệ, gọi là chút kỷ niệm trên đường sang Tây.

Tam Tạng cũng vui vẻ bằng lòng.

Hành Giả bèn bảo ba vương tử ra phía sau đình Bộc Sa, chọn nơi vắng vẻ, đoạn vẽ vòng cang đẩu, bảo ba người ngồi ở trong nhắm mắt định thần. Sau đó Hành Giả lầm rầm đọc chân ngôn, niệm thần chú, thổi tiên khí vào trong bụng ba người, đem nguyên thần truyền vào nơi bản xá, lại truyền cho khẩu quyết. Hành Giả truyền cho ba người muôn nghìn khí lực, lại truyền thêm cho vua lửa, chẳng khác nào phép thay da đổi thịt vận chuyển hết một vòng trời tý ngọ, ba tiểu vương tử bấy giờ mới tỉnh lại, đứng vụt dậy, lấy tay xoa mặt, cảm thấy tinh thần phấn chấn, xương cứng gân dai. Vương tử cả nhấc nổi cây gậy sắt nạm vàng, vương tử hai múa được cây đinh ba chín mũi. Vương tử ba vung được cây bảo trượng hàng yêu.



Lão vương thấy vậy vui mừng khôn xiết, sai bày tiệc chay khoản đãi bốn thầy trò. Thế rồi ngay trước bàn tiệc, người dạy người học. Người học gậy múa gậy, người học đinh ba múa đinh ba, người học bảo trượng múa bảo trượng. Tuy vậy cũng mới chỉ chuyển được mấy vòng, đi được vài đường. Bởi bọn họ vẫn chỉ là hạng phàm phu có chút ít sức lực mà thôi, nên mới đi có một đường mà đã thở phì phò, không sử được lâu. Cũng do mấy thứ binh khí của bọn Hành Giả đều biết biến hóa, nên sự tiến thoái đánh đỡ của mấy vương tử làm sao sánh được với sự biến hóa tự nhiên tuyệt vời đó được! Sau đó yến tiệc được thu dọn.

Ngày hôm sau, ba vương tử lại tới cảm tạ rồi nói:

- Đội ơn thần sư truyền thụ cho chút sức lực. Nhưng múa được những binh khí của thần sư thì còn vất vả lắm. Ý đệ tử muốn sai thợ theo đúng mẫu binh khí của thần sư rèn lấy mỗi thứ một chiếc, chỉ giảm số cân cho nhẹ hơn thôi, không biết sư phụ có cho phép không?
Bát Giới nói:

- Được! Được! Được lắm! Binh khí của chúng ta, một là các ngươi sử không nổi, hai là chúng ta còn phải hộ pháp hàng yêu, vậy cần phải rèn cái khác.

Vương tử lập tức cho vời thợ rèn, mua một vạn cân sắt, dựng một xưởng rèn ngay ở trong sân vương phủ để rèn binh khí. Hôm đầu số thép luyện xong. Hôm sau, cho mời ba sư phụ Hành Giả, Bát Giới, Sa Tăng mang gậy sắt nạm vàng, đinh ba chín mũi, bảo trượng hàng yêu vào trong xưởng cho thợ nhìn mẫu chế tạo, liên tục mấy ngày đêm chẳng lấy về.

Than ôi, mấy thứ binh khí ấy vốn là bảo bối tùy thân, một giây cũng không thể rời. Khi giấu trong người, tự nó phát ra ánh sáng hộ thân, nay để trong xưởng mấy ngày đêm, mấy thứ binh khí đó phát ra hào quang muôn đạo ngút trời, khí đẹp nghìn tia rực đất. Cách thành chừng bảy mươi dặm có một quả núi tên gọi núi Báo Đầu, và một động tên gọi động Hổ Khẩu. Nơi đó có một con yêu tinh. Đêm ấy yêu tinh đang ngồi bỗng nhiên nhìn thấy hào quang khí đẹp rực rỡ, bèn cưỡi mây bay đi xem, thấy chỗ ánh sáng ở trong vương phủ bèn hạ mây tới gần xem xét. Hóa ra là ánh sáng của ba thứ binh khí phát ra. Yêu tinh vừa mừng vừa thú nói:

- Bảo bối tuyệt vời! Bảo bối tuyệt vời. Chẳng biết của ai lại để ở đây nhỉ? Âu cũng là pháp duyên của ta, xách luôn đi cho rảnh! Xách luôn đi cho rảnh!



Lòng tham vừa động bèn trở uy phong mang tuốt cả ba thứ binh khí về thẳng bản động. Thật đúng là:

Đạo một phút không rời, Nếu rời không phải đạo.
Thần binh bị mất ráo, Phí cả đời tu hành!
Cuối cùng không biết thầy trò Hành Giả làm cách nào tìm lại được binh khí, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ TÁM MƯƠI CHÍN Quái Hoàng Sư hỏng mất hội Đinh ba Ba đồ đệ đại náo núi Đầu Báo
Lại nói chuyện mấy người thợ rèn trong sân do mấy ngày liền
làm việc vất vả nên đêm ấy ngủ say tít, sáng ra trở dậy định rèn tiếp, thì thấy ba cây binh khí để ở xưởng đi đâu mất cả, ai nấy ngây người sợ hãi. Lúc ấy, ba vương tử rời cung đến xem xét, đám thợ rèn cúi rạp xuống thưa:

- Thưa vương tử, ba cây binh khí của các thần sư không biết đi đằng nào mất!

Tiểu Vương tử nghe nói vậy, trong lòng thắc thỏm nói:

- Hay là sư phụ đêm qua lấy về rồi?

Đoạn vội vàng chạy ngay vào trong đình Bộc Sa xem sao, thì chỉ thấy con ngựa bạch vẫn buộc ở hành lang mà thôi, bèn nôn nóng cất tiếng gọi:

- Sư phụ vẫn còn ngủ chứ ạ! Sa Tăng đáp:.
- Dậy rồi.

Đoạn mở cửa phòng, mời vương tử vào. Vương tử không nhìn thấy binh khí đâu cả, thì hốt hoảng hỏi:

- Binh khí của sư phụ mang về rồi phải không ạ? Hành Giả chồm dậy nói:
- Chưa hề mang về. Vương tử nói:
- Ba cây binh khí đêm qua chẳng biết biến đi đâu mất. Bát Giới lồm cồm bò đậy hỏi:
- Đinh ba của ta còn không? Vương tử thưa:
- Vừa rồi chúng con tới đó, chỉ thấy mọi người đang lục soát khắp nơi mà chẳng thấy ba cây binh khí đâu cả. Chúng con ngỡ sư phụ mang về, vội vàng tới hỏi. Hay là bảo bối của sư phụ muốn to muốn nhỏ đều có thể tùy ý, rồi sư phụ đem giấu vào trong người, dối đệ tử một tí chơi chứ gì?

Hành Giả nói:

- Quả thật chúng tôi chưa cất đi mà. Phải đi tìm ngay thôi.

Bèn theo bọn vương tử vào trong xưởng tìm, quả nhiên chẳng thấy dấu vết gì cả. Bát Giới nói:

- Chắc chắn lũ thợ rèn ăn cắp rồi! Mau mang ra ngay! Chậm trễ ta sẽ đánh chết! Đánh chết!

Đám thợ rèn sợ quá dập đầu thưa:

- Thưa ngài, chúng tôi làm việc vất vả suốt mấy ngày liền, nên ban đêm ngủ say quá, mãi tới khi trời sáng trở dậy, thì không thấy binh khí đâu cả. Chúng tôi đều là hạng người phàm sức đâu mà nhấc nổi những thứ binh khí ấy, muôn xin ngài tha tội! Tha tội!

Hành Giả chẳng nói chẳng rằng, chỉ tự trách thầm:

- Chỉ tại mình cả thôi. Đã cho họ xem mẫu rồi, thì cất béng vào bên mình, đằng này lại quẳng cả ở đấy cơ! Bảo bối phát hào quang rực rỡ, chắc làm kinh động bọn người xấu, chúng lợi dụng đêm tối lấy đi đó thôi.

Bát Giới không tin, nói:

- Anh nói thế không đúng. Vùng này thái bình yên ổn, lại
không phải là nơi đồng không mông quạnh. Làm gì có bọn người xấu tới! Chỉ có bọn thợ rèn xấu bụng, thấy binh khí phát hào quang rực rỡ, biết là bảo bối, lợi dụng đêm tối mang ra khỏi vương phủ. Bọn chúng đông thế, tên vác tên khiêng mang đi mà thôi. Cứ lôi quách chúng ra, nện cho một chập.

Đám thợ lại dập đầu thề thốt rằng không lấy.

Đang lúc ầm ĩ, bỗng lão vương đi tới, khi hỏi ra biết rõ sự việc, thì mặt cũng tái mét, lặng đi một lát rồi mới nói:

- Binh khí của thần sư không phải đồ phàm, dù có tới hơn trăm người mó tay vào cũng chẳng nhúc nhích. Hơn nữa, trong thành tôi đây đã năm đời nay không có hạng người to gan lớn mật. Tiếng tăm hiền lương của thành đã lan cả ra ngoài. Quan dân thợ thuyền ở thành này đều sợ pháp luật, không dám nẩy sinh bụng xấu bao giờ, muôn xin thần sư nghĩ lại xem sao.

Hành Giả cười nói:

- Chẳng phải nghĩ lại làm gì, mà cũng đừng đổ diệt cho bọn thợ rèn. Tôi hỏi điện hạ: Bốn mặt châu thành này có rừng rú yêu quái nào không?

Lão vương thưa:

- Câu hỏi của thần sư thật là có lý. Phía bắc châu thành này có một quả núi gọi là núi Báo Đầu. Trong núi có một tòa động gọi là động Hổ Khẩu. Người ta thường nói trong động có tiên, lại nói có cả hùm beo, yêu quái nữa. Tôi cũng chưa từng dò xem thực hư thế nào.

Hành Giả cười nói:

- Không cần nói cũng đã biết bọn người xấu ở núi đó biết ba binh khí đều là bảo bối, nên lợi dụng đêm tối lấy đi đó thôi.

Đoạn gọi:

- Bát Giới, Sa Tăng, hai chú ở đây bảo vệ sư phụ, gìn giữ
thành trì để lão Tôn đi tìm xem sao.

Lại bảo bọn thợ rèn không được để lò nghỉ, cứ tiếp tục công việc. Thần sư bèn tạm biệt Tam Tạng, vút một cái đã không thấy bóng dáng đâu cả. Trong chớp mắt, Hành Giả đã đứng trên đỉnh núi Báo Đầu. Bởi từ thành tới núi chỉ cách ba mươi dặm, nên chớp mắt Hành Giả đã tới nơi. Hành Giả đứng trên đỉnh núi quan sát, thấy quả nhiên có yêu khí. Thật là:

Mạch long dằng dặc, Thế đất xa vời.
Đỉnh non nhọn hoắt chọc trời cao. Khe suối nước sâu trôi cuồn cuộn.
Đầu núi cỏ non phô thắm, Sau đồi hoa ngọc khoe tươi, Tùng bách cao ngất trời, Trắc phong xòe rợp tán.
Quạ diều trời cao bay lượn, Hạc khỉ rừng sâu véo von. Sườn non hươu nai từng đàn, Vách núi cáo cầy từng lũ
Thế núi nhấp nhô mờ tỏ, Mạch đất chín khúc vòng vèo. Một đầu tới sát Ngọc Hoa Châu,
Muôn thuở nghìn đời miền thắng địa

Hành Giả đang xem xét, bỗng nghe thấy phía sau núi có tiếng người, bèn quay lại nhìn, thấy hai tiểu yêu đầu sói, đang trò chuyện léo nhéo đi về phía tây bắc. Hành Giả nghĩ:
- Hẳn đây là bọn tiểu yêu đi tuần núi, để lão Tôn theo sát nghe xem chúng nói gì.

Bèn bấm quyết niệm chú, lắc mình một cái, biến thành một con bướm, dang cánh bay chấp chới đuổi theo. Con bướm ấy quả là:

Một đôi cánh phấn, Hai sợi râu cong,
Cưỡi gió bay chập chờn. Múa may người trong nắng.
Qua suối băng rừng không nỗi chậm.

Đùa hoa hút nhụy nhởn nhơ vui. Nhẹ nhàng chỉ thiết vờn hoa thắm. Nho nhã phong tình tùy thích thôi
Hành Giả bay tới, chập chờn trên đầu hai con yêu quái ấy để nghe chúng chuyện trò. Bỗng một yêu quái ngẩng đầu nói:

- Anh hai ơi, đại vương mình dạo này gặp may liên tiếp. Tháng trước bắt được cô gái đẹp tiêu khiển trong động rất là vui thú, đêm qua lại lấy được ba cây binh khí là những thứ bảo bối vô giá. Sáng mai đại vương mở “hội đinh ba”, chúng ta cũng được hưởng phần đấy.

Tên kia nói:

- Chúng ta cũng gặp may đấy chứ. Cầm hai chục lạng bạc này đi mua dê lợn. Bây giờ hẵng tới chợ Càn Phương làm chai rượu uống cái đã, rồi mỗi thứ mua về khai tăng giá lên một tí lấy dăm lạng mua mỗi đứa một chiếc áo kép cho đỡ rét lại không hơn à?

Hai lên cười cười nói nói đi lại như bay ra đường cái. Hành Giả nghe thấy nói “hội đinh ba” trong lòng mừng thầm, muốn giết chúng luôn, nhưng nghĩ cũng chẳng được gì, vả lại trong tay
cũng không có binh khí, nên lại thôi, mà chỉ vội vàng bay ngay lên phía trước, hiện nguyên bản tướng, đứng sừng sững ngay giữa đường. Khi hai yêu quái đi tới gần, Hành Giả bèn dùng phép định thân, phun một bãi nước bọt vào chúng, miệng đọc câu thần chú “úm-hồng-xá-lị”, lập tức hai tên yêu quái đầu sói bị giữ chặt, hai chân đứng sững lại, mắt mở trừng trừng, mồm kêu ú ớ. Hành Giả vật ngửa hai đưa ra cởi áo lục soát, quả nhiên thấy một gói hai mươi lạng bạc bỏ trong hầu bao thắt quanh cạp quần. Mỗi tên còn đeo một thẻ bài sơn phấn, một chiếc đề “Điêu Toàn Cổ Quái”, chiếc kia đề “Cổ Quái Điêu Toàn”[320]

Hành Giả thu cả số bạc, cởi cả thẻ bài, rảo bước về thẳng chân thành, vào trong vương phủ gặp vương tử. Đường Tăng cùng các quan viên lớn nhỏ và đám thợ rèn kể lại sự việc vừa qua. Bát Giới cười nói:

- Chắc do bảo bối của lão Trư phát hào quang lấp lánh, nên hắn mới đi mua dê, lợn về mở đại hội yến tiệc ăn mừng đấy. Làm sao lấy lại được bây giờ?

Hành Giả nói:

- Ba anh em cùng đi. Số bạc này một phần để thưởng cho đám thợ rèn, còn lại nhờ lão vương mua cho mấy con dê lợn. Bát Giới biến thành “Điêu Toàn Cổ Quái”, tôi biến thành “Cổ Quái Điêu Toàn”, Sa Tăng đóng giả người lái lợn. Cả ba anh em vào trong động Hổ Khẩu thừa dịp cướp lấy binh khí, tiêu diệt yêu quái, sau đó quay về thu xếp lên đường.

Sa Tăng cười nói tán thưởng:

- Tuyệt diệu! Tuyệt diệu!

Lão vương theo kế, sai ngay quan quản sự đi mua bảy tám con lợn, bốn năm con dê về.

Bát Giới nói:
- Anh ơi, tôi chưa gặp Điêu Toàn Cổ Quái bao giờ, làm sao biến ra cho giống hắn được?

Hành Giả nói:

- Yêu quái ấy bị tôi dùng phép định thân giữ lại ở đằng kia kìa, giờ này ngày mai hắn mới tỉnh. Tôi nhớ mặt chúng rồi, chú đứng lại để tôi bảo chú biến. Đấy, như thế, như thế,… là giống hắn đấy.

Chú ngốc bèn niệm chú, Hành Giả thổi tiên khí, chớp mắt Bát Giới biến ra giống hệt Điêu Toàn Cổ Quái, không khác một ly, đoạn giắt thẻ bài vào trong bụng. Hành Giả cũng biến thành Cổ Quái Điêu Toàn cũng giắt một thẻ bài vào trong bụng. Sa Tăng giả trang thành người lái lợn. Một lát sau, bọn Hành Giả đã tiến vào thung lũng trong núi. Bỗng họ gặp một tên tiểu yêu mặt mũi cực kỳ hung ác. Nom hắn:

Đôi mắt tròn thao láo, Sáng rực tựa lửa đèn, Đầu tóc rối bù xù,
Rặt một màu đỏ quạch, Mũi to, mồm méo xệch, Răng nanh nhọn chìa ra, Đôi tai vểnh, trán dô, Mặt xanh như tàu lá, Mình mặc áo vàng úa, Chân đi hài cỏ đan.
Oai phong tựa hung thần, Dũng mãnh như ác quỷ.
Yêu quái bên nách phải cắp một cái tráp sơn mà đựng thiếp
mời bước tới đón Hành Giả nói:

- Cổ Quái Điêu Toàn, hai chú mày về rồi đấy à? Mua được mấy con dê mấy con lợn?

Hành Giả đáp:

- Chẳng dê, lợn là gì đây? Yêu quái nhìn Sa Tăng hỏi:
- Thằng này là ai? Hành Giả đáp:
- Là lái lợn đấy. Chả là còn thiếu của hắn ít tiền, đưa hắn về trả nốt. Còn anh đi đâu vậy?

Yêu quái đáp:

- Ta đi đến núi Trúc Tiết mời lão đại vương sáng mai tới dự hội.

Hành Giả lựa lời hỏi hắn:

- Tất cả mời độ bao nhiêu người? Yêu quái đáp:
- Mời lão đại vương làm chủ tiệc này, rồi mời các đại vương và đầu mục ở núi này cả thảy cũng tới hơn bốn mươi vị.

Đang trò chuyện, thì Bát Giới nói:

- Đi thôi! Đi thôi! Lợn, dê sổng hết rồi. Hành Giả nói:
- Vậy chú đi đuổi đi, để tôi bảo hắn cho xem thiếp mời một cái.

Yêu quái ngỡ là người nhà, bèn mở tráp đưa thiếp cho Hành
Giả xem. Hành Giả mở ra xem, tờ thiếp viết:

“Xin thưa với ông nội là Cửu Linh Nguyên Thánh lão đại
nhân được biết, sáng mai cháu sửa soạn mở tiệc rượu gọi là “Đại hội đinh ba”, kính mời ông nội lão đại nhân tới dự. Mong ông đừng từ chối. Xin đa tạ. Cháu dưới của ông là Hoàng Sư cúi đầu lạy trăm lạy”.

Hành Giả xem xong đưa trả cho yêu quái. Yêu quái lại đặt vào trong tráp, đi thẳng về hướng đông nam.

Sa Tăng hỏi:

- Anh ơi, thiếp viết gì đấy? Hành Giả đáp:            
- Đó là tờ thiếp mời dự hội đinh ba. Người mời viết “cháu ở dưới cửa là Hoàng Sư cúi đầu lạy trăm lạy”, người được mời là “ông nội Cửu Linh Nguyên Thánh lão đại nhân”.

Sa Tăng cười nói:

- Hoàng Sư hẳn là con sư tử lông vàng thành tinh, nhưng không biết Cửu Linh Nguyên Thánh là ai.

Bát Giới nghe vậy cười nói:

- Cũng là của riêng của lão Trư cả thôi. Hành Giả hỏi:
- Tại sao chú biết là của riêng của chú? Bát Giới nói:
- Cổ nhân có câu “Con lợn sề ghẻ chuyên đuổi theo sư tử lông vàng”, nên biết hắn là của riêng của lão Trư.

Ba người nói nói cười cười, xua mấy con dê con lợn, nhằm cửa động Hổ Khẩu đi tới. Thấy bên ngoài cửa động:

Xung quanh núi cao ngất, Một mạch khí liền thành. Dây leo quanh vách động.
Gai góc phủ sườn non. Rừng sâu chim ríu rít, Cửa động hoa rung rinh,
Động Đào Nguyên cõi tục, Chốn ẩn dật nhân gian.
Ba người dần dần đi tới cửa động, lại nhìn thấy một đàn yêu tinh to nhỏ đang trèo leo nghịch ngợm bên những gốc cây. Bọn chúng nghe tiếng Bát Giới xua lợn, dê tới, thì ùa cả lại đón, đứa tóm lợn, đứa bắt dê, trói nghiến cả lại. Tiếng ầm ĩ làm kinh động yêu vương trong động. Yêu vương dẫn mấy chục tiểu yêu ra cửa động quát hỏi:

- Hai chú đã về rồi đấy à? Mua được bao nhiêu dê, lợn? Hành Giả thưa:
- Tâu đại vương, mua được tám con lợn, bảy con dê, tổng cộng là mười lăm con. Tiền mua lợn hết mười sáu lạng, mua dê hết chín lạng. Lúc trước mang đi có hai chục lạng, còn thiếu năm lạng. Người này là lái lợn, theo chúng con về lấy nốt tiền.

Yêu vương nghe nói, liền gọi:

- Tụi nhỏ, mang ra năm lạng trả nốt cho hắn để hắn cút. Hành Giả nói:
- Tâu đại vương, người khách này một là tới lấy nốt tiền, hai là muốn được xem đại hội đấy ạ.

Yêu vương nổi giận quát mắng:

- Tên Điêu Toàn khốn kiếp kia! Ta chỉ sai nhà ngươi một việc đi mua lợn, có thế thôi, sao nhà ngươi lại đi bép xép nói với người ta đại hội đại hiếc cái gì!

Bát Giới bước lên nói:
- Chúa công lấy được bảo bối, thật là một việc may mắn nhất thiên hạ, dù cho hắn xem có gì đáng sợ?

Yêu vương hừ một tiếng, nói:

- Tên Cổ Quái này cũng thật đáng ghét! Bảo bối này ta lấy được trong thành Ngọc Hoa. Thảng hoặc người khách này nhìn thấy, về nói vung trong thành khiến mọi người biết, khi ấy vương tử tới đòi thì biết làm thế nào?

Hành Giả nói:

- Tâu chúa công, người khách này nhà ở sau chợ Càn Phương, cách thành rất xa. Hắn không phải là người trong thành, nên không đi bép xép được đâu ạ. Vả lại, hắn cũng đói bụng rồi, hai chúng còn từ sáng cũng chưa được hột cơm nào vào trong bụng, trong nhà có sẵn rượu thịt, thưởng cho hắn chén một bữa rồi tống cổ đi.

Vừa dứt lời, thấy một tiểu yêu mang ra năm lạng bạc đưa cho
Hành Giả. Hành Giả đưa số bạc cho Sa Tăng nói:

- Chú lái cầm lấy tiền, rồi theo tôi vào trong này ăn cơm.

Sa Tăng mạnh dạn đi theo Bát Giới, Hành Giả vào trong động. Khi vào tới sảnh đường rộng rãi ở tầng hai, ba người nhìn thấy chiếc bàn ở giữa nhà có đặt một cây đinh ba chín mũi, hào quang phát ra chói mắt, phía bên đông dựng cây gậy sắt nạm vàng, phía bên tây dựng cây bảo trượng hàng yêu. Yêu vương đi theo sau nói:

- Này chú lái, chỗ hào quang lấp lánh ở giữa nhà kia là cây đinh ba. Chú xem thì xem, nhưng khi về chớ có bép xép với ai, rõ chưa.

Sa Tăng gật đầu dạ dạ.

Than ôi! Đó chính là “chủ thấy của đã muốn lấy”. Bát Giới tính nết vốn thô lỗ, vừa nhìn thấy cây đinh ba, chẳng cần biết
mô tê gì, chạy xộc tới, hiện nguyên hình bản tướng, múa đinh ba vù vù nhằm mặt yêu quái bổ tới. Hành Giả, Sa Tăng cũng vội chạy sang hai bên cướp lấy binh khí của mình và cũng hiện nguyên hình. Ba anh em nhất tề xông vào bổ loạn xạ.



Yêu vương sợ quá vội co người nhảy ra phía sau, vớ lấy cây xẻng cán dài bốn mặt sáng loáng, đuổi theo tới giữa sân gạt ba thứ binh khí ra, lớn tiếng quát:

- Các ngươi là ai mà dám bày mẹo lừa lấy bảo bối của ta! Hành Giả quát mắng:
- Đồ giặc cỏ đê tiện kia! Nhà ngươi không nhận ra ta à? Chúng ta là đồ đệ của Đường Tam Tạng bên phương Đông, dọc đường đi tới châu Ngọc Hoa đổi điệp văn, lão vương cho ba vương tử tôn chúng ta làm thầy, mời dạy võ nghệ cho, và mượn bảo bối của chúng ta để làm mẫu rèn binh khí. Binh khí của chúng ta để trong sân của vương phủ, đồ giặc cỏ đê tiện nhà
ngươi lợi dụng đêm tối lẻn vào lấy đi, lại còn nỏ mồm bảo chúng ta bày mẹo lừa lấy bảo bối của nhà ngươi à? Chớ có chạy! Ta sẽ cho nhà ngươi nếm thử ba cây binh khí của chúng ta đây!

Yêu quái giơ xẻng lên đỡ. Hai bên đánh nhau từ trong sân ra tới cửa động. Ba nhà sư và một yêu quái quần nhau thật dữ dội:

Vèo vèo gậy như gió thổi, Cuồn cuộn khi tựa mưa bay,
Bảo trượng vung ráng đẹp đằng này, Xẻng kia bổ mù bay dào dạt,
Khác nào ba tiên luyện đơn chế thuốc, Lửa bay sáng rực quỷ thần kinh,
Hành Giả ra oai khủng khiếp vô cùng, Yêu tinh ăn trộm thật phường vô lễ! Thiên Bồng Bát Giới trổ hết tài nghệ
Đại Tướng Sa Tăng hùng dũng hiên ngang, Ba anh em hợp ý đồng lòng,
Động Hổ Khẩu tung hoành ngang dọc.

Yêu quái gớm ghê đâu chịu khuất, Bốn kẻ anh hùng đấu rõ hăng, Đánh nhau cho tới lúc tối sầm, Yêu quái mỏi rời khó mà đối địch.
Bốn người đánh nhau quyết liệt hồi lâu ở núi Báo Đầu, yêu quái biết chừng không địch nổi, bèn quay về phía Sa Tăng quát lớn:

- Nhìn lưỡi xẻng đây!

Sa Tăng né người tránh, yêu quái thừa dịp có đường trống bỏ
chạy, cưỡi gió bay thẳng về cung tốn phía đông nam. Bát Giới co cẳng định đuổi theo, Hành Giả ngăn lại:

- Mặc cho hắn chạy. Từ xưa đã có câu: “Giặc cùng chớ đuổi”, hẵng chặn đường về của hắn đã.

Bát Giới nghe lời. Ba người tới thẳng cửa động giết sạch sành sanh hơn trăm tiểu yêu lớn nhỏ trong động. Hóa ra chúng đều là loại lang trùng hổ báo, cầy cáo hươu nai thành tinh cả. Hành Giả dùng thủ pháp lôi hết những đồ tế nhuyễn, cùng bọn tiểu yêu đã bị đánh chết, và số dê lợn mang ra khỏi động. Sa Tăng thu nhặt ít củi khô chất kín cửa hang rồi phóng hỏa đốt. Bát Giới lấy hai tai quạt gió. Một vùng sào huyệt phút chốc cháy sạch sẽ. Sau đó ba anh em mang hết những vật thu được bay về thẳng châu thành.

Lúc ấy cửa thành vẫn còn mở, mọi người chưa đi ngủ. Cha con lão vương và Đường Tăng vẫn đang ngồi đợi trong đình Bộc Sa. Bỗng mọi người nghe thấy tiếng lộp bộp rơi đầy sân, vội nhìn ra, thấy đầy rẫy những thú chết, lợn dê và của cải. Bọn Hành Giả cùng cất tiếng gọi:

- Thưa sư phụ, chúng con đã thắng lợi trở về.

Lão vương dạ dạ tạ ơn. Đường Tam Tạng vô cùng mừng rỡ. Ba vương tử quỳ rạp xuống lạy Sa Tăng đỡ dậy nói:

- Khoan tạ ơn vội, ra mà xem chiến quả đã. Các vương tử hỏi:
- Những vật này sư phụ mang từ đâu về? Hành Giả cười nói:
- Bọn lang trùng hổ báo, cầy cáo hươu nai này đều là những yêu quái thành tinh bị chúng tôi đánh chết quẳng ra cửa. Còn lão yêu quái thì đúng là con sư tử lông vàng, hắn sử một cây xẻng tứ minh đánh nhau với chúng tôi cho tới lúc chiều tối, rồi bị thua
cuộc bỏ chạy thoát thân về phía đông nam. Chúng tôi không đuổi theo, mà quét sạch sào huyệt của chúng, giết sạch bọn tiểu yêu, thu dọn hết của cải mang về đây.

Lão vương nghe xong vừa mừng vừa lo. Mừng vì mọi người thắng lợi trở về, lo vì yêu quái ngày nào đó sẽ tới báo thù. Hành Giả nói:

- Điện hạ yên tâm, tôi đã suy nghĩ chín chắn và khắc có cách xử trí, khi nào tôi diệt hết yêu quái, bấy giờ mới lên đường, quyết không bao giờ để lại hậu họa. Trưa nay, lúc đi, tôi có gặp một tên tiểu yêu mặt xanh tóc đỏ mang thiếp mời. Tôi đọc qua thấy tờ thiếp viết: “Xin thưa với ông nội lão đại nhân Cửu Linh Nguyên Thánh được biết, sáng mai cháu sửa soạn tiệc rượu gọi là “đại hội đinh ba”, kính mời lão đại nhân tới dự. Mong ông đừng từ chối. Xin đa tạ”. Người mời ký tên là “cháu dưới cửa là Hoàng Sư cúi đầu lạy trăm lạy”. Vừa rồi yêu quái bại trận, chắc sẽ chạy về chỗ tên ông nội hắn thổ lộ, và sáng mai bọn chúng sẽ tới báo thù. Tôi sẽ giúp điện hạ tiêu diệt sạch bọn chúng.

Lão vương cảm tạ, sai sửa soạn bữa chay tối. Thầy trò ăn xong, ai nấy đi nghỉ, chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện yêu quái quả nhiên chạy về hướng đông nam, chỗ núi Trúc Tiết. Trong quả núi ấy có một tòa động phủ tên gọi là động Cửu Khúc Bàn Hoàn. Trong động có lão Cửu Linh Nguyên Thánh là ông nội yêu quái. Suốt đêm yêu quái chạy không đứng gió, tới khoảng canh năm thì tới cửa động, vội gõ cửa xin vào. Bọn tiểu yêu thấy vậy hỏi ngay:

- Tâu đại vương, chiều qua có tên tiểu yêu mặt xanh đến đưa thiếp mời. Đại vương tôi đã giữ hắn lại tới sáng nay để cùng đến dự đại hội đinh ba một thể, thế mà sớm tinh sương thế này ngài còn đến mời làm gì nữa?

Yêu quái nói:
- Đừng nhắc nữa! Đừng nhắc nữa! Hội không xong rồi!

Đang nói chuyện, thấy tên mặt xanh từ trong động bước ra nói:

- Đại vương đến làm gì? Lúc nào lão đại vương nhà ta trở dậy, ngài sẽ cùng đi dự hội với con một thể.

Yêu quái cứ như người ngớ ngẩn, xua tay không nói.

Lát sau lão yêu ngủ dậy, cho gọi vào. Yêu quái quăng binh khí, cúi rạp xuống lạy, không ngăn được hai hàng nước mắt ứa ra.



Lão yêu nói:

- Cháu ngoan của ông, hôm qua cháu đã đưa thiếp mời, sáng nay ông đang định đi dự hội, sao cháu còn thân đến làm gì? Mà sao trông cháu rầu rĩ thế?

Yêu quái dập đầu thưa:
- Thưa ông, đêm hôm kia cháu thư thả ngồi ngắm trăng, bỗng thấy trong thành Ngọc Hoa hào quang phát ra ngút trời, bèn vội vàng tới xem, hóa ra ba cây binh khí để trong vương phủ phát ra hào quang sáng chói. Một thứ là cây đinh ba vàng chín mũi, một thứ là cây bảo trượng hàng yêu, một thứ là cây gậy sắt nạm vàng. Cháu lập tức trổ thần thông mang ngay về động, định tổ chức Đại hội đinh ba, sai bọn nhỏ đi mua dê lợn, hoa quả lễ vật, bày đại tiệc mời tổ phụ tới dự lễ cho vui. Hôm qua, sau khi cháu sai tên mặt xanh đi đưa thiếp mời, thì thấy bọn Điêu Toàn đi mua dê lợn xua về được mấy con, lại kéo theo một tên lái lợn tới đòi tiền thiếu. Hắn định xin ở lại xem hội, nhưng cháu e hắn bép xép nói vung ra ngoài, nên không cho hắn xem. Hắn lại kêu đói xin ít cơm ăn, cháu bảo hắn cứ việc vào trong động mà chén. Khi vào tới trong động vừa trông thấy binh khí, chúng bảo là của chúng, thế là cả ba tên xông vào cướp, hiện rõ nguyên hình. Một hòa thượng mặt đầy lông, mõm như thiên lôi, một hòa thượng tai to mõm dài, một hòa thượng mặt sắt đen sì. Bọn chúng chẳng kể hay dở, hò hét đánh loạn xạ. Cháu vội vơ lấy chiếc xẻng tứ minh đánh nhau với chúng, hỏi chúng là ai mà hỗn hào như vậy. Chúng nói rằng chúng là đồ đệ của Đường Tăng tận bên phương Đông sang phương Tây lấy kinh, nhân qua châu thành vào đổi điệp văn, bị nhà vua giữ lại để cho các con xin học võ nghệ. Vương tử mượn ba cây binh khí làm mẫu để ở trong sân vương phủ, bị cháu lấy mất, vì vậy chúng đến đòi lại. Cháu không biết họ tên ba hòa thượng ấy là gì, nhưng chúng võ nghệ cao cường, một mình cháu địch không nổi ba đứa, nên chịu thua bỏ chạy về chỗ tổ phụ. Muôn xin tổ phụ hết sức giúp đỡ, bắt bọn hòa thượng ấy, báo thù cho cháu. Như thế mới là tấm lòng ông nội quý cháu chứ.

Lão yêu nghe xong, trầm ngâm một lát rồi cười nói:

- À, hóa ra là hắn. Cháu ngoan của ông ơi, cháu đụng vào
chúng là nhầm to rồi.

Yêu quái hỏi:

- Ông biết bọn chúng à? Lão yêu nói:
- Tên tai to mõm dài là Trư Bát Giới, tên mặt sắt đen sì là Sa Hòa Thượng, hai tên này cũng thường thôi. Còn tên mặt đầy lông lá mõm như thiên lôi tên là Tôn Hành Giả. Tên này mới thực thần thông quảng đại, năm trăm năm trước đã từng đại náo thiên cung, mười vạn thiên binh cũng không bắt nổi hắn. Hắn là một tên ghê gớm lắm, có thể đào núi dốc biển, phá động công thành dễ như chơi. Sao cháu lại đụng vào hắn làm gì? Thôi được, thôi được, để ông cùng đi với cháu, bắt cả hắn và vương tử Ngọc Hoa mà về báo thù cho cháu.

Yêu quái nghe xong, dập đầu tạ ơn.

Ngay lập tức, lão yêu điểm hết các cháu: Nhu Sư, Tuyết Sư, Tuấn Nghê, Bạch Trạch, Phục Ly, Bác Tượng, tên nào tên nấy binh khí tinh nhuệ lăm lăm trong tay, đi theo Hoàng Sư, ào ào tựa cuồng phong đến thẳng núi Báo Đầu. Khi tới nơi, bọn chúng chỉ thấy khói lửa mịt mùi cay xè cả mũi, và văng vẳng tiếng khóc não nùng. Nhìn kỹ, hóa ra là hai tên Điêu Toàn và Cổ Quái đang khóc lóc gọi chúa công. Yêu quái bước tới quát hỏi:

- Nhà ngươi là Điêu Toàn thật hay Điêu Toàn giả?

Hai tiểu yêu quỳ xuống, nước mắt đầm đìa dập đầu thưa:

- Chúng con đâu có phải giả. Suốt ngày hôm qua chúng con mang tiền đi mua dê, lợn, khi đi tới con đường cái phía tây núi, chúng con gặp một hòa thượng mặt lông lá mồm thiên lôi, hắn nhổ một bãi nước bọt vào chúng con, khiến chúng con mồm miệng cứng đờ, chân tay mềm nhũn, không nói được và cũng không đi được, rồi bị hắn đè xuống, móc hết tiền nong, lột cả thẻ
bài. Hai chúng con bị hôn mê tăm tối, mãi tới bây giờ mới tỉnh lại, bò về tới đây thấy khói lửa vẫn chưa tắt, nhà cửa hang động bị đốt trụi cả. Rồi chúng con chẳng thấy chúa công và các đầu mục lớn nhỏ đâu nêu đau đớn quá ngồi đây khóc lóc. Mà chẳng biết tại sao lại có trận hỏa hoạn ghê gớm thế này nhỉ?

Yêu quái nghe xong, không kìm nổi hai hàng nước mắt chảy ra như suối, hai chân giậm thình thịch, gào thét vang trời căm tức nói:

- Đồ đầu trọc hung ác kia! Các người dám làm những việc độc ác như thế này ư! Đốt trụi động phủ của ta, thiêu cháy người đẹp của ta, già trẻ lớn bé trong nhà ta, các ngươi cũng giết sạch sẽ. Ta căm giận đến chết người đi được! Đến chết người đi được!

Lão yêu sai Nhu Sư dìu thằng cháu Hoàng Sư lại nói:

- Cháu ơi, cơ sự đến thế này có khóc cũng vô ích. Hãy lấy lại nhuệ khí mà tới châu thành bắt bọn chúng để báo thù.

Yêu quái vẫn nước mắt lã chã nói:              

- Ông ơi, cả một tòa cơ nghiệp tốn biết bao công sức gây dựng nên, nay bị lũ đầu trọc ấy đốt trụi hết, thì cháu còn muốn sống làm gì nữa!

Yêu quái giãy giụa, định húc đầu vào vách đá tự tử, bọn Tuyết Sư, Nhu Sư phải hết sức gìn giữ khuyên can mới thôi. Đoạn cả bọn rời ngay núi Báo Đầu, tới cả châu thành.

Châu thành đang yên ổn, bỗng thấy gió thổi cuồn cuộn, mù phủ dăng dăng. Mọi người ở ngoài thành sợ quá, địu con cõng cháu, bỏ cả gia tư, chạy giạt cả vào trong thành, rồi đóng chặt cửa lại. Có người vào báo trong vương phủ:

- Tai họa! Tai họa!

Bọn vương tử và Đường Tăng đang ngồi ăn cơm sáng trong
đình Bộc Sa, nghe thấy có người báo tai họa đều chạy xô ra cửa hỏi. Mọi người thưa:

- Một bọn yêu quái phun mây nhả mù, cát bay đá chạy, xông đến sát châu thành ta rồi.

Lão vương cả sợ nói:

- Biết làm sao bây giờ? Hành Giả cười nói:
- Mọi người cứ yên tâm! Đó là bọn yêu quái động Hổ Khẩu hôm qua thua trận, chạy về phía đông nam cầu cứu tên Cửu Linh Nguyên Thánh nào đó đến đây, để mấy anh em tôi ra xem sao. Điện hạ hãy sai đóng chặt bốn cửa, chia quân canh giữ thành trì cẩn thận.

Vương tử lập tức sai đóng chặt bốn cửa thành, điểm quân lên giữ mặt thành. Cha con lão vương cùng Đường Tăng ngồi trong thành lâu đốc thúc, cờ quạt phấp phới, hỏa pháo vang trời. Bọn Hành Giả bay lên trong khoảng nửa mây mù, ra khỏi thành nghênh địch. Đó chính là:

Do sơ suất, mất hết binh khí

Nổi hung đồ, ma kéo tới ngay

Cuối cùng không biết trận đánh thắng bại thế nào xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ CHÍN MƯƠI


Quái Sư Tử bắt thầy trò Tam Tạng


Tiêu Thiện Tôn thu yêu quái chín đầu


Lại nói chuyện Tôn Đại Thành cùng Bát Giới, Sa Tăng ra
khỏi thành đón đánh, thấy một bọn yêu quái toàn là đủ hạng sư tử tạp nham. Yêu quái Hoàng Sư dẫn đầu, bên trái là Tuấn Nghê Sư, Bác Tượng Sư, bên phải là Bạch Trạch Sư, Phục Ly Sư, Nhu Sư và Tuyết Sư đi đằng sau, một cành phướn báu bằng gấm thêu hoa đứng sát con sư tử chín đầu. Hai tên Điêu Toàn Cổ Quái và Cổ Quái Điêu Toàn vác hai cây cờ đỏ. Cả bọn rầm rộ bày trận ngoài bãi đất rộng ở phía bắc châu thành.

Bát Giới bước lên quát mắng:

- Đồ yêu quái ăn trộm bảo bối kia! Các ngươi chạy đi đâu mà bây giờ lại kéo mấy thằng giặc cỡ đến giở trò gì nào?

Quái Hoàng Sư nghiến răng quát:

- Đồ trọc đầu độc ác kia! Ngày hôm qua ba thằng đánh một, nên tao phải bỏ chạy, tạm để cho các ngươi làm người. Thế mà các ngươi quá ư độc ác. Đốt trụi động phủ ta, phá sạch núi rừng ta, giết hết gia quyến ta. Ta và các ngươi oán cừu sâu tựa biển. Chớ có chạy, nếm một xẻng của lão gia đây.

Bát Giới giơ đinh ba lên đón đỡ. Hai tay anh tài giao đấu bất phân thắng bại, quái Nhu Sư thấy thế bèn múa cây gậy tật lê sắt, quái Tuyết Sư sử cây giản ba mũi cùng xông vào đánh. Bát Giới quát vang:

- Cứ vào cả đây!
Bên này, Sa Tăng cũng vội vàng rút cây bảo trượng hàng yêu xông vào đánh giúp Bát Giới. Lại thấy quái Tuấn Nghê, Bạch Trạch, Bác Tượng, Phục Ly cũng đồng loạt xông cả vào. Bên này Tôn Đại Thánh cũng vội vàng múa tít cây gậy sắt nạm vàng xông vào đánh nhau với đám yêu tinh. Tuấn Nghê sử cây muộn côn, Bạch Trạch sử cây chùy đồng, Bác Tượng sử cây thương sắt, Phục Ly sử cây phủ việt. Bảy yêu quái sư tử đánh nhau với ba hòa thượng. Trận đánh vô cùng dữ dội:

Côn, chùy, thương, phủ, giản kia, Xẻng tứ minh với tật lê côn này. Bảy loại binh khí trong tay,
Bảy yêu sư tử vây dầy ba tăng. Đại Thánh múa tít gậy vàng,
Sa Tăng bảo trượng dọc ngang vù vù.

Bát Giới trổ hết thần uy,

Đinh ba loang loáng mịt mù tầng không.

Đâm trước mặt đón sau lưng.

Che phải đỡ trái ầm ầm choang choang.

Trên thành vương tử trợ phong, Phất cờ đánh trống nức lòng ba quân.
Đám yêu quái đánh nhau với bọn Hành Giả suốt nửa ngày trời, rồi trời tối lúc nào không biết. Bát Giới sùi bọt mép, xem ra có vẻ rã rời, bèn đánh dứ một miếng đinh ba thua trận bỏ chạy, bị hai yêu quái Nhu Sư và Tuyết Sư quát vang:

- Chạy đi đâu! Coi đòn này!

Chú ngốc né không kịp, bị một ngọn giản đánh trúng giữa lưng ngã lăn ra đất, miệng chỉ kịp kêu:
- Ối! Ối!

Hai yêu quái xách bờm, túm đuôi khiêng về chỗ con sư tử chín đầu, báo:

- Thưa tổ phụ, chúng cháu đã bắt được một tên.

Lúc ấy, Sa Tăng và Hành Giả cũng thua trận, yêu quái nhất tề đuổi tới, Hành Giả bèn nhổ một nắm lông tơ, bỏ vào miệng nhai nát, đoạn nhổ ra hổ “biến!”, lập tức biến thành hàng trăm tiểu Hành Giả, vây chặt bọn Bạch Trạch, Tuấn Nghê, Bác Tượng, Phục Ly vào trong. Sa Tăng, Hành Giả lại xông vào đánh tiếp. Lúc trời tối hẳn thì bọn Hành Giả bắt sống được Tuấn Nghê và Bạch Trạch, còn Phục Ly và Bác Tượng chạy thoát. Hoàng Sư báo cho lão quái biết. Lão quái biết bị mất hai sư tử, bèn dặn dò:

- Trói chặt Bát Giới lại, chớ giết chết hắn, để ta mang hắn đổi lấy hai cháu của ta. Nhược bằng chúng giết chết hai cháu của ta thì bấy giờ ta sẽ lôi Bát Giới ra giết đổi mạng.

Trời tối, bọn yêu quái lại ở ngoài thành, chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện Tôn Đại Thánh bắt được hai yêu quái sư tử khiêng tới chân thành, lão vương nhìn thấy, lập tức ra lệnh mở cửa, sai hai ba chục người hiệu úy mang thừng đòn ra ngoài cửa trói chặt yêu quái khiêng vào thành. Tôn Đại Thánh thu lông, cùng Sa Tăng bước lên thành yết kiến Đường Tăng. Đường Tăng nói:

- Trận đánh khủng khiếp quá! Không biết tính mạng Ngộ
Năng sẽ ra sao?

Hành Giả thưa:

- Không sao đâu. Chúng con bắt được hai yêu quái, chúng đâu có dám giết Bát Giới. Ta tạm trói chặt hai yêu quái lại, sáng mai mang ra đổi Bát Giới.
Ba vương tử dập đầu lạy Hành Giả nói:

- Lúc đầu chỉ thấy có một mình sư phụ đánh nhau, sau đó thua trận chạy về, rồi bỗng thấy xuất hiện hàng trăm sư phụ, và khi bắt được yêu quái, trở về gần chân thành lại chỉ thấy có một mình sư phụ. Không hiểu sư phụ dùng phép gì thế?

Hành Giả cười nói:

- Trên người ta có tám vạn bốn nghìn sợi lông, có thể một biến thành mười, mười biến thành trăm, trăm biến thành nghìn vạn ức triệu, đều là pháp thân ở ngoài thân cả.

Ba vương tử đều cúi đầu đảnh lễ, đoạn sai bày biện cơm chay mời thầy trò ăn ngay trên thành lầu. Trên các cửa thành đều có treo đèn lồng, cắm cờ xí, nổi trống mõ thanh la, bắn pháo vang rền, canh phòng nghiêm ngặt.

Hôm sau trời vừa sáng, lão quái dặn dò mẹo mực với Hoàng
Sư rằng:

- Hôm nay các cháu cố bắt cho được Hành Giả, Sa Tăng, còn ông sẽ ngấm ngầm từ tầng không sà xuống thành bắt sư phụ hắn và cha con lão vương, rồi quay về động Cửu Khúc Bàn Hoàn trước, đợi các cháu thắng trận trở về báo sau nghe.

Hoàng Sư lĩnh kế, dẫn Nhu Sư, Tuyết Sư, Bác Tượng, Phục Ly, ai nấy lăm lăm binh khí thẳng tới châu thành nổi gió phun mù thách đánh. Hành Giả, Sa Tăng nhảy ra ngoài thành lớn tiếng quát:

- Đồ yêu quái khốn kiếp! Mau mang sư đệ Bát Giới trả ta, ta sẽ tha chết cho. Bằng không, ta sẽ phanh thây thành muôn đoạn!

Yêu quái chẳng thèm nói năng, nhất loạt xông vào. Hai anh em Đại Thánh trổ phép thần thông quần nhau với năm yêu quái sư tử. Trận này còn khủng khiếp hơn cả trận hôm qua:

Cuồng phong quét đất ào ào,
Mù tuôn u ám trời cao đất dày.

Ầm ầm đá chạy cát bay,

Rừng cây nghiêng ngả cáo cầy sợ run.

Thương dài, phủ việt sáng choang, Giản, xẻng sắc bén nể nang đâu nào, Đánh vào Hành Giả ào ào,
Vây chặt Ngộ Tĩnh trước sau trùng trùng.

Đại Thánh múa tít gậy vàng,

Khi tiến khi thoái nhịp nhàng oai phong, Bác Tượng đánh đỡ cũng hăng,
Sa Tăng xưa đã lừng danh trên trời.

Phen này quyết trổ hết tài, Đường sang Tây vực trừ tai diệt tà.
Năm yêu quái sư tử đang đánh nhau quyết liệt với Hành Giả, Sa Tăng, thì lúc ấy lão yêu cưỡi đám mây đen, bay thẳng tới thành lầu, lắc đầu một cái, các quan văn lớn nhỏ và quân lính giữ thành sợ quá ngã lăn cả xuống chân thành, đoạn hắn vào thẳng trong thành lâu, há hốc mồm ngoạm chặt lấy Tam Tạng và cha con lão vương, rồi bay tới bãi rộng phía bắc ngoạm chặt lấy Bát Giới. Nguyên lão yêu là một con sư tử chín đầu, nên hắn có chín mồm, một mồm ngoạm Đường Tăng, một mồm ngoạm Bát Giới, một mồm ngoạm lão vương, một mồm ngoạm vương tử cả, một mồm ngoạm vương tử hai, một mồm ngoạm vương tử ba, sáu mồm ngoạm sáu người, còn ba mồm bỏ không cất tiếng gọi:

-     Ông về trước đây!

Năm yêu quái sư tử thấy người ông đắc thắng, ai nấy càng
hăng hái phấn chấn.

Hành Giả nghe trên thành có tiếng người kêu, biết là trúng kế, vội vàng dặn Sa Tăng cẩn thận, còn mình lập tức nhổ một nắm lông bỏ vào mồm nhai vụn rồi phun ra, lập tức biến thành hàng trăm nghìn tiểu Hành Giả, nhất loạt xông vào, kéo ngã Nhu Sư, bắt sống Tuyết Sư, tóm gọn Bác Tượng, Phục Ly, giết chết Hoàng Sư, đoạn hò hét loạn xạ quay về thành, chỉ có tên mặt xanh và hai tên Điêu Toàn Cổ Quái và Cổ Quái Điêu Toàn là chạy thoát. Các quan trên mặt thành trông thấy vội mở toang cửa, mang thừng ra trói chặt năm con sư tử, khiêng vào thành. Chưa kịp đặt xuống, đã thấy đám vương phi khóc rống lên, cúi lạy Hành Giả, nói:

- Thần sư ơi, cha con lão vương và sư phụ của thần sư tính mạng nguy rồi, chúng tôi biết làm sao bây giờ?

Đại Thánh thu lông, cúi chào các vương phi, nói:

- Hoàng hậu đừng buồn. Chỉ tại tôi mải bắt mấy con sư tử, nên lão yêu hóa phép bắt mất sư phụ tôi và cha con lão vương, nhưng hắn không dám hại đâu. Đợi sớm mai hai anh em tôi vào thẳng quả núi, bằng mọi giá bắt sống lão yêu, giải thoát bốn cha con vương tử về.

Đám vương phi và gia quyến nghe Hành Giả nói như vậy, sụp cả xuống lạy, nói:

- Mong sao cho cha con lão vương không việc gì, xã tắc giang sơn bền vững!

Lạy xong, ai nấy nuốt nước mắt bước vào hậu cung. Hành Giả dặn dò các quan:
- Hãy lột da con sư tử vàng đã bị giết chết và gông chặt sáu con còn sống lại, rồi dọn cơm chay cho chúng ta ăn, ăn xong bọn ta còn đi ngủ. Các ngươi cứ yên tâm, ta sẽ giữ gìn cho vô
sự.

Hôm sau, Đại Thánh cùng Sa Tăng cưỡi mây lành bay thẳng tới núi Trúc Tiết, hạ mây bước xuống quan sát. Thật là một ngọn núi vừa cao vừa đẹp. Chỉ thấy:

Đỉnh non nhọn hoắt, Sừng sững nhấp nhô.
Khe sâu róc rách nước tràn ra, Vách núi hoa kỳ hương ngào ngạt. Núi vòng vèo trùng điệp,
Đường cổ dạo quanh co. Từng có bạn hạc tới múa ca, Vách núi mây bay phô sắc biếc,
Ngày nắng vượn đen tìm quả ngọt, Đẹp trời hươu hoẵng nhởn nhơ đùa. Loan xanh hót líu lo,
Oanh vàng ca réo rắt. Xuân về đào mận hoa khoe sắc. Hè đến hòe liễu tán xanh om. Thu qua lác đác hoa cúc vàng.
Đông tới bông tuyết bay lất phất. Bốn mùa tám tiết cảnh đẹp tuyệt, Bồng Đảo Doanh Châu nào có thua.
Hai ngươi ngắm cảnh trên đầu núi, bỗng thấy tên mặt xanh tay cầm một chiếc côn ngắn chạy thẳng ra phía thung lũng. Hành Giả quát vang:

- Chạy đi đâu! Có lão Tôn đây!
Tên tiểu yêu sợ quá vừa chạy vừa lăn xuống chân vách núi. Hai người vội vàng đuổi theo, nhưng chẳng thấy dấu vết yêu quái đâu cả. Hai người bước tới phía trước vài bước sục sạo tìm tòi, hóa ra đây là một tòa động phủ, hai tấm cánh cửa đã có hoa nở lan man, đóng kín im ỉm. Trên môn đình có gắn một tấm biển đá, trên đó khắc mười chữ đại tự “Núi Linh Trúc Tiết, động Cửu Khúc Bàn Hoàn”.

Hóa ra tên tiểu yêu chạy vào trong động, đóng chặt cửa lại, rồi vào báo với lão yêu:

- Thưa đại vương, ngoài cửa có hai hòa thượng tới đánh. Lão yêu hỏi:
- Đại vương của nhà ngươi và mấy tướng Nhu Sư, Tuyết Sư, Bác Tượng, Phục Ly có tới không?

Tiểu yêu thưa:

- Dạ không thấy! Không thấy! Chỉ thấy hai hòa thượng đứng quan sát trên đỉnh núi. Con nhìn thấy vội co cẳng chạy, chúng đuổi theo, con chạy tọt vào động rồi đóng chặt cửa lại.

Lão yêu nghe xong cúi đầu không nói. Một lát sau, bỗng thấy hắn nước mắt lã chã khóc than:

- Trời ơi, thẳng cháu Hoàng Sư của ta khéo chết mất rồi! Còn bọn Nhu Sư chắc cũng bị lũ hòa thượng bắt mang vào thành cả rồi! Thù này ta quyết phải báo bằng được!

Bát Giới bị trói quẳng gần đấy cùng với cha con lão vương và Đường Tăng đang sợ sệt, đau đớn, nghe thấy lão yêu nói “lũ cháu bị hòa thượng bắt mang vào thành”, thì mừng thầm khẽ nói:

- Sư phụ đừng sợ, điện hạ cũng đừng sợ, sư huynh tôi đã thắng trận, bắt sống được lũ yêu, và hiện đã tìm tới đây cứu chúng ta đấy.
Vừa dứt lời, lại nghe tiếng lão yêu gọi:

- Bọn nhỏ, coi giữ chúng cẩn thận! Để ta ra bắt nốt hai lão hòa thượng mang về trừng trị một thể.

Bạn coi, lão yêu mình chẳng mang giáp trụ, tay không binh khí, rảo bước ra ngoài. Lúc ấy Hành Giả đang hò hét loạn xạ. Lão yêu sai mở toang cửa, chẳng nói chẳng rằng, xông ngay vào Hành Giả. Hành Giả rút gậy sắt đón đánh. Sa Tăng múa bảo trượng lao vào. Lão yêu lắc lắc cái đầu, tám cái đầu ở hai bên nhất loạt há hốc mồm, nhẹ nhàng ngoạm chặt lấy Hành Giả, Sa Tăng mang vào động, đoạn ra lệnh:

- Mang thừng trói nó lại!



Hai tên Điêu Toàn Cổ Quái và Cổ Quái Điêu Toàn, cùng tên mặt xanh đêm qua sống sót trở về, vội vàng mang ngay ra hai sợi dây thừng trói nghiến hai người lại. Lão yêu hỏi:

- Con khỉ khốn kiếp kia! Nhà ngươi bắt mất bảy đứa cháu của
ta, nay ta bắt sống cả một tụi bốn hòa thượng nhà ngươi, cùng với bốn cha con vương tử là cũng đủ để báo thù cho các cháu ta rồi đó. Bọn nhỏ, trước hết mang gậy liễu có gai ra đánh cho con khỉ này một trận để báo thù cho thằng cháu Hoàng Sư của ta!

Ba tiểu yêu lập tức cầm chắc cây gậy gỗ liễu nện cho Hành Giả túi bụi. Thân thể Hành Giả vốn được tôi luyện, nên mấy phát gậy gỗ liễu thực chẳng khác gì gãi ghẻ. Hành Giả cứ nằm im, chẳng kêu la, mặc cho bọn chúng đánh. Bát Giới, Đường Tăng và cha con vương tử thấy thế, ai cũng sợ sởn gai ốc. Được một chốc, mấy cây gậy gãy nát, bọn chúng vẫn đánh cho tới khi trời tối, không biết bao nhiêu là roi. Sa Tăng thấy Hành Giả bị đánh nhiều quá, bèn động lòng nói:

- Tôi xin chịu thay cho anh ấy một trăm gậy. Lão yêu nói:
- Chớ vội. Ngày mai mới đến lượt nhà ngươi, lần lượt thằng nào cũng được xơi cả.

Bát Giới vội vàng nói:

- Ngày kia mới đến lượt lão Trư đấy!

Đánh một chập nữa thì trời tối hẳn. Lão yêu gọi:

- Bọn nhỏ, tạm dừng lại. Đốt đèn lên, rồi các người đi ăn cơm đi, để ta tới hang Cẩm Vân đi ngủ. Ba chúng bay đều đã bị hắn hại, nên phải canh giữ hắn cẩn thận, sáng mai lại đánh tiếp.

Ba tiểu yêu bèn xách đèn tới, đoạn lại tiếp tục cầm gậy phang tới tấp vào sọ Hành Giả, tiếng kêu cốc cốc khác nào tiếng mõ. Cứ thế chúng đánh lúc nhặt lúc khoan, rồi lăn ra ngủ lúc đêm khuya.

Hành Giả dùng phép độn, thu nhỏ người lại, chui ra khỏi dây thừng, rũ rũ lông, xốc lại quần áo, đoạn rút ngay cây gậy sắt trong tai ra, múa tít, cây gậy to bằng cái thùng nước, dài chừng
hai trượng, nhằm thẳng vào ba tên yêu quái nói:

- Đồ nghiệt súc kia, các ngươi dám đánh ông chúng mày nhiều thế! Ông chúng mày bây giờ cũng làm như thế, chạm thử cây gậy này vào người chúng mày một tí xem sao!

Đoạn nện nhẹ cây gậy xuống ba tên tiểu yêu, lập tức ba tên biến thành ba đống bánh thịt, rồi soi đèn cởi trói cho Sa Tăng. Bát Giới bị trói chặt quá, chịu không nổi gào toáng lên:

- Anh ơi, chân tay em sưng tấy cả lên rồi, mau cởi trói cho em đi!

Tiếng chú ngốc gào to quá làm kinh động lão yêu, lão nhổm dậy cất tiếng quát hỏi:

-     Ai cởi trói đấy?

Hành Giả thấy vậy vội tắt phụt đèn, bỏ mặc cả bọn vội vàng vung gậy sắt phá cửa thoát ra ngoài. Lão yêu chạy vào nhà giữa quát:

- Bọn nhỏ, tại sao đèn tắt thế này? Mà đi đâu hết cả rồi?

Chẳng có tiếng trả lời. Hắn quát hỏi lần nữa, cũng chẳng ai trả lời, bèn châm đèn quan sát, chỉ thấy ba đống thịt lầy nhầy, máu me lênh láng trên nền nhà, cha con lão vương, và Đường Tăng, Bát Giới vẫn còn đó, chỉ không thấy Hành Giả, Sa Tăng đâu cả. Lão yêu lại cầm đèn soi khắp trước sau, thấy Sa Tăng đang đứng dán mặt vào tường hành lang, bèn túm lấy đè xuống, trói nghiến lại. Hắn lại tiếp tục đi tìm Hành Giả, chỉ thấy mấy tầng cửa đều bị phá vỡ. Biết là Hành Giả đã phá cửa chạy mất, lão yêu cũng không đuổi theo, chữa lại cửa, che chắn cẩn thận, cố thủ trong nhà. Chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện Tôn Đại Thánh trốn ra khỏi động Cửu Khúc Bàn Hoàn, nhảy vút lên mây, bay về thẳng châu thành Ngọc Hoa, đã thấy các thần thổ địa, thần kỳ, thành hoàng nghênh đón
ở trước thành. Hành Giả hỏi:

- Tại sao các ngươi đêm nay mới tới? Thành hoàng thưa:
- Tiểu thần chúng tôi biết Đại Thánh đã tới châu Ngọc Hoa, nhưng thấy có hiền vương ưu ái rồi, nên không dám tới yết kiến. Giờ đây biết tin các vương gặp nạn, Đại Thánh hàng ma, nên mới tới dập đầu nghênh tiếp.

Đại Thánh đang lúc bực tức, lại thấy các thần Kim đầu, Yết đế, Lục đinh lục giáp giải một vị thổ địa tới, quỳ xuống trước mặt Hành Giả nói:

- Thưa Đại Thánh, chúng tôi bắt được một con ma dưới đất ạ. Hành Giả quát lên:
-        Các ngươi không ở núi Trúc Tiết bảo hộ sư phụ ta, lại còn làm ầm ĩ ở đây làm gì?

Thần Đinh giáp thưa:

- Thưa Đại Thánh, yêu quái ấy từ lúc Đại Thánh trốn thoát, lại bắt trói được Quyển Liêm đại tướng rồi. Chúng tôi thấy hắn pháp lực ghê gớm, bèn giải ngay thổ địa núi Trúc Tiết tới đây. Hắn biết rõ gốc tích yêu quái, xin Đại Thánh thử hỏi hắn xem sao, may ra mới biết được cách xử trí, giải được nạn cho thánh tăng và hiền vương.

Hành Giả nghe vậy mừng lắm. Vị thổ địa kia run lẩy bẩy dập đầu xuống nói:

- Năm trước, lão yêu hạ giáng xuống núi Trúc Tiết. Động Cửu Khúc Bàn Hoàn ấy nguyên là sào huyệt của sáu con sư tử. Sáu con sư tử từ ngày có lão yêu tới, chúng đều bái phục hắn làm ông nội. Tên ông nội ấy vốn là một con sư tử chín đầu, hiệu là Cửu Linh Nguyên Thánh. Muốn trừ được hắn, Đại Thánh phải tới cung Diệu Nham ở cõi cực đông, mời chủ nhân hắn tới mới
thu phục được, còn người khác thì đừng hòng.

Hành Giả nghe xong, trầm ngâm một lát rồi nói:

- Cung Diệu Nham ở cõi cực đông chính là chỗ Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn. Ngài cưỡi một con sư tử chín đầu. À, hóa ra là thế…

Bèn gọi:

- Các ngài Yết đế, Kim giáp hãy cùng thổ địa quay về, ngầm bảo vệ sư phụ, sư đệ và cha con lão vương, còn vị thành hoàng gìn giữ thành trì.

Các vị thần răm rắp nghe lệnh đi ngay.

Đại Thánh dùng phép cân đẩu vân giữa đêm khuya bay đi, chừng khoảng giờ dần thì tới bên ngoài cửa Đông Thiên, gặp ngay một đoàn gồm Quảng Mục thiên vương và một toán thiên đinh, lực sĩ theo hầu. Mọi người dừng lại chắp tay chào Hành Giả, hỏi:

- Đại Thánh đi đâu đấy?

Hành Giả đáp lễ lại các vị thần rồi đáp:

- Tôi tới cung Diệu Nham. Thiên vương nói:
- Đường sang Tây không đi, lại đi sang đông làm gì? Hành Giả nói:
- Chúng tôi tới chân thành Ngọc Hoa, được lão vương khoản đãi, cho ba vương tử nhận ba anh em chúng tôi làm thầy luyện tập võ nghệ, không ngờ gặp một bọn yêu quái sư tử. Hỏi thăm, mới biết ngài Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn là chủ nhân của yêu quái ấy, tôi muốn đến mời ngài ấy trừ yêu quái cứu sư phụ,

Thiên vương nói:
- Vì Đại Thánh muốn làm thầy người ta, nên một ổ sư tử mới xông ra cản trở đấy.

Hành Giả cưới nói:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy!

Các thiên thần, thiên đinh, lực sĩ ai nấy bèn chắp tay nhường lối cho Hành Giả đi. Đại Thánh đi thẳng vào cửa Đông Thiên, một lát sau đã thấy cung Diệu Nham trước mặt. Chỉ thấy:

Trập trùng mây ngũ sắc

Lãng đãng hơi tím lam Ngôi vàng lợp sáng choang Then ngọc hình đầu thú
Ráng đỏ quanh song, hoa thắm cửa Nắng rọi rừng già, sương long lanh Quả là nơi an lạc của chân nhân
Muôn thánh nghìn tiên vĩnh hằng hưng vượng.

Điện gác tầng tầng vóc gấm, Hành lang lớp lớp quanh co,
Rồng xanh nắm hộ thánh ngẩn ngơ. Khắp chốn nghìn tia hào quang chói lọi. Đây là cõi thanh hoa trường lạc,
Chính cung Diệu Nham cõi cực đông.

Một tiên đồng khoác áo màu cầu vồng, đứng trong cửa cung nhìn thấy Hành Giả, vội chạy vào báo:

- Thưa ngài, ngoài cửa có Tề Thiên Đại Thánh đại náo thiên cung tới.

Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn nghe báo, vội sai các vị tiên thị
vệ ra đón, đưa Đại Thánh vào trong cung. Tới nơi, Hành Giả nhìn thấy Thiên Tôn ngôi trên tòa sen chín sắc cao ngất, xung quanh hào quang chói lọi. Thiên Tôn nhìn thấy Hành Giả, vội vàng rời tòa sen xuống đón. Hành Giả ngước lên vái chào. Thiên Tôn đáp lễ xong, nói:

- Thưa Đại Thánh, mấy năm nay không được gặp, sau đó nghe tin Đại Thánh bỏ đạo theo tăng, hộ vệ Đường Tăng sang Tây lấy kinh, chắc là công quả đã viên mãn rồi chăng?

Hành Giả nói:

- Công quả chưa viên mãn đâu, chỉ sắp tới nơi thôi. Vừa rồi nhân hộ vệ Đường Tăng tới châu Ngọc Hoa, được lão vương quý mến cho ba con nhận lão Tôn làm thầy luyện tập võ nghệ, mượn ba cây binh khí của chúng tôi làm mẫu rèn. Không ngờ đêm khuya bị kẻ trộm lấy mất. Hôm sau chúng tôi đi tìm, hóa ra là con sư tử lông vàng thành tinh ở động Hổ Khẩu, núi Báo Đầu ăn trộm. Lão Tôn dùng kế lấy lại được. Nhưng yêu quái kéo một lô các loại sư tử thành tinh tới đánh nhau với lão Tôn. Trong số đó có một con sư tử chín đầu thần thông quảng đại, bắt mất cả sư phụ, Bát Giới và bốn cha con lão vương mang về nhốt trong động Cửu Khúc Bàn Hoàn núi Trúc Tiết. Hôm sau, lão Tôn và Sa Tăng tới tìm, cũng bị hắn ngoạm lấy bắt sống. Lão Tôn bị hắn trói chặt, đánh cho vô kể, may lão Tôn dùng phép trốn thoát, còn những người khác vẫn bị giam cầm trong đó. Khi lão Tôn hỏi tới thổ địa núi ấy, lão Tôn mới biết ngài là ông chủ của nó, nên hôm nay lão Tôn tới đây nhờ Thiên Tôn đi hàng phục yêu quái giải cứu sư phụ cho.

Thiên Tôn nghe xong lập tức sai người tới chuồng sư tử cho gọi người coi giữ sư tử tới hỏi. Lúc ấy người coi giữ sư tử vẫn đang ngủ say, mọi người lay mãi mới tỉnh, đoạn giải tới giữa sảnh đường. Thiên Tôn hỏi:
- Con sư tử ở đâu?

Người coi giữ sư tử nước mắt ròng ròng dập đầu lạy, mồm lắp bắp:

- Xin tha tội! Xin tha tội! Thiên Tôn nói:
- Ta nể Tôn Đại Thánh ở đây nên tạm tha đánh cho. Nhà ngươi phải nói ngay cho ta nghe vì sao nhà ngươi không cẩn thận để sổng mất con sư tử chín đầu?

Người coi giữ sư tử nói:

- Thưa ngài, hôm trước tôi nhìn thấy một bình rượu trong điện Đại Thiên Cam Lộ, tôi bèn lấy trộm, mang về uống, không ngờ say quá ngủ mê mệt, quên mất không khóa, khiến nó sổng mất.

Thiên Tôn nói:

- Bình rượu ấy là của Thái Thượng Lão Quân biếu ta, gọi là rượu “luân hồi quỳnh dịch”, nhà ngươi uống vào ba ngày cũng chưa tỉnh nổi. Thế con sư tử ấy bỏ đi được mấy ngày rồi?

Đại Thánh nói:

- Theo lời thổ thần, nó xuống đây từ năm kia, tới nay đã được ba năm rồi.

Thiên Tôn cười nói:

- Phải rồi! Phải rồi! Một ngày thiên cung bằng một năm hạ giới mà.

Đoạn bảo với người coi giữ sư tử:

- Cho nhà ngươi đứng dậy, ta tạm tha tội cho, mau đi theo ta và Đại Thánh xuống trần thu phục nó, còn những người khác ai về nhà nấy, không cần phải đi.

Thiên Tôn cùng người coi giữ sư tử và Đại Thánh lập tức
cưỡi mây xuống thẳng núi Trúc Tiết, đã thấy các thần Ngũ phương yết đế, Lục đinh. Lục giáp, thổ địa bản sơn quỳ xuống đón tiếp.

Hành Giả hỏi:

- Các ngài bảo hộ ở đây, vậy sư phụ ta có việc gì không? Các thần thưa:.
- Yêu quái buồn rầu đang ngủ, nên chưa sử dụng bất cứ hình phạt gì.

Thiên Tôn nói:

- Con Nguyên Thánh ấy của tôi cũng là hạng chân linh tu hành lâu ngày đắc đạo. Nó gầm lên một tiếng thì trên động tam thanh, dưới thấu cửu tuyền, bình sinh nó không hề hại một sinh linh nào. Tôn Đại Thánh, ngài hãy tới cửa động khiêu chiến, dụ nó ra đây để tôi bắt nó.

Hành Giả nghe lời, rút ngay gậy sắt, nhảy xuống cửa động hò hét:

-        Đồ yêu quái khốn kiếp, trả người của ta mau! Đồ yêu quái khốn kiếp kia, trả người của ta mau!

Gọi liền mấy tiếng, lão yêu vẫn ngủ, chẳng ai trả lời. Hành Giả điên tiết múa tít gậy sắt đánh vào trong động, miệng vẫn không ngớt hò hét. Lúc ấy lão yêu mới tỉnh dậy, nổi giận đùng đùng, chồm người lên, miệng hét:

- Đuổi đánh!

Đoạn lắc lắc cái đầu, mồm há hoác xông ra định ngoạm. Hành Giả co cẳng chạy liền. Yêu quái chạy ra ngoài quát mắng:

- Con khỉ khốn kiếp kia, chạy đi đâu? Hành Giả đứng trên vách đá cao cười nói:
-        Nhà ngươi dám to gan vô lễ đến thế kia à! Thật là cà
cuống chết đến đít còn cay! Kia không phải là ông chủ của nhà ngươi hay sao?

Yêu quái đuổi tới gần vách núi, bị ngay Thiên Tôn niệm chú rồi quát:

- Nguyên Thánh nhi! Ta đã tới đây!



Yêu quái nhận ra ông chủ, trở nên ngoan ngoãn, bốn chân phủ phục sát đất, dập đầu lia lịa. Người coi giữ sư tử đứng bên cạnh bước tới túm chặt lấy lông bờm, vỗ vỗ vào gáy nó, miệng mắng:

- Đồ súc sinh nhà ngươi, bỏ chạy đi đâu để ta phải bị phạt!

Sư tử ngậm miệng chẳng dám nói năng, không hề cựa quậy. Người coi giữ sư tử vỗ đến mỏi tay mới dừng lại, đoạn đặt chiếc yên gấm lên người nó. Thiên Tôn cưỡi lên, quát tháo nó chạy. Con thú tung người cưỡi trên đám mây ngũ sắc, nhẹ nhàng bay thẳng về cung Diệu Nham.

Đại Thánh ngẩng lên trời lạy cảm tạ, đoạn vào động cởi trói
cho Ngọc Hoa Vương, Đường Tăng, tiếp đến là Bát Giới, Sa Tăng và ba vương tử, sau đó thu nhặt tất cả các vật trong động, rồi đưa mọi người ra khỏi động. Bát Giới nhặt ít củi khô chất kín trước sau đoạn phóng hỏa đốt. Một tòa động phủ Cửu Khúc Bàn Hoàn phút chốc cháy trụi, Đại Thánh cho phép các thần ra về, giao cho thổ thần trấn thủ núi này, rồi ra lệnh cho Bát Giới, Sa Tăng trổ phép cõng cha con lão vương về châu thành, còn mình thì dìu Đường Tăng. Một lát sau, lúc trời vừa tối, mọi người đã về tới châu thành. Các quan viên lớn nhỏ, cùng các bà hậu phi đều ra nghênh đón bày biện cơm chay mời mọi người cùng ngồi ăn. Thầy trò Tam Tạng sau đó vào nghỉ ngơi trong đình Bộc Sa, mấy vương tử vào nghỉ trong cung. Một đêm trôi qua yên tĩnh.

Ngày hôm sau, lão vương lại ra lệnh mở tiệc chay lớn để khoản đãi thầy trò Đường Tăng và để các quan viên lớn nhỏ trong toàn thành tới tạ ơn thầy trò. Hành Giả bảo cho gọi bọn đồ tể tới mổ thịt sáu con sư tử bị bắt sống và đem cả thịt con sư tử vàng đã bị lột da nấu nướng để mọi người thưởng thức. Lão vương mừng lắm, lập tức ra lệnh mổ thịt một con để mọi người trong phủ dùng, một con trao cho quan trưởng sử vương phủ phân phát, còn năm con cắt thành từng miếng độ một hai lạng sai quan hiệu úy chia cho quan dân khắp trong ngoài châu thành, để mỗi người đều được nếm một miếng, một là được thưởng thức mùi vị, hai là để đè bớt sự sợ hãi. Mọi người trong thành ai nấy cảm tạ khôn xiết.

Lại nói chuyện mấy người thợ rèn đã rèn xong ba cây binh khí, trở vào dập đầu thưa với Hành Giả:

- Thưa ngài, chúng tôi đã rèn xong. Hành Giả hỏi:
- Mỗi cây nặng bao nhiêu? Đám thợ thưa:
- Cây gậy sắt nạm vàng nặng một nghìn cân, cây đinh ba chín mũi và cây bảo trượng hàng yêu mỗi cây đều nặng tám trăm cân.

Hành Giả nói:

- Được.

Bèn gọi ba vị vương tử tới nhận binh khí. Ba vương tử thưa với lão vương:

- Thưa phụ vương, hiện nay binh khí đã rèn xong. Lão vương nói:
- Vì mấy thứ binh khí này mà cha con ta suýt bỏ mạng. Tiểu vương tử nói:
- May nhờ có thần sư trổ pháp lực cứu thoát cha con ta, diệt trừ hết yêu tà, trừ xong hậu họa. Từ nay trở đi mới thật sự sống trong biển lặng, đất nước thanh bình.

Cha con lão vương khen thưởng đám thợ rèn, sau đó vào đình Bộc Sa bái tạ Đường Tăng. Tam Tạng giục bọn Hành Giả truyền thụ võ nghệ cho chóng kẻo nhỡ độ đường. Ba vương tử cầm binh khí luyện tập trong sân vương phủ, bọn Hành Giả cứ mỗi người dạy một người. Vài ngày sau, ba vương tử đã luyện tập thành thạo, các cách tiến thoái, các phép mau chậm, tất cả gồm bảy mươi hai miếng đều tinh thông. Một là do các vương tử bền lòng, hai là do Tôn Đại Thánh đã truyền cho thần lực từ trước, cho nên cây gậy nặng nghìn cân, cây đinh ba, bảo trượng nặng tám trăm cân, mấy vương từ đều múa may nhẹ nhàng nhanh nhẹn. Trình độ võ nghệ so với lúc đầu thật khác xa một trời một vực. Có bài thơ làm chứng rằng:

Nhân duyên gặp gỡ thần sư

Võ công tập luyện ai ngờ gặp tai.

Yêu ma quét sạch từ đây,
Quy y thiện quả cõi này định yên. Cửu linh số hợp nguyên dương,
Tinh thông bốn mặt đạo đường sáng soi.

Trao truyền tâm tính sáng ngời, Ngọc Hoa châu phủ đời đời yên vui.
Ba vương tử lại mở tiệc lớn cảm tạ công ơn sư phụ dạy dỗ, đoạn bưng ra một mâm vàng đầy gọi là tỏ chút lòng thành.

Hành Giả cười nói:

- Mau mau cất đi! Mau mau cất đi! Những người xuất gia chúng tôi dùng cái đó làm gì?

Bát Giới đứng bên cạnh nói:

- Vàng bạc quả thực chúng tôi chẳng dám nhận. Có điều là quần của chúng tôi bị bọn sư tử lôi kéo làm rách bươm cả. Các vương tử hãy may cho chúng tôi mỗi người một bộ quần áo là quý hóa lắm rồi.

Vương tử lập tức sai bọn thợ may mang ngay mấy tấm gấm xanh, gấm hồng, gấm nâu theo mẫu cắt may cho thầy trò mỗi người một bộ. Ba người vui vẻ nhận lấy, mặc ngay vào người, đoạn thu xếp hành lý chuẩn bị lên đường. Khắp trong châu thành lớn bé già trẻ ai nấy khen ngợi, gọi thầy trò là La Hán giáng trần, Phật sống hạ giới. Họ nổi trống khua chiêng, treo cờ khắp phố. Hai bên đường, nhà nhà đốt hương ngát, cửa cửa treo đèn lồng, mọi người đưa tiễn thầy trò một đoạn rất xa mới quay về.

Bốn thầy trò rời châu thành, tiếp tục lên đường sang Tây. Chuyến đi này thoát bọn sư tử quái, tâm chính quả dâng tràn. Thật là:

Chẳng nghĩ chẳng lo sang cõi Phật
Thành tâm thành ý đến Lôi Âm.

Cuối cùng không biết núi Linh Sơn còn cách mấy dặm đường, bao giờ mới tới nơi, xem hồi sau sẽ rõ
HỒI THỨ CHÍN MƯƠI MỐT




Phủ Kim Bình đêm nguyên tiêu xem xét


Động Huyền Anh Đường Tam Tạng khai cung




Tu thiền nhất định tốn công phu, Ý mã tâm viên thảy diệt trừ. Buộc chặt giữ bền sinh ngũ sắc, Lỏng lơi dừng lại rớt tam đồ. Thần đan tiết lậu do buông thả, Ngọc tinh khô gầy bởi chẳng tu. Hỉ nộ ưu tư đều quét sạch,
Giúp thành huyền diệu hợp hư vô.




Lại nói chuyện bốn thầy trò Đường Tăng rời thành Ngọc Hoa,
đường sá bằng phẳng, thật là cõi cực lạc. Đi chừng năm sáu ngày đường, thầy trò lại nhìn thấy một tòa thành trì. Đường Tăng bèn hỏi Hành Giả:


- Đây là vùng nào nhỉ?


Hành Giả thưa:


- Đây là một tòa thành trì, nhưng trên thành có cán mà không
có cờ, nên không biết là thành gì, cứ tới gần rồi hỏi sau.


Khi tới gần cửa Đông, thầy trò nhìn thấy phố xá, tiệm rượu tấp nập, hàng dầu hàng gạo ồn ào. Mấy kẻ phóng đãng nhàn cư vô sự thấy Bát Giới mõm dài, Sa Tăng mặt sắt, Tôn Hành Giả mắt lửa đều chen nhau xô đẩy xông vào xem, có điều bọn chúng chẳng dám tới gần hỏi han. Đường Tăng lau mồ hôi, lòng thắc thỏm chỉ sợ bọn họ gây sự. Thầy trò đi qua mấy phố nữa, mà vẫn chưa tới thành. Bỗng thầy trò lại nhìn thấy một tòa sơn môn, trên cổng có ba chữ “Chùa Từ Vân”, Đường Tăng nói:


- Ta vào đây cho ngựa nghỉ một chút và xin bữa cơm chay, các con thấy thế nào?


Hành Giả nói:


- Đúng! Đúng! Đúng!


Bốn thầy trò bước vào, chỉ thấy nơi đây:




Lầu son tráng lệ, Gác tía nguy nga. Phật các cao vút, Tăng phòng bao la.
Cây cao rợp bóng hồ luân tạng, Ráng đẹp vây quanh tháp phù đồ. Điện Đại Hùng mây tía chan hòa, Thật cung giả long miền tịnh thổ. Hành lang rộng rãi người vui vẻ, Cửa tháp mở toang đón khách thăm. Lò hương nghi ngút tỏa thơm lừng, Bàn thờ, bày đèn hoa phẩm quả.
Bỗng nghe phương trượng chuông gióng giả, Tăng nhân lễ Phật tụng chân kinh.


Bốn thầy trò đang ngắm nghía, bỗng thấy một hòa thượng từ
trong hành lang đi ra cúi lạy Đường Tăng hỏi:


- Trưởng lão từ đâu tới? Đường Tăng thưa:
- Đệ tử từ triều Đường bên Trung Hoa tới.


Hòa thượng kia vội cúi rạp xuống đất lạy. Đường Tăng hoảng
hốt đỡ dậy nói:


- Viện chủ cớ sao lại dùng đại lễ làm vậy? Hòa thượng chắp tay nói:
- Người chúng tôi đây đều làm việc thiện, niệm Phật tụng
kinh, chỉ mong được thác sinh vào nước Trung Hoa của trưởng lão, vừa rồi gặp gỡ, thấy trưởng lão áo mũ chỉnh tề, phong thái thung dung, chắc là kiếp trước tu đã trọn vẹn, nên kiếp này mới được hưởng thụ như vậy, cho nên tôi cúi lạy.


Đường Tăng cười nói:


- Không dám! Không dám! Đệ tử tôi chỉ là nhà sư hành cước,
nào có được hưởng thụ gì. Như viện chủ đây nhàn dưỡng tự tại mới là được hưởng phúc đó.


Hòa thượng mời Đường Tăng vào chính điện lạy tượng Phật, sau đó Đường Tăng mới gọi các đồ đệ vào. Nguyên bọn Hành Giả thấy hòa thượng kia trò chuyện với sư phụ thì cả bọn đều quay mặt đi, trông ngựa giữ đồ, đứng ra một góc, hòa thượng kia cũng chẳng để ý. Bây giờ nghe tiếng sư phụ gọi “đồ đệ”, cả ba người mới quay mặt lại. Hòa thượng kia trông thấy, sợ quá nói:


- Ngài ơi, đồ đệ gì mà mặt mũi xấu xí dữ tợn thế? Đường Tăng nói:
- Tuy xấu xí nhưng lại có nhiều pháp lực. Dọc đường tôi toàn
nhờ cậy bọn họ hộ vệ đấy.


Đang nói chuyện, lại thấy mấy hòa thượng từ bên trong đi ra
chắp tay chào. Vị hòa thượng lúc đầu nói với mấy hòa thượng đến sau:


- Vị trưởng lão này là người triều Đường nước Trung Hoa. Còn ba vị đây là đồ đệ.


Mấy vị hòa thượng vừa mừng vừa sợ hỏi:


- Trưởng lão từ Trung Hoa đại quốc tới có việc gì? Đường Tăng thưa:
- Tôi vâng thánh chỉ của vua Đường sang Linh Sơn bái Phật
cầu kinh, đi qua quý xứ ta, ghé vào bảo sái đây, một là hỏi thăm để biết địa phương này, hai là xin bữa cơm chay ăn xong sẽ đi ngay.


Mấy nhà sư nghe xong, ai nấy đều hoan hỉ mời thầy trò vào trong phương trượng. Trong phương trượng còn có mấy vị hòa thượng đang làm cơm chay cho mọi người. Vị hòa thượng vào trước cất tiếng gọi:


- Mấy vị ra mà xem người Trung Hoa này. Hóa ra người Trung Hoa cũng có người đẹp, người xấu. Người đẹp thì đẹp khó vẽ khó tả, người xấu thì cũng cổ quái cực kỳ!


Đông đảo các nhà sư và vị trai chủ đều bước ra đón tiếp. Làm lễ tương kiến xong, ai nấy an tọa. Mọi người cùng dùng trà, Đường Tăng bấy giờ mới hỏi:


- Quý xứ ta tên gọi là gì?
Các nhà sư đáp:


- Vùng chúng tôi là quận ngoài nước Thiên Trúc, tên gọi phủ
Kim Bình.


Đường Tăng hỏi tiếp:


- Từ quý xứ ta tới Linh Sơn còn độ bao xa? Các nhà sư đáp:
- Từ đây tới kinh đô khoảng hai nghìn dặm. Vùng đó chúng
tôi đã đi qua rồi. Còn đi sang Tây tới núi Linh Sơn thì chúng tôi chưa từng tới, không biết còn độ bao nhiêu đường đất, nên không dám trả lời.


Lát sau, cơm chay được dọn ra. Ăn xong, Đường Tăng muốn đi luôn, các nhà sư khẩn khoản giữ lại:


- Trưởng lão nán lại thêm một hai ngày nữa, qua ngày nguyên tiêu, thưởng thức cảnh tượng một chút có sao đâu.


Đường Tăng kinh sợ nói:


- Đệ tử dọc đường vượt qua bao núi bao sông, luôn sợ gặp
phải yêu ma quỷ quái, chẳng để ý tới quang âm vùn vụt, không biết bao giờ mới gặp cảnh “nguyên tiêu giai tiết”?


Các nhà sư cười nói:


- Trưởng lão chỉ tâm tâm niệm niệm bái Phật ngộ thiền, nên
không để ý tới điều đó. Hôm nay là ngày mười ba tháng giêng,
buổi tối sẽ làm lễ “thi đèn”, qua ngày kia là ngày rằm thượng nguyên, tới ngày mười tám, mười chín mới làm lễ “tạ đèn” cơ. Người vùng tôi ưa làm việc tốt, quan thái thú thì thương dân, các nơi đều treo đèn múa hát suốt đêm. Lại còn có cả “cầu đèn vàng” lưu truyền từ thượng cổ, tới nay càng đẹp lắm. Các ngài cứ nán lại vài ngày, chùa chúng tôi lo liệu khoản đãi.


Đường Tăng chẳng biết làm thế nào, đành nán lại. Tối hôm ấy đã nghe thấy tiếng chuông trống vang rền trên điện Phật. Hóa ra là thiện nam tín nữ khắp nơi tới dâng đèn lễ Phật. Đường Tăng và các đồ đệ đều ra ngoài phương trượng xem đèn. Sau đó mọi người đi ngủ.


Ngày hôm sau, các nhà sư trong chùa lại dâng cơm chay. Ăn xong mọi người đi dạo trong vườn sau ngắm cảnh. Quả là một nơi tuyệt đẹp. Chính là:



Thời đúng tháng giêng, Tiết vừa xuân mới. Vườn cây tươi mới, Cảnh vật thanh tân.
Suốt bốn mùa hoa cỏ tươi xanh, Thẳng một mạch núi non trùng điệp. Trước thềm cỏ non xanh mướt mướt,
Đầu cành mai nở ngát hương đưa.


Mơn mởn cành đào tơ, Mỡ màng hàng dương liễu.
Vườn Kim Cốc cảnh quan tuyệt diệu, Đình Cương Xuyên gió mát hây hây.
Một dòng suối chảy, chim rừng chao lượn đó đây, Muôn khóm thủy trúc, tao nhân tứ thơ lai láng.
Hoa thược dược, hoa mẫu đơn, hoa tử vi, hé cười duyên dáng,


Hoa sơn trà, hoa hồng mai, hoa nghênh xuân, hoa thụy hương diễm lệ xinh tươi


Vách non bông tuyết lất phất rơi, Cây xa khói tỏa vương xuân ý. Ven hồ hươu nhởn nhơ gặm cỏ,
Ngọn tùng hạc chao lượn nghe đàn. Đình đông, sảnh tây tân khách dừng chân, Quán nam, tháp bắc tăng nhân thiền định.
Thấp thoáng trong bóng cây hai lầu dưỡng tính, Chập chờn nơi sơn thủy vài chỗ luyện ma. Thật là nơi phong cảnh nên thơ,
Bồng Đảo, Doanh Châu còn tìm đâu nữa!




Bốn thầy trò thưởng lãm một ngày, hết xem đèn ở trên điện
lại đi xem rước đèn. Chỉ thấy:



Thành hoa mã não, Động tiên lưu ly.
Cung Thủy Tinh như gấm thêu hoa, Điện Vân Mẫu long lanh ngũ sắc. Bóng cầu sao đung đưa trời đất, Cây treo đèn đỏ rực gần xa.
Réo rắt tiếng đàn sáo sênh ca, Phố xá cửa nhà hương thơm ngát.
Thấp thoáng ngọn ngạo phong cao ngất, Lượn lờ đàn loan phượng thung dung.
Ánh đèn lồng long lanh, Khí hòa dâng lai láng.
Người nghe sênh ca vui nhộn, Ngựa xe bon chạy lanh canh.
Ngắm sao hết vẻ ngọc mạo hoa dung, Phong nhã hào hoa cảnh đèn tuyệt diệu!


Tam Tạng cùng các nhà sư trong chùa xem đèn xong lại đi
dạo chơi dọc các phố phía cửa đông, tới canh hai mới quay về chùa nghỉ.


Hôm sau, Đường Tăng nói với các nhà sư rằng:


- Đệ tử vẫn có lòng muốn được quét tháp, nhân hôm nay là
ngày thượng nguyên giai tiết, xin viện chủ mở cửa tháp cho đệ tử được toại nguyện.


Các nhà sư bèn mở cửa, Sa Tăng mở tay nải lấy tấm áo cà sa đưa cho Đường Tăng. Đường Tăng bước vào tầng một, khoác áo cà sa, thắp hương lễ Phật xong, bèn cầm cây chổi đót quét tầng thứ nhất, đoạn cởi cà sa đưa cho Sa Tăng, rồi quét tiếp tầng hai, tầng ba, từng tầng cho tới đỉnh tháp. Ngọn tháp này tầng nào cũng có tượng Phật, chỗ nào cũng có ô cửa sổ, Đường Tăng quét tới tầng nào lại thưởng lãm ngắm xem tầng đó. Quét xong bước xuống thì trời cũng vừa tối, đèn các nơi lại được thắp sáng trưng.


Đêm ấy chính là đêm nguyên tiêu rằm tháng giêng. Các nhà
sư nói:


- Thưa lão sư phụ, đêm qua chúng ta mới xem đèn ở trong chùa và ngoài cửa ô. Đêm nay mới là chính tiết, ta nên vào thành xem đèn vàng, lão sư phụ thấy thế nào?


Đường Tăng vui vẻ bằng lòng, cùng bọn Hành Giả và các nhà sư trong chùa vào thành xem đèn. Thật là:



Tiết lương tiêu xuân thắm, Ngày thượng nguyên gió hòa. Hoa đăng treo khắp nhà, Chốn chốn rộn đàn sáo.
Dọc phố đèn sáng rực, Giữa trời trăng bao la. Đèn như gấm thêu hoa, Trăng tựa mâm bạc trắng.
Đèn lồng trăng, lung linh vẻ sáng, Trăng rọi đèn, rực rỡ chan hòa. Ngắm sao hết cây trĩu đèn hoa,


Nhìn bất tận cầu sao óng ánh.


Đèn tuyết hoa, đèn mai hoa băng tan lóng lánh, Đèn tú bình, đèn họa bình năm sắc lung linh. Đèn hoa đào, đèn hoa sen trước ngõ treo lên, Đèn sư tử, đèn bạch tượng bên thềm buộc chặt. Đèn con tôm, đèn ba ba nhấp nha nhấp nháy, Đèn con dê, đèn con thỏ lộng lẫy tinh thần.
Đèn chim ưng, đèn chim phượng liền giải như thành, Đèn con hổ, đèn con ngựa như đi như diễu.
Đèn hạc tiên, đèn hươu trắng Thọ Tinh ngồi cưỡi, Đèn cá vàng, đèn cá kình Lý Bạch bay cao. Đèn ngạo sơn tựa thần tiên tụ hội giữa trời,
Đèn tẩu mã như võ tướng giao tranh giữa trận.


Muôn nghìn nhà đèn hoa lồng lộng, Vài dặm phố mây khói mông lung. Góc này yên ngọc gõ lanh canh,


Phía kia xe thơm lăn rộn rã.


Đám mỹ nữ vai chen vai, tay trong tay, rộn ràng hè phố, Cánh du nhân say túy lúy, cười khà khà, túm tụm bên cầu. Đầy thành tiếng đàn sáo ca lâu,
Suốt đêm giọng sênh ca dìu dặt.




Có bài thơ làm chứng rằng:




Giữa chốn phồn hoa hát hái sen, Trong miền cực lạc khách đua chen. Nguyên tiêu đêm đẹp đèn, trăng sáng, Gió thuận mưa hòa lúa tốt lên.


Lúc ấy chính là lúc quan Kim Ngô không cấm lửa, khắp nơi
một màu đỏ rực, cảnh vật vô cùng ngoạn mục, người xem tấp nập đông vui, chỗ này xướng ca, chỗ kia nhảy múa, kẻ đeo mặt nạ, người cưỡi ngựa voi, túm năm tụm ba, nhìn không chán mắt. Sau đó Đường Tăng và các nhà sư bước tới gần cầu đèn vàng ngắm nghía. Nguyên đó là ba cây đèn vàng. Mỗi cây đèn to bằng cái chum, ánh sáng lung linh chiếu sáng rực tới tầng lầu hai. Đèn được tết bằng những sợi vàng nhỏ xíu, bên trong được dát bằng những phiến ngọc lưu ly mỏng dính, ánh sáng rực rỡ
soi thấu tới tận cung trăng, mùi dầu thơm tỏa ra ngào ngạt. Đường Tăng hỏi các nhà sư:


- Cây đèn được thắp bằng thứ dầu gì mà mùi thơm ngát mũi như vậy?


Các nhà sư thưa:


- Lão sư phụ không biết đấy thôi. Phía sau phủ chúng tôi có
một huyện, tên gọi huyện Mận Thiên. Huyện rộng hai trăm bốn mươi dặm, tổng cộng có hai trăm bốn mươi hộ giàu có phải nộp dầu thắp đèn. Các việc phu dịch khác trong phủ huyện còn khả dĩ chứ các hộ lớn này phải chịu nặng nề lắm, mỗi nhà hàng năm phải tốn tới hơn hai trăm lạng bạc. Thứ dầu này không phải là thứ dầu thường, mà là thứ dầu thơm được chế ra bằng cách chưng cất giá một lạng dầu tới hai lạng bạc, một cân giá ba mươi hai lạng. Ba cây đèn, mỗi một phao gồm năm trăm cân, ba phao gần một nghìn năm trăm cân, tổng cộng mất bốn vạn tám nghìn lạng bạc. Ngoài ra còn tiêu pha vào những việc lặt vặt khác, cả thảy hết hơn năm vạn lạng, thế mà chỉ thắp có ba đêm thôi.


Hành Giả hỏi:


- Nhiều dầu như thế mà có ba đêm đã đốt hết cơ à? Các nhà sư đáp:
- Mỗi một phao dầu này có bốn mươi chín bấc đèn to, được
tết bằng cỏ, quấn lại bằng lụa, to bằng quả trứng gà. Đèn chỉ được thắp có một đêm nay thôi, khi nào đức Phật hiện thân rồi, thì đêm hôm sau dầu hết và đèn cũng tắt.


Bát Giới đứng cạnh cười nói:


- Hay là đức Phật lấy hết số dầu đi chăng? Các nhà sư nói:
- Đúng như vậy. Mọi người trong thành này từ cổ chí kim đều
nói như thế. Khi nào dầu hết rồi, mọi người nói rằng đó là Phật tổ thu đèn, thì năm ấy mùa màng bội thu. Năm nào dầu vẫn còn thì mất mùa đói kém, mưa gió trái thời, vì vậy mọi người ai cũng muốn dâng dầu.


Đang trò chuyện, bỗng nghe thấy tiếng gió thổi vù vù giữa tầng không, mọi người xem đèn sợ quá bỏ chạy tán loạn. Mấy nhà sư cũng run rẩy nói:


- Lão sư phụ nên quay về ngay thôi! Gió nổi là đức Phật giáng phàm xuống đây xem đèn đó.


Đường Tăng hỏi:


- Tại sao biết là đức Phật xuống xem đèn? Các nhà sư thưa:
- Hàng năm đều như vậy. Khoảng sắp sửa canh ba là có gió
nổi. Biết là đức Phật giáng phàm, ai nấy đều phải quay về trốn tránh tất.


Đường Tăng nói:
- Đệ tử tôi vốn là người chỉ biết thờ Phật, niệm Phật, lạy Phật mà thôi, nay gặp cảnh đẹp, lại có chư Phật giáng phàm, được tới đó mà lạy các ngài thì tốt biết bao nhiêu!


Các nhà sư nói mãi, Tam Tạng nhất định không về. Một lát sau quả thấy xuất hiện ba thân Phật ở giữa đám gió, Đường Tăng vội vàng chạy lên tới giữa cầu, cúi rạp mình xuống lạy. Hành Giả vội níu lấy Đường Tăng nói:


- Sư phụ, họ không phải là người tốt đâu! Nhất định là yêu quái đấy!





Vừa dứt lời đã thấy đèn tắt phụt, rồi nghe vèo một tiếng,
Đường Tăng đã bị ngọn gió cuốn đi mất. Than ôi! Chẳng biết là yêu quái động nào núi nào, mà hàng năm đóng giả là Phật tới xem đèn. Bát Giới hoảng hốt tìm khắp phải trái, Sa Tăng í ới gọi
ran trước sau. Hành Giả nói:


- Hai chú không phải gọi nữa. Sư phụ sướng quá sinh buồn, bị yêu quái cướp đi mất rồi.


Mấy vị hòa thượng sợ hãi hỏi:


- Các ngài ơi, làm sao các ngài biết là yêu quái cướp đi? Hành Giả cười nói:
- Các ngài chỉ là một lũ người phàm, đâu có biết, nên bị yêu
quái mê hoặc, một mực cho là đức Phật giáng phàm nhận lễ dâng đèn. Vừa rồi ba thân phật xuất hiện theo ngọn gió thổi tới chính là ba con yêu quái. Sư phụ ta chẳng nhận ra, chạy tới cầu dâng lễ, bọn chúng bèn thổi tắt đèn, trút hết dầu trong phao, và cuốn sư phụ ta đi luôn. Ta chỉ chậm có một tý, nên bọn chúng hóa ra làn gió trốn mất!


Sa Tăng nói:


- Sư huynh ơi, biết làm sao bây giờ? Hành Giả nói:
- Không được chậm trễ, hai chú cùng mọi người quay về chùa
trông ngựa giữ đồ, để lão Tôn đuổi theo ngọn gió ngay!


Đoạn Đại Thánh lộn vèo một cái, nhảy vút lên giữa tầng không,  ngửi  theo  mùi  tanh  hôi  của  ngọn  gió  đuổi  thẳng  về hướng đông bắc. Đuổi tới lúc trời tối, bỗng thấy làn gió dừng lại. Hành Giả nhìn thấy một quả núi lớn dựng đứng vô cùng
hiểm trở. Quả núi ấy:



























Núi non trùng điệp, Uốn lượn nhấp nhô. Dây mây bò vách đá, Tùng bách vút đôi bờ.
Hạc hót trong sương sớm, Nhạn lượn giữa mây tơ. Đỉnh non mũi kiếm dựng, Đá quái nằm chỏng chơ. Thăm thẳm cao ngàn dặm, Sừng sững lượn quanh co. Hoa nở hay xuân đến, Cuốc kêu biết hè qua.
Nhọn hoắt thêm hiểm trở, Gập ghềnh đường khó đi. Hồi lâu đứng lặng ngắm,


Hổ báo gầm vang xa. Hươu nai lượn đây đó, Cáo thỏ giỡn nhởn nhơ. Suối sâu vòng vạn dặm, Róc rách giữa đôi bờ.


Đại Thánh đứng trên vách đá đang tìm đường, bỗng thấy bốn
người đuổi theo ba con dê từ sườn núi phía tây tới, vừa đuổi vừa hò hét:


- Khai thái!


Đại Thánh đảo đôi mắt lửa ngươi vàng nhìn kỹ, nhận ra ngay
đó là bốn sứ giả Tứ trực công tào Năm, Tháng, Ngày, Giờ đang ẩn tượng hóa hình đi tới.


Tức thì Đại Thánh rút ngay gậy sắt múa tít, to bằng miệng bát, dài chừng trượng hai, từ trên vách núi nhảy xuống quát lớn:


- Các ngươi co đầu rụt cổ đi đâu?


Bốn vị Tứ trực công tào thấy Hành Giả giận dữ, thì sợ quá,
quát đuổi ba con dê hiện nguyên hình bản tướng, nép vào bên đường cúi chào:


- Xin Đại Thánh tha tội! Xin Đại Thánh tha tội!
Hành Giả nói:


- Lâu lắm ta chưa đụng tới các ngươi, các ngươi thấy lão Tôn
khoan dung đâm ra lười biếng. Trông thấy ta không chào ngay còn nói lôi thôi cái gì? Giờ đây các ngươi sao không ngầm đi bảo vệ sư phụ ta, lại còn dắt nhau đi đâu thế kia?


Công tào thưa:


- Sư phụ ngài lỏng lơi Thiền tính, ham cuộc vui ở chùa Từ
Vân phủ Kim Bình, vậy nên thái cực sinh bỉ, lạc thịnh sinh bi, bị yêu quái bắt mất. Hiện giờ bên cạnh người đã có Hộ pháp Già lam bảo vệ rồi, còn chúng tôi biết Đại Thánh đang đêm đuổi theo ngay, e Đại Thánh không thông thạo rừng núi ở đây, vội tới báo cho biết.


Hành Giả nói:


- Các ngươi đã tới báo, tại sao lại còn ẩn tính mai danh đuổi
ba con dê, hò hét loạn xạ làm vậy?


Công tào thưa:


- Ba con dê là để ứng với câu “khai thái”, gọi là “tam dương
khai thái”, phá trừ bĩ vận cho sư phụ của Đại Thánh.


Hành Giả hầm hầm toan đánh, nghe thấy nói như vậy bèn tha cho, thu gậy sắt, đổi giận làm vui hỏi:


- Tòa núi này là sào huyệt của yêu quái à? Công tào thưa:


- Thưa vâng. Ngọn núi này tên gọi núi Thanh Long. Trong
núi có động tên gọi động Huyền Anh. Động có ba yêu quái: Tên lớn là Tỵ Hàn đại vương, tên thứ hai là Tỵ Thử đại vương, tên thứ ba là Tỵ Trần đại vương. Bọn chúng đã sống ở đây đến nghìn năm rồi. Từ nhỏ bọn chúng đã thích ăn thứ dầu thơm chế bằng cách chưng cất đó, lâu ngày thành tinh, tới đây giả trang đức Phật, lừa dối quan dân phủ Kim Bình lập ra đèn vàng, mà dầu thắp đèn phải dùng thứ dầu thơm ấy. Hàng năm cứ đêm rằm tháng giêng bọn chúng biến thành Phật tượng tới lấy dầu. Năm nay bọn chúng gặp sư phụ của Đại Thánh, biết sư phụ là thánh tăng, bèn bắt ngay sư phụ về động, chẳng mấy chốc sẽ cắt nhỏ thịt sư phụ rồi rán bằng thứ dầu thơm đó mà chén. Đại Thánh phải mau mau cố sức mới cứu thoát được sư phụ.


Hành Giả nghe xong quát đuổi bốn vị Tứ trực công tào, đoạn nhảy qua sườn núi tìm tòa động phủ. Đi được vài dặm, Hành Giả nhìn thấy bên bờ suối một vách đá, dưới vách đá là một tòa động, hai tấm cửa đá nửa khép nửa mở. Bên cửa có dựng một tấm bia, trên viết sáu chữ “động Huyền Anh núi Thanh Long”. Hành Giả chẳng dám đường đột bước vào, chỉ đứng vững rồi cất tiếng gọi:


- Yêu quái! Mau mau mang sư phụ ra trả ta!


Phía bên kia nghe kẹt một tiếng, cánh cửa động mở toang ra,
một đàn yêu tinh đầu trâu chạy ra ngơ ngơ ngác ngác hỏi:


- Nhà ngươi là ai mà dám tới đây hò hét? Hành Giả nói:
- Ta là đồ đệ cả của thánh tăng Đường Tam Tạng nước Đại Đường bên phương Đông, dọc đường qua phủ Kim Bình xem đèn, sư phụ ta bị đại vương nhà ngươi bắt đi. Các ngươi hãy mau mau mang sư phụ ra trả ta thì ta tha chết cho! Bằng không ta sẽ đạp đổ sào huyệt, đập nát bọn ngươi như cám!


Bọn tiểu yêu nghe xong, vội vàng chạy vào báo:


- Thưa đại vương, tai họa rồi!


Ba lão yêu đang lôi Đường Tăng vào tít đáy động, chẳng
thèm hỏi đầu cua tai nheo, sai ngay bọn tiểu yêu lột hết quần áo, lấy nước trong tắm rửa sạch sẽ, định thái nhỏ băm nát, bỏ vào dầu thơm rán chén. Bọn chúng bỗng nghe tiếng “tai họa”, lão yêu cả sợ hãi, hỏi duyên cơ gì. Bọn tiểu yêu thưa:


- Phía cửa trước có một hòa thượng mặt đầy lông lá, mõm như thiên lôi đang la lối rằng đại vương bắt mất sư phụ của hắn, phải trả hắn ngay thì hắn tha chết cho. Bằng không sẽ đạp đổ động phủ, đập nát chúng ta như cám.


Bọn lão yêu nghe xong đều sợ hãi nói:


- Bọn ta vừa mới bắt tên này về, còn chưa kịp hỏi hắn tên tuổi
lai lịch ra sao. Bọn nhỏ, đưa quần áo cho hắn mặc, rồi giải hắn lại đây, bắt hắn khai xem hắn là ai, từ đâu tới.


Bọn tiểu yêu ùa cả lại, cởi trói cho Đường Tăng, mặc quần áo vào cho, đoạn lôi tới trước tòa. Đường Tăng sợ quá run như cầy sấy, quỳ mọp xuống đất van xin:


- Đại vương tha tội cho! Tha tội cho!


Ba yêu quái đồng thanh hỏi:


- Nhà ngươi là hòa thượng từ phương nào tới? Tại sao thấy
Phật tượng lại không tránh, dám cản trở đường mây của chúng ta?


Đường Tăng dập đầu thưa:


- Bần tăng là người nước Đại Đường bên phương Đông, vâng
lệnh nhà vua sang chùa Đại Lôi Âm nước Thiên Trúc bái Phật cầu kinh dọc đường nhân đi qua phủ Kim Bình, vào chùa Từ Vân xin cơm chay, được các nhà sư trong chùa giữ lại xem đèn đêm nguyên tiêu, bần tăng đang đứng trên cầu đèn vàng bỗng thấy đại vương hiển hiện Phật tượng, bần tăng người trần mắt thịt, thấy Phật bèn lạy, nên làm trở ngại tới đường mây của đại vương.


Bọn yêu quái quát:


- Nhà ngươi từ phương Đông tới đây đường sá xa xôi vậy cả
bọn gồm mấy người? Tên họ chúng là gì? Hãy mau mau khai thực ra thì ta tha chết cho!


Đường Tăng thưa:


- Bần tăng tên tục là Trần Huyền Trang, từ nhỏ đã tu ở chùa
Kim Sơn, về sau được hoàng đế sắc phong cho làm tăng quan ở chùa Hồng Phúc tại Tràng An. Rồi một hôm nhân thừa tướng Ngụy Trưng nằm mộng chém Long vương Kinh Hà, vua Đường phải xuống chơi địa phủ, sau đó hồi sinh trở lại dương thế, ngài bèn mở đại hội thủy lục siêu độ cho các âm hồn. Vua Đường lại
giao cho bần tăng làm đàn chủ, đại xiển đô cương. May mắn có đức Quan Âm Bồ Tát xuất hiện, chỉ giáo cho bần tăng rằng ở chùa Đại Lôi Âm bên phương Tây có ba tạng chân kinh, có thể siêu độ cho các vong hồn lên trời, nhà vua bèn sai bần tăng đi lấy. Nhân vậy, vua Đường ban tên cho là Tam Tạng, lại ban cho họ Đường, vì thế mọi người gọi bần tăng là Đường Tam Tạng. Bần tăng có ba đồ đệ. Đồ đệ cả họ Tôn, tên là Ngộ Không Hành Giả, là Tề Thiên Đại Thánh đã quy y.


Bọn yêu quái nghe vậy, giật mình hỏi:


- Có phải Tề Thiên Đại Thánh năm trăm năm trước đại náo
thiên cung không?


Đường Tăng đáp:


- Chính phải, chính phải. Đồ đệ hai họ Trư, tên là Ngộ Năng
Bát Giới, tức là Thiên Bồng đại nguyên soái giáng phàm. Đồ đệ ba họ Sa, tên là Ngộ Tĩnh Hòa Thượng, tức là Quyển Liêm đại tướng hạ giới.


Ba yêu vương nghe xong, tên nào tên nấy sợ hãi nói:


- May mà chưa chén thịt hắn. Bọn nhỏ, lôi Đường Tăng ra
đằng sau, lấy khóa sắt khóa lại, đợi khi nào bắt gọn cả ba tên kia rồi chén một thể.


Đoạn điểm hết bọn yêu tinh trâu rừng, trâu nước, bò vàng, binh khí trong tay, ra cả ngoài cửa phất cờ gióng trống.


Ba yêu vương nai nịt gọn ghẽ, bước ra ngoài cửa cất tiếng quát:


- Nhà ngươi là ai mà dám tới cửa ta quát tháo?






Hành Giả nép vào vách đá nhìn kỹ, thấy yêu quái:




Mặt phấn mắt tròn xoe, Hai sừng cong dài ghê. Bốn tai vểnh nhọn hoắt, Mắt chơm chớp sáng lóe.
Một khoáy hoa văn như đồ họa,







Một tên: Một tên: Một tên:

Khắp người đẹp tựa gấm thêu hoa











Đầu đội mũ da cừu ấm áp, Mặt vênh lên sát khí đằng đằng.








Mình choàng lụa mỏng bay phơ phất, Bốn chân lốm đốm ngọc lung linh.








Oai hùng gầm thét vang như sấm, Răng nhọn chìa ra sắc tựa dùi. Tên nào tên ấy nom hùng dũng, Binh khí lăm lăm chẳng sợ ai. Một tên sử một cây búa nặng, Một tên sử một lưỡi đại đao.
Còn tên kia, bạn ơi coi thử, Vắt vẻo bên vai một sợi hèo.


Lại thấy cả một bọn tiểu yêu lớn nhỏ cao lùn gầy béo toàn là
loại yêu quái đầu trâu, lăm lăm thương gậy. Thấy cả ba lá cờ to, trên cờ thêu rõ ràng hàng chữ “Tỵ Hàn đại vương”, “Tỵ Thử đại vương” và “Tỵ Trần đại vương”. Tôn Hành Giả quan sát hồi lâu, không nhịn nổi nữa, bước tới quát vang:


- Đồ yêu quái ăn cướp khốn kiếp kia có nhận ra lão Tôn không?


Yêu quái quát lại:


-  Nhà  ngươi  là  Tôn  Ngộ  Không  đại  náo  thiên  cung  phải
không? Quả mới nghe tiếng mà chưa nhìn mặt. Nhìn mặt mới biết là xấu xí quá chừng! Nhà ngươi chẳng qua cũng chỉ là con khỉ hồ tôn mà thôi!


Đại Thánh càng quát vang:


- Đồ yêu quái khốn kiếp kia, đồ ăn trộm dầu, mồm mép trơn
như mỡ, chớ có nói lôi thôi, mang trả sư phụ ta ngay!


Đoạn xông tới, múa gậy sắt đánh liền. Ba lão yêu cũng vung binh khí đón đỡ. Trận đánh nhau quyết liệt diễn ra ngay giữa thung lũng:



Búa nặng cương đao lẫn sợi mây,
Hầu Vương một gậy quyết ra tay.


Tỵ Hàn, Tỵ Thử, Tỵ Trần quái, Biết rõ Tề Thiên Đại Thánh này. Gậy nện quỷ thần đều sợ hãi,
Búa vung đao chém sợi mây quay. Hỗn nguyên có phép chân không tượng, Đánh với ba yêu giả Phật này.
Yêu quái trộm dầu nay xuống phạm, Bắt ngay hòa thượng tính sao đây.
Một kẻ: Quen thói hàng năm dầu xuống trộm, Một người: Chẳng quản đường xa quyết cứu thầy. Binh khí va nhau kêu loảng xoảng,
Tiếng gậy vèo vèo nhận rõ ngay.


Hùng hùng hổ hổ ba vây một, Thần thông võ nghệ quyết ra tay. Đánh nhau một thoáng trời sầm tối,
Chưa rõ ai thua ai được đây.




Hành Giả đánh nhau với ba yêu quái chừng năm trăm mười
hiệp thì trời đã sập tối mà thắng bại chưa phân. Bỗng thấy tên Tỵ Trần đại vương vung sợi roi mây loáng một cái, nhảy tới trước trận phất phất cây cờ, lập tức một đàn yêu quái đầu trâu ào cả lên, vây chặt Hành Giả vào giữa, tên nào tên ấy múa tít binh khí đánh loạn xạ. Hành Giả thấy cơ sự bất lợi, vội vàng nhảy vèo lên mây, thua trận bỏ chạy. Yêu quái không đuổi theo, thu bọn tiểu yêu quay về động dọn cơm ăn uống, đoạn lại sai một tên tiểu yêu đem cho Đường Tăng một bát cơm, đợi khi nào bắt được Hành Giả sẽ ăn thịt cả thể. Sư phụ một là chỉ chuyên ăn trường chay, hai là đang lo buồn, nên chỉ khóc rưng rức chẳng hề chạm môi. Chuyện không nói nữa.


Lại nói chuyện Hành Giả cưỡi mây bay về chùa Từ Vân cất tiếng gọi:


- Sư đệ ơi!


Bát Giới, Sa Tăng đang bàn tán chờ đợi, nghe tiếng gọi, chạy
ùa cả ra đón hỏi:


- Anh ơi, sao anh đi suốt một ngày bây giờ mới về? Việc cứu sư phụ thế nào?


Hành Giả cười nói:


- Đêm qua, theo vệt gió, tôi đuổi theo cho tới lúc trời tối, tới
một quả núi thì không thấy chúng đâu nữa. May có Tứ trực công tào tới bảo cho biết rằng đó là núi Thanh Long. Trong núi có
động Huyền Anh. Trong động có ba yêu quái là Tỵ Hàn đại vương, Tỵ Thử đại vương và Tỵ Trần đại vương. Hóa ra là chính bọn chúng hàng năm tới đây ăn trộm dầu, biến thành Phật giả, lừa dối quan dân phủ Kim Bình. Năm nay chúng tới gặp phải chúng ta, chẳng kể hay dở, bắt ngay sư phụ mang đi. Lão Tôn đã nắm chắc mọi lẽ, dặn dò công tào ngấm ngầm bảo vệ sư phụ, đoạn tới tận cửa quát mắng. Ba yêu quái đều xông ra, trông chúng chẳng khác bọn quỷ đầu trâu. Một tên sử một chiếc búa to, một tên sử cây đại đao, còn tên kia sử chiếc gậy mây. Sau đó bọn chúng kéo hết bọn quỷ quái đầu trâu cả động ra phất cờ gióng trống đánh nhau với lão Tôn suốt một ngày bất phân thắng bại. Rồi tên yêu vương đó lại phất cờ, xua bọn tiểu yêu xông ra. Ta thấy trời tối, e khó thắng được chúng, bèn nhảy lên mây bay về.


Bát Giới nói:


- Hay là bọn quỷ vương dưới thành Phong Đô náo động
chăng?


Sa Tăng hỏi:


- Tại sao anh lại đoán là bọn quỷ vương thành Phong Đô? Bát Giới cười nói:
- Anh cả vừa nói là bọn quỷ quái đầu trâu, nên tôi đoán thế! Hành Giả nói:
- Không phải! Không phải! Cứ như ý lão Tôn sau khi đã nhìn
thấy bọn chúng thì chúng chỉ là ba con tê giác thành tinh mà
thôi.


Bát Giới nói:


- Nếu là tê giác thì bắt về cưa sừng, bán ít ra cũng được vài
lạng bạc đấy.


Đang trò chuyện thì các nhà sư bước ra hỏi:


- Thưa Tôn trưởng lão, ngài đã dùng bữa tối chưa ạ? Hành Giả nói:
- Tiện thì ăn tí chút, không ăn cũng chẳng sao. Các nhà sư nói:
- Ngài đánh nhau suốt một ngày lại không đói à? Hành Giả cười nói:
- Có một ngày đánh nhau làm gì đã đói! Lão Tôn đã từng năm
trăm năm không ăn uống tí gì kia!


Các nhà sư không biết chuyện, chỉ cho là Hành Giả nói vui. Một lát sau, mâm cơm được mang lại. Hành Giả cũng ăn chút ít, đoạn nói:


- Các ngài sửa soạn đi ngủ đi, đợi ngày mai tôi sẽ đi đánh nhau, bắt bọn yêu vương cứu sư phụ về.


Sa Tăng đứng cạnh nói:


-  Anh  nói  gì  thế!  Thường  có  câu:  “Nhanh  tay  hơn  hay
thuốc”[321]  nhỡ ra yêu quái đêm nay không ngủ, hại mất sư phụ thì làm sao? Không bằng đi luôn bây giờ, hò hét khiến chúng trở tay không kịp thì mới cứu được sư phụ. Chậm trễ e hỏng mất.


Bát Giới nghe vậy cũng phấn chấn tinh thần nói:


- Chú Sa nói chí phải! Chúng ta nhân trăng sáng đi hàng yêu
luôn thôi!


Hành Giả nghe lời, dặn dò các nhà sư trong chùa:


- Các ngài trông ngựa giữ đồ hộ để chúng tôi đi bắt yêu quái
về, để cho quan thứ sử bản phủ biết đó là Phật giả mà bỏ lệ hiến dầu, đỡ cho dân nghèo nỗi khổ sở, thế không phải là điều hay sao?


Các nhà sư vâng lời. Ba người bèn nhảy vút lên mây, rời thành đi luôn. Thế mới thật là:



Lười biếng buông tuồng Thiền tính loạn


Tai ương xảy đến đạo tâm mờ.




Cuối cùng không biết chuyến đi này thắng bại ra sao, xem hồi
sau sẽ rõ.


HỒI THỨ CHÍN MƯƠI HAI Ba sư đại chiến núi Thanh Long Bốn sao vây bắt quái tê giác
Lại nói chuyện Tôn Đại Thánh cùng với hai sư đệ cuốn gió
băng mây bay thẳng về hướng đông bắc, trong khoảnh khắc đã tới cửa động Huyền Anh núi Thanh Long, hạ mây bước xuống. Bát Giới muốn phá cửa động ngay. Hành Giả nói:

- Khoan đã. Để tôi vào xem sư phụ sống chết ra sao, rồi đánh nhau với chúng sau.

Sa Tăng nói:

- Cửa đóng chặt lắm, vào sao được? Hành Giả nói:
- Tôi có pháp lực.

Đoạn Đại Thánh thu gậy, bắt quyết niệm chú, hô “biến!”, lập tức biến thành một con đom đóm thật là lanh lợi. Bạn nhìn xem:

Dang cánh như sao nhấp nháy, Nguyên do cỏ mục biến thành. Thần thông biến hóa tinh nhanh, Lập lòe đã thành tính sẵn.
Bay gần cửa động nhìn ngắm, Chui qua khe cửa lọt vào. Một mạch bay tít động sâu, Thăm dò yêu tinh động tĩnh.
Hành Giả bay vào chỉ thấy mấy con yêu quái đầu trâu ngủ lăn lóc, con nào con nấy ngáy vang như sấm. Vào tới nhà giữa cũng chẳng thấy động tĩnh gì, bốn cửa thông với nhau, chẳng biết ba yêu quái ngủ ở chỗ nào, Hành Giả bèn bay qua phòng trong, vào đằng sau xem xét, bỗng nghe thấy tiếng khóc. Hóa ra là Đường Tăng đang bị khóa giam ở dưới thềm phòng sau. Tam Tạng khóc rằng:

Mấy năm từ biệt Tràng An, Trèo non lội suối gian nan bao lần. Cõi Tây vừa lúc đặt chân,
Phủ Kim Bình, đúng ngày rằm tháng giêng.

Nào hay Phật giả xem đèn,

Chỉ than số phận lẫn liền tai ương.

Đồ đệ ơi, gắng tìm phương,

Thần thông trổ phép thoát đường hiểm nguy.

Hành Giả nghe thấy thế trong lòng mừng lắm, liền bay lại gần sư phụ. Đường Tăng gạt nước mắt nói:

- Trời ơi, khí hậu Tây phương thật là khác thường! Mới có tháng giêng mà côn trùng đã động, đom đóm đã bay ra rồi?

Hành Giả nhịn không nổi, cất tiếng gọi:

- Sư phụ ơi, con đã đến đây! Đường Tăng mừng quýnh nói:
- Ngộ Không ơi, ta vừa nói mới tháng giêng mà đã có đom đóm, hóa ra là con đó à?

Hành Giả hiện nguyên bản tướng nói:

- Sư phụ ơi, chỉ tại sư phụ chẳng nhận rõ thật giả, làm lỡ mất bao nhiêu độ đường, uổng phí mất bao nhiêu sức lực. Con đã nói
là người xấu, sư phụ sao cúi gập người xuống lạy, bọn chúng tắt phụt ngọn đèn, trút hết dầu thơm rồi bắt luôn cả sư phụ đi. Con vội vàng dặn dò Bát Giới, Sa Tăng quay về chùa trông ngựa giữ đồ, để mặc mình con ngửi theo vết gió đuổi chúng tới đây. Con đang không biết đây là vùng nào, thì may gặp bốn vị công tào bảo cho biết rằng đây là núi Thanh Long, động Huyền Anh. Con đánh nhau với yêu quái suốt một ngày, mãi lúc trời tối mới quay về, nói rõ mọi việc cho Bát Giới, Sa Tăng biết, đoạn chẳng ngủ nghê, cùng hai chú ấy đi luôn tới đây. Con sợ đêm khuya chẳng tiện đánh nhau, vả lại cũng chưa biết tình hình sư phụ ra sao, bèn biến thành con đom đóm bay vào đây nghe ngóng cái đã.

Đường Tăng mừng lắm hỏi:

- Bát Giới, Sa Tăng hiện cũng đang ở ngoài à? Hành Giả đáp:
- Vâng, ở cả bên ngoài. Vừa rồi lão Tôn quan sát thấy bọn yêu quái ngủ cả, bây giờ con mở khóa, mở cửa đưa sư phụ ra nhé!

Đường Tăng gật đầu cảm tạ.

Hành Giả dùng phép cởi khóa, xoa tay một cái, cần khóa đã tuột ra, rồi đưa sư phụ chạy ra ngoài. Bỗng nghe thấy tiếng yêu vương từ phòng trong của ngôi nhà giữa nói vọng ra:

- Bọn nhỏ, đóng chặt cửa lại, phải để ý đèn đóm. Mà sao vừa rồi chẳng thấy đổi gác, chiêng mõ cũng chẳng thấy gõ gì cả?

Hóa ra bọn tiểu yêu đánh nhau suốt ngày vất vả mệt nhọc cũng lăn ra ngủ, nghe tiếng lão yêu gọi, bọn chúng mới tỉnh dậy cầm binh khí, gõ chiêng gõ mõ, vài tên từ đằng sau đi ra, đụng ngay phải hai thầy trò, bèn la rầm rĩ lên:

- Hòa thượng kia giỏi nhỉ! Dám mở khóa chạy đi đâu?

Hành Giả chẳng nói chẳng rằng, rút ngay gậy sắt múa tít, cây
gậy to ngang bằng cái miệng bát, rồi đánh chết tươi hai tên tiểu yêu. Bọn còn lại quẳng khí giới, chạy xô cả vào nhà giữa, gõ cửa gọi:

- Đại vương ơi, hỏng rồi! Hỏng rồi! Có lão hòa thượng mặt lông lọt vào nhà giết người!

Ba yêu quái nghe thấy thế, chồm ngay dậy hô hoán:

- Bắt lấy nó! Bắt lấy nó!

Đường Tăng sợ quá, chân tay bủn rủn, Hành Giả cũng đành bỏ cả sư phụ, mở đường gậy đánh thốc ra ngoài. Bọn tiểu yêu ngăn chẳng nổi bị Hành Giả đánh gục vài đứa, phá tung mấy tầng cửa, phóng thẳng ra ngoài, cất tiếng gọi:

- Hai chú đâu rồi?

Bát Giới, Sa Tăng đang chống đinh ba, bảo trượng đứng đợi vội hỏi lại:

- Anh ơi, thế nào rồi?

Hành Giả đem chuyện biến hóa cứu sư phụ, đang đi bị yêu quái phát giác, phải bỏ cả sư phụ chạy ra ngoài kể hết một lượt. Chuyện không nói nữa.

Yêu vương lại trói chặt Đường Tăng, lấy khóa sắt khóa lại như cũ, đoạn vung đao múa búa, đốt đèn sáng rực hỏi:

- Nhà ngươi mở khóa như thế nào? Con khỉ ấy làm thế nào vào được đây? Mau mau khai ra thì ta tha chết cho! Bằng không chỉ chém một đao đứt làm hai đoạn!

Đường Tăng sợ quá, run rẩy quỳ xuống nói:

- Thưa ngài đại vương, đồ đệ của tôi là Tôn Ngộ Không biết bảy mươi hai phép biến hóa, vừa rồi biến thành con đom đóm bay vào cứu tôi, không ngờ đại vương biết, lại đụng phải các tiểu đại vương, đồ đệ tôi chẳng kể hay dở, giết chết hai người,
những người khác hô hoán ầm ĩ, đốt đèn sáng rực, hắn đành bỏ mặc tôi, chạy ra ngoài.

Ba yêu vương ha hả cười ngất nói:
- May mà phát giác sớm, nên nhà ngươi không chạy thoát. Đoạn ra lệnh cho bọn tiểu yêu đóng chặt các cửa sau cửa
trước và không được làm huyên náo nữa.

Ở bên ngoài, Sa Tăng nói:

- Cửa đóng và im ắng thế kia, hay là sư phụ bị hại ngầm rồi chăng? Chúng ta phải động thủ ngay thôi!

Hành Giả nói:

- Phải đấy. Phá cửa mau!

Chú ngốc trổ hết thần thông vung đinh ba bổ xuống, tấm cửa đá nát vụn, đoạn lớn tiếng chửi:

- Đồ yêu quái ăn trộm dầu kia, mau mang trả sư phụ cho ta ngay!

Bọn tiểu yêu trong cửa sợ quá, vội chạy vào báo:

- Thưa đại vương, nguy rồi! Nguy rồi! Cửa trước đã bị một hòa thượng phá vỡ!

Ba yêu vương tức giận nói:

- Tên này thực vô lễ!

Đoạn nai nịt gọn ghẽ, cầm chắc binh khí dẫn bọn tiểu yêu ra cửa nghênh địch. Lúc này vào khoảng canh ba trăng sáng vằng vặc như ban ngày. Ba yêu vương vừa ra khỏi cửa, chẳng thèm nói năng, vung binh khí đánh liền. Hành Giả ngăn cây búa nặng, Bát Giới gạt cây đại đao, Sa Tăng đỡ cây gậy mây. Trận đánh rất dữ dội:

Ba hòa thượng, ba loại binh khí,
Ba yêu ma đó tung hoành kém ai.

Búa đao với ngọn mây dài, Đánh nhau loạn xạ bên tai vù vù. Lúc đầu trời thảm âm u,
Thoắt sau sáng đẹp tít mù trời xanh.

Đinh ba che kín bên mình,

Gậy sắt loang loáng thần kinh quỷ sầu.

Bảo trượng rất đỗi cơ mầu,

Song yêu quái cũng cứng đầu gớm ghê.

Búa kia lưỡi sắc sáng lòe,

Sợi mây múa tít như se quanh người.

Đại đao phơi phới mưa rơi,

Bên là hòa thượng, bên loài yêu ma.

Bên này quyết cứu thầy ra, Bên kia quyết giữ để mà rán ăn. Gậy lao búa bổ ầm ầm,
Đinh ba vùn vụt, đao đâm ào ào. Gậy mây, bảo trượng bổ nhào, Tiến lui đánh đỡ ai nào kém a!
Ba sư, ba quái đánh nhau một hồi lâu bất phân thắng bại. Thấy thế, Tỵ Hàn đại vương hét vang:

- Bọn nhỏ, xông lên!

Lũ tiểu yêu tay cầm chắc binh đao nhất tề xông vào, đánh Bát Giới ngã quay ra đất, mấy con yêu quái trâu nước lôi lôi kéo kéo, trói nghiến Bát Giới lại khiêng vào trong động. Sa Tăng chẳng nhìn thấy Bát Giới đâu, chỉ thấy một lũ trâu mộng hò hét,
tức thì vung bảo trượng đánh dứ Tỵ Trần đại vương một miếng rồi bỏ chạy, nhưng bị bọn tiểu yêu vây chặt lấy, kéo ngã ngửa không sao giãy giụa nổi, rồi cũng bị chúng trói nghiến lại. Hành Giả thấy bất lợi, vội vàng nhảy vút lên mây tẩu thoát.

Lát sau Bát Giới và Sa Tăng được kéo tới trước mặt Đường
Tăng. Đường Tăng thấy vậy, nước mắt đầm đìa nói:

- Hai con gặp tay độc thủ rồi, thương quá! Thế Ngộ Không đâu?

Sa Tăng thưa:

- Sư huynh thấy chúng con bị bắt, bỏ chạy rồi. Đường Tăng nói:
- Hắn mà chạy, chắc sẽ đi cầu cứu ở đâu đó. Có điều chúng ta chẳng biết đến bao giờ mới thoát nạn.

Thầy trò cùng nhau khóc lóc thảm thiết. Chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện Hành Giả nhảy lên mây chạy thoát về chùa Từ
Vân. Các nhà sư trong chùa chạy ra đón hỏi:

- Có cứu được Đường trưởng lão không? Hành Giả đáp:
- Khó quá! Khó quá! Yêu quái thần thông quảng đại, ba anh em chúng tôi đánh nhau với ba yêu quái một hồi lâu, bị chúng gọi bọn tiểu yêu ra bắt mất Bát Giới, Sa Tăng, còn mình lão Tôn may mà chạy thoát.

Các nhà sư sợ hãi nói:

- Ngài biết đi mây về gió mà còn chịu thua, thì lão sư phụ sẽ bị chúng ăn thịt mất.

Hành Giả nói:
- Không ngại! Không ngại! Sư phụ tôi đã có các thần Già lam, Yết đế, Đinh giáp ngấm ngầm bảo vệ. Hơn nữa người đã từng được ăn thảo hoàn đơn, tính mạng chắc không hề gì. Có điều yêu quái bản lĩnh cao cường quá. Các ngài cứ trông giùm tôi ngựa và hành lý nhé, để lão Tôn lên trời cầu viện binh.

Các nhà sư lè lưỡi nói:

- Ngài còn lên được cả trời nữa cơ ạ? Hành Giả cười nói:
- Thiên cung là nhà cũ của ta. Ngày xưa ta là Tề Thiên Đại Thánh, chỉ vì làm loạn hội Bàn Đào, nên bị Phật Tổ hàng phục, chẳng còn cách nào, phải hộ vệ Đường Tăng đi lấy kinh lập công chuộc tội, dọc đường giúp chính trừ tà. Sư phụ ta số phải chịu nạn này, các ngài không biết đâu.

Các nhà sư nghe Hành Giả nói như vậy đều dập đầu cúi lạy. Hành Giả bước ra khỏi cửa, nghe đánh vèo một tiếng, đã không nhìn thấy đâu nữa.

Đại Thánh trong khoảnh khắc đã bay tới bên ngoài cửa Tây Thiên, thấy Thái Bạch Kim Tinh, Tăng Trường Thiên Vương và bốn đại linh quan Ân, Chu, Đào, Hứa đang túm tụm trò chuyện. Thấy Hành Giả tới, mọi người đều vội vàng cúi chào hỏi:

- Đại Thánh đi đâu đây? Hành Giả thưa:
- Tôi hộ vệ Đường Tăng đi tới huyện Mận Thiên, phủ Kim Bình, nước Thiên Trúc, sư phụ tôi được các nhà sư trong chùa Từ Vân giữ lại thưởng lãm đêm nguyên tiêu. Khi sư phụ tôi bước tới gần cây cầu đèn vàng để xem ba cây đèn vàng, cây đèn ấy được thắp bằng một thứ dầu thơm chế ra bằng cách chưng cất, giá tới hơn năm vạn lạng bạc trắng, hàng năm có cả các chư Phật giáng lâm thụ hưởng. Đang xem, bỗng thấy ba vị tôn Phật
giáng lâm. Sư phụ tôi chẳng biết hay dở, chạy lên cầu sụp lạy. Tôi đã nói họ không phải là người tốt đâu, rồi đèn bỗng tắt phụt, cả dầu thơm và sư phụ tôi bị ngay một luồng gió cuốn đi mất. Tôi theo vệt gió đuổi ngay, tới lúc trời tối thì gặp một quả núi, may có bốn vị công tào bảo cho biết: “Ngọn núi này tên là núi Thanh Long, trong núi có động Huyền Anh”. Trong động có ba yêu quái tên là Tỵ Hàn đại vương, Tỵ Thử đại vương và Tỵ Trần đại vương, lão Tôn đuổi tới cửa đánh nhau với chúng một trận nhưng không thắng. Lão Tôn bèn biến ra con đom đóm bay vào động, thấy sư phụ bị khóa chặt, bèn cởi khóa định đưa ra, nhưng bị bọn yêu quái phát giác, phải bỏ chạy. Sau lại cùng Bát Giới, Sa Tăng đánh nhau dữ dội với chúng một trận nữa, rồi Bát Giới, Sa Tăng cũng bị chúng bắt mất. Chính vì vậy lão Tôn phải lên đây tâu với Thượng Đế, xin tra rõ lai lịch bọn chúng và sai tướng xuống hàng phục.

Kim Tinh cười khà khà nói:

- Đại Thánh đã đánh nhau với chúng mà không biết lai lịch chúng à?

Hành Giả nói:

- Biết chứ! Biết chứ! Rặt là một bọn trâu thành tinh nhưng chúng thần thông quảng đại lắm, không hàng phục nổi.

Kim Tinh nói:

- Đó là ba con tê giác thành tinh đấy. Chúng nhân có hình tượng thiên văn, lại qua nhiều năm tu luyện nên đều biết đi mây về gió. Giống yêu quái ấy tính rất ưa sạch sẽ, thường sợ bẩn cả cái bóng của mình mỗi khi xuống sông tắm táp. Màu sắc tên gọi cũng chia ra lắm loại: Nào có loài thư tê, loài hùng tê, loài cổ tê, loài ban tê, lại còn có loài hồ mạo tê, trụy la tê, thông thiên hoa văn tê nữa. Chúng đều có một lỗ ba lông hai sừng, có thể rẽ nước đi dưới sông biển. Như ba yêu quái Tỵ Hàn, Tỵ Thử, Tỵ
Trần đây ở sừng đều có quý khí, cho nên mới nhân đó nổi danh và xưng là đại vương. Muốn bắt chúng chỉ cần các ngài Tứ Mộc Cầm Tinh, bọn chúng nhìn thấy các ngài ấy là chịu hàng phục ngay.

Hành Giả vội vàng xoắn xuýt hỏi:

- Tứ Mộc Cầm Tinh nào kia, phiền Trường Canh chỉ bảo cho. Kim Tinh cười nói:
- Các vì sao ấy ở rải rác trong vũ trụ, ngoài cung Đẩu Ngưu, cứ vào tâu với Thượng Đế là khắc biết.

Hành Giả chắp tay cảm tạ, đi thẳng vào cửa Thiên môn.

Một lát sau, Hành Giả đã đi tới điện Thông Minh, gặp bốn đại thiên sư Cát, Khâu, Trương, Hứa. Bốn thiên sư hỏi:

- Đại Thánh đi đâu? Hành Giả thưa:
- Chúng tôi đi gần tới phủ Kim Bình, do sư phụ tôi lỏng lẻo Thiền tính, mải xem đèn đêm nguyên tiêu, bị yêu quái bắt mất. Lão Tôn không hàng phục nổi, phải lên tâu với Thượng Đế giải cứu cho.

Bốn thiên vương lập tức đưa Hành Giả vào điện Linh Tiêu cẩn  tấu.  Mọi  người  sụp  lạy  thưa  rõ  đầu  đuôi  câu  chuyện. Thượng Đế bèn ra lệnh điểm thiên binh cứu viện.

Hành Giả thưa:

- Lão Tôn lúc tới cửa Thiên môn gặp Trường Canh Tinh, ngài ấy cho biết: “Bọn yêu quái ấy là giống tê giác thành tinh, chỉ có bốn vị Tứ Mộc Cầm Tinh mới hàng phục nổi”.

Thượng Đế lập tức sai Hứa thiên sư cùng Hành Giả tới cung Đẩu Ngưu điểm bốn vị Tứ Mộc Cầm Tinh xuống hạ giới hàng yêu.



Vừa tới bên ngoài cung, đã thấy Nhị thập bát tú ra đón. Thiên sư nói:

- Tôi vâng thánh chỉ tới điểm bốn vị Tứ Mộc Cầm Tinh cùng đi với Tôn Đại Thánh xuống hạ giới hàng yêu.

Bốn vị sao đứng bên cạnh là Giác Mộc Giao, Đẩu Mộc Giải, Khuê Mộc Lang, và Tỉnh Mộc Can tiếp lời hỏi luôn:

- Tôn Đại Thánh dẫn chúng tôi xuống hàng yêu ở xứ nào? Hành Giả cười nói:
- Hóa ra là các ngài à. Ngài Trường Canh cứ giấu mãi, tôi không hiểu được ý đó. Nếu biết sớm là bốn vị trong số Nhị thập bát tú thì tôi cứ tới thẳng đây mời, hà tất phải phiền tới thánh chỉ làm gì?

Bốn vị sao Mộc nói:

- Đại Thánh nói gì vậy! Chúng tôi không có lệnh của Thượng
Đế, ai dám tự tiện! Thế xuống nơi nào, Đại Thánh nói mau để ta đi luôn.

Hành Giả nói:

- Xuống động Huyền Anh, núi Thanh Long, phía đông bắc huyện Kim Bình, để hàng phục tê giác thành tinh.

Đẩu Mộc Giải, Khuê Mộc Lang, Giác Mộc Giao nói:

- Nếu quả là bọn tê giác thành tinh thì chỉ vị sao Tỉnh này đi là đủ, chẳng phải cần chúng tôi. Ngài ấy có thể lên núi nuốt hổ, xuống biển bắt tê.

Hành Giả nói:

- Loại tê giác này không phải là hạng tê giác ngóng trăng đâu, mà là hạng tu hành đắc đạo, thọ đã nghìn năm, phải có cả bốn vị cùng đi mới xong, chớ có điều người khác nữa. Nhỡ ra lúc ấy một vị bắt không nổi, có phải nhỡ cả việc không?

Thiên sư nói:

- Các ngài nói gì vậy! Thánh chỉ sai bốn người cơ mà, lẽ nào có ngài lại không đi? Thôi hãy mau mau đi cho sớm, để tôi còn về tâu.

Đoạn thiên sư từ biệt Hành Giả ra về. Bốn vị sao Mộc nói:
- Đại Thánh đừng chậm trễ nữa. Ngài tới khiêu chiến, dẫn chúng ra đây, chúng tôi sẽ ra tay luôn.

Hành Giả lập tức bước tới cửa động quát mắng:

- Đồ yêu quái ăn trộm dầu kia! Trả sư phụ ta đây!

Nguyên cánh cửa đã bị Bát Giới phá vỡ, mấy tiểu yêu bèn khiêng mấy tảng đá che tạm lại. Bọn chúng đứng bên trong nghe thấy tiếng chửi, vội vàng chạy vào báo:
- Thưa đại vương, Tôn hòa thượng đang chửi mắng ở bên ngoài.

Tỵ Trần đại vương nói:

- Hắn đã thua trận bỏ chạy sao bây giờ lại dám quay lại? Hay là hắn mang viện binh tới?

Tỵ Hàn, Tỵ Thử nói:

- Sợ cóc gì quân cứu viện của hắn! Mau mang giáp trụ lại đây! Bọn nhỏ hôm nay phải cố sức vây chặt lấy hắn nhé! Đừng để hắn chạy thoát!

Cả lũ yêu quái chẳng biết sợ chết, nắm chắc thương đao, gióng trống phất cờ kéo ra ngoài động quát mắng Hành Giả:

- Con khỉ già không biết sợ chết kia, nhà ngươi lại dám đến nữa cơ à?

Hành Giả nghe thấy tiếng “khỉ già” thì nổi giận đùng đùng, nghiến răng nghiến lợi, vung gậy sắt đánh liền. Ba yêu vương chỉ huy bọn tiểu yêu vây chặt Hành Giả vào giữa trận. Bên này bốn vị Tứ Mộc Cầm Tinh cũng múa binh đao quát:

- Nghiệt súc! Chớ động thủ!

Ba yêu vương vừa nhìn thấy bốn vị sao, tự nhiên sợ hãi nói:

- Hỏng! hỏng! Hắn tìm được tay hàng thủ tới rồi! Bọn nhỏ, muốn sống thì chạy cho mau!

Chỉ nghe thấy tiếng gầm rống hỗn loạn, tiếng thở hồng hộc phì phò, bọn tiểu yêu đều hiện nguyên bản tướng, hóa ra là rặt một loại trâu nước, trâu rừng, bò vàng bỏ chạy tán loạn khắp núi. Ba yêu vương cũng hiện nguyên bản tướng, buông hai tay xuống thành bốn chân chẳng khác những khẩu pháo đồng, chạy thẳng về hướng đông bắc. Đại Thánh dẫn các vị Tỉnh Mộc Can, Giác Mộc Giao, đuổi riết không buông. Còn hai vị Đẩu Mộc Giải, Khuê Mộc Lang thì xộc vào trong thung lũng phía đông
núi, nhảy lên đỉnh núi, lặn xuống khe suối giết sạch sành sanh bọn trâu bò thành tinh, đoạn vào trong động Huyền Anh cởi trói cứu cho Đường Tăng, Bát Giới và Sa Tăng.

Sa Tăng nhận ra hai vị sao, cúi chào cảm tạ, nhân tiện hỏi:

- Hai vị tại sao lại biết mà tới đây cứu thoát? Hai vị sao nói:
- Chúng tôi được Tôn Đại Thánh mang thánh chỉ của Thượng Đế tới ra lệnh cho chúng tôi xuống hàng phục yêu quái cứu thoát các ngài.

Đường Tăng bỗng nước mắt ròng ròng hỏi:

- Thế tại sao đồ đệ Ngộ Không của tôi không thấy tới? Hai vị sao thưa:
- Ba lão quái chính là ba con tê giác thành tinh. Thấy chúng tôi, chúng cố sống cố chết bỏ chạy về hướng đông bắc. Tôn Đại Thánh dẫn Tỉnh Mộc Can, Giác Mộc Giao đuổi theo. Hai chúng tôi ở lại quét sạch bọn tiểu yêu, rồi vào đây giải thoát cho thánh tăng.

Đường Tăng lại dập đầu tạ ơn và ngẩng lên trời vái lạy. Bát Giới đỡ dậy nói:
- Sư phụ lễ nhiều là giả dối đấy, chẳng bằng chỉ một lạy là xong. Bốn vị tinh quan đây, một là vâng chiếu chỉ của Thượng Đế, hai là nể tình sư huynh con, mà tới đây quét trừ yêu quái. Nay chưa biết lão yêu hàng phục ra sao, chúng ta hẵng thu nhặt một ít đồ tế nhuyễn đi thoát khỏi đây, phá đổ động này để trừ hậu họa, rồi quay về chùa đợi sư huynh con là hơn.

Khuê Mộc Lang nói:

- Thiên Bồng nguyên soái nói chí phải. Ngài hãy cùng Quyển
Liêm đại tướng hộ vệ sư phụ về chùa nghỉ ngơi, còn chúng tôi
đuổi theo hướng đông bắc diệt trừ yêu quái.

Bát Giới nói:

- Đúng! Đúng! Hai vị phải cùng đi bắt, diệt hết yêu quái mới về tâu Thượng Đế được.

Hai vị tinh quan lập tức đuổi ngay.

Bát Giới, Sa Tăng vơ vét mọi thứ quý giá trong động, đủ các loại san hô, mã não, hổ phách, trân châu, xà cừ bảo bối, vàng bạc châu báu đến hơn một thạch khiêng ra ngoài, bảo sư phụ ngồi ở sườn núi trông, còn mình trở lại phóng lửa đốt sạch sành sanh cả một tòa động phủ, sau đó đưa Đường Tăng tìm đường về thẳng chùa Từ Vân, phủ Kim Bình. Thật là:

Kinh có nói: “Thái cực sinh bĩ”, Trong cái vui có chứa cái buồn. Thưởng đèn thiền tính buông tuồng, Mải mê cảnh đẹp đạo thường lìa xa. Đại đan đó từ xưa nên giữ,
Một lần rơi, suy rõ lại may. Tâm thiền gìn giữ từng giây,
Lỏng lơi lười biếng là quay sang tà.

Tạm gác chuyện ba người thoát chết quay về chùa. Lại nói chuyện hai tinh quan Đẩu Mộc Giải và Khuê Mộc Lang cưỡi mây bay về hướng đông bắc đuổi yêu quái, đứng trên tầng không nhìn mãi chẳng thấy gì. Khi tới Tây Đại Dương đại hải, thì xa xa đã nhìn thấy Tôn Hành Giả đang đứng trên mặt biển hò hét. Hai người dừng mây hạ xuống hỏi:

- Đại Thánh, yêu quái đâu rồi? Hành Giả bực tức nói:
- Sao hai ngài không đuổi ngay? Mãi bây giờ mới tới lại còn hỏi han hoạnh họe cái gì?

Đẩu Mộc Giải nói:

- Chúng tôi thấy Đại Thánh cùng hai vị tinh quan Tỉnh, Giác đánh bại yêu quái, yêu quái đã bỏ chạy, đổ rằng chắc bắt được chúng, nên hai chúng tôi nán lại diệt sạch bọn tiểu yêu, vào động Huyền Anh giải thoát cho sư phụ và sư đệ của Đại Thánh, đoạn phá núi đốt động, giao sư phụ Đại Thánh cho hai sư đệ đưa về chùa Từ Vân ở bản phủ nghỉ ngơi. Chờ mãi chẳng thấy Đại Thánh và hai vị tinh quan về, nên chúng tôi lại đuổi theo tới đây ngay.

Hành Giả nghe xong mới vui vẻ cảm tạ nói:

- Như thế mới là có công đó. Các ngài thật vất vả quá! Ba yêu quái bị chúng tôi đuổi tới đây, bèn chui tọt xuống biển. Hai vị tinh quan Tỉnh, Giác đã nhảy xuống đuổi bắt, còn lão Tôn đứng trên bờ chặn lối. Hai ngài đã tới thì đứng trên bờ chặn lối chúng nhé, để lão Tôn lặn xuống đuổi đánh.

Đại Thánh bèn múa tít gậy sắt, bắt quyết niệm chú, rạch đôi làn nước, chui tọt vào trong lòng biển sâu thẳm, thấy ba yêu quái đang đánh nhau quên sống quên chết với Tỉnh Mộc Can và Giác Mộc Giao dưới đáy biển. Hành Giả liền xông tới quát:

- Lão Tôn tới đây!



Yêu quái đánh nhau với hai tinh quan còn đang trở tay không kịp, đang lúc nguy cấp, bỗng nghe thấy tiếng Hành Giả hét vang, bèn cố hết sức tàn quay đầu chạy thẳng ra giữa biển khơi. Nguyên chiếc sừng trên đầu giống yêu quái này có thể rẽ đôi làn nước. Chỉ nghe thấy tiếng nước réo ào ào, làn nước rẽ ra. Hành Giả và hai vị tinh quan đuổi riết đằng sau.

Lại nói chuyện dưới biển Tây Hải có một tên quỷ dạ xoa đi thám thính và một tên giới sĩ đi tuần phòng, từ xa nhận ra ba con tê giác rẽ đôi làn nước và nhận ra cả Tôn Đại Thánh và hai vị tinh quan đuổi theo, thì vội vàng chạy về Thủy Tinh cung hoảng hốt báo với Long Vương rằng:

- Thưa đại vương, có ba con tê giác đang bị Tề Thiên Đại
Thánh và hai vị thiên tinh đuổi tới.

Lão Long vương Ngao Thuận nghe báo lập tức gọi thái tử Ma
Ngang tới dặn dò:
- Con điểm thủy binh đi ngay. Ắt hẳn là ba con yêu quái tê giác Tỵ Hàn, Tỵ Thử, Tỵ Trần gây sự với Tôn Hành Giả. Nay chúng đã xuống biển, con phải mau mau đem quân trợ chiến.

Thái tử Ngao Ma Ngang tuân lệnh, điểm binh đi ngay.

Trong khoảnh khắc các loài thủy tộc ba ba, thuồng luồng, cá bạch, cá rô, cá chép, cá mè, quân tôm, tướng cua tay chắc binh khí, hò hét vang lừng kéo ra khỏi Thủy Tinh cung, chặn ba con tê giác lại. Ba con tê giác không tiến lên được, định quay lại đằng sau, thì đụng phải hai vị tinh quan Tỉnh, Giác và Đại Thánh. Sợ quá, con nào con nấy bỏ đàn chạy vung ra bốn phía mong sống sót. Tỵ Trần đại vương bị lão Long Vương dẫn binh vây chặt. Tôn Đại Thanh thấy thế mừng lắm nói:

- Hãy khoan! Hãy khoan! Nhớ bắt sống, đừng giết chết!

Ma Ngang tuân lệnh xông vào quật ngã Tỵ Trần ra đất, dùng móc câu sắt xuyên vào mũi, rồi trói dúm bốn vó lại.

Lão Long Vương lại truyền lệnh chia quân đuổi theo hai yêu quái kia, cùng hai vị tinh quan quyết bắt sống chúng. Lúc ấy, Tiểu Long Vương cũng kéo binh tới, mọi người nhìn thấy Tỉnh Mộc Can hiện nguyên bản tướng chặn ngay Tỵ Hàn lại, há hốc mồm định nuốt sống, Ma Ngang vội vàng gọi to:

- Ngài sao Tỉnh, ngài sao Tỉnh! Chớ cắn chết nó Tôn Đại
Thánh muốn bắt sống, đừng để nó chết!

Mới gọi được vài tiếng, Tỉnh Mộc Can đã ngoạm vào cổ, cắn đứt đôi.

Ma Ngang dặn lũ quân tôm, tướng cua khiêng con tê giác đã chết về Thủy Tinh cung, đoạn cùng Tỉnh Mộc Can đuổi tiếp. Bỗng thấy Giác Mộc Giao đuổi con tê giác Tỵ Thử chạy trở lại, đụng ngay phải vị sao Tỉnh. Ma Ngang dẫn bọn tôm, cá, ba ba, thuồng luồng dàn thành trận thế vây chặt. Yêu quái chỉ còn biết van xin:
- Xin tha tội! Xin tha tội!

Tỉnh Mộc Can xông tới, túm chặt lấy tai, đoạt lấy thanh đao, rồi nói:

- Đừng giết nó! Đừng giết nó! Bắt sống để giao cho Tôn Đại
Thánh khu xử.

Lúc ấy mọi người quay gươm giáo trở về Thủy Tinh cung báo tin:

- Bọn yêu quái đã bị bắt cả rồi ạ.

Hành Giả nhìn thấy một con bị mất đầu, máu me lênh láng nằm lù lù trên đất, một con bị Tỉnh Mộc Can túm tai bắt quỳ mọp xuống, bèn tới gần ngắm nghía rồi nói:

- Vết đứt này không phải là đao chém. Ma Ngang cười nói:
- Tôi mà không gọi kịp thì đến cả người nó cũng bị ngài sao
Tỉnh nuốt mất ấy chứ.

Hành Giả nói:

- Thôi được, đã như vậy thì mang cưa lại đây cưa đứt hai chiếc sừng, lột da nó ra để tôi mang đi, còn thịt xin để lại cho bố con Long Vương đánh chén.

Đoạn xâu mũi Tỵ Trần giao cho Giác Mộc Giao dắt lấy, Tỵ
Thử cũng bị xâu mũi giao cho Tỉnh Mộc Can dắt. Hành Giả nói:

- Mang chúng tới phủ Kim Bình giao cho quan thứ sử để tra xét duyên do, hỏi chúng về tội nhiều năm giả Phật hại dân, sau đó sẽ xử trảm.

Mọi người vâng lời, từ biệt cha con Long Vương rồi rời biển Tây Hải. Mọi người dắt tê giác, hội với hai sao Khuê, Đẩu cưỡi mây bay thẳng về phủ Kim Bình. Hành Giả chân đạp mây lành từ giữa tầng không cất tiếng gọi:
- Ngài thứ sử phủ Kim Bình, cùng các quan viên và toàn thể quan dân trong ngoài thành hãy nghe đây: Ta là thánh tăng từ nước Đại Đường bên phương Đông vâng lệnh nhà vua sang phương Tây lấy kinh. Phủ huyện các người hàng năm nhà nào cũng phải cúng hiến đèn vàng. Kẻ giả danh đức Phật giáng lâm đó chính là những con tê giác này. Chúng tôi qua đây, nhân đêm nguyên tiêu xem đèn bị yêu quái cướp mất cả dầu đèn, lẫn sư phụ của chúng tôi đi, chúng tôi phải mời thiên thần xuống hàng phục. Nay sào huyệt của chúng đã bị phá hủy, bọn yêu quái đã bị giết sạch, chúng không còn gây họa được nữa. Từ nay về sau phủ Kim Bình các ngươi không còn cái khổ phải dâng hiến đèn vàng, làm hao kiệt của cải của dân nữa.

Bát Giới, Sa Tăng đang hộ vệ sư phụ bước vào chùa Từ Vân, bỗng nghe thấy tiếng Hành Giả nói giữa tầng không, vội vàng bỏ sư phụ, quẳng hành lý, nhảy vút lên mây, hỏi han Hành Giả hàng yêu thế nào. Hành Giả đáp:

- Con kia bị ngài sao Tỉnh cắn chết, tôi đã cưa sừng lột da mang về, hai con bị bắt sống cũng mang về đây cả.

Bát Giới nói:

- Hai con này hãy lôi nó vào thành cho quan dân mọi người được thấy tận mắt, có thể họ mới biết mình là thánh là thần chứ. Và cũng mời luôn cả bốn vị Tinh quan thu mây hạ xuống mặt đất, vào cả phủ đường, rồi mang chúng ra xử trảm. Tội trạng chúng đã rõ rành rành, còn phải nói gì nữa!

Bốn vị sao nói:

- Thiên Bồng nguyên soái dạo này lý sáng luật thông quá nhỉ! Thật là giỏi quá!

Bát Giới nói:

- Cũng nhờ mấy năm làm hòa thượng nên cũng biết đôi chút.
Các vị thần bèn giải tê giác, thu mây hạ xuống phủ đường. Quan viên trong phủ, dân chúng trong thành sợ quá, nhà nào nhà nấy bày hương án lễ bái thiên thần. Một lát sau, các nhà sư trong chùa Từ Vân mời Đường Tăng ngồi vào kiệu rồi khiêng tới cửa phủ gặp Hành Giả. Đường Tăng luôn mồm cảm tạ nói:

- Các vị tinh quan cứu chúng tôi vất vả quá. Tôi thoạt đầu chẳng thấy đồ đệ đâu, đã lo ngay ngáy, may mắn giờ đây đã thắng trận về rồi! Không biết con đuổi tới đâu mới bắt được yêu quái thế?

Hành Giả thưa:

- Hôm trước, tạm biệt sư phụ, con lên trời dò hỏi may có Thái Bạch Kim Tinh biết rõ yêu quái là giống tê giác, báo cho con biết phải đi mời bốn vị sao Tứ Mộc Cầm Tinh. Con lại thưa cả với Thượng Đế, ngài xuống chiếu sai bốn vị xuống cửa đông giao chiến. Yêu quái bỏ chạy, hai vị Đẩu, Khuê ở lại giải thoát sư phụ, còn lão Tôn và hai ngài Tỉnh, Giác đuổi riết theo chúng. Đuổi tới Tây Dương đại hải, lại có Long Vương sai thái tử mang binh tới giúp cho nên bắt được bọn chúng mang về đây xét hỏi.

Tam Tạng cảm tạ rối rít, lại thấy cả các quan viên giúp việc trong phủ huyện đốt đèn thắp hương ngẩng lên trời lễ tạ.

Một lần sau, thấy Bát Giới nổi tính hung đồ, rút xoẹt ngọn giới đao chém đứt phăng đầu Tỵ Trần và đầu Tỵ Thử rơi bịch xuống đất, đoạn lấy cưa cưa đứt bốn chiếc sừng. Hành Giả đã sẵn có ý định, bèn nói:

- Thưa bốn vị Tinh quan, bốn vị hãy cầm bốn chiếc sừng này mang lên thượng giới kính biếu Thượng Đế và trao trả thánh chỉ.

Sau đó Hành Giả lại rút ra hai chiếc sừng giắt trong người, nói:

- Xin tặng lại một chiếc vào kho phủ đường để làm chứng, từ nay về sau miễn khoản thuế dầu cho dân. Còn một chiếc chúng
tôi sẽ mang theo tới Linh Sơn kính tặng Phật tổ.

Bốn vị sao mừng lắm, bèn từ biệt thánh tăng, cưỡi lên đám mây ngũ sắc bay về trời.

Các quan trong phủ giữ bốn thầy trò ở lại, bày biện tiệc chay và mời tất cả các vị xã quan tới tiếp đãi thầy trò Tam Tạng. Một mặt lại cho treo bảng cáo thị hiểu dụ quan dân, từ nay trở đi không được bày đặt đèn vàng và bỏ hẳn việc bắt những hộ lớn bỏ tiền mua dầu, một mặt sai đồ tể lột da những con tê ngưu, tẩm thuốc thuộc khô để chế tạo áo giáp, còn thịt đem chia hết cho quan dân, một mặt lại trích tiền mua một khoảnh đất bỏ không dựng miếu thờ bốn vị sao hàng yêu và dựng sinh từ thờ bốn thầy trò, lại sai dựng bia khắc chữ lưu truyền mãi mãi để tạ ơn.

Bốn thầy trò cũng bằng lòng nhận cả. Rồi hai trăm bốn mươi hộ lớn phải góp tiền mua dầu trước kia, nhà thì biếu, nhà thì mời không thể kể hết. Bát Giới rất thèm được hưởng thụ, bèn mang những thứ quý giá thu nhặt được ở trong động, mỗi loại đều bỏ vào túi áo để làm quà thưởng cho những nhà nào có làm tiệc chay mời thầy trò. Dùng dằng đến một tháng vẫn chưa lên đường được. Tam Tạng nói:

- Ngộ Không này, số vật quý còn lại đem tặng cả cho các nhà sư chùa Từ Vân làm lễ tạ. Rồi đừng cho số hộ lớn đó biết, sáng mai lúc tờ mờ đất chúng ta lên đường, nếu không cứ mải vui thế này, lỡ mất việc lấy kinh, Phật Tổ biết lại trị tội, tai ách rắc rối thì thật lôi thôi lắm.

Hành Giả làm các việc y như lời sư phụ dặn.

Sáng hôm sau, khoảng canh năm, Hành Giả gọi Bát Giới dậy chuẩn bị ngựa. Chú ngốc hôm qua uống nhiều rượu quá, mơ mơ màng màng nói:

- Còn sớm thế này chuẩn bị ngựa làm gì vội.
Hành Giả quát lên:

- Sư phụ bảo dậy lên đường! Chú ngốc xoa mặt lầu bầu:
- Đúng là sư phụ nhà mình chẳng ra thế nào! Hai trăm bốn mươi hộ lớn đều mời, mới chén được khoảng hơn ba chục bữa, thế mà đã bắt lão Trư phải chịu đói là cớ sao?

Tam Tạng nghe vậy quát mắng:

- Đồ súc sinh ăn cám kia! Chớ có nói lôi thôi nữa! Dậy mau đi! Còn lầu bầu nữa ta sẽ bảo Ngộ Không rút gậy đánh cho một trận bây giờ!

Chú ngốc nghe nói đến đánh, luống cuống chân tay nói:

- Sư phụ dạo này thay đổi rồi. Mọi khi thì thương con, yêu con, thấy con ngốc nghếch thì che chở cho con. Anh con định đánh thì can ngăn khuyên giải, hôm nay làm sao sư phụ lại nổi giận muốn đánh con như thế?

Hành Giả nói:

- Sư phụ trách chú nói lèm hèm, lỡ mất độ đường thì sao. Chú dậy mau lên, thu xếp hành lý, chuẩn bị ngựa thì tôi tha đánh cho.

Chú ngốc sợ đòn, chồm dậy mặc quần áo, gọi Sa Tăng:

- Dậy mau, không đánh cho bây giờ!

Sa Tăng cũng dậy theo, mọi người thu xếp đã xong xuôi, Tam
Tạng xua tay ra hiệu nói:

- Cứ lặng lẽ mà đi, đừng làm kinh động các nhà sư trong chùa.

Đoạn vội vàng mở cổng chùa, lên ngựa, tìm đường ra đi. Chuyến đi này thế mới gọi là:

Ngầm mở lồng son bay phượng đẹp,
Lặng tung xiềng xích lượn rồng thiêng.

Cuối cùng không biết tới khi trời sáng, mọi nhà muốn mời mọc cảm tạ sẽ khu xử ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ CHÍN MƯƠI BA




Vườn Cấp Cô hỏi cổ bàn nguồn


Nước Thiên Trúc chầu vua được vợ




Khởi niệm là liền có ái, Dậy tình ắt sẽ sinh tai.
Thông minh cần chi biện tam đài, Trọn vẹn tự theo về nguyên hải. Mặc kệ thành tiên hay thành Phật, Cốt sao sắp xếp ở bên trong.
Thanh tịnh trong veo sạch bụi trần, Chính quả siêu thăng lên thượng giới.


Lại nói chuyện các nhà sư trong chùa, lúc trời sáng chẳng
thấy thầy trò Tam Tạng đâu, liền nói:


- Chẳng giữ lại được, chẳng được cùng chia tay, lại cũng chẳng giãi bày cầu xin được điều gì, thế là để mấy vị Phật sống lẳng lặng đi mất rồi!


Đang nói, lại thấy mấy nhà hộ lớn từ phía cửa nam đi tới mời,
mấy nhà sư vỗ tay nói:


- Tối hôm qua chẳng giữ gìn để mấy vị cưỡi mây bay đi rồi.


Mọi người ngẩng lên trời lạy tạ. Lời nói ấy lan ra, quan dân
khắp thành dần dần hay biết, nói với các nhà hộ lớn sắm sửa ngũ sinh hoa quả mang tới sinh từ làm lễ tạ ơn. Chuyện không nói nữa.


Lại nói chuyện bốn thầy trò Đường Tăng ăn gió nằm sương, đi miết trên con đường bằng phẳng bình yên tới hơn nửa tháng. Bỗng một hôm, họ nhìn thấy một quả núi cao, Đường Tăng lại sợ hãi nói:


- Đồ đệ ơi, trước mắt có núi cao hiểm trở, phải cẩn thận đấy! Hành Giả cười nói:
- Phía này con đường gần nơi đất Phật, dứt khoát không có
ma quái nào đâu, sư phụ cứ yên tâm không phải lo lắng gì cả.


Đường Tăng nói:


- Đồ đệ ạ, tuy là không xa đất Phật, nhưng các nhà sư trong
chùa hôm qua chẳng nói rằng tới kinh đô nước Thiên Trúc còn hơn hai nghìn dặm, bây giờ chẳng rõ là còn bao nhiêu đường đất nữa.


Hành Giả nói:
- Sư phụ quên mất bài Tâm Kinh của thiền sư Ô Sào rồi à? Tam Tạng nói:
- Bát Nhã Tâm Kinh là y bát tùy thân của ta. Từ sau ngày
được thiền sư Ô Sào dạy cho, ngày nào ta chẳng niệm, bỗng chốc quên làm sao được? Đến đọc ngược ta cũng niệm được ấy chứ, quên thế nào được!


Hành Giả nói:


- Sư phụ chỉ biết có niệm thôi, chứ bảo sư phụ giải nghĩa thì
khó đấy.


Tam Tạng nói:


- Con khỉ kia, tại sao lại bảo ta không giải nghĩa được? Thế
nhà ngươi có giải được không?


Hành Giả nói:


- Con giải được chứ! Con giải được chứ!


Từ lúc ấy, Tam Tạng, Hành Giả chẳng nói năng gì nữa. Bát
Giới, Sa Tăng đi bên cạnh cười ngất nói:


- Chỉ bẻm mép! Anh cũng xuất thân là yêu tinh như chúng tôi, lại chưa ở chùa chiền, chưa nghe giảng kinh, chưa làm sư thờ Phật, chưa thuyết pháp bao giờ. Thế mà dám nói khoác lác rằng là “giải được, giải được!”. Nào, sao cứ câm như hến thế kia, xin nghe giảng đây, mời giảng xem nào.


Sa Tăng nói:


- Anh hai cũng tin anh cả à? Anh cả chỉ nói khoác lác giúp
cho sư phụ vui chân đi đường thôi. Anh ấy chỉ biết có múa gậy chứ đâu có biết giảng kinh mà hỏi.


Tam Tạng nói:


- Ngộ Năng, Ngộ Tĩnh, chớ có lôi thôi nữa. Ấy là Ngộ Không
giải bằng cách không dựa vào ngôn ngữ văn tự. Đó là cách giải chân chính đấy.


Thầy trò mải câu chuyện, thấm thoắt đã đi được khá xa, vượt qua mấy ngọn núi, bỗng nhìn thấy một ngôi chùa lớn ở ven đường, Tam Tạng nói:


- Ngộ Không ơi, trước mặt có một ngôi chùa kìa! Con xem, ngôi chùa ấy thật là:



Chẳng nhỏ chẳng to, Mái lợp lưu ly ngọc biếc. Nửa kim nửa cổ,
Cũng tường xây chữ bát màu son. Ẩn hiện trong tán tùng xanh om, Cổ tích mấy ngàn năm còn lại.
Khe chảy rì rầm như đàn gẩy, Từ đời nào rạch núi vẫn còn đây. Giữa thung lũng xanh cây,
Biển ghi rõ “Bố Kim thiền tự”.


Và lại còn đề thêm bốn chữ, “Thượng cổ di tích” rõ rành rành.


Hành Giả nhìn rõ bốn chữ “Bố Kim thiền tự”. Bát Giới cũng
nhìn rõ bốn chữ “Bố Kim thiền tự”. Tam Tạng ngồi trên ngựa trầm ngâm lẩm bẩm:


- Bố Kim… Bố Kim… Lẽ nào lại không phải là địa giới nước
Xá Vệ sao?


Bát Giới nói:


- Sư phụ kỳ thật! Con đi theo sư phụ suốt mấy năm, chẳng hề
thấy sư phụ biết đường bao giờ, thế mà hôm nay sư phụ lại biết đường cơ đấy!


Tam Tạng nói:


- Không phải. Ta thường xem kinh tụng điển thấy nói Phật ở
vườn Kỳ Thụ Cấp Cô, thành Xá Vệ. Vườn này là của trưởng giả Cấp Cô Độc mua của thái tử để mời đức Phật giảng kinh. Thái tử nói: “Khu vườn ta không bán đâu. Ta chỉ bán khi nào vàng
ròng rải khắp khu vườn mà thôi”. Trưởng giả Cấp Cô Độc nghe nói bèn lấy số vàng mang theo làm gạch lát kín khắp vườn, mới mua được khu vườn của thái tử, và mời đức Thế Tôn thuyết pháp. Ta nghĩ chùa Bố Kim này phải chăng ứng với câu chuyện ấy.


Bát Giới cười nói:


- May quá! Nếu đúng với câu chuyện ấy thì chúng ta lật gạch
lên mà biếu cho mọi người.


Mọi người cười rộ một lúc, Tam Tạng bấy giờ mới xuống ngựa.


Thầy trò bước vào trong cổng chùa chỉ thấy người gánh, người vác, người dựa xe ngồi, người ngủ, người nói… Thấy bốn thầy trò bước vào, có cả kẻ xấu người đẹp, ai nấy sợ hãi nhường lối. Tam Tạng chỉ sợ đồ đệ gây chuyện, phải luôn miệng nhắc nhở:


- Lịch sự! Lịch sự!


Mấy đồ đệ bèn giấu mặt đi. Bước qua đằng sau điện Kim
Cương, bỗng thấy một vị thiền tăng đi ra, uy nghi thoát tục. Thật là:



Mặt như trăng rằm sáng, Thân tựa cây bồ đề.
Gậy chống tay phơ phất,


Bối đá nhẹ chân đi.




Tam Tạng thấy vậy bèn chào hỏi. Nhà sư vội vàng đáp lễ hỏi:


- Trưởng lão từ đâu tới? Tam Tạng thưa:
-  Đệ  tử  là  Trần  Huyền  Trang,  vâng  mệnh  hoàng  đế  Đại
Đường bên phương Đông sang phương Tây bái Phật cầu kinh, đi đường qua quý xứ ta, vào đây quấy rầy, xin ngủ nhờ một đêm, ngày mai lại lên đường ngay.


Nhà sư kia nói:


- Hoang sơn chúng tôi, khách thập phương thường tới nghỉ,
chúng tôi đều vui vẻ tiếp đón, huống hồ trưởng lão là bậc thần tăng ở phương Đông, chùa chúng tôi được cúng dâng thì thật may mắn lắm!


Tam Tạng cảm tạ, gọi ba đồ đệ cùng vào. Đi qua những dãy hành  lang  vòng  vèo  ngát  mùi  hương,  mọi  người  bước  vào phương trượng. Làm lễ tương kiến xong, hai bên phân ngôi chủ khách ngồi xuống. Bọn Hành Giả cũng thõng tay ngồi nghỉ.


Lúc ấy trong chùa nghe tin có nhà sư từ nước Đại Đường tận phương Đông đi lấy kinh thì tất thẩy mọi người bất kể lớn nhỏ, từ trưởng lão, chú tiểu đều tới chào hỏi. Uống trà xong, họ lại bưng cơm chay lên. Lúc ấy Tam Tạng đang mải niệm kinh khai trai, Bát Giới đã chén liền, bất kể là bánh bao, cơm trắng hay canh mỳ đều nuốt chửng tuốt tuột. Trong phương trượng vẫn
đông người. Kẻ hiểu biết thì tán thưởng uy nghi Đường Tăng. Người thích đùa thì đứng xem Bát Giới ăn uống. Lại nói chuyện Sa Tăng để mắt thấy Bát Giới ăn uống nhồm nhoàm như vậy, bèn ngầm cấu cho một cái nói:


- Phải lịch sự chứ!


Bát Giới giật thót, la toáng lên:


- Lịch sự! Lịch sự! Bụng đang rỗng tuếch đây này. Sa Tăng cười nói:
- Anh hai chẳng hiểu gì cả, thiên hạ người ta lịch sự thế kia.
Còn bàn về cái bụng thì tôi cũng rỗng chẳng khác gì anh.


Bấy giờ Bát Giới mới chịu dừng lại. Tam Tạng ăn cơm xong bèn cảm tạ. Mọi người dọn dẹp.


Các nhà sư trong chùa hỏi nguyên do từ phương Đông sang đây. Nhân nói chuyện cổ tích, Tam Tạng bèn hỏi căn nguyên việc đặt tên chùa là Bố Kim. Các nhà sư cười nói:


- Chùa này vốn là chùa vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ, còn có tên là Kỳ Viên. Do trưởng giả Cấp Cô Độc mời Phật giảng kinh, lát gạch vàng khắp vườn, cho nên được đổi tên như ngày nay. Chùa chúng tôi xưa kia vẫn thuộc nước Xá Vệ. Bấy giờ trưởng giả Cấp Cô Độc đang ở nước Xá Vệ. Hoang sơn chúng tôi vốn là Kỳ Viên của trưởng giả, nên đặt tên là chùa Cấp Cô Bố Kim. Đằng sau chùa vẫn còn có di chỉ Kỳ Viên. Mấy năm gần đây, nếu gặp ngày mưa to lai láng thì vàng bạc ngọc ngà vẫn lộ ra, những người gặp may thường nhặt được.


Tam Tạng nói:


- Câu chuyện danh bất hư truyền ấy hóa ra là có thật! Lại hỏi tiếp:
- Lúc chúng tôi mới vào chùa ta, thấy hai bên hành lang ở
trong chùa rất nhiều hành khách thương nhân với lừa ngựa, xe cộ, gồng gánh. Tại sao họ lại nghỉ cả ở đây nhỉ?


Các nhà sư đáp:


- Quả núi chúng tôi đây gọi là núi Bách Cước. Mấy năm trước
vẫn thái bình. Gần đây thiên khí tuần hoàn, chẳng biết vì sao lại sinh ra mấy con rết thành tinh thường nằm dưới mặt đường hại người qua lại. Tuy không đến nỗi chết người, nhưng cũng chẳng ai dám đi. Chân núi có cửa quan, tên gọi cửa quan Kê Minh. Chỉ vào quãng gà gáy mọi người mới dám đi qua. Những người khách thương ấy do tới đây muộn, sợ đi ngay không tiện, bèn ngủ nhờ một đêm ở chùa chúng tôi, đợi lúc gà gáy mới đi.


Tam Tạng nói:


- Chúng tôi cũng đợi gà gáy sẽ đi.


Thầy trò đang nói chuyện, thấy cơm chay được mang tới, mọi
người cùng ăn cơm. Ăn xong, lúc này trăng thượng huyền vằng vặc, Tam Tạng cùng Hành Giả đi dạo ngắm trăng. Lại thấy một đạo nhân đi tới báo:


- Lão sư phụ của chúng tôi muốn được yết kiến nhân vật
Trung Hoa.


Tam Tạng quay người nhìn, thấy một vị hòa thượng già tay chống gậy trúc bước tới cúi chào hỏi:


- Vị này là sư phụ từ Trung Hoa tới đấy à?


Tam Tạng đáp lễ thưa:


- Không dám.


Nhà sư già thán phục mãi không thôi, rồi hỏi:


- Lão sư phụ bao nhiêu tuổi rồi ạ?


Tam Tạng thưa:


- Dạ bốn mươi nhăm tuổi ạ. Dám hỏi lão viện chủ bao nhiêu
ạ?


Nhà sư già cười đáp:


- Hơn lão sư phụ một hoa giáp.


Hành Giả nói:


- Vậy là năm nay ngài một trăm linh năm tuổi. Ngài thử đoán
xem tôi bao nhiêu tuổi rồi?


Nhà sư đáp:


- Ngài trông vẻ cổ thần thánh, lại thêm đêm trăng mắt hoa,
nên tôi khó đoán quá.


Trò chuyện một hồi, mọi người lại đi ra phía sau ngắm cảnh. Tam Tạng hỏi:


- Lão viện chủ vừa nói tới di chỉ vườn Cấp Cô, vậy nó ở đâu ạ?


Vị sư già đáp:


- Ở phía ngoài cửa sau đó.


Đoạn sai mở cửa, bọn Tam Tạng chỉ nhìn thấy một bãi đất
trống, còn sót lại một đoạn chân tường xây bằng đá tảng. Tam
Tạng chắp tay than thở:



Nhớ thuở Đàn Na Tu Đạt Đa, Từng đem vàng bạc cứu muôn nhà. Kỳ Viên muôn thuở lưu danh tiếng, Trưởng giả đi đâu bạn Giác La?


Tam Tạng đi lững thững ngắm trăng, tới gần bên ngoài cửa
sau, bước lên đài rồi ngồi xuống nghỉ một lát, bỗng nghe văng vẳng tiếng khóc thút thít, bèn lắng tai nghe, hóa ra là tiếng khóc của một cô gái than thở cha mẹ chẳng biết cho nỗi đau khổ của mình. Tam Tạng xúc động đến đau lòng, bất giác ứa hai hàng lệ, bèn quay lại hỏi các nhà sư:


- Tiếng ai khóc ở đâu đây nhỉ?


Nhà sư già thấy Tam Tạng hỏi, bèn bảo các nhà sư về trước
pha trà, khi không còn ai, nhà sư già mới sụp xuống lạy Đường
Tăng, Hành Giả. Tam Tạng đỡ dậy nói:


- Lão viện chủ cớ sao lại sụp lạy như vậy? Nhà sư già đáp:
- Đệ tử tuổi đã hơn trăm, cũng là tạm gọi trải việc đời, mỗi
lần trong cảnh thiền  thanh tĩnh,  cũng đã thấy một vài cảnh tượng. Nhưng so với thầy trò lão sư phụ, đệ tử chỉ tạm gọi là mới biết độ một hai mà thôi, kém mọi người lắm. Còn nói tới chuyện bi thiết ấy thì phi các ngài đây không ai minh biện nổi.


Hành Giả nói:


- Ngài cứ nói ra xem việc gì nào? Nhà sư già thưa:
- Đúng ngày này năm trước, đệ tử tôi đang lúc dạo ngắm
trăng sáng, bỗng nghe thấy một trận gió nổi lên ào ào, rồi nghe thấy có tiếng khóc bi thương ai oán từ đấy. Đệ tử rời giường bước tới nền cũ Kỳ Viên xem xét, thấy một cô gái đoan trang rất xinh đẹp. Tôi bèn hỏi cô gái: “Cô là con gái nhà ai? Vì sao lại tới đây?”. Cô gái trả lời: “Tôi là công chúa con vua nước Thiên Trúc. Tôi đang ngắm hoa dưới trăng thì bị một ngọn gió thổi tới đây”. Tôi bèn nhốt cô ta trong một gian phòng bỏ không xây như kiểu nhà giam, phía trên cửa chỉ chừa một lỗ nhỏ đủ đưa lọt một bát cơm. Hôm đó tôi nói với các nhà sư rằng: “Đó là một
con yêu tinh bị tôi bắt được”. Các sư trong chùa chúng tôi đều là những người từ bi, không nỡ hại tính mạng cô gái ấy, hàng ngày đều mang cho cô gái hai bữa cơm hẩm canh suông để sống qua ngày. Cô gái ấy cũng thông minh hiểu được ý tôi. Sợ các sư tăng điếm nhục, cô ta giả điên tác quái, đái ngay chỗ ngủ, ỉa ngay chỗ nằm, ban ngày nói nhăng nói nhít, giả dại giả ngây, nhưng đến đêm khuya tĩnh mịch lại nhớ cha mẹ khóc thút thít. Tôi đã mấy lần vào thành nghe ngóng tin tức, song chẳng thấy động tĩnh gì. Vì vậy tôi bèn nhốt khóa cẩn thận, không dám thả cô ta ra. Nay may gặp lão sư tới đây, muôn xin lão sư khi vào trong nước, quảng thí pháp lực xem xét rõ ràng giúp cho, một là cứu giúp người lương thiện, hai là tỏ rõ thần thông.





Tam Tạng và Hành Giả nghe xong, nhất nhất ghi nhớ trong
lòng. Đang trò chuyện, thấy hai chú tiểu tới mời về uống trà và nghỉ ngơi. Mọi người bèn quay về.


Bát Giới và Sa Tăng ngồi trong phương trượng lầu bà lầu bầu
nói:


- Sáng mai lúc gà gáy phải lên đường mà giờ này vẫn chưa về ngủ!


Hành Giả nói:


- Chú ngốc lại nói gì đấy? Bát Giới nói:
- Thôi đi ngủ đi! Đêm khuya thế này còn đi ngắm cảnh gì
nữa!


Nghe vậy, các nhà sư đều tản đi, Đường Tăng bèn đi ngủ. Lúc này thật là:



Đêm thanh trăng lạnh mộng hoa êm, Gió ấm vi vu lọt cửa rèm.
Thánh thót đồng hồ đang điểm giọt, Sao trời nhấp nháy chiếu cung tiên.


Đêm ấy, ngủ được một lát đã nghe thấy tiếng gà gáy. Đằng
trước, đám khách thương đã lục tục trở dậy nhóm lửa nấu cơm. Tam Tạng cũng gọi Bát Giới, Sa Tăng trở dậy chuẩn bị yên cương. Hành Giả gọi mang đèn lại. Các nhà sư trong chùa dậy
sớm hơn sửa soạn trà nước cơm canh điểm tâm, đã đứng cả đằng sau hầu hạ cung kính. Bát Giới mừng lắm, ăn hết một mâm bánh bao, đoạn gánh đồ dắt ngựa đi ra. Tam Tạng, Hành Giả cảm tạ từ biệt mọi người. Nhà sư già lại dặn dò Hành Giả:


- Việc bi thương ấy ngài nhớ ghi lòng nhé! Hành Giả nói:
- Xin vâng lời, vâng lời! Khi nào vào thành tôi sẽ để tai để
mắt nghe ngóng suy nghĩ xem xét lại.


Đám khách thương cũng ồn ào ầm ĩ cùng đi cả ra đường cái. Khoảng giờ Dần, vượt qua cửa quan. Đến giờ Tỵ thì nhìn thấy tường thành. Thật là thành đồng lũy sắt, thiên phủ thần châu. Tòa thành này:



Hình thế rồng cuốn hổ ngồi,


Lầu lân gác phượng ngời ngời lung linh.


Hào ngự nước chảy uốn quanh, Dựa lưng vào núi tòa thành nguy nga. Gió xuân vi vút nhạc hòa,
Cờ bay trong nắng gần xa rợp đường.


Nhà vua có đạo đế vương,
Cảnh vật tươi tốt, mùa màng bội thu.




Hôm ấy mọi người đi tới phố chợ Đông, cánh khách thương
vào quán trọ, thầy trò Tam Tạng thì vào thành. Đang đi, họ nhìn thấy một quán trọ hội đồng. Thầy trò vào cả trong quán. Những người làm việc trong quán vội vàng báo với viên dịch thừa:


- Bên ngoài có bốn hòa thượng mặt mũi dị thường, dắt một con ngựa bạch đang vào quán trọ.


Viên dịch thừa nghe nói có ngựa, biết là những người quan sai, bèn rời sảnh đường ra đón. Tam Tạng vái chào nói:


- Bần tăng là người triều Đường bên phương Đông, vâng mệnh nhà vua sang chùa Đại Lôi Âm núi Linh Sơn bái Phật cầu kinh. Nay tới quý xứ định vào triều bái yết và xin đổi điệp vănvậy xin nghỉ nhờ quý quán đây một đêm, xong việc sẽ đi ngay.


Viên dịch thừa đáp lễ nói:


- Nha môn tôi dựng lên là để đón tiếp quan khách sứ giả, lẽ
tất nhiên là phải đón tiếp các ngài. Xin mời các ngài vào! Mời các ngài vào!


Tam Tạng mừng lắm gọi ngay mấy đồ đệ cùng vào tương kiến. Viên dịch thừa nhìn thấy mấy người mặt mũi xấu xí dữ tợn quá thì trong lòng sợ hãi thắc thỏm không biết người hay quỷ, cứ run cầm cập, nhưng vẫn phải đi pha trà, dọn cơm. Tam Tạng thấy ông ta sợ hãi, bèn nói:


- Đại nhân đừng sợ. Ba đồ đệ của tôi mặt mũi tuy xấu xí nhưng bụng dạ hiền lành. Tục ngữ có câu “mặt ác lòng lành”, việc gì mà sợ!


Viên dịch thừa nghe nói như vậy mới yên tâm, hỏi:


- Thưa quốc sư, triều Đường ở về phương nào? Tam Tạng đáp:
- Đó là nước Trung Hoa thuộc Nam Thiệm Bộ Châu. Viên dịch thừa lại hỏi:
- Quốc sư rời quê ra đi từ bao giờ? Tam Tạng thưa:
- Từ năm Trinh Quán thứ mười ba, đến nay đã mười bốn năm
rồi, vượt qua có đến muôn sông nghìn núi mới tới được đây đấy.


Viên dịch thừa khen ngợi:


- Thật là bậc thần tăng! Thật là bậc thần tăng! Tam Tạng hỏi lại:
- Thượng quốc ta thành lập từ đời nào? Viên dịch thừa đáp:
- Tệ xứ tôi tên gọi nước Thiên Trúc, có từ đời vua Thái Tổ,
Thái Tông truyền cho tới nay đã hơn năm trăm năm rồi. Đức vua đương trị vì hiện nay rất yêu quý núi sông hoa cỏ, hiệu là Di Tông hoàng đế, đổi niên hiệu là Tĩnh Yến, ở ngôi đã được hai mươi tám năm.


Tam Tạng nói:


- Hôm nay bần tăng muốn vào chầu vua đổi điệp văn không
biết có gặp phiên chầu không?


Viên dịch thừa thưa:


- Hay lắm! Hay lắm! Thật đúng lúc, gần đây công chúa nương
nương con gái quốc vương tuổi vừa hai chục xuân xanh, nàng dựng một lầu hoa ở ngã tư đường phố đang định ném quả cầu thêu, cầu trời chọn phò mã. Bây giờ đang lúc náo nhiệt nhất, hẳn quốc vương tôi chưa lui triều đâu, ngài muốn vào đổi điệp văn thì đi lúc này là hợp nhất.


Tam Tạng mừng rỡ định đi, nhưng thấy cơm chay đã được bưng lên, bèn cùng viên dịch thừa và Hành Giả cùng ngồi xuống ăn uống.


Ăn xong, đã quá giờ ngọ, Tam Tạng nói:


- Ta đi thôi. Hành Giả nói:
- Con hộ vệ sư phụ cùng đi. Bát Giới nói:


- Con đi với. Sa Tăng nói:
- Anh hai thôi được đấy. Mặt mũi anh trông chẳng ra quái gì,
lại còn đòi vào triều dọa ai. Để anh cả đi là hơn.


Tam Tạng nói:


- Ngộ Tĩnh nói phải. Chú ngốc thô lỗ lắm, Hành Giả còn tế
nhị hơn.


Chú ngốc dẩu mỗm nói:


- Không kể sư phụ, còn ba chúng ta mặt mũi đều như nhau cả
thôi mà.


Tam Tạng mặc áo cà sa. Hành Giả khoác tai nải, hai người cùng đi, thấy ngoài phố mọi người đủ hạng sĩ nông công cổ, tao nhân mặc khách, phàm phu tục tử đều nhao nhao nói:


- Đến xem gieo cầu đi!


Tam Tạng dừng lại bên đường nói với Hành Giả:


- Nơi đây từ con người, quần áo, nhà cửa, đồ dùng, cho tới
giọng nói, ngôn ngữ chẳng khác gì nước Đại Đường ta. Ta nhớ tới chuyện tiên mẫu ta cũng do ném quả cầu thêu mà tìm được nhân duyên cũ, kết làm vợ chồng, thì thấy hóa ra vùng này cũng có phong tục ấy nhỉ?


Hành Giả nói:


- Chúng ta cũng đi xem một tí, sư phụ thấy thế nào? Tam Tạng nói:
- Thôi, thôi. Chúng ta ăn mặc thế này không tiện, e họ hiềm
nghi.


Hành Giả nói:


- Sư phụ quên mất lời dặn của nhà sư già chùa Cấp Cô Bố
Kim rồi à? Một là chúng ta đi xem gieo cầu, hai là xem xét thật giả. Vả lại đang lúc nhộn nhịp thế này, đức vua tất đang chờ tin báo hỷ của công chúa, đâu có ra triều bàn việc? Chúng ta cứ đi cái đã.


Tam Tạng nghe lời, đành đi theo Hành Giả, thấy đủ mọi hạng người đang đứng chen chúc ở phía ngã tư xem gieo cầu. Than ôi, biết đâu chuyến đi này lại là: ngư ông vừa thả dây câu xuống, đã giật ngay lên chuyện thị phi.


Lại nói chuyện quốc vương nước Thiên Trúc tính rất thích núi sông hoa cỏ, năm ngoái dắt hậu phi công chúa vào vườn ngự uyển thưởng nguyệt ngắm hoa làm kinh động tới một con yêu quái, nó bèn cuốn công chúa đi, còn mình thì biến thành công chúa giả thế vào. Yêu quái biết rõ Đường Tăng năm này, tháng này, ngày này đi qua đây, hắn bèn mượn sự giàu có của quốc gia, dựng một lầu hoa, định kén Đường Tăng để trở thành Thái Ất thượng tiên. Đúng lúc giờ ngọ ba khắc, Tam Tạng và Hành Giả đi lẫn trong đám người, chen vào gần phía chân lầu. Công chúa bèn thắp hương khấn cáo với trời đất, bên phải bên trái có
tới dăm bảy chục cô gái hầu xinh đẹp nõn nà bưng quả cầu thêu. Tám khung cửa sổ của ngôi lầu đèn sáng lung linh. Công chúa đưa mắt nhìn thấy Đường Tăng đã tới gần, bèn cầm lấy quả cầu ném xuống đầu Đường Tăng. Đường Tăng giật nẩy mình làm vẹo cả chiếc mũ tỳ lư, hai tay vội vàng giơ lên đỡ lấy quả cầu, nhưng quả cầu đã theo đà rơi tụt vào ống tay áo. Trên lầu mọi người reo ầm lên:


- Ném trúng hòa thượng rồi! Ném trúng hòa thượng rồi!






Chà, lúc ấy đám khách thương đứng ở ngã tư chen lấn xô đẩy
định xông vào cướp lấy quả cầu. Hành Giả quát lên một tiếng, nghiến răng ưỡn người, thân mình cao tới ba trượng lẫm liệt oai phong, lại chìa bộ mặt xấu xí dị thường ra, khiến mọi người sợ hãi chen nhau chạy giạt ra, chẳng dám tới gần. Một lát, đám người tản đi cả, Hành Giả lại hiện nguyên bản tướng. Các cô tố
nữ cung nga, các quan thái giám lớn nhỏ đứng trên lầu đều bước cả xuống quỳ trước mặt Đường Tăng, lạy nói:


- Thưa quý nhân, mời quý nhân vào triều dự tiệc hỷ.


Tam Tạng vội vàng đáp lễ, vực mọi người đứng dậy, rồi quay
lại oán trách Hành Giả:


- Tại con khỉ nhà ngươi gây rắc rối cho ta rồi! Hành Giả cười nói:
- Quả cầu rơi trúng đầu sư phụ, lăn vào trong tay áo sư phụ,
có liên quan gì đến con, sư phụ oán trách con nổi gì?


Tam Tạng than thở:


- Biết khu xử làm sao bây giờ? Hành Giả nói:
- Sư phụ cứ yên tâm vào triều chầu vua, còn con quay về
quán trọ báo cho Bát Giới, Sa Tăng cứ đợi ở đó. Nhược bằng công chúa không kêu sư phụ làm chồng nữa thì thôi, ta đổi điệp văn rồi đi luôn. Còn như công chúa bằng lòng lấy sư phụ thì sư phụ nói với quốc vương xin cho được gọi đồ đệ vào dặn dò đôi lời. Khi ba chúng con được vời vào triều rồi, con sẽ xem xét thật giả. Ấy là kế “ỷ hôn hàng quái” đó.


Đường Tăng bất đắc dĩ phải nghe lời. Hành Giả quay về quán trọ.


Tam Tạng bị đám cung nga xúm xít dìu tới trước lầu. Công chúa bước xuống lầu, dang cánh tay ngọc đỡ lấy Đường Tăng, cùng bước vào điện báu, hai hàng nghi vệ dàn hai bên, quay về cửa triều. Quan Hoàng môn thấy vậy vào tâu:


- Vạn tuế! Công chúa nương nương dìu một hòa thượng bị quả cầu thêu gieo trúng đang đứng đợi chiếu chỉ ở ngoài cửa.


Quốc vương nghe báo như vậy, trong lòng không được vui lắm, ý muốn đuổi ra, nhưng chưa biết ý công chúa thế nào, đành ngậm ngùi cho mời vào. Công chúa và Đường Tăng bước tới điện Kim Loan. Chính thực là:



Một cặp vợ chồng hô vạn tuế, Hai hàng văn võ bái muôn năm.


Thi lễ xong, nhà vua cho truyền vào trong điện hỏi:


- Nhà sư từ đâu tới mà được con gái trẫm gieo trúng quả cầu? Đường Tăng phủ phục xuống thưa:
- Bần tăng là người nước Đại Đường thuộc Nam Thiệm Bộ
Châu, vâng mệnh nhà vua sang chùa Đại Lôi Âm bên phương Tây bái Phật cầu kinh, nhân có điệp văn đi đường trường, muốn vào triều đổi. Khi đi qua ngã tư, bên dưới ngôi lầu hoa, không ngờ công chúa nương nương gieo quả cầu thêu rơi trúng đầu bần tăng. Bần tăng là người xuất gia dị giáo đâu dám sánh đôi với cành vàng lá ngọc. Muôn xin bệ hạ tha cho bần tăng tội chết, đổi cho điệp văn, được sớm đến Linh Sơn bái Phật cầu kinh, khi về
cố quốc bần tăng mãi mãi không bao giờ quên công ơn trời biển của bệ hạ.


Quốc vương nói:


- Ngài là bậc thánh tăng Đông phương. Thật là “nghìn dặm
nhân duyên se chỉ thắm”. Công chúa của trẫm tuổi tròn hai mươi, hôn nhân chưa định, chọn được hôm nay ngày giờ đều tốt, bèn dựng lầu hoa gieo quả cầu kén chồng, vừa lúc ngài đi tới thì gieo trúng. Trẫm tuy không được vui cho lắm, nhưng chưa biết ý công chúa thế nào.


Công chúa dập đầu thưa:


-  Thưa  phụ  vương,  thường  có  câu:  “Nhân  duyên  trời
[322]
định”

. Con đã thề nguyền từ trước, tết quả cầu thêu, cáo
với trời đất quỷ thần, nhờ trời se duyên gieo cầu. Hôm nay gieo trúng thánh tăng, chính là do nhân duyên từ kiếp trước nên kiếp này mới được gặp gỡ, vì vậy con đâu dám thay đổi, nguyện kén chàng làm phò mã.


Bấy giờ quốc vương mới vui vẻ, lập tức sai quan chính đài Khám thiên giám chọn ngày lành tháng tốt. Một mặt sai sắm sửa đồ trang sức. Lại xuống chiếu hiểu dụ thiên hạ. Tam Tạng nghe vậy, chẳng cảm tạ gì cả, chỉ một mực van xin:


- Xin tha cho! Xin tha cho! Quốc vương nói:
- Hòa thượng này chẳng hiểu lý lẽ gì cả! Trẫm đã mang sự
giàu có của cả nước kén nhà ngươi làm phò mã, tại sao không ở lại đây hưởng thụ, lại cứ khăng khăng đòi đi lấy kinh? Nếu còn chối từ nữa, trẫm sẽ sai quan Cẩm y lôi ra chém đầu!


Tam Tạng sợ quá hồn vía rụng rời, cứ run cầm cập dập đầu thưa:


- Cảm tạ ơn trời biển của bệ hạ. Nhưng cả đoàn của bần tăng, gồm bốn người, còn có ba đồ đệ nữa hiện đang ở bên ngoài, bần tăng vâng lệnh vào đây, chưa hề dặn dò họ được lời nào. Muôn xin bệ hạ cho vời họ vào đây, đổi tờ điệp văn, rồi bảo họ lên đường ngay, kẻo lỡ việc sang phương Tây.


Quốc vương bằng lòng, đoạn hỏi:


- Thế đồ đệ của nhà ngươi đang ở đâu? Tam Tạng thưa:
- Họ ở cả quán dịch hội đồng.


Quốc vương bèn lập tức sai quan tới quán dịch mời mấy đồ
đệ vào triều đổi điệp văn để sang phương Tây, chỉ giữ một mình thánh tăng ở lại làm phò mã. Tam Tạng lúc này đành chỉ biết đứng hầu bên cạnh. Có bài thơ làm chứng rằng:



Đại đan chẳng tiết phải lo gìn, Hoạn nạn khó thành giận ác duyên. Đạo ở thánh truyền to tại ngã,


Thiện do người tích phú do thiên. Lục căn buông sổng nhiều tham dục, Nhất tịnh khai thông thấy bản nguyên. Vô ái vô tư thanh tịnh đến,
Ấy là giải thoát được siêu nhiên.




Lúc ấy, nhà vua sai quan tới quán dịch hội đồng cho vời ba đồ
đệ của Đường Tăng vào. Chuyện không nói nữa.


Lại nói chuyện Hành Giả từ lúc chia tay Đường Tăng dưới lầu hoa, vừa đi vừa cười, vui vẻ quay về quán dịch. Bát Giới, Sa Tăng bước ra đón hỏi:


- Anh cả có điều gì vui mà tươi hơn hớn thế? Sư phụ đi đâu không thấy?


Hành Giả đáp:


- Sư phụ có việc hỷ rồi. Bát Giới nói:
- Việc chưa đến đầu đến đũa, chưa được gặp Phật, chưa lấy
được kinh, có gì mà vui?


Hành Giả cười nói:
- Tôi và sư phụ đi tới ngã tư, dưới gần lầu hoa, vừa vặn sư phụ bị công chúa ném quả cầu thêu rơi trúng đầu. Rồi sau đó sư phụ bị các cung nga thái nữ cùng công chúa ngồi kiệu vào triều kén làm phò mã. Đó không phải là việc vui hay sao?


Bát Giới nghe xong giậm chân vỗ ngực nói:


- Biết thế tôi đi có hơn không. Chỉ tại cái chú Sa Tăng vô lại
này. Giá chú không ngăn tôi, tôi đã đi tuột tới chỗ lầu hoa, quả cầu thêu gieo trúng đầu lão Trư, công chúa kén lão Trư làm phò mã chẳng tuyệt hơn à? Trai anh hùng sánh gái thuyền quyên. Vớ được món bở như thế còn thú nào bằng!


Sa Tăng bước tới tát nhẹ vào mặt Bát Giới nói:


- Rõ dơ! Rõ dơ! Mặt mũi xấu xí thế kia mà đòi! “Có ba đồng
bạc quèn mua con lừa già tự khoe là cưỡi được”. Vô phúc quả cầu rơi trúng anh, thì đêm ấy người ta phải đốt vàng mã tống tiễn anh đi ngay, kẻo lại rước cái xúi quẩy vào nhà!


Bát Giới nói:


- Đen thui như chú thì còn thú vị gì! Tôi tuy xấu nhưng cũng
còn chút phong tình. Tự cổ đã có câu “Thịt da thô kệch, gân cốt cứng mạnh”, mỗi người đều có một cái khả thủ riêng của mình chứ!


Hành Giả nói:


- Chú ngốc chớ tán lăng nhăng, thu xếp hành lý ngay đi, sư
phụ sốt ruột gọi chúng ta vào triều bảo vệ người đến nơi rồi đây này.


Bát Giới nói:


- Anh nói sai rồi. Sư phụ làm phò mã, vào cung giao hoan với
công chúa, không phải trèo đèo lội suối, đụng quái gặp ma, cần gì phải anh bảo vệ! Sư phụ đã ngần ấy tuổi đầu, lại không biết cái chuyện trong khuê phòng ấy hay sao, mà cần phải anh dìu dắt?


Hành Giả túm tai Bát Giới, vung quả đấm quát:


- Đồ khốn kiếp chưa tuyệt lòng dâm dục này, nói năng lếu láo
vừa vừa chứ!


Đang ầm ĩ, bỗng có viên dịch thừa đến báo:


- Thánh thượng có chiếu chỉ sai quan tới mời ba vị thần tăng. Bát Giới hỏi:
- Mời chúng tôi vào làm gì? Viên dịch thừa thưa:
- Lão thần tăng may mắn được công chúa nương nương gieo
quả cầu trúng người, kén làm phò mã, nên sai quan tới mời.


Hành Giả nói:


- Các vị quan ấy đâu, mời họ vào cả đây.


Vị quan vào vái chào Hành Giả. Chào xong không dám ngẩng
nhìn, cứ lẩm bẩm trong miệng:


- Là ma?… Là quỷ?… Là thiên lôi?… Là quỷ dạ xoa? Hành Giả nói:
- Vị quan kia, nói gì thì nói đi, sao cứ lẩm bẩm thế?


Viên quan sợ hãi run cầm cập, hai tay cầm tờ thánh chỉ giơ
lên, miệng cuống quýt:


- Chúa công tôi mời vào họp mặt hai nhà, mời vào hai nhà…
họp mặt…


Bát Giới nói:


- Chúng tôi ở đây không có đồ tra tấn, không đánh người,
ngài cứ bình tĩnh mà nói, không phải sợ sệt gì cả.


Hành Giả nói:


- Chẳng phải sợ chú đánh đâu, mà ngài ấy sợ mặt mũi chú
đấy. Thôi mau mau thu xếp hành lý, dắt ngựa vào triều gặp sư phụ đẻ bàn tính công việc. Đó mới thật là:



Lối đi chật hẹp không đường tránh, Định chắp ái ân hóa oán cừu.


Cuối cùng không biết gặp quốc vương nói những chuyện gì,
xem hồi sau sẽ rõ.


HỒI THỨ CHÍN MƯƠI TƯ




Bốn sư dự tiệc vườn ngự uyển


Một quái mơ mộng tình ái vui




Lại nói chuyện bọn Hành Giả ba người đi theo vị quan tới bên
ngoài cửa Ngọ Môn. Quan Hoàng Môn lập tức vào báo. Quốc vương cho mời vào. Tới nơi, ba người đứng im như tượng, chẳng cúi lạy gì cả. Quốc vương hỏi:


- Ba vị này là đồ đệ của thánh tăng? Họ tên là gì? Quê quán ở đâu? Đi lấy kinh gì?


Hành Giả sấn tới, toan bước lên điện, viên quan hộ giá đứng bên cạnh quát:


- Không được đi, muốn nói gì cứ đứng nguyên tại chỗ mà tâu! Hành Giả cười nói:
- Chúng tôi là những người xuất gia, được bước là tiến một
bước.


Bát Giới, Sa Tăng theo sau, cũng bước tới gần. Tam Tạng sợ họ thô lỗ quê mùa làm quốc vương sợ hãi, bèn đứng dậy nói:


- Đồ đệ ơi, đức vua hỏi các con, các con hãy tâu đi.
Hành Giả thấy sư phụ đứng hầu bên cạnh, không kìm nổi, nói oang oang:


- Bệ hạ khinh người, khinh mình quá! Đã kén sư phụ tôi làm phò mã, tại sao lại bắt người đứng hầu? Thế gian gọi chồng của con gái mình là “quý nhân”, có lý gì quý nhân lại không được ngồi?


Quốc vương nghe nói sợ hãi tái mặt muốn lui vào điện, nhưng sợ “người ta trông vào”, đành đánh bạo bảo viên quan cận thị mang ra một chiếc đôn gấm, mời Đường Tăng ngồi. Hành Giả bấy giờ mới tâu:


- Lão Tôn quê ở Đông Thắng Thần Châu, nước Ngạo Lai, núi Hoa Quả, động Thủy Liêm. Cha là trời, mẹ là đất, đá nứt sinh ra. Ta đã từng bái phục chân nhân, học nên đạo lớn, sau đó lại trở về làng tiên, tụ tập tiểu yêu nơi động tiên phúc địa. Ta đã từng xuống biển hàng rồng, lên non phục hổ, xóa tên sổ tử, ghi tên sổ tiên,  quan  phong  Tề  Thiên  Đại  Thánh,  nhởn  nhơ  chốn  lầu quỳnh, thung dung nơi gác ngọc, hội họp các thiên tiên ngày ngày vui chơi ca hát. Chỉ do phá rối hội Bàn Đào, đại náo thiên cung nên bị Phật tổ bắt sống đem nhốt dưới núi Ngũ Hành, đói ăn đạn sắt, khát uống gỉ đồng, năm trăm năm không hề ăn cơm uống nước. May có sư phụ ta rời cõi Đông sang Tây bái Phật cầu kinh, đức Quan Âm bảo lĩnh cho ta thoát khỏi nạn trời, qua vòng khổ ải, quy y dưới cửa Du Già. Ta tên là Ngộ Không, thường gọi là Hành Giả.


Quốc vương nghe tiếng vang lừng như vậy, vội vàng rời ngai vàng, bước tới gần đưa tay đỡ Tam Tạng dậy, nói:


- Phò mã ạ, âu cũng là do duyên trời của trẫm, nên trẫm mới
được họ hàng thân quyến với bậc thần tiên.


Tam Tạng cảm tạ rối rít, mời quốc vương ngồi vào ngai vàng. Quốc vương lại hỏi:


- Vị nào là đồ đệ hai?


Bát Giới dẩu mõm ra oai nói:


- Lão Trư kiếp trước cũng là người, nhưng nhất sinh chỉ ham
vui chơi, biếng làm lụng, u mê mờ mịt, loạn tính dâm lòng, chẳng biết trời cao đất dày, khó nhận non xa biển rộng. Đang trong vòng u tối, bỗng gặp vị chân nhân. Nửa câu nói gỡ tung lưới nghiệt; dăm ba lời phá vỡ cửa mê. Khi ấy ta tỉnh ngộ, lập tức theo thầy, cần cù tu luyện công phu hai tám, kính cẩn rèn luyện sau trước ba ba, rồi được viên mãn siêu thăng bay lên thượng giới. Đội ơn dầy của Thượng Đế, ta được phong chức Thiên Bồng nguyên soái, tổng quan thủy binh, tiêu dao Vân Hán. Chỉ vì ở hội Bàn Đào ta uống rượu say, trêu ghẹo Hằng Nga, bị cách quan, đẩy xuống phàm trần, đầu thai nhầm thác sinh cửa lợn, chiếm cứ núi Phúc Lăng, gây nhiều tội ác. May gặp đức Quan Âm chỉ rõ đường lành, quy y cửa Phật, hộ vệ Đường Tăng sang phương Tây bái Phật cầu kinh, pháp danh là Ngộ Năng, tên gọi là Bát Giới.


Quốc vương nghe xong trong lòng sợ sệt chẳng dám liếc nhìn. Chú ngốc được thể càng lên mặt, lắc đầu dẩu mõm, vẫy vẫy đôi tai cười khìn khịt. Tam Tạng e Bát Giới làm nhà vua sợ hãi bèn quát:


- Bát Giới, con bỏ cái trò ấy đi!
Bấy giờ Bát Giới mới khoanh tay đứng im, ra dáng lịch sự. Quốc vương lại hỏi:
- Còn đồ đệ ba, vì sao lại quy y? Sa Hòa Thượng chắp tay thưa:
- Lão Sa vốn cũng là hạng phàm phu, vì sợ luân hồi phải đi
tìm đạo, ngao du nơi góc biển, phóng đãng chốn chân trời, thường được y bát tùy thân, luôn luyện tâm thần tự tại. Bởi chứng có lòng thành nên gặp được bạn tiên, âm dương di dưỡng, công phu đủ ba nghìn, hợp hòa đủ bốn tướng, siêu thăng lên thượng giới, lạy đức Ngọc Hoàng, được phong chức Quyển Liêm đại tướng, đứng hầu bên kiệu phượng xe loan, lại được phong hiệu tướng quân. Cũng vì trong hội Bàn Đào ta lỡ tay đánh vỡ chiếc chén bằng ngọc lưu ly, bị Thượng Đế đày xuống sông Lưu Sa, thay hình đổi dạng, gây ác hại người. May gặp đức Bồ Tát viễn du cỡi sông, khuyên ta quy y, đợi phật tử triều Đường sang Tây bái Phật cầu kinh sẽ thành chính quả. Từ đấy ta đổi chí lớn tu theo đại giáo, lấy tên sông làm họ, pháp danh là Ngộ Tĩnh, tên gọi là Hòa Thượng.


Quốc vương nghe nói vừa sợ vừa vui. Vui vì con gái mình kén được Phật sống. Sợ vì ba đồ đệ là giống yêu thần. Đang trong lúc vừa sợ vừa vui, bỗng thấy quan Chánh đài coi thiên văn bước vào tâu:


- Lễ cưới định cử hành vào ngày mười hai tháng này. Hôm ấy là ngày nhâm tý tốt ngày, mọi việc đều thuận lợi, rất hợp với việc hôn nhân.


Quốc vương hỏi:


- Hôm nay là ngày gì? Quan Chánh đài thưa:
- Hôm nay mồng tám, là ngày mậu thân, con khỉ dâng quả, rất
hợp với việc tiến người hiền cắt cử công việc.


Quốc vương mừng lắm, lập tức sai quan Đương giá quét dọn vườn hoa, cùng lâu đài điện các, mời phò mã cùng ba vị đồ đệ đi nghỉ, đợi triều đình sửa soạn yến tiệc hợp cẩn cho công chúa đi lấy chồng. Mọi người tuân lệnh, quốc vương lui triều, trăm quan ai về nhà nấy. Chuyện không nói nữa.


Lại nói chuyện thầy trò Tam Tạng đến chỗ vườn hoa thì trời cũng vừa tối. Cơm chay cũng được dọn ra. Bát Giới vui vẻ nói:


- Hôm nay phải chén kỳ no mới được.




Người quản biện mang cơm canh, bánh trái vừa một gánh
nặng, Bát Giới ăn xong lại đòi thêm, thêm rồi lại ăn, cho tới khi bụng căng tròn mới thôi. Một lát sau, đèn được thắp lên, mọi người trải giường mắc màn đi ngủ. Tam Tạng thấy xung quanh không còn ai, bèn oán trách Hành Giả, giận dữ nói:


- Con khỉ già Ngộ Không kia, nhà ngươi hại ta bao phen rồi! Ta đã bảo chỉ đi đổi điệp văn thôi, chứ đừng đi về phía lầu hoa, nhà ngươi lại cứ một mực đòi đưa ta tới đó xem! Bây giờ xem đã sướng chưa? Cớ sự này thì biết làm sao bây giờ?


Hành Giả cười khành khạch nói:


- Sư phụ chẳng bảo “tiên mẫu cũng do gieo quả cầu thêu gặp
nhân duyên cũ, nên vợ nên chồng” đó sao? Sư phụ có ý hoài cổ
như thế, lão Tôn mới dẫn đi chứ. Với lại nhớ tới lời nhà sư già chùa Cấp Cô Bố Kim, thì phải tới để xem xét thật giả nữa. Vừa rồi con nhìn thấy mặt quốc vương có chút ám khí, chỉ chưa biết công chúa thế nào thôi.


Tam Tạng hỏi:


- Con gặp công chúa thì làm thế nào? Hành Giả đáp:
- Cặp mắt lửa ngươi vàng của lão Tôn chỉ nhìn mặt là biết rõ
thiện ác thật giả, giàu sang nghèo hèn. Bấy giờ sẽ ra tay, làm rõ ngay gian.


Sa Tăng, Bát Giới cười nói:


- Dạo này anh lại học được cách xem tướng mặt cơ à? Hành Giả nói:
- Mấy ông thầy tướng chỉ đáng hạng cháu của ta. Tam Tạng quát mắng:
- Câm đi, đừng bẻm mép nữa! Nay họ cố tình kén ta làm phò
mã thì khu xử thế nào?


Hành Giả nói:


- Chúng ta cứ đợi tới hôm mười hai là hôm cưới, nhất định
công chúa phải ra làm lễ lạy cha mẹ. Lúc ấy lão Tôn sẽ đứng
cạnh quan sát. Nếu quả đúng là công chúa thật, thì sư phụ cứ việc làm phò mã, ở lại hưởng vinh hoa phú quý.


Tam Tạng nghe xong, càng tức giận quát mắng:


- Con khỉ già kia, nhà ngươi định hại ta sao! Như lời Ngộ
Năng nói đấy, leo cau đã tới buồng rồi, nhà ngươi lại còn uốn lưỡi dụ ta à? Câm ngay miệng lại, đừng há họng ra nữa. Còn vô lễ, ta sẽ niệm bài khẩn cô nhi chú cho nhà ngươi biết tay!


Hành Giả nghe nói tới niệm chú, sợ quá quỳ xuống van xin:


- Sư phụ đừng niệm! Đừng niệm! Nếu đúng là công chúa thật
thì tới lúc làm lễ hợp cẩn chúng con sẽ đại náo hoàng cung đưa sư phụ đi.


Thầy trò tranh cãi một hồi, chẳng mấy chốc đêm đã khuya. Chính lúc này:



Cảnh vật trầm trầm, Hương hoa ngan ngát. Cửa son buông rèm báu, Sân quạnh bóng đèn mờ. Vắng vẻ cột cây đu,
Sáo đàn im phăng phắc.
Quanh thềm bóng hoa lồng trăng vằng vặc, Muôn sao lấp lánh vòm trời xa xa. Tiếng đỗ quyên thiết tha,
Giấc mộng hoa êm dịu.


Sông ngân bắc ngang trời vời vợi, Mây trắng bay về nơi cố hương.
Chính là lúc người đi lòng dạ ngổn ngang, Gió rung cành liễu non, cảnh vật càng bi thiết.


Bát Giới nói:


- Thưa sư phụ, đêm khuya rồi, có việc gì sáng mai bàn tiếp,
bây giờ đi ngủ đã.


Thầy trò bèn đi ngủ.


Chẳng mấy chốc tiếng gà gáy báo sáng đã vang lên, quốc
vương lên điện khai triều. Chỉ thấy:



Cung điện khí đẹp dâng dâng,


Gió đưa tiếng nhạc vang lừng trời cao.


Cờ bay phấp phới tường hào,


Nắng soi đầu sấu, dập dìu nhạc hoa.


Liễu xanh hương tỏa tràn trề, Long lanh sương sớm đầm đìa nụ hoa. Quan chầu theo hạng đứng ra,
Một triều nhất thống âu ca thái bình.




Trăm quan văn võ chầu lạy xong, nhà vua lại truyền:


- Quan Quang Lộc tự hãy chuẩn bị tiệc cưới vào ngày mười
hai. Còn hôm nay tạm sửa soạn mấy vò rượu xuân mời phò mã vào vườn ngự uyển thưởng lãm.


Đoạn dặn dò Ty Nghi chế đưa ba vị đồ đệ vào nghỉ tạm trong quán dịch hội đồng, sai quan Quang lộc tự dọn ba mâm tiệc chay thết đãi. Cả hai nơi đều có người của Ty Giáo phường tấu nhạc hầu hạ các vị thưởng xuân tiêu khiển. Bát Giới nghe thấy vậy, bèn nói ngay:


- Tâu bệ hạ, thầy trò chúng tôi từ ngày gặp gỡ chưa bao giờ rời nhau một giây. Hôm nay uống rượu trong vườn ngự uyển, xin đưa chúng tôi vào cả đó vui chơi vài ngày, sau đó để sư phụ ở lại làm phò mã bệ hạ. Bằng không, việc này sẽ không xong đâu.


Quốc vương thấy Bát Giới dữ tợn, nói năng thô lỗ, lại thấy Bát Giới vênh mặt ưỡn ngực, dẩu mõm vẩy tai tuồng như có ý sừng sộ, sợ phá rối mất việc hôn nhân, đành phải bằng lòng vậy,
bèn truyền lệnh:


- Sửa soạn hai tiệc ở gác Vĩnh Trấn Hoa Di để ta và phò mã cùng ngồi dự. Sửa ba tiệc nữa ở đình Lưu Xuân để mời ba vị đồ đệ, kẻo thầy trò cùng ngồi ăn bất tiện.


Chú ngốc lúc ấy mới ngẩng lên dạ một tiếng thật to, nói lời đa tạ, rồi ai nấy lui ra.


Quốc vương lại truyền lệnh sai các quan trong nội cung đặt tiệc mời hậu phi ở ba cung sáu viện cùng công chúa tới dự bàn tiệc, sắm sửa trang phục đồ cưới, chuẩn bị cho buổi lễ cưới ngày mười hai.


Vào khoảng giờ tỵ, quốc vương sai quân hầu sắp đặt xa giá mời Đường Tăng cùng vào vườn thượng uyển ngắm cảnh.


Thật là một nơi tuyệt đẹp:




Lối lát đá hoa, Lan can dát ngọc.
Lối lát đá hoa, hai bên hoa lạ ngát hương thơm, Lan can dát ngọc, chân thềm cỏ kỳ xanh mướt mướt. Đào yêu nom mỡ màng tươi tốt,
Liễu non lanh lảnh tiếng hoàng oanh.
Bước đi hương ngây ngất quanh mình, Giọt móc đọng trên tà áo mỏng.
Ao rồng chân đài phượng, Gác trúc cạnh hiên tùng.
Nghe sáo, phượng đến múa chân thềm, Ao thiêng cá hóa rồng bay vút,
Gác trúc đề thơ, lời lời thôi xao hay tuyệt; Hiên tùng văn tập, câu câu châu ngọc tuyệt vời. Hòn giả sơn xanh biếc ngấn rêu,
Hồ khúc thủy trong veo làn nước.


Đình mẫu đơn, giàn tường vi gấm hoa trùng điệp, Hiên vị lê, lối hải đường nụ ngọc tầng tầng. Thược dược nhả hương thanh,
Hướng dương khoe sắc lạ. Bạch lê, hồng hạnh xanh óng ả, Huệ tía, lan vàng nở lan man.
Hoa lệ xuân, hoa mộc bút, hoa đỗ quyên rực rỡ bạt ngàn;


Hoa phượng tiên, hoa ngọc trâm, hoa hàm tiếu tưng bừng xán lạn.


Cả một vùng mỡ màng tươi nhuận, Toàn khu vườn xanh tốt thơm tho. Thêm nỗi gió Đông kéo nắng xuân về, Khắp vườn xinh tươi, yêu kiều, rực rỡ.


Một đoàn gồm cả vua tôi, ngắm cảnh hồi lâu, lại thấy quan ở
Ty Nghi chế mời bọn Hành Giả vào đình Lưu Xuân. Quốc vương dắt Đường Tăng vào gác Hoa Di. Ở những nơi này đều bày yến tiệc, nổi đàn sáo. Tiếng hát vang lên tưng bừng nhộn nhịp. Thật là:



Cung điện nguy nga rọi ánh hồng, Lầu rồng gác phượng đẹp vô cùng.
Sắc xuân rải rác hoa thêu gấm, Tia nắng rọi soi áo sáng trưng. Tiên hội sáo đàn vang thánh thót,
Rượu quỳnh bát chén rộn tưng bừng.
Vua tôi thưởng lãm vui say nhỉ, Mãi mãi hoa di phúc hưởng chung.


Lúc ấy Tam Tạng thấy quốc vương trọng vọng mình quá,
không biết làm thế nào, đành miễn cưỡng vui theo, nhưng thật ra là ngậm bồ hòn làm ngọt. Khi ấy ở nơi chỗ ngồi, trên tường có treo bộ tranh tứ bình vẽ cảnh bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, mỗi tranh đều có thơ đề vịnh của những bậc hàn lâm danh sĩ.


Bài thơ tả cảnh mùa xuân viết:




Âm dương chuyển vận khắp lò hồng, Đất rộng tưng bừng vạn tượng tân. Đào mận tranh xuân hoa lạn mạn, Én về đậu nóc ngát hương trần.


Bài thơ tả cảnh mùa hạ viết:




Gió nóng lao xao dạ phạc phờ, Lập lòe lửa lựu ánh trời xa.
Sáo đàn dìu dặt mộng trưa tỉnh, Sen ngát hương đưa khắp trướng là.




Bài thơ tả cảnh mùa thu viết:




Giếng ngọc ngô đồng lá úa vàng; Rèm châu chẳng cuốn, đêm dầm sương. Én bay miền ấm rời hang đến,
Nhạn bẻ hoa lau biệt cố hương.




Bài thơ tả cảnh mùa đông viết:




Mây bay mưa trút cảnh đông hàn, Gió bấc căm căm tuyết trắng non.
Buồng kín lò hồng hơi ấm áp, Hoa mai nở sớm rực lan can.


Quốc vương thấy Đường Tăng chăm chú xem thơ, bèn nói:


- Phò mã thưởng thức ý vị trong các bài thơ ấy, chắc là cũng
thích ngâm nga. Nếu không tiếc lời vàng ngọc, xin mời phò mã theo nguyên văn họa lại từng bài. Ý phò mã thế nào?


Tam Tạng vốn là người xúc cảnh sinh tình, minh tâm kiến tính, thấy quốc vương trân trọng mời làm thơ họa, bất giác ứng
khẩu đọc ngay một câu:



Nắng chiếu băng tan mặt đất hồng.




Quốc vương mừng lắm sai ngay quan thị vệ:


- Lấy bốn thứ báu trong phòng văn[323]


ra để phò mã viết
những bài thơ họa khi nào thư thả trẫm sẽ ngâm nga thưởng thức.


Tam Tạng vui vẻ nhận lời, cầm bút viết luôn cả bốn bài thơ họa.


Bài họa cảnh mùa xuân viết:




Nắng chiếu băng tan mặt đất hồng, Cỏ hoa vườn ngự sắc càng tân. Gió hòa mưa ngọt dân no đủ,
Biển lặng sông trong tuyệt bụi trần.




Bài họa cảnh mùa hạ viết:




Đẩu chỉ nam phương nhật phạc phờ, Mây hòe lửa lựu chiếu trời xa.


Oanh vàng én tía vang cành liễu, Thánh thót âm thanh lọt trướng là.


Bài họa cảnh mùa thu viết:




Thoảng hương quất lục với chanh vàng, Tùng bách vui xanh thấy tuyết sương. Cúc nở gấm thêu chân giậu trúc,
Sáo đàn rộn rã thủy vân hương.




Bài họa cảnh mùa đông viết:




Tuyết tạnh trời hoe tiết vẫn hàn, Trắng phau màu ngọc phủ sườn non. Đốt lò xương thú hâm vò rượu,
Cao giọng ca ngâm tựa thúy can.




Quốc  vương  xem  xong  thơ  họa  mừng  lắm,  hết  sức  tán
thưởng:


- Câu kết “cao giọng ca ngâm tựa thúy can” hay tuyệt!


Đoạn sai Ty Giáo phường đem phổ nhạc những bài thơ mới.
Hết ngày hôm ấy tiệc rượu mới tan.


Bọn Hành Giả dự tiệc trong đình Lưu Xuân cũng thả sức ăn uống. Mỗi người uống vài chén rượu, thấy chuếnh choáng hơi men định đi tìm Tam Tạng, nhưng đã nhìn thấy Tam Tạng và quốc vương cùng ngồi trong một tòa lầu các. Bát Giới tính ngốc nổi lên, ứng khẩu nói:


- Vui vẻ quá! Thú vị quá! Ngày hôm nay ăn uống thật no say, rồi phải đánh một giấc cho đã đời!


Sa Tăng cười nói:


- Anh hai chẳng biết quái gì, chén no phồng bụng ngủ nghê
làm sao được!


Bát Giới nói:


- Chú thì biết cóc khô gì! Tục ngữ có câu: “Ăn no chớ có
vươn vai, mỡ màng trong bụng tiêu đời nhà ma” đấy thôi!


Đường Tăng chia tay quốc vương bước vào trong đình, mắng
Bát Giới:


- Đồ khốn kiếp kia, thật ngày càng thô lỗ! Đây là chỗ nào mà cứ bô bô nói nhảm, nhỡ ra làm quốc vương giận dữ có phải nguy hại tới tính mạng không?


Bát Giới nói:
- Không sao! Không sao! Chúng ta đã là thông gia với họ, lẽ nào họ lại giở mặt với mình? Thường có câu: “Thông gia ai lại đánh nhau, láng giềng ai lại nói câu phũ phàng”. Mọi người cứ vui đùa đi, sợ quái gì họ?


Tam Tạng quát:


- Lôi con lợn lại đây đánh cho hai mươi roi!


Hành Giả túm lấy Bát Giới lôi lại, Tam Tạng vung roi đánh
liền. Chú ngốc kêu toáng lên:


- Ngài phò mã ơi, ngài tha tội cho, tha tội cho!


Viên quan hầu đứng bên cạnh khuyên can mãi, Tam Tạng mới
thôi. Chú ngốc lồm cồm bò dậy, lầu bà lầu bầu:


- Quý nhân thế đấy! Phò mã thế đấy! Hôn nhân chưa thành mà đã giở phép vua ra rồi!


Hành Giả bịt lấy mồm Bát Giới nói:


- Chớ nói lăng nhăng! Chớ nói lăng nhăng! Mau đi ngủ đi!


Cả bọn ngủ trong đình Lưu Xuân một đêm nữa, sáng hôm sau
lại tiệc tùng ăn uống như hôm trước.


Ba bốn ngày mải vui chơi thấm thoắt đã tới ngày mười hai tốt ngày, các quan ở ba bộ Quang lộc tự quay vào tâu:


- Lũ thần từ ngày mồng tám vâng chiếu chỉ, đến nay phủ phò mã đã dựng xong, chỉ đợi bầy đồ nội thất. Tiệc cưới cũng đã sửa
soạn đầy đủ, tổng cộng là hơn năm trăm mâm cả tiệc chay lẫn tiệc mặn.


Quốc vương mừng lắm, muốn mời phò mã đi dự tiệc. Bỗng thấy quan nội cung bước tới trước mặt nhà vua rằng:


- Vạn tuế! Chính cung hoàng hậu có lời mời.


Quốc vương bèn lui vào nội cung đã thấy hoàng hậu ba cung,
phi tần sáu viện đưa công chúa tới cung Triêu Dương trò chuyện vui vẻ. Thật là hoa chồng gấm chất, xinh đẹp yêu kiều, còn hơn cả thiên  đường nguyệt điện, nào có kém Bồng Đảo, Doanh Châu. Có bốn bài từ Hỉ, Hội, Giai, Nhân làm chứng rằng:


Bài từ Hỉ viết:







Hỉ! Hỉ! Hỉ! Mừng vui quá nhỉ!
Kết hôn nhân, ân ái mỹ Khéo léo điểm trang, Thường Nga nào kể!
Trang sức phượng với rồng,


Áo vàng ươm rực rỡ.


Môi hồng răng trắng má hây hây,


Yểu điệu như hoa sao đẹp thế! Tầng tầng gấm vóc sắc long lanh,
Trong đội nghìn vàng hương thoảng nhẹ.




Bài từ Hội viết:




Hội! Hội! Hội! Yêu kiều tuyệt vẻ!
Hơn Mao Tường, vượt gái Sở. Nghiêng nước nghiêng thành, Ngọc hoa nào kể.
Trang sức xinh tươi, Nhẫn vàng óng ả.
Lòng lan tính huệ thanh cao, Mặt phấn da băng cao quý.
Mày cong xanh mượt nét núi xa, Chen trong đội gấm xinh tuyết mỹ!


Bài từ Giai viết:







Giai! Giai! Giai! Ngọc nữ tiên nga,
Sao yêu thế, đáng khen là… Hương bay thơm phức, Son phấn đẹp ghê!
Thiên Thai phúc địa xa lắc,


Sao bằng ngay tại vương gia.


Nói cười tưng bừng nhộn nhịp, Bổng trầm thánh thót sênh ca.
Hoa chồng ngọc chất bao xinh đẹp, Khắp chốn nhân gian thật kém xa.


Bài từ Nhân viết:




Nhân! Nhân! Nhân! Lan xạ hương thơm.


Tốp tiên tử, đám mỹ nhân.


Phi tần lộng lẫy, Công chúa thanh tân. Tóc mây quấn mỏ quạ,
Nghê thường kiểu áo quần, Một tiếng âm tiên ròn rã, Hai hàng son tía tươi xinh.
Năm nào từng kết duyên loan phượng, Giờ đây mừng dự hội hôn nhân.


Lại nói chuyện xa giá quốc vương tới nơi, các bà hậu phi dẫn
công chúa cùng cung nga thái nữ ra đón tiếp. Quốc vương mặt tươi roi rói bước vào cung Triêu Dương an tọa. Đám hậu phi cúi lạy xong. Quốc vương nói:


- Công chúa nương nương của trẫm từ hôm mồng tám gieo quả cầu thêu, kén được thánh tăng, chắc đã mãn nguyện thỏa lòng. Các quan trong các nha môn đã thể theo bụng trẫm, mọi việc cũng đã chuẩn bị chu đáo. Hôm nay tốt ngày, nên sơm sớm bắt đầu tiệc cưới, kẻo nhỡ mất giờ tốt.


Công chúa bước tới gần cúi lạy quốc vương nói:
- Thưa phụ vương, phụ vương hãy tha tội cho con, con mới dám thưa một điều này: Mấy ngày qua, con có nghe các quan trong cung kháo nhau rằng Đường thánh tăng có ba đồ đệ mặt mũi cực kỳ xấu xí dữ tợn, con chẳng dám nhìn họ đâu, sợ nhìn họ sinh lòng sợ hãi. Muôn xin phụ vương đưa họ ra ngoài thành để họ không gây kinh sợ tới tấm thân yếu đuối của con, kẻo sinh tai họa.





Quốc vương nói:


- Con không nói, khéo cha quên khuấy mất. Đúng là mặt mũi
họ xấu xí dữ tợn lắm. Suốt ngày nay cha đã khoản đãi họ trong đình Lưu Xuân rồi. Hôm nay lên điện cha sẽ đổi điệp văn cho họ, bảo họ ra ngoài thành cho tiện việc tổ chức tiệc cưới.


Công chúa dập đầu tạ ơn. Quốc vương lên xa giá tới cung
điện, truyền lệnh cho mời phò mã và ba vị đồ đệ cùng đến.


Nguyên Đường Tăng bấm đốt ngón tay tính ngày, chịu đựng cho tới ngày mười hai. Hôm ấy, trời chưa sáng, đã bàn kế hỏi ba đồ đệ rằng:


- Hôm nay là ngày mười hai rồi, việc này phải khu xử thế nào bây giờ?


Hành Giả thưa:


- Con đã nhìn thấy một chút ám khí trên mặt quốc vương,
nhưng chưa thấm khắp người, chưa đến nỗi hại lắm. Chỉ còn chưa nhìn mặt công chúa xem thế nào thôi. Nếu công chúa ra, lão Tôn chỉ liếc một cái là biết ngay thật giả, lúc ấy mới tính được. Sư phụ cứ yên tâm. Hôm nay họ nhất định lại đây mời sư phụ và bảo chúng con ra ngoài thành. Sư phụ cứ tuân theo đừng sợ. Trong chớp mắt con sẽ tới, theo sát bên cạnh bảo vệ sư phụ.


Thầy trò đang bàn tính, đã thấy quan Đương giá và Ty Nghi chế tới mời. Hành Giả cười nói:


- Đi thôi! Đi thôi! Chắc chắn họ sẽ tống tiễn chúng ta, chỉ để một mình sư phụ đi dự tiệc.


Bát Giới nói:


- Tống tiễn thì phải tặng hàng trăm nghìn lạng vàng ròng bạc
trắng để chúng ta mua vài thứ về nhà ông bố vợ tôi, họp mặt vui vẻ tí chút chứ!


Sa Tăng nói:


- Anh hai ngậm miệng vào! Chớ có nói lăng nhăng, mọi việc
đã có anh cả định đoạt.


Đoạn mọi người thu xếp hành lý, ngựa, đi theo mấy viên quan tới trước thềm son. Quốc vương trông thấy mời bọn Hành Giả tới nói:


- Các ngài mang tờ điệp văn lên đây, trẫm sẽ đóng triện cho rồi trao trả các ngài. Ngoài ra trẫm sẽ tặng nhiều tiền ăn đường, tiễn các vị lên đường tới Linh Sơn bái Phật cho sớm. Lấy được kinh về, trẫm sẽ trọng thưởng. Trẫm chỉ giữ một mình phò mã ở lại đây thôi, các ngài đừng có nhớ nhung gì hết.


Hành Giả cảm tạ, bảo Sa Tăng lấy tờ điệp văn dâng lên. Quốc vương xem xong, cầm quả ấn đóng vào, lại sai mang ra mười lạng vàng ròng, hai mươi lạng bạc trắng tặng biếu tạm gọi là lễ của hai nhà thông gia. Bát Giới vốn là người nặng lòng tài sắc vội vã nhận liền. Hành Giả ngước lên dạ một tiếng thật to nói:


- Xin đa tạ! Vui vẻ quá!


Đoạn quay người định đi luôn. Tam Tạng sợ quá chồm dậy
níu chặt lấy Hành Giả nghiến răng rin rít nói:


- Các con không đoái hoài tới ta nữa thật sao?


Hành Giả bấm vào lòng bàn tay Tam Tạng một cái, đoạn đưa
mắt ra hiệu nói:


- Sư phụ cứ ở đây yên tâm hưởng phúc, chúng con đi lấy kinh khi nào quay về, sẽ ghé vào thăm.


Tam Tạng nửa tin nửa ngờ, chẳng chịu rời tay. Trăm quan
trông vào cứ ngỡ thầy trò chia tay nhau thực.


Quốc vương lại mời phò mã lên điện và sai các quan tiễn bọn Hành Giả ra ngoài thành. Bấy giờ Tam Tạng đành buông tay Hành Giả bước lên điện.


Bọn Hành Giả cùng mọi người bước ra khỏi triều đình, hai bên chia tay nhau. Bát Giới hỏi:


- Chúng ta đi thật à?


Hành Giả chẳng nói chẳng rằng đi tới quán dịch. Viên dịch
thừa đón vào pha trà dọn cơm. Hành Giả nói với Bát Giới, Sa
Tăng:


- Hai chú cứ ở đây, chớ có thò mặt đi đâu. Viên dịch thừa có hỏi gì thì cứ trả lời ỡm ờ cho qua chuyện, đừng có nói gì về tôi, để tôi đi bảo vệ sư phụ.


Đại Thánh bèn nhổ một sợi lông, thổi khí tiên, hô “biến!” lập tức biến thành một Hành Giả giả cùng ngồi với Bát Giới, Sa Tăng trong quán dịch, còn chân thân, nhảy vèo một cái lên giữa tầng không, biến thành một con ong mật. Chỉ thấy:



Cánh vàng mồm ngọt đuôi châm Múa may theo gió bay gần bay xa Thích nhất hút nhụy muôn hoa
Xuyên hoa đậu lá bay là bay cao


Mấy phen vất cả cần lao


Bay đi bay lại xiết bao vội vàng


Ủ thánh mật ngọt vô vàn


Tiếng thơm công trạng thế gian tỏ tường.




Hành Giả nhẹ nhàng bay vào trong triều, nhìn thấy Đường
Tăng đang ngồi trên một chiếc đôn gấm bên trái quốc vương, nét mặt đăm chiều, lòng buồn rười rượi. Hành Giả bay đến đậu trên mũ tỳ lư, nhẹ nhàng bò xuống mang tai, khe khẽ cất tiếng gọi:


- Sư phụ, con đã tới đây, đừng buồn phiền nữa.


Câu nói ấy chỉ có Đường Tăng nghe thấy, những kẻ phàm phu
làm sao nghe được! Đường Tăng nghe vậy mới thấy yên lòng. Một lát sau, mấy vị quan trong cung bước tới mời:


- Vạn tuế! Tiệc cưới đã bày tinh tươm trong cung Chi Thước, hoàng hậu và công chúa đang đợi ở đấy, xin mời bệ hạ và quý nhân tới dự.




là:








Quốc vương vui mừng khôn xiết cùng phò mã vào cung. Thật






Tà chúa yêu hoa, hoa tác họa,
Lòng thiền động niệm, niệm sinh buồn.




Cuối cùng không biết Đường Tăng ở trong cung được giải
thoát ra làm sao, xem hồi sau sẽ rõ.



HỒI THỨ CHÍN MƯƠI LĂM




Giả hợp chân hình bắt thỏ ngọc


Chân âm về chính gặp nguồn thiêng




Lại nói chuyện Đường Tăng lòng buồn rười ruợi đi theo quốc
vương vào đến hậu cung, thấy trống chiêng rộn rã vang trời, hương bay ngạt ngào ngát mũi, nhưng vẫn cứ cúi gằm mặt chẳng dám ngẩng nhìn. Hành Giả trong bụng mừng thầm, đậu trên chiếc mũ tỳ lư, vận thần thông, mở to cặp mắt lửa ngươi vàng quan sát, thấy hai ban mỹ nữ đứng sắp hàng hai bên khác nào nơi cung quảng lầu tiên, còn hơn cả gió xuân màn gấm. Thật là:



Xinh tươi yểu điệu, Chất ngọc đa băng.
Từng hàng khác nào gái Sở tuyệt trần, Từng đôi còn hơn cả Tây Thi nước Việt.
Tóc mây uốn phượng bay dìu dặt, Nét mây cong xanh thẫm núi xa. Sáo đàn vẳng ngân nga,


Trống chiêng vang rộn rã.


Năm bậc cung-thương-giốc-chủy-vũ, Hòa quyện nhau lúc bổng lúc trầm. Giọng ca điệu múa rộn tưng bừng, Gấm chất hoa chồng đủ ngũ sắc.


Hành Giả thấy sư phụ tuyệt nhiên không chút động tâm, cũng
tấm tắc khen thầm trong bụng:


- Thật là nhà sư chân chính! Thật là nhà sư chân chính! Thân giữa vòng gấm vóc mà lòng không tơ tưởng, chân bước chốn quỳnh dao mà ý chẳng mê lầm!


Được một lát, hoàng hậu phi tần xúm xít dìu công chúa bước ra cung Chi Thước. Mọi người xô cả lại đón tiếp, ai nấy hô vang:


- Đức vua vạn tuế! Vạn vạn tuế!


Tam Tạng hoảng quá run cầm cập, luống cuống chẳng biết
làm thế nào. Hành Giả nhìn thấy ngay trên đầu công chúa có chút yêu khí, nhưng cũng không hung ác lắm, bèn vội vàng bò tới mang tai Tam Tạng thầm thì:


- Thưa sư phụ, công chúa giả đấy. Tam Tạng hỏi:


- Giả thì làm thế nào để bắt nó hiện nguyên bản tướng? Hành Giả đáp:
- Dùng pháp lực bắt nó ngay tại đây. Tam Tạng nói:
- Không được! Không được! Sợ làm kinh động quốc vương.
Chờ vua và hoàng hậu lui vào hãy dùng pháp lực.


Hành Giả vốn tính nóng nảy, đâu có buông tha, hét vang một tiếng, hiện nguyên hình, xông tới túm lấy công chúa quát:


- Đồ nghiệt súc! Nhà ngươi dám đảo lộn thật giả ngay tại đây cơ à? Nhà ngươi cứ việc ở đây hưởng thụ đã tốt lắm rồi, lại còn được voi đòi tiên, lừa dối sư phụ ta, phá hoại khí chân dương của người để thỏa mãn lòng dâm dục của mình sao?


Quốc vương sợ hãi ngơ ngác, hậu phi ngã xiêu ngã vẹo, cung nữ phi tần lẩn đông trốn tây hòng mong thoát chết. Chẳng khác nào:



Gió xuân dào dạt, Hơi thu hắt hiu.
Gió xuân dào dạt thổi non ngàn, trăm hoa lay động, Hơi thu hắt hiu vào vườn ngự, muôn lá đung đưa.
Bẻ gẫy mẫu đơn trước thềm hoa, Thổi bay thược dược bên lầu ngọc. Ven hồ phù dung gãy gục,
Bên đài nhụy cúc tả tơi.


Hải đường rũ rượi cánh hoa rơi, Mai khôi ngát hương nom buồn rượi. Gió xuân thổi gẫy sen ngoài nội. Tuyết đông đè oặt nụ mai non.
Thạch lựu đỏ lòe rụng đầy sân, Ngự liễu ngả nghiêng bên cung điện. Một đêm mưa gió trăm hoa rụng,
Vô số cánh hồng trải gấm phơi.




Tam Tạng thì cuống cả tay chân, run rẩy vừa ôm chầm lấy
quốc vương vừa cất tiếng gọi:


- Bệ hạ đừng sợ. Đó là đồ đệ của tôi dùng pháp lực để phân biệt rõ thật giả đấy.


Lại nói chuyện yêu quái thấy sự việc bất ngờ, giật vội tay ra,
trút hết áo xiêm, bỏ cả vòng xuyến trang sức, chạy tuột vào miếu thổ địa, trong vườn thượng uyển, lấy ra một cái gậy ngắn như cái chày, đoạn quay lại đánh Hành Giả.





Hành Giả đuổi theo tới tận nơi, vung gậy sắt nhằm mặt yêu
quái đánh xuống. Hai người hò hét đánh nhau trong vườn hoa, sau đó lại trổ thần thông, nhảy lên mây xanh đánh nhau. Trận đánh này:



Gậy sắt lừng lẫy nổi danh, Chày giã ngắn ngủn đã đành ai hay. Một người lấy kinh tới đây,
Một kẻ hoa lạ mê say ở lỳ. Yêu ma vốn biết nhà sư,
Mong thành chồng vợ phá hư nguyên thần.


Quốc vương bị cướp mất con,


Biến thành công chúa kính vâng dịu dàng.


Đại Thánh phân biệt rõ ràng,


Thần thông trổ phép, yêu gian hết đường. Chày kia chỉ mặt một đường đánh ngay. Ồn ào ầm ĩ đó đây,
Mây mù che kín dày dày tầng cao.




Hai người đánh nhau trên không trung, khiến cho trăm họ
khắp thành hoảng hốt, các quan trong triều sợ run. Tam Tạng đỡ quốc vương đứng dậy khuyên giải:


- Bệ hạ đừng sợ! Hoàng hậu và mọi người đừng sợ! Đó là công chúa giả đấy. Đợi đồ đệ của tôi bắt sống mới biết rõ được hay dở.


Trong đám hậu phi có người mạnh dạn, vơ đống quần áo vòng xuyến đưa cho hoàng hậu xem và nói:


- Đúng đây là quần áo vòng xuyến của công chúa, nay yêu tinh bỏ cả lại, trần trụi đánh nhau với hòa thượng trên trời, vậy ắt hẳn là yêu quái rồi.


Bấy giờ quốc vương, hoàng hậu, cung phi mới hoàn hồn ngẩng đầu lên trên không nhìn. Chuyện không nói nữa.


Lại nói chuyện yêu quái đánh nhau với Hành Giả suốt nửa ngày không phân thắng bại. Hành Giả buông gậy hô: “biến!” lập tức một biến mười, mười biến trăm, trăm biến nghìn, khắp bầu trời tựa rắn lượn rồng bay, ào ạt đánh vào yêu quái. Yêu quái luống cuống chân tay, biến thành một làn gió mát, vút thẳng lên bầu trời xanh chạy thoát thân, Hành Giả thu gậy sắt, nhảy vút lên đám mây lành đuổi theo. Đuổi gần tới cửa Tây Thiên, Hành Giả nhìn thấy tinh kỳ phấp phới, bèn dõng dạc quát lớn:


- Các quan giữ cửa hãy đóng chặt cửa lại, đừng để yêu quái chạy thoát thân!


Vị quan giữ cửa là Hộ Quốc thiên vương lập tức dẫn bốn đại nguyên soái Bàng, Lưu, Cẩu, Tất lăm lăm binh khí xông ra chặn lối. Yêu quái không tiến được, quay ngay lại sử chày ngắn đánh nhau với Hành Giả.


Hành Giả vừa múa gậy sắt vừa nhìn kỹ thấy cây gậy ngắn của yêu quái một đầu to một đầu nhỏ chẳng khác cái chày giã gạo, bèn hừ một tiếng quát:


- Đồ nghiệt súc! Nhà ngươi cầm thứ binh khí gì mà dám đánh nhau với lão Tôn! Mau mau đầu hàng thì ta tha cho một gậy, kẻo tan xương nát thịt!


Yêu quái nghiến răng quát:


- Nhà ngươi không biết thứ binh khí của ta sao? Hãy nghe ta nói đây:


Gốc tiên là ngọc dương chi,


Giũa mài luyện khí thành chày bao năm.


Sinh ra từ thuở hồng mông, Khai thiên lập địa ta dùng đầu tiên. Gốc nguồn chẳng phải đồ phàm, Sinh ra bản chất ở trên cõi trời. Hào quang một thể chói ngời,
Ngũ hành khí đẹp hợp nơi nguyên thần.


Theo ta ở mãi cung trăng,


Tại nơi điện Quế kết bằng bạn thân.


Say hoa bị rớt cõi trần,


Sang nơi Thiên Trúc giả công chúa này.


Cùng vua hưởng phúc ai tày,


Muốn kết chồng vợ với thầy Đường Tăng.


Nhà ngươi sao dám hung hăng, Chia ngăn đôi lứa, đuổi thân liễu bồ! Binh khí này tiếng đã to,
Gậy quèn mi sử ăn thua nỗi gì! Chày giã thuốc cung Quảng kia, Nện ai một cái tức thì chết tươi!


Hành Giả nghe xong khành khạch cười nhạt nói:


- Đồ nghiệt súc kia giỏi nhỉ! Nhà ngươi đã ở lâu trong Thiên
cung không biết tài nghệ lão Tôn sao, mà dám huênh hoang ở đây? Mau hiện nguyên bản tướng đầu hàng thì ta tha chết cho!


Yêu quái nói:


- Ta nhận ra nhà ngươi là tên Bật Mã Ôn năm trăm năm trước
đại náo thiên cung. Lẽ ra ta cũng muốn nhường nhà ngươi. Nhưng nhà ngươi phá nhân duyên của ta, khác nào giết bố mẹ ta, tình lý đều trái, vậy ta phải giết tên Bật Mã Ôn dối trời lừa trên này mới nghe!


Đại Thánh rất ghét ba chữ “Bật Mã Ôn”, vừa nghe tới ba tiếng đó, trong bụng đã giận sôi, vung gậy nhằm mặt yêu quái nện xuống. Yêu quái cũng giơ chày lên đỡ. Hai bên đánh nhau
dữ dội ngay trước cửa Tây Thiên. Trận này:



Chày giã thuốc, gậy sắt vàng,


Hai ban binh khí nhân gian ai bằng?


Một kẻ cầu duyên xuống trần,


Một người bảo vệ thánh tăng triều Đường.


Chỉ do vua chẳng chính kinh, Yêu hoa nên mắc vào vành yêu ma. Cho nên dẫn tới hai nhà,
Đánh nhau chí chết, được thua tranh phần.


Tiến lui đánh đỡ tranh giành, Quát hò ầm ĩ giữa tầng trời xanh. Chày giã thuốc quả oai linh,
Nạm vàng gậy sắt thiên đình vượt xa.


Hào quang phát sáng chói lòa, Đất dày rực rỡ mây mù tung bay. Chục hiệp quyết chiến ra tay,


Yêu ma yếu sức, trận này chịu thua.




Yêu quái đánh nhau với Hành Giả mười mấy hiệp, thấy thế
gậy của Hành Giả rất kín, liệu khó giành thắng, bèn đánh dứ một chày xoay tít người, biến thành muôn đạo hào quang bỏ chạy thẳng về hướng chính nam. Đại Thánh đuổi riết đằng sau. Tới một quả núi cao, yêu quái dừng hào quang, chui tọt vào động núi, tịnh không thấy đâu nữa. Hành Giả sợ yêu quái độn thổ quay về trước, ngầm hại Đường Tăng, nên chỉ nhận dáng quả núi đó rồi vội vàng quay về.


Bấy giờ quãng giờ thân, quốc vương đang níu lấy Tam Tạng run rẩy nói:


- Thánh Tăng cứu trẫm với!


Đám  phi  tần,  hoàng  hậu  đang  hốt  hoảng,  bỗng  thấy  Đại
Thánh từ tầng mây hạ xuống cất tiếng gọi:


- Sư phụ ơi, con đã về! Tam Tạng nói:
- Ngộ Không, con hãy đứng lại, kẻo làm quốc vương sợ hãi.
Ta hỏi con: Việc công chúa giả thế nào rồi?


Hành Giả đứng ngoài cung Chi Thước, chắp tay trước ngực nói:


- Công chúa giả là yêu quái. Lúc đầu, con với hắn đánh nhau suốt nửa ngày. Hắn địch không nổi con, bèn hóa làm muôn đạo
hào quang, bỏ chạy về hướng chính nam, chỗ có một quả núi. Con đuổi tới đó, nhưng chẳng tìm thấy hắn đâu cả, sợ hắn quay về hại sư phụ nên con đành phải quay về bảo vệ sư phụ đã.


Quốc vương nghe xong, níu lấy Đường Tăng hỏi:


- Công chúa giả là yêu quái, vậy công chúa thật đang ở đâu? Hành Giả tiện mồm đáp:
- Để tôi bắt xong công chúa giả, công chúa thật tự nhiên sẽ trở
về.


Đám hậu phi nghe nói vậy mới hết sợ, mọi người bước tới dập đầu nói:


- Muôn xin thánh tăng cứu công chúa thật về, làm rõ trắng đen, sẽ xin hậu tạ.


Hành Giả nói:


- Ở đây không phải chỗ chúng ta nói chuyện, xin bệ hạ và sư
phụ rời cung vào điện, các quý bà ai nấy về cung, rồi cho gọi hai sư đệ tôi là Bát Giới, Sa Tăng vào bảo vệ sư phụ, để tôi đi hàng yêu tiếp. Một là làm rõ trắng đen, hai là tôi đỡ phải vất vả. Việc này cũng cần phải làm cho rõ để tỏ công sức của tôi chứ.


Quốc vương nghe nói cảm tạ khôn xiết, bèn dắt tay Đường Tăng ra khỏi cung, bước vào trong điện. Các bà hậu phi ai nấy cũng về cung của mình. Quốc vương một mặt sai sửa soạn cơm chay, một mặt cho gọi Bát Giới, Sa Tăng vào. Một lát sau, hai người vào tới nơi. Hành Giả kể hết mọi việc, dặn dò hai người
bảo vệ sư phụ cẩn thận, còn mình dùng phép cân đẩu vân bay vút lên tầng không. Trăm quan đứng trước điện, ngẩng lên trời lạy tạ. Chuyện không nói nữa.


Tôn Đại Thánh tới thẳng quả núi ở hướng chính nam tìm kiếm. Nguyên yêu quái thua trận chạy tới núi này, chui tọt vào trong hang, lấy đá lấp kín cửa hang lại, sợ hãi lẩn trốn không dám ra nữa. Hành Giả tìm một lúc chẳng thấy động tĩnh gì, trong lòng sốt ruột, vội vàng bấm quyết niệm chú, gọi ngay sơn thần, thổ địa núi này lên hỏi. Một lát, hai vị thần tới, dập đầu thưa:


- Tiểu thần không biết!  Không biết!  Không kịp đón tiếp, muôn xin tha tội!


Hành Giả nói:


- Ta tạm tha đánh. Nghe hỏi đây: Núi này tên là gì? Có mấy
con yêu tinh? Mau nói ra cho thực thì ta tha đánh cho.


Hai thần thưa:


- Thưa Đại Thánh, núi này tên gọi núi Mao Dĩnh. Trong núi
có ba hang thỏ. Từ xưa tới nay, núi này không có yêu tinh nào cả, thật là nơi phúc địa trong ngũ châu. Đại Thánh muốn tìm yêu quái thì trên đường sang Tây mới có chứ.


Hành Giả nói:


- Lão Tôn đi tới nước Thiên Trúc bên phương Tây. Quốc
vương nước ấy có một nàng công chúa bị yêu quái cướp đi, vứt ra nơi đồng hoang, còn hắn biến thành hình dáng giống công
chúa lừa bịp quốc vương, dựng lầu hoa, gieo quả cầu kén phò mã. Ta hộ vệ Đường Tăng đi tới dưới lầu, bị hắn dụng tâm ném cầu trúng Đường Tăng muốn kết chồng vợ, hút khí nguyên dương của người. Nhưng việc ấy bị ta biết rõ, ta bèn hiện rõ bản tướng định bắt nó ngay trong cung. Hắn bèn trút bỏ cả xiêm y, trang sức, dùng một chiếc gậy ngắn tên gọi là chày giã thuốc, đánh nhau với ta suốt nửa ngày, rồi hóa thành một làn gió mát bỏ chạy. Lão Tôn đuổi tới cửa Tây Thiên, đánh nhau mấy chục hiệp nữa, hắn liệu sức địch không nổi, bèn hóa ra muôn đạo hào quang chạy thẳng tới đây, rồi chẳng thấy đâu nữa.


Hai thần nghe xong bèn đưa Hành Giả vào trong ba hang tìm kiếm. Lúc đầu tìm ở hang dưới chân núi, chỉ thấy mấy con thỏ rừng hoảng sợ bỏ chạy tán loạn. Sau đó lại tìm tới một hang trên đỉnh núi, thấy hai tảng đá to lấp kín cửa hang. Thổ địa nói:


- Hang này chắc có yêu quái. Chắc hắn chui vào đây rồi.


Hành Giả lấy gậy sắt bẩy tảng đá ra. Quả nhiên yêu quái nấp
ở trong. Hắn hét lên một tiếng, nhảy vọt ra, giơ chày giã thuốc đánh liền. Hành Giả giơ gậy sắt lên đỡ. Sơn thần thổ địa sợ quá vội lùi lại. Yêu quái càu nhàu mắng chửi sơn thần, thổ địa:


- Chỉ tại các ngươi dẫn hắn tới lục soát ở đây!


Đoạn luống cuống chống đỡ ngăn cây gậy sắt lại, vừa đánh
vừa rút, bỏ chạy lên không trung.


Đang lúc nguy cấp thì trời cũng sắp tối. Hành Giả càng cáu tiết, muốn đánh một gậy thật mạnh giết chết yêu quái ngay. Bỗng nghe trên chín tầng mây biếc có tiếng người gọi:


- Đại Thánh chớ động thủ! Chớ động thủ! Nể tôi một tí.






Hành Giả quay đầu nhìn, hóa ra là Thái Âm tinh quân, dắt
theo Hằng Nga tiên nữ hạ mây tới trước mặt. Hành Giả vội vàng thu gậy sắt, cúi người vái chào nói:


- Thái Âm tinh quân đi đâu vậy? Lão Tôn có lỗi chưa kịp tránh lối.


Thái Âm nói:


- Yêu quái đánh nhau với Đại Thánh là con thỏ ngọc giã
thuốc tiên huyền sương trong cung Quảng Hàn của tôi đấy. Hắn đã tự tiện mở trộm khóa vàng cửa ngọc, trốn ra khỏi cung đã một năm nay rồi. Tôi đoán biết hắn đang bị tai nạn nguy tới tính
mạng, bèn tới cứu nguy. Muôn xin Đại Thánh nể thân già này tha chết cho hắn.


Hành Giả dạ dạ luôn mồm, rồi nói:


- Không dám! Không dám! Hèn nào hắn sử cây chày giã
thuốc! Hóa ra hắn là con thỏ ngọc. Nhưng Thái Âm tinh quân chưa biết hắn cướp đi công chúa con vua nước Thiên Trúc, lại giả hợp chân hình muốn phá khí nguyên dương của thánh tăng sư phụ tôi. Tính ấy, tội ấy thực đã rành rành, đâu có thể dễ dàng tha thứ cho hắn được.


Thái Âm nói:


- Đại Thánh không biết đấy thôi. Công chúa con quốc vương,
cũng không phải người phàm. Nàng là Tố Nga ở trong cung Quảng. Mười tám năm về trước nàng có đánh con thỏ ngọc một cái tát, rồi lại nhớ phàm trần xuống hạ giới. Một điểm sáng linh thiêng giáng sinh. Còn con thỏ vẫn mang cái thù bị tát, nên năm ngoái lẻn trốn khỏi cung xuống trần, cướp ném Tố Nga ra đồng nội, định lấy Đường Tăng làm chồng. Tội ấy quả thật không nhỏ. May nhờ Đại Thánh để ý biết rõ thật giả, khiến nó chưa làm hại tới sư phụ Đại Thánh. Muôn xin Đại Thánh nể mặt tôi, tha tội cho nó để tôi mang nó về.


Hành Giả cười nói:


- Đã có chút nhân quả như vậy thì lão Tôn cũng không dám
trái ý. Có điều ngài mang thỏ ngọc về, e quốc vương không tin. Vậy phiền Thái Âm tinh quân cùng các nàng tiên đưa thỏ ngọc tới đó, một là để mọi người biết tài nghệ của lão Tôn, hai là nói rõ chuyện Tố Nga giáng trần, sau đó quốc vương mới có được
công chúa Tố Nga, cái nghĩa báo ứng khi ấy mới được làm rõ ra chứ.


Thái Âm tinh quân bằng lòng, chỉ tay vào yêu quái quát:


- Nghiệt súc còn không quy chính cùng về hay sao? Thỏ ngọc lăn người, hiện nguyên bản tướng. Thật là:


Môi hở răng lạnh rõ ràng,


Lưa thưa râu mép, tai trường đung đưa.


Mịn màng như ngọc óng tơ,


Nhanh như ngựa chạy chân đưa nghìn trùng.


Mũi thẳng dãi chảy lòng thòng,


Khác nào sương đượm phấn hồng long lanh.


Hai mắt hồng ngọc đưa nhanh,


Khác nào tuyết trắng điểm quanh khoe màu.


Phục dưới đất trắng phau phau. Vươn vai tơ bạc một màu đẹp sao. Mấy lần hút nóc trời cao,
Trường sinh giã thuốc xiết bao diệu kỳ.




Đại Thánh thấy vậy, vui mừng khôn xiết, đạp mây sáng đi
trước dẫn đường. Thái Âm tinh quân cùng các nàng Hằng Nga tiên nữ dắt thỏ ngọc bay thẳng về nước Thiên Trúc. Bấy giờ trời đã tối, vầng trăng đã ló ra. Tới bên thành, mọi người nghe thấy trống canh trên lầu đã điểm. Quốc vương và Đường Tăng đang ngồi trên điện. Bát Giới, Sa Tăng và các quan đang đứng trước thềm. Đang bàn việc lui chầu, bỗng thấy ở hướng chính nam xuất hiện một đám mây ngũ sắc rực rỡ như ban ngày, mọi người ngẩng đầu nhìn, rồi nghe thấy tiếng Tôn Đại Thánh gọi lớn:


- Thưa quốc vương nước Thiên Trúc, mời bệ hạ cùng hoàng hậu phi tần ra đây mà xem. Đứng dưới cây phướn báu là Thái Âm tinh quân trên cung trăng hai bên là các nàng Hằng Nga đó. Công chúa giả chính là con thỏ ngọc đã hiện nguyên bản tướng.


Quốc vương vội vàng gọi hoàng hậu, phi tần cùng cung nga thái nữ chạy ra ngẩng lên trời tế bái. Còn mình cùng Đường Tăng và các quan cũng ngẩng lên trời lạy. Mọi nhà trong thành, nhà nào nhà nấy bày hương án, dập đầu niệm Phật. Lúc ấy, Trư Bát Giới lòng dục xốn xang, không nhịn nổi, nhảy vút lên tầng không, ôm chặt lấy nàng tiên mặc xiêm y nghê thường nài nỉ:


- Chị ơi, tôi là chỗ quen biết cũ với chị mà. Tôi và chị, ta đùa vui một tí đi!


Hành Giả bước tới túm tai Bát Giới, bạt cho hai cái, quát mắng:


- Đồ ngốc nghếch quê mùa khốn kiếp kia, đây là chỗ nào mà
dám giở cái trò dâm dục ấy ra?


Bát Giới nói:


- Nhàn cư buồn quá đùa một tí thôi mà!


Thái Âm tinh quân ra lệnh quay phướn báu cùng các nàng
Hằng Nga dắt thỏ ngọc, bay thẳng về cung trăng.


Hành Giả tóm Bát Giới lôi xuống đất. Quốc vương ngồi trong điện cảm tạ Hành Giả, đoạn hỏi việc trước:


- Đa tạ thần tăng trổ đại pháp lực bắt công chúa giả. Nhưng công chúa thật không biết đang ở đâu?


Hành Giả nói:


- Công chúa thật của bệ hạ cũng không phải là người trần,
nàng là tiên Tố Nga trên cung trăng. Mười tám năm trước, nàng tát con thỏ ngọc một cái, rồi nhớ trần xuống hạ giới, đầu thai vào bụng chính cung hoàng hậu, sinh ra làm người. Còn con thỏ ngọc ấy ôm mối hận cũ, nên năm ngoái lẻn bẻ khóa mở cửa xuống đây cướp ném Tố Nga ra đồng nội, còn mình biến thành hình dạng giống công chúa lừa bệ hạ. Câu chuyện nhân quả ấy chính miệng Thái Âm tinh quân vừa nói cho tôi biết. Hôm nay đã trừ bỏ được công chúa giả, ngày mai sẽ mời bệ hạ đi tìm công chúa thật.


Quốc vương nghe xong, trong lòng bàng hoàng, bất giác hai hàng lệ lăn bên hai gò má. Đoạn quốc vương than thở:


- Con ơi, cha từ nhỏ lên ngôi, nhưng chưa từng ra khỏi cổng
thành, bảo cha tìm con ở đâu bây giờ?


Hành Giả cười nói:


- Bệ hạ đừng buồn. Công chúa đang giả điên ở chùa Cấp Cô
Bố Kim. Bây giờ mọi người hãy về nghỉ. Sáng mai tôi sẽ mang công chúa thật về cho bệ hạ là được chứ gì.


Các quan đều phủ phục xuống lạy thưa:


- Bệ hạ cứ yên tâm. Mấy vị thần tăng này là những vị Phật
biết đi mây về gió, biết rõ mọi việc quá khứ tương lai. Ngày mai phiền các vịấy đi tìm kiếm, ắt sẽ biết rõ đầu đuôi.


Quốc vương nghe lời, mời thầy trò Đường Tăng tới đình Lưu
Xuân ăn cơm, nghỉ ngơi. Lúc này đã gần canh hai. Chính là:



Trăng lên thánh thót đồng hồ,


Gió đưa vẳng tiếng chuông chùa ngân nga.


Cuốc kêu như tiễn xuân già, Hoa rơi đầy lối đêm vừa canh hai. Ngự viên tịch mịch đêm dài,
Bầu không một giải sao trời lung linh.


Phố phường chợ búa vắng tanh,
Một trời tinh tú, một sân trăng ngà.




Suốt đêm ấy, ai nấy ngủ ngon. Chuyện không nói nữa.


Đêm ấy, quốc vương yêu khí đã hết, tinh thần sảng khoái, mới
khoảng canh năm ba khắc đã khai triều. Khai triều xong, lại mời thầy trò Đường Tăng vào bàn việc đi tìm công chúa. Tam Tạng vào triều cúi chào quốc vương và mọi người. Bọn Đại Thánh cũng cất lời chào hỏi. Quốc vương nghiêng người nói:


- Hôm qua ngài đã cho biết việc của công chúa con tôi, giờ xin phiền thần tăng cứu giúp.


Tam Tạng nói:


- Hôm trước bần tăng từ phương Đông tới đây, vừa vặn tối
trời, bèn vào chùa Cấp Cô Bố Kim xin ngủ nhờ, được các nhà sư trong chùa tiếp đãi chu đáo. Ăn cơm tối xong, chúng thần đi dạo ngắm trăng, tới chồ vườn xưa Bố Kim ngắm di tích cũ, bỗng nghe văng vẳng tiếng khóc. Hỏi duyên do, một nhà sư già trong chùa tuổi đã hơn trăm, ngài bảo mọi người lui về rồi mới thưa rằng: “Tiếng khóc thảm thiết ấy đầu đuôi thế này: Vào độ cuối xuân năm ngoái, tôi đang ngồi ngắm trăng, bỗng thấy một trận gió ào ào nổi lên, thế rồi nghe văng vẳng có tiếng khóc thảm thiết. Tôi rời giường tới khu nền cũ Kỳ Viên xem xét, hóa ra là một cô gái. Khi hỏi duyên do, cô gái ấy nói: “Tôi là công chúa con vua nước Thiên Trúc, nhân đêm thanh đi dạo ngắm hoa rồi bị trận gió cuốn tới đây”. Nhà sư già từng trải việc đời, bèn nhốt cô gái trong một căn phòng vắng vẻ. Sợ các nhà sư nhỏ ngỗ ngược trong chùa quấy nhiễu, nhà sư già phải nói thác rằng đó là yêu quái bị ta giam giữ. Công chúa biết ý đó, suốt ngày giả điên
nói năng lảm nhảm. Nhà sư già mang cơm nước đến cho. Cứ đến đêm khuya vắng vẻ, nàng nhớ cha mẹ khóc lóc thút thít. Nhà sư già cũng đã vào kinh đô dò la tin tức mấy lần, thấy công chúa vẫn trong cung bình thường nên chẳng dám tâu bày gì cả. Thấy đồ đệ của bần tăng có chút thần thông, nhà sư già bèn năn nỉ van xin nói với bần tăng tới đây thì xem xét giúp. Không ngờ hắn lại là con thỏ ngọc ở Thiên cung xuống làm yêu quái, giả hợp chân hình, biến ra hình dạng giống hệt công chúa, lại định rắp tâm hại nguyên dương của bần tăng nữa. May nhờ có đồ đệ của bần tăng thi thố pháp lực nhận rõ thật giả. Nay hắn đã bị Thái Âm tinh quân bắt đi rồi, còn công chúa thật hiện đang giả điên ở chùa Bố Kim đó.


Quốc vương nghe kể tỉ mỉ như vậy, không cầm được, khóc rống lên. Ba cung sáu viện hoảng sợ vội vã tới vấn hỏi duyên do. Nghe kể lại không ai là không khóc gào đau đớn. Một lúc lâu, quốc vương lại hỏi:


- Chùa Bố Kim cách kinh thành bao xa? Tam Tạng thưa:
- Chừng sáu chục dặm đường. Quốc vương bèn truyền lệnh:
- Giao cho hai cung đông tây coi điện, quan Thái sư chưởng
triều giữ nước, trẫm cùng chính cung hoàng hậu, các quan và bốn vị thần tăng cùng tới chùa đón công chúa.


Xa giá lập tức được sửa soạn, mọi người ra khỏi triều đình. Bạn xem, Hành Giả thì nhảy vút lên mây, vặn sườn một cái đã
tới chùa liền. Các nhà sư hoảng hốt quỳ xuống hỏi:


- Lúc ra đi, thấy ngài cùng đi bộ với mọi người, hôm nay ngài lại từ trên trời rơi xuống?


Hành Giả cười nói:


- Nhà sư già của các ngài hiện ở đâu, mau gọi ngài ấy ra đây
bày hương án để đón xa giá. Quốc vương, hoàng hậu, các quan nước Thiên Trúc và cả sư phụ tôi nữa sắp đến bây giờ.


Các nhà sư chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra sao đành mời nhà sư già ra. Nhà sư già nhìn thấy Hành Giả vội quỳ xuống lạy, nói:


- Thưa ngài, chuyện nàng công chúa thế nào?


Hành Giả đem chuyện công chúa giả gieo quả cầu thêu, định
lấy Đường Tăng, chuyện đuổi đánh yêu quái và chuyện Thái Âm tinh quân thu phục thỏ ngọc kể hết một lượt. Nhà sư già dập đầu cảm tạ. Hành Giả đỡ dậy nói:


- Khoan lạy vội. Ngài mau đi bày hương án đón tiếp xa giá.


Bấy giờ các nhà sư trong chùa mới biết người bị nhốt trong
phòng sau là một cô gái, ai nấy mừng mừng tủi tủi, vội vàng bày hương án ngoài cổng chùa, mặc áo cà sa, nổi trống khua chiêng chờ đợi. Một lát, xa giá tới nơi. Quả thật là:



Mây phơi phới đầy trời hương ngát, Chốn hoang sơn bỗng thoắt trang nghiêm.


Nghìn năm non nước vững bền,


Vũ Thang đời trị sánh ngang huy hoàng.


Mưa móc thấm cây càng thêm nhuận, Cỏ hoa thơm được lắm công ơn.
Từ xưa tiếng tốt lưu truyền,


Nay mừng thánh chúa ngai vàng vững yên.




Quốc vương tới cổng chùa đã thấy các nhà sư đứng sắp hàng
tề chỉnh, rồi phủ phục xuống đất lạy, lại thấy cả Tôn Hành Giả đứng trong đám đó. Quốc vương hỏi:


- Thần tăng làm thế nào mà đến đây trước được? Hành Giả cười nói:
- Lão Tôn chỉ vặn mình một cái là tới liền. Các ngài làm gì
mà nửa ngày mới tới nơi vậy?


Đằng sau, bọn Đường Tăng cũng lục tục tới nơi. Tam Tạng dẫn xa giá tới căn phòng đằng sau, công chúa lúc ấy vẫn đang giả điên nói lảm nhảm. Nhà sư già quỳ xuống thưa:


- Người trong phòng này là nàng công chúa bị gió thổi tới năm ngoái.


Quốc vương truyền lệnh mở cửa. Chiếc khóa sắt bật ra rồi
tấm cửa được mở. Quốc vương và hoàng hậu nhìn thấy công chúa, nhận rõ đúng con mình, thì chẳng kể bẩn thỉu, bước tới ôm chầm lấy nức nở:


- Con gái khổ sở của cha mẹ ơi! Vì sao con lại phải chịu đau đớn khốn khổ ở đây như thế này?


Đúng là bố mẹ con cái gặp nhau có khác. Ba người ôm nhau khóc lóc nức nở, kể lể nỗi biệt ly xa cách một hồi, đoạn quốc vương sai mang nước thơm cho công chúa tắm gọi, thay quần áo, rồi lên xe về triều.


Hành Giả chắp tay nói với quốc vương:


- Lão Tôn còn một việc xin thưa. Quốc vương đáp lễ xong nói:
- Thần tăng có việc gì dặn dò, trẫm xin nghe theo ngay. Hành Giả nói:
- Quả núi này gọi là núi Bách Cước, gần đây nghe nói có loài
rết thành tinh ban đêm hại người qua lại, rất là khốn khổ. Thần nghĩ rết chỉ có gà là trị nổi, nên chọn chừng nghìn con gà trống thả vào trong núi để trừ loài trùng độc đó. Lại xin đổi tên cho quả núi này, và ban một đạo sắc phong tạ ơn nhà sư già đã nuôi nấng công chúa.


Quốc vương rất mừng xin nghe theo, sai ngay các quan về kinh thành bắt gà, đổi tên núi là núi Bảo Hoa, sai bộ Công lo liệu việc trùng tu ngôi chùa, ban cho tên gọi là “Chùa Cấp Cô
Bố Kim núi Bảo Hoa xây dựng theo sắc chỉ nhà vua”, phong cho nhà sư già là “Bảo quốc tăng quan”, đời đời thế tập, cấp bổng ba mươi sáu thạch. Các nhà sư tạ ơn, tiễn xa giá hồi triều. Công chúa về tới cung, mọi người ra đón tiếp, lại bày yến tiệc giải buồn thêm vui cho công chúa. Mẹ con hậu phi từ đây lại được đoàn viên sum họp. Vua tôi quốc vương hết thảy mừng rỡ tiệc tùng suốt một đêm. Chuyện không nói nữa.


Sáng hôm sau, quốc vương truyền lệnh cho gọi thợ vẽ vào truyền thần chân dung bốn thầy trò để thờ trong lầu Hoa Di. Lại sai công chúa ăn mặc quần áo mới trang trọng ra ngoài điện lạy tạ bốn thầy trò Đường Tăng. Lạy tạ xong, Đường Tăng xin từ biệt để sang Tây. Quốc vương không bằng lòng, lại mở đại tiệc ăn uống suốt năm sáu ngày. Chú ngốc thích nhất tha hồ ních kỳ căng bụng mới thôi. Quốc vương thấy thầy trò thành tâm bái Phật, cố giữ không nổi, bèn sai mang ra hai trăm lạng vàng bạc, một mâm châu báu tạ ơn, song thầy trò không nhận một ly. Quốc vương đành truyền sửa soạn xa giá, mời Đường Tăng lên xe, sai quan đưa tiễn thật xa. Các bà hậu phi cùng thần dân, ai nấy đều dập đầu cảm tạ mãi không thôi. Lúc bắt đầu lên đường, các nhà sư vẫn một mực tiễn chân, chẳng chịu chia tay. Hành Giả thấy mọi người không chịu quay về, bất đắc dĩ đành bấm quyết niệm chú, ngoảnh về hướng đông nam thổi một hơi tiên khí, gió đen bốc cuồn cuộn, những người tiễn chân mắt hoa đầu váng, bấy giờ thầy trò mới đi thoát được. Đó chính là:



Tắm gội công ơn về bản tính


Xa rời vàng bạc rõ chân không.




Cuối cùng không biết đoạn đường sắp tới thế nào xem hồi sau
sẽ rõ.


HỒI THỨ CHÍN MƯƠI SÁU




Khấu viên ngoại mừng đãi cao tăng


Đường trưởng lão không màng phú quý




Sắc sắc vốn không sắc, Không không cũng chẳng không. Lặng thinh cất tiếng vốn vẫn đồng, Trong mộng mệt nhoài nói mộng. Hữu dụng: vô dụng trọng dụng,
Vô công: công ấy nên công. Kìa kìa quả chín tự nhiên hồng, Chớ hỏi làm sao trồng cấy.


Lại nói chuyện thầy trò Đường Tăng trổ pháp lực ngăn không
cho các nhà sư chùa Bố Kim đi tiễn. Các nhà sư thấy gió thổi mù mịt, không trông thấy thầy trò Đường Tăng đâu cả, cho là Phật sống giáng phàm, chỉ dập đầu lạy rồi quay về, chuyện không nói nữa. Còn thầy trò thì tiếp tục lên đường sang phương Tây, chính là lúc xuân qua hè đến. Chỉ thấy:




Gió ấm trời trong vắt, Sen thắm nở ao đầm.
Mơ - mưa rơi chín vàng, Mạch - gió vờn tươi tốt.
Cỏ thơm hoa tàn lụi, Oanh già liễu phất phơ. Nhạn sông bạn nghêu sò, Gà rừng vang tiếng gáy.


Nói sao hết chuyện ngày đi đêm nghỉ, lội suối băng đèo, đi
đường bình yên vô sự, quãng hơn nửa tháng, bỗng thầy trò lại nhìn thấy xa xa một dãy tường thành. Tam Tạng hỏi:


- Đồ đệ ơi, đây lại là vùng nào nhỉ? Hành Giả thưa:
- Con không biết. Con không biết. Bát Giới cười nói:
- Đường này anh đã đi qua, tại sao lại bảo không biết! Hay lại
có chuyện gì quanh co nên cố ý giả vờ là không biết cợt chúng
tôi chăng?


Hành Giả nói:


- Chú ngốc chẳng hiểu quái gì cả! Đường này tuy tôi đã đi
qua mấy lần thật, nhưng ngày ấy chỉ cưỡi mây bay trên chín tầng không, đâu có đi dưới đất mà biết? Vả lại việc chẳng có liên quan, để ý làm gì, cho nên không biết thật, đâu có điều gì quanh co, bỡn cợt chú làm gì.


Mải trò chuyện, bất giác thầy trò đã đi tới chân thành. Tam Tạng xuống ngựa, bước qua cầu treo vào trong cổng. Trên phố dài chỉ nhìn thấy hai ông cụ già ngồi trò chuyện dưới mái hiên. Tam Tạng nói:


- Đồ đệ này, các con cứ đứng nguyên dưới lòng đường này, cúi gằm mặt xuống, chớ có buông tuồng, để ta vào mái hiên kia hỏi thăm cái đã.


Bọn Hành Giả vâng lời đứng lại. Tam Tạng bước tới gần chắp tay nói:


- Thưa cụ, bần tăng xin có lời chào.


Hai cụ già đang ngồi nói chuyện phiếm về những việc hưng
vong đắc thất, ai thánh ai hiền, sự nghiệp của anh hùng thuở trước nay còn đâu, đoạn thở dài buồn bã, bỗng nghe tiếng chào, bèn tiện mồm hỏi:


- Trưởng lão định hỏi gì? Tam Tạng thưa:


- Bần tăng từ phương xa tới đây bái Phật cầu kinh, hôm nay
tới quý xứ ta, không biết tên gọi là gì ạ? Và xin hỏi chỗ nào có những nhà làm phúc vào xin bữa cơm chay.


Hai cụ già đáp:


- Vùng chúng tôi đây là phủ Đồng Đài, mạn dưới phủ là
huyện Địa Linh. Trưởng lão muốn ăn cơm chay thì không cần phải đi xin, cứ đi dọc theo phố bắc nam này, thấy một tòa lầu kiểu hổ ngồi quay mặt về hướng đông. Đấy là nhà Khấu viên ngoại, trước cửa có treo một tấm biển “Vạn sư không cản”. Ngài là nhà sư từ phương xa tới, tha hồ mà ăn. Đi thôi! Đi thôi! Đừng làm ngắt câu chuyện của chúng tôi nữa.


Tam Tạng cảm tạ, quay về nói với Hành Giả:


- Vùng này là huyện Địa Linh phủ Đồng Đài. Hai cụ già nói:
Cứ đi dọc theo phố bắc nam này, tới một tòa lầu xây kiểu hổ ngồi quay mặt về hướng đông. Ấy là nhà Khấu viên ngoại. Trước cửa có tấm biển “Vạn sư không cản” và bảo chúng ta tới đó mà xin cơm chay.


Sa Tăng nói:


- Phương Tây là đất Phật, thật có nhiều nhà cúng dâng sư tăng
quá. Vả lại, vùng này chỉ là phủ huyện, không cần phải xuất trình điệp văn, chúng ta đi xin cơm ăn rồi đi luôn.


Tam Tạng và ba đồ đệ thong thả bước trên đường phố, làm cho mọi người ngoài phố nghi hoặc sợ sệt, cứ xúm quanh nhìn tướng mạo. Tam Tạng dặn dò ai nấy phải ngậm miệng và nhắc
luôn:


- Chớ buông tuồng! Chớ buông tuồng!


Ba người cứ cúi gằm mặt, chẳng dám ngẩng đầu. Đi qua chỗ
ngoặt, quả có thấy một dãy phố chạy dọc theo hướng nam bắc.


Đang đi bỗng thấy một tòa lầu kiểu hổ ngồi, tường cửa treo một tấm biển lớn đề bốn chữ “Vạn sư không cản”, Tam Tạng nói:


- Phương Tây là đất Phật, người hiền kẻ ngu chẳng ai trí trá. Thoạt nghe hai cụ già nói là chưa dám tin, đến đây mới thấy quả đúng như lời.





Bát Giới quê mùa, định xộc vào ngay. Hành Giả nói:


- Chú ngốc hãy khoan. Đợi có người ra, hỏi thăm xem thế nào
rồi mới vào chứ.


Sa Tăng nói:


- Anh cả nói phải. Sợ một khi chưa rõ thế nào, làm họ phiền
não.


Cả bọn bèn buộc ngựa, đặt hành lý đứng nghỉ trước cửa. Một lát thấy một người đầy tớ một tay xách cái cân, một tay cầm chiếc bị đi ra thình lình trông thấy, giật mình đánh thót rơi cả cân, bị, vội vàng chạy vào báo:


- Thưa ông chủ, ngoài cửa có bốn nhà sư kỳ hình dị dạng tới.


Viên ngoại tay chống gậy, đang đi bách bộ ngoài sân, miệng
lầm rầm niệm Phật, nghe báo, vội vã quẳng cả gậy, bước ra đón tiếp. Khi nhìn thấy bốn người, viên ngoại cũng không chút sợ hãi vì họ xấu xí, cất tiếng mời ngay:


- Xin mời vào! Xin mời vào!


Tam Tạng lễ phép theo vào. Viên ngoại dẫn qua một cái ngõ,
tới một tòa nhà, bèn giới thiệu:


- Tòa nhà trên chính là nơi thờ Phật, giảng kinh, ăn chay và khoản đãi các ngài. Tòa nhà dưới là nơi ở của người nhà đệ tử chúng tôi.


Tam Tạng khen ngợi mãi không thôi, đoạn lấy áo cà sa ra
khoác vào lễ Phật, rồi bước lên chùa ngắm cảnh. Chỉ thấy:



Mây thơm quấn quýt, Ánh sáng chan hòa.
Gấm chồng hoa chất khắp chùa, Vàng dát huy hoàng bốn phía Chuông vàng trang nghiêm trên giá, Trống hoa gác tía đặt cao.
Mấy đôi phướn thêu hình bát bảo đẹp sao, Nghìn tượng Phật sơn son thếp vàng rực rỡ. Nào là lư đồng cổ, lục bình đồng cổ,
Bàn sơn then, tráp cũng sơn then. Chiếc lư đồng nghi ngút hương trầm, Độc bình cổ hoa sen phô vẻ.
Bàn sơn then mây lành rạng rỡ, Tráp sơn then hương hoa ngất ngây. Chén pha lê tịnh thủy vơi đầy,


Đèn lưu ly dầu thơm óng ánh.


Tiếng khánh vàng vang ngân chùa rộng, Quả nơi đây chẳng bén bụi hồng. Phật đường lễ Phật kính dâng.


Đường Tăng rửa tay thắp hương cúi đầu lễ Phật đoạn lại quay
sang cúi chào viên ngoại. Viên ngoại nói:


- Khoan đã! Xin mời trưởng lão tới nhà giảng kinh họp mặt. Lại thấy:


Đài vuông hòm rộng, Tráp ngọc khảm vàng.
Đài vuông hòm rộng, chất vô số quyển kinh,


[324]
Tráp ngọc khảm vàng, đủ loại thẻ tre

 xếp chặt.


Trên bàn giấy mực bút nghiên toàn những đồ tốt nhất; Lại thêm thư họa cầm kỳ rặt là những thứ thanh cao, Tiếng khánh tiên dìu dặt trong veo,
Bóng cành phướn vờn trăng giỡn gió.


Thanh khí lâng lâng, thần khí nhẹ, Lòng không ham muốn, đạo tâm tràn.


Đường Tăng bước tới toan làm lễ chào, viên ngoại vội đỡ lại,
nói:


- Xin mời cởi áo Phật đã.


Tam Tạng cởi áo xong, cúi chào viên ngoại. Viên ngoại lại
cho mời bọn Hành Giả vào, bảo người nhà cho ngựa ăn, để hành lý vào góc hiên, xong xuôi mới hỏi đến lai lịch. Tam Tạng thưa:


- Bần tăng người nước Đại Đường bên phương Đông vâng mệnh nhà vua sang quý xứ ta yết kiến Linh Sơn bái Phật cầu kinh, nghe nói tôn phủ ta kính tăng, bèn tới yết kiến, xin bữa cơm chay rồi lại đi ngay.


Viên ngoại vui mừng ra mặt, cười giòn giã nói:


- Đệ tử tên gọi Khấu Hồng, tự là Đại Khoan, năm nay sáu
mươi tư tuổi. Từ năm bốn mươi tuổi, đệ tử đã nguyện dâng cơm chay cho đủ một vạn nhà sư thì lúc ấy mới làm lễ viên mãn. Tới nay đã qua hai mươi bốn năm, và có cả một quyển sổ ghi chép việc nuôi sư. Mấy hôm nay nhàn rỗi, đệ tử mang quyển sổ đó ra tính thì thấy đã dâng cơm chay chín nghìn chín trăm chín mươi sáu vị, chưa đủ số. Hôm nay vừa vặn trời giáng xuống bốn vị lão sư, thế là tròn số một vạn. Vậy xin các vị để lại tôn danh, và dù thế nào cũng xin thong thả nán lại ở chơi một tháng, đợi làm lễ
viên mãn xong đệ tử sẽ sắp đặt ngựa xe đưa lão sư lên núi. Từ đây tới Linh Sơn còn độ tám trăm dặm thôi, không xa lắm đâu.


Tam Tạng nghe nói vô cùng mừng rỡ, trước mắt tạm vâng lời. Chuyện không nói nữa.


Mấy người hầu trong nhà viên ngoại, vào trong bổ củi gánh nước, vo gạo thổi cơm, sửa soạn bữa chay, khiến cho viên ngoại bà biết chuyện, bèn hỏi:


- Nhà sư ở đâu tới mà làm cơm vội vã vậy? Người hầu thưa:
- Vừa có bốn vị cao tăng, ông nhà ta hỏi lai lịch, họ nói là
người nước Đại Đường tận phương Đông vâng lệnh nhà vua sang Linh Sơn bái Phật cầu kinh, nay tới vùng ta, không biết là đã đi qua bao nhiêu đường đất. Ông nhà ta cho là trời giáng xuống, bảo chúng con thổi cơm ngay để cúng dâng họ.


Viên ngoại bà nghe xong mừng lắm, gọi người hầu gái vào bảo:


- Lấy quần áo cho ta thay, ta cũng ra xem nào. Người hầu gái nói:
- Thưa bà, chỉ có một vị coi được còn ba vị kia thật khó coi,
mặt mũi người ngợm xấu xí cổ quái gớm ghiếc lắm.


Bà cụ nói:
- Các ngươi không biết, những người mặt mũi xấu xí cổ quái kỳ dị ắt là người trời xuống trần, mau đi báo cho ông nhà ta biết.


Người đầy tớ chạy tới nhà giảng kinh nói với viên ngoại:


- Bà nhà đã tới, muốn bái kiến các vị trưởng lão từ phương
Đông đến.


Tam Tạng nghe nói vội vàng đứng dậy bước xuống. Vừa dứt lời, bà cụ đã vào tới trước nhà, ngước mắt nhìn thấy Đường Tăng tướng mạo đường hoàng, phong tư anh tuấn, đoạn ngoảnh lại nhìn thấy ba người bọn Hành Giả hình dạng khác phàm, tuy biết là người trời xuống hạ giới, nhưng vẫn hơi sợ vội quỳ xuống lạy. Tam Tạng vội vã đỡ dậy nói:


- Phiền cụ chào thăm vất vả quá. Bà cụ hỏi viên ngoại:
- Bốn vị sư phụ sao không cùng ngồi? Bát Giới dẩu mõm đáp:
- Ba chúng tôi là đồ đệ.


Chà, một tiếng Bát Giới nói ra khác nào hổ thét non sâu, bà
cụ lại càng sợ hãi.


Đang trò chuyện, thấy một người đầy tớ vào báo:


- Hai cậu đã tới.
Tam Tạng vội quay đầu nhìn hóa ra là hai cậu tú tài trẻ tuổi. Hai cậu tú tài bước vào nhà giảng kinh cúi người lạy trưởng lão. Tam Tạng vội vàng cúi chào đáp lễ. Viên ngoại bước tới ngăn lại nói:


- Đó là hai con trai tôi tên gọi Khấu Lượng, Khấu Đồng, đọc sách trong thư phòng vừa về, chưa kịp ăn cơm trưa, nghe tin trưởng lão giáng lâm, vội tới lạy chào.


Tam Tạng hoan hỉ nói:


- Ngoan quá! Ngoan quá! Đúng là: “Nhà cao cửa rộng nhờ
làm thiện, con cháu hiền ngoan bởi học chăm”.


Hai cậu tú tài hỏi phụ thân rằng:


- Các vị trưởng lão đây từ đâu tới? Viên ngoại cười nói:
- Từ xa lắm. Tận nước Đại Đường thuộc Nam Thiệm Bộ
Châu, vâng mệnh vua Đường sang Linh Sơn bái Phật cầu kinh.


Hai cậu tú tài nói:


- Chúng con đọc trong sách Sự lâm quảng ký thấy nói thiên hạ
chia làm bốn đại bộ châu. Chúng ta thuộc về Tây Ngưu Hạ Châu,  còn  có  Đông  Thắng  Thần  Châu.  Không  biết  từ  Nam Thiệm Bộ Châu tới đây phải đi mất bao nhiêu năm?


Tam Tạng cười nói:
- Bần tăng đi đường, những ngày dùng dằng nấn ná thì nhiều, còn ngày đi thì ít thôi, thường gặp yêu ma quỷ quái, trăm đắng nghìn cay, việc gì cũng nhờ ba đồ đệ này bảo hộ cả, kể ra đã qua mười bốn lần nóng lạnh mới tới được quý xứ ta đấy.


Hai cậu tú tài nghe xong thán phục mãi không thôi:


- Thật là thần tăng! Thật là thần tăng! Vừa dứt lời, đã thấy một cậu bé vào mời:
- Cơm chay đã dọn, xin mời trưởng lão đi xơi cơm.


Viên ngoại bảo vợ và các con vào nhà trong, còn mình đưa
bốn người tới phòng ăn, ngồi tiếp. Ở đấy cơm canh đã bày biện tề chỉnh, bàn sơn son thếp vàng óng, ghế sơn then bóng trong. Trước mặt là mâm bông bầy ngũ quả cao ngất, đều là kiểu mới nhất do thợ khéo làm; Hàng thứ hai là năm khay rau ghém; Hàng thứ ba là năm đĩa củ ấu; Hàng thứ tư là năm mâm lớn bày những thức ăn nhẹ, món nào cũng ngon lành thơm phức, cơm dẻo canh ngọt, bánh cuốn bánh bao sốt dẻo bốc hơi nghi ngút, thảy đều ngon miệng, ăn mãi chẳng biết chán. Bảy tám người hầu hạ chạy đi chạy lại bưng bê tiếp món, bốn năm người nhà bếp không lúc ngừng tay, người múc canh, kẻ bưng cơm, đi lại nhộn nhịp như mắc cửi. Trư Bát Giới mỗi bát chỉ lùa có một miếng, chẳng khác rồng cuốn hổ vồ. Thầy trò chén một bữa no. Ăn xong, Tam Tạng đứng dậy cảm tạ viên ngoại, tỏ ý muốn đi ngay. Viên ngoại giữ lại, nói:


- Trưởng lão cứ thư thả ở lại vài ngày nữa. Thường có câu: “Đầu xuôi đuôi lọt”, đợi tôi làm lễ viên mãn xong, sẽ tiễn trưởng lão lên đường.


Tam Tạng thấy viên ngoại thành tâm thật bụng, không còn
cách nào, đành ở lại.


Thấm thoắt bảy tám ngày trôi qua, khi ấy viên ngoại mới mời hai mươi bốn vị kính Phật trọng tăng trong vùng, dựng một đàn tràng viên mãn. Các nhà sư viết sớ điệp đến ba bốn ngày, rồi chọn giờ tốt bắt đầu việc Phật. Nghi lễ ở đây cũng chẳng khác gì bên nước Đại Đường. Cũng vẫn là:



Phướn bay phần phật, Lộng lẫy ánh vàng. Đuốc sáng huy hoàng, Hương trầm ngào ngạt,
Trống chiêng nhộn nhịp, Đàn sáo du dương.
Xen tiếng trống chiêng, Ê a kinh tụng.
Thổ địa kính trọng, Thần tướng thảy mời. Đốt sắc xong rồi,
Kính lạy tượng Phật. Tụng kinh Khổng Tước, Trừ mọi hiểm nguy. Châm đèn Dược Sư, Sáng ngời lấp lánh. Tụng kinh Thủy Sám, Giải mọi oan khiên. Tụng kinh Hoa Nghiêm, Trừ mọi tai ách.
Tam thừa diệu pháp bao tinh mật, Nhất nhị sa môn thảy giống nhau.


Làm lễ liền ba ngày đêm, việc đạo tràng xong xuôi. Đường
Tăng sốt ruột nghĩ tới Lôi Âm, một mực xin đi, chào từ biệt viên ngoại. Viên ngoại nói:


- Trưởng lão đòi đi gấp thế! Có lẽ vì việc Phật bận rộn suốt ngày, chúng tôi có điều gì sơ xuất, trưởng lão có ý trách chăng?


Tam Tạng nói:
- Chúng tôi phiền tôn phủ nhiều quá, không biết lấy gì báo đáp, đâu dám trách cứ. Chỉ vì một điều nhớ nỗi thánh quân tiễn bần tăng rời cửa quan, thánh quân có hỏi bao giờ thì về. Tôi trót lỡ lời nói chỉ ba năm là về. Không ngờ dọc đường trắc trở, nay đã mười bốn năm rồi. Việc lấy kinh lại chẳng biết được hay không, rồi quãng đường về phải mất mười hai năm nữa, như thế e không làm đúng thánh chỉ, tránh sao khỏi bị tội. Muôn xin lão viên ngoại cho phép bần tăng lên đường, đợi khi nào lấy kinh về, sẽ nán lại ở tôn phủ ta lâu hơn, không biết thế có được không?


Bát Giới không nhịn nổi, nói oang oang:


- Sư phụ thật chẳng biết lựa ý người ta, chẳng biết nể nang
người ta một tí nào. Lão viên ngoại đây là nhà đại gia cự phú, lại phát nguyện hiến chay sư tăng, nay đã đủ số viên mãn. Hơn nữa viên ngoại lại thành tâm mời ở lại, dù có ở hàng năm cũng chẳng sao, thế mà sư phụ lại cứ nằng nặc đòi đi là thế nào? Cơm chay ngon lành có sẵn bỏ đi không ăn, để rồi lại phải đi xin cơm ở nhà người khác. Trần đời thật sư phụ là người dở có một!


Đường Tăng hừ một tiếng, quát:


- Đồ khốn kiếp, nhà ngươi lúc nào cũng chỉ biết có ăn ngon,
chẳng bao giờ biết nghĩ xa nghĩ gần gì cả. Đúng là đồ súc sinh ăn no vác nặng. Các ngươi mà ngu si tham ăn như thế, để ngày mai ta đi một mình cũng được.


Hành Giả thấy sư phụ giận tái mặt, bèn túm lấy Bát Giới, bợp vào đầu một cái, mắng:


- Đồ ngốc nghếch chẳng biết cái quái gì, làm sư phụ trách lây
sang cả ta!


Sa Tăng cười nói:


- Đánh là đúng! Đánh là đúng! Đã không thèm nói rồi, lại còn
cứ chõ mồm vào chọc tức!


Chú ngốc thở phì phò, đứng bên cạnh, chẳng dám hé răng nói gì. Viên ngoại thấy thầy trò gắt nhau, vẫn vui vẻ tươi cười nói:


- Trưởng lão đừng sốt ruột, hôm nay cứ thong thả, đến ngày mai tôi sẽ sắm sửa ít cờ quạt chiêng trống, mời mấy người thân thích xóm giềng tiễn trưởng lão lên đường.


Đang trò chuyện, thấy cụ bà bước ra nói:


- Lão sư phụ đã quá bộ tới tệ xá đây, sao cứ một mực chối từ
như thế, nán thêm mấy ngày nữa có đáng là bao?


Tam Tạng nói:


- Thưa cụ, đã nửa tháng rồi còn gì. Cụ bà nói:
- Nửa tháng ấy mới là công đức của ông nhà tôi, già đây còn
dành dụm được ít tiền may vá, xin nguyện hiến chay các vị nửa tháng nữa.


Vừa dứt lời, anh em Khấu Đồng lại bước ra nói:


- Thưa bốn vị trưởng lão, cha chúng cháu đã hiến chay sư
tăng hơn hai mươi năm nay, chưa hề gặp được người tốt nào. Nay may mắn đủ số viên mãn, được bốn vị hạ giáng, thật là vinh hạnh cho gia đình chúng cháu. Chúng cháu học trò ít tuổi, chưa biết việc nhân quả, thường nghe nói: “Ông tu ông được, bà tu bà được, không tu không được”. Bố mẹ chúng cháu đã thành tâm dâng lễ mọn, ý là muốn cầu một chút công quả, mong các vị đừng từ chối. Rồi còn anh em chúng cháu dành dụm được ít tiền, cũng muốn cúng dâng các vị nửa tháng nữa, khi ấy mới tiễn các vị lên đường được.


Tam Tạng nói:


- Tấm thịnh tình của lệnh đường, lão bồ tát đây tôi còn chưa
dám nhận, đâu dám nhận tấm lòng quá yêu của các cậu. Chúng tôi quyết không dám nhận đâu. Hôm nay chúng tôi phải lên đường kẻo trái thánh chỉ, chúng tôi không tránh khỏi tội chết đâu.


Cụ bà và hai cậu con trai thấy thầy trò Đường Tăng một mực khăng khăng từ chối, cũng phát bẳn nói:


- Mình có lòng tốt giữ họ, họ nằng nặc đòi đi. Thôi, đi thì đi, nhiều lời xin xỏ làm gì!


Cụ bà bèn quay ngoắt vào, Bát Giới nhịn không nổi, nói với
Đường Tăng:


- Sư phụ không nên quá thể như vậy. Thường có câu: “Giữ người lại thêm lắm tội”. Chúng ta cứ ở thêm một tháng nữa, cho mẹ con cụ ấy thỏa lòng mãn nguyện, vội đi làm gì?


Đường Tăng lại quát um lên. Chú ngốc vội tự vả mình hai cái
rồi nói:


- Hừ! Hừ! Đã bảo không nói nữa mà lại cứ nói!


Hành Giả và Sa Tăng đứng bên cạnh khúc khích cười. Đường
Tăng lại gắt với Hành Giả:


- Nhà ngươi cười cái gì?


Đoạn định niệm bài “Khẩn cô nhi chú”. Hành Giả sợ quá quỳ
vội xuống van xin:


- Thưa sư phụ, con không cười nữa! Con không cười nữa! Xin sư phụ đừng niệm! Xin sư phụ đừng niệm!


Viên ngoại thấy thầy trò lại cáu gắt với nhau, đành không dám giữ nữa, cất tiếng nói:


- Lão sư phụ không phải to tiếng nữa, sáng mai chúng tôi sẽ tiễn lên đường.


Đoạn rời nhà giảng kinh, dặn dò người thư biện viết một trăm tấm thiếp mời họ hàng làng xóm sáng mai đưa tiễn bốn thầy trò lên đường tới Linh Sơn. Một mặt bảo nhà bếp sửa soạn bữa tiệc tiễn chân, một mặt sai người quản gia cắt lấy hai mươi đôi cờ ngũ sắc, mời phường nhạc thổi kèn đánh trống, cùng các hòa thượng chùa Nam Lai, đạo sĩ quán Đông Nhạc, hẹn giờ tỵ sáng mai phải có mặt đông đủ. Mọi người vâng lệnh làm ngay. Chẳng bao lâu trời đã tối. Ăn cơm tối xong, ai nấy đi ngủ. Chỉ thấy:



Quạ bay về tổ rời thôn,


Xa xa vẳng tiếng trống dồn sang canh.


Phố phường chợ búa vắng tanh, Cửa nhà thôn xóm đèn xanh nhạt nhòa. Trăng thanh gió mát chan hòa,
Muôn sao nhấp nháy, bóng hoa mơ màng.


Cuốc kêu khắc khoải canh trường, Sáo trời bặt tiếng, xóm làng lặng yên.


Lúc ấy vào quãng canh ba canh tư, những gia đình trông nom
công việc đã trở dậy, mua bán làm lụng các việc. Người sửa soạn yến tiệc nhộn nhịp trong bếp; kẻ khâu vá cờ hoa tất bật trên nhà; người mời tăng đạo chạy ngược chạy xuôi; kẻ gọi phường kèn đi quanh đi quẩn; người đưa thiếp gọi chạy như đèn cù, kẻ sắp ngựa xe gọi nhau í ới, ồn ào nhộn nhịp từ nửa đêm cho tới lúc trời sáng. Khoảng giờ tỵ, mọi việc đã xong xuôi. Chẳng qua cũng bởi lắm tiền mới nhanh như vậy.


Lại nói chuyện thầy trò Đường Tăng sáng dậy đã thấy một toán người tới hầu hạ. Đường Tăng dặn dò đồ đệ thu xếp hành lý, buộc đóng yên cương. Chú ngốc nghe nói sắp đi vừa lắp bắp đôi môi dày càu nhà càu nhàu, vừa thu xếp y bát cất vào tay nải, tìm đòn gánh sửa soạn gánh đồ. Sa Tăng đóng yên buộc cương đứng đợi. Hành Giả cầm gậy tích trượng chín vòng đưa vào tay Đường Tăng. Đường Tăng đeo túi đựng điệp văn vào trước ngực. Cả bọn đã sẵn sàng ra đi. Lúc ấy, viên ngoại lại mời thầy
trò vào cả trong ngôi nhà lớn ở phía sau. Ở đây yến tiệc đã được bày ra, nom thịnh soạn hơn cả bữa khoản đãi ở trong phòng chay nhiều. Chỉ thấy:



Rèm lụa treo cao, Bình phong tứ phía.
Chính giữa nhà, dựng bức tranh non thọ biển phúc; Hai bên tường, treo bốn bức xuân hạthu đông. Đỉnh vây rồng nghi ngút khói hương.
Lư ngư thước trầm xông ngào ngạt. Bàn ghế bầy toàn đồ ngọc ngà tuyệt đẹp, Mâm đĩa đựng đủ loại bánh kẹo thơm ngon.
Trước thềm, đội kèn trống dạo nốt cung thương, Trong nhà, sơn hào phẩm quả bày lóa mắt. Cơm dẻo canh ngọt mùi thơm phức,
Rượu ngọt trà thơm thứ tuyệt ngon.


Tuy chỉ là nhà loại dân thường, Nào có kém vương hầu quý tộc.


Chỉ văng vẳng tiếng sênh ca dìu dặt, Mà tiếng đồn rộn khắp nơi nơi.


Đường Tăng và viên ngoại đang vái chào nhau, bỗng thấy gia
đồng vào báo:


- Khách đã đến đông đủ.


Khách mời là bà con xóm giềng xung quanh, và những họ
hàng thân thích như vợ cậu, chồng dì, anh em dâu rễ… Lại có cả những vị vẫn nuôi tăng đạo, những vị thiện nam tín nữ chăm chỉ niệm Phật cầu kinh. Mọi người bước cả tới trước mặt Đường Tăng cúi chào. Chào xong, ai nấy theo thứ tự ngồi vào chỗ. Lúc này tiếng đàn tiếng trống đã nhộn nhịp, giọng đàn giọng ca trên tiệc đã vang lừng. Bát Giới đã để ý tới bữa tiệc này bèn nói với Sa Tăng:


- Chú em này, phải dành bụng ăn cho thỏa thích nhé! Ra khỏi nhà họ Khấu, thì không đâu có những thức ăn ngon như ở đây nữa đâu.


Sa Tăng cười nói:


- Anh hai nói gì vậy? Thường có câu “Trăm món chân tu,
ních no thì đừng, chỉ có đường riêng, đâu có bụng riêng” đấy thôi.


Bát Giới nói:


- Chú xoàng lắm! Xoàng lắm! Tôi mà chén no căng một bữa
thì đến ba ngày sau vẫn còn anh ách không thấy đói.


Hành Giả nghe thấy vậy, bèn nói:


- Chú ngốc định ních cho vỡ dạ dày hả? Chuẩn bị hôm nay
lên đường đó.


Lúc này mặt trời đã đứng bóng. Tam Tạng cầm đũa niệm kinh Yết trai. Bát Giới vội vã bưng bát cơm xới thêm, cứ mỗi bát và một miếng, đánh một lèo năm sáu bát, rồi vơ vét nào là bánh bao, bánh cuốn, bánh đường, hoa quả, chẳng kể ngon hay không ngon nhét chặt hai ống tay áo, bấy giờ mới đứng dậy theo sư phụ. Đường Tăng cảm tạ viên ngoại, cảm tạ mọi người rồi bước ra cửa. Ngoài cửa đã sắp sẵn cờ hoa lọng báu, đội nhạc phướng kèn. Lại thấy hai ban tăng đạo cũng tới. Viên ngoại cười nói:


- Các vị tới chậm quá, trưởng lão lại vội đi, không kịp mời cơm chay các vị, đợi lúc quay về tôi sẽ cảm tạ.


Mọi người đứng dẹp tránh lối. Người khiêng kiệu, người cưỡi ngựa, kẻ đi bộ, tất cả đều khiêng cho bốn thầy trò đi trước. Tiếng trống tiếng chiêng vang trời, bóng phướn bóng cờ rợp đất, người đi chen chân tấp nập, ngựa xe nhộn nhịp đông vui. Tất cả mọi người đều đi xem Khấu viên ngoại tiễn Đường Tăng. Một cảnh giàu sang còn hơn cả màn gấm trướng nhung nào có kém gì lầu son gác tía!


Bên hàng nhà sư niệm một bài kinh Phật, bên hàng đạo sĩ thổi một khúc nhạc huyền, tiễn đưa thầy trò Tam Tạng ra khỏi thành. Đi được khoảng mười dặm, lại thấy bày giỏ cơm bầu rượu, bát đũa chén thìa, mọi người lại cùng nhau ăn uống tiễn biệt. Viên ngoại vẫn không nỡ rời, nuốt nước mắt nói:


- Bao giờ trưởng lão lấy kinh quay về, xin mời quá bộ vào tệ
xá ở chơi vài ngày cho Khấu Hồng này được thỏa lòng nhé!


Tam Tạng cảm tạ khôn xiết rồi nói:


- Khi nào tới Linh Sơn, gặp được Phật tổ, việc đầu tiên sẽ nói
rõ đại đức của viên ngoại, lúc trở về nhất định sẽ lê gót tới cửa dập đầu lạy tạ! Dập đầu lạy tạ!





Mải trò chuyện, chẳng mấy chốc đi thêm được hai ba dặm
nữa. Đường Tăng tha thiết xin từ biệt. Bấy giờ viên ngoại bỗng khóc òa lên rồi quay về. Đó chính là:



Có nguyện nuôi sư quy diệu giác


Không duyên được gặp Phật Như Lai.




Hãy gác chuyện Khấu viên ngoại tiễn đưa mười dặm trường
đình, rồi cùng mọi người quay về. Lại nói chuyện bốn thầy trò tiếp tục lên đường sang phương Tây, đi chừng bốn năm chục dặm thì trời đã tối. Tam Tạng nói:


- Trời tối rồi, biết nghỉ ở đâu bây giờ nhỉ? Bát Giới đang gánh đồ, bĩu môi nói:
- Cơm dẻo canh ngọt chẳng ăn, nhà ngói mát mẻ chẳng ở, lại
cứ đòi đi như người mất hồn! Bây giờ trời tối, nhỡ mà mưa nữa thì biết làm sao!


Tam Tạng quát mắng:


- Đồ nghiệt súc khốn kiếp kia, ca thán nỗi gì! Thường có câu:
“Tràng An tuy tốt, nhưng chẳng phải chỗ ham lâu”. Đợi khi nào chúng ta có duyên bái Phật lấy được kinh rồi, chừng ấy quay về cõi Đông, tâu lên chúa thượng, mang cơm trong bếp ngự ra, tha hồ cho nhà ngươi ăn mấy năm liền, ăn cho vỡ bụng cái đồ nghiệt súc nhà ngươi ra, cho nhà ngươi thành con ma no!


Chú ngốc hí hí cười thầm, không dám nói năng gì nữa. Hành Giả ngẩng đầu giương mắt nhìn ra xa, thấy có mấy ngôi nhà ở bên đường, bèn nói với sư phụ:


- Đến kia nghỉ thôi! Đến kia nghỉ thôi!


Tam Tạng đi tới nơi, thấy đó là một dãy nhà đổ nát, trên cửa
còn tấm biển cũ bụi bám đầy viết bốn chữ đại tự “Hoa Quang hành viện”. Tam Tạng xuống ngựa nói:


- Hoa Quang Bồ Tát là đồ đệ của đức Hỏa Diệm Ngũ Quang Phật. Do việc tiễu trừ Độc Hỏa quỷ vương nên bị giáng chức làm Ngũ Hiển Linh Quan. Chắc đây có miếu thờ.


Thầy trò bèn cùng kéo cả vào, thấy nhà cửa đổ nát, không một bóng người, định quay trở ra, bỗng thấy mây đen kín trời, mưa to như trút. Chẳng còn cách nào, thầy trò đành núp dưới mái nhà nát tìm chỗ kín ẩn náu, ai nấy im lặng chẳng nói câu gì, e sợ yêu quái biết. Cứ thế kẻ ngồi người đứng chịu cực suốt đêm chẳng ngủ được tí nào. Chà, thật là:


Cực sướng lại sinh khổ


Đang vui bỗng gặp buồn.




Cuối cùng không biết khi trời sáng, thầy trò ra đi như thế nào,
xem hồi sau sẽ rõ.



HỒI THỨ CHÍN MƯƠI BẢY




Vàng mang trả gây thành tai họa


Thánh hiện hồn cứu thoát cao tăng




Tạm gác chuyện thầy trò Đường Tăng trú mưa vất vả suốt
đêm trong nhà Hoa Quang đổ nát lại. Giờ nói chuyện trong huyện thành quận Địa Linh, phủ Đồng Đài có một bọn hung đồ, bởi chơi bời rượu chè cờ bạc phá tán hết tài sản gia tư, chẳng còn cách nào kiếm sống, đành tụ họp nhau thành bọn vài chục đứa đi ăn cướp. Bọn chúng bàn tính với nhau xem trong thành nhà nào giàu nhất, giàu nhì sẽ tới ăn cướp lấy tiền tiêu. Trong bọn có tên nói:


- Chẳng cần phải dò la bàn bạc cũng biết chỉ có nhà Khấu viên ngoại hôm nay vừa đưa tiễn hòa thượng triều Đường là giàu nhất, bọn ta thừa lúc đêm nay mưa to, phố xá không phòng bị, lính canh chẳng đi tuần, tới đó khoắng một mẻ cướp hết gia tư rồi đi đánh bạc, chơi cô đầu thỏa thích không khoái hay sao?


Bọn cướp mừng lắm, bèn giắt đoản đao, vác gậy gộc, khoác thừng trói, đội mưa mò tới phá cửa nhà họ Khấu hò hét ồ vào định giết người cướp của. Người trong nhà sợ quá, già trẻ gái trai ai nấy bỏ trốn sạch. Cụ bà trốn dưới gầm giường, cụ ông nấp vào xó cửa. Khấu Lương, Khấu Đồng dắt vài người bà con thân thích trong nhà run sợ bỏ chạy tứ phía cầu thoát thân. Bọn cướp xách dao đốt đuốc, cậy tung hòm xiểng vơ hết vàng bạc châu báu, quần áo đồ dùng… Viên ngoại tiếc của, liều mạng chạy ra
cửa van xin bọn cướp:


- Các vị đại vương ơi, xin các vị lấy đủ dùng thôi, còn xin để lại cho già này vài thứ quần áo đồ dùng để già này phòng lúc lâm chung.


Bọn cướp chẳng thèm nói năng, xông tới ngay, đá một phát vào hạ bộ, viên ngoại ngã quay ra đất. Đáng thương thay! Thế là ba hồn phiêu diêu về âm phủ, bảy vía vật vờ biệt cõi đời! Bọn cướp lấy được của ra khỏi nhà Khấu Hồng, buộc thang dây vượt thành chuyển đồ ăn cướp ra bên ngoài, đang đêm đội mưa đi thẳng về hướng tây. Những người hầu trong nhà họ Khấu thấy bọn cướp đi rồi mới ló mặt ra xem xét, thấy lão viên ngoại đã chết gục trên đất, bèn khóc váng lên:


- Ối trời ơi, ông chủ nhà tôi chết rồi!


Mọi người gục xuống bên thi hài khóc lóc thảm thiết.


Vào khoảng canh tư, cụ bà nghĩ giận thầy trò Đường Tăng
không nhận sự cúng dâng cơm chay của mình, rồi do tống tiễn linh đình, nên mới gây nên nông nỗi này, bèn sinh lòng oán giận, muốn hãm hại bốn thầy trò. Cụ bà bèn đỡ lấy Khấu Lương nói:


- Con ơi, đừng khóc nữa. Cha con hôm nay nuôi sư, ngày mai nuôi sư, có ngờ đâu hôm nay đủ số viên mãn nuôi được một bọn tống tiễn cả mạng của mình!


Hai anh em nói:


- Mẹ ơi, sao lại là bọn sư tiễn mạng?
Bà mẹ nói:


- Bọn cướp hung tợn kéo vào nhà, mẹ sợ quá núp dưới gầm
giường run rẩy nhìn ra chỗ đèn sáng quan sát. Các con bảo bọn chúng là ai nào? Tên cầm đuốc là Đường Tăng, tên xách đao là Trư Bát Giới, tên vơ vét của cải là Sa Hòa Thượng, còn tên giết cha con chính là Tôn Hành Giả đó.


Hai người con nghe xong, cho là thực bèn nói:


- Mẹ đã nhìn thấy rõ ràng quả là không sai. Bốn tên ấy ở
trong nhà ta những nửa tháng trời, ắt quen thuộc mọi đường lối, ngóc ngách, cửa giả trong nhà, rồi thấy của động lòng tham, thừa lúc đêm khuya mưa gió quay trở lại cướp của giết người, độc ác làm sao! Đợi trời sáng, chúng con sẽ đệ đơn lên phủ đường kiện bọn chúng mới được.


Khấu Đồng hỏi:


- Đơn kiện viết thế nào? Khấu Lương đáp:
- Viết đúng như lời mẹ nói. Viết rằng: “Đường Tăng đốt đuốc,
Bát Giới hô giết người, Sa Hòa Thượng vét của cải, Tôn Hành
Giả giết cha mình”.


Cả nhà bàn tán xôn xao, chẳng mấy chốc trời đã sáng. Một mặt cho người đi mời họ hàng mua sắm quan tài, mặt khác anh em Khấu Lương lên phủ đệ đơn. Nguyên vị quan Thứ sử chánh đường phủ Đồng Đài là người:




Bình sinh chính trực, Ngay thẳng hiền lương,
Hồi trẻ tuổi chăm chỉ văn chương, Khi khôn lớn điện loan đối sách. Trung nghĩa giữ gìn một mực, Nhân từ lòng dạ thiết tha.
Tiếng thơm nức gần xa, Một viên tri phủ giỏi[325].
Bấy giờ quan tri phủ đang ngồi ở công đường, cắt đặt các
công việc đâu đấy, bèn sai khiêng cáo bài ra, anh em Khấu
Lương ôm bài bước vào quỳ xuống thưa:


- Bẩm quan lớn, chúng con tới kêu về việc kẻ cướp cướp của giết người.


Quan thứ sử nhận lấy tờ đơn xem một lượt như thế, như thế bèn hỏi:


- Hôm qua mọi người đồn rằng nhà các ngươi hiến chay sư tăng đã viên mãn dâng chay bốn vị cao tăng là những vị La Hán triều Đường tận phương Đông sang, đánh trồng thổi kèn tiễn đưa ầm ĩ linh đình, vậy làm sao lại có sự ấy?


Hai anh em Khấu Lương dập đầu thưa:


- Bẩm quan lớn, cha chúng con là Khấu Hồng, dâng cơm
chay nuôi các nhà sư đã hai mươi bốn năm. Vừa rồi có bốn vị cao tăng từ phương xa tới là đủ số một vạn nhà sư. Vì vậy cha chúng con làm lễ viên mãn, giữ họ ở lại nửa tháng, họ bèn để ý thuộc hết cửa giả ngõ ngách. Hôm qua nhà con tiễn họ đi, đêm tối họ quay trở lại, thừa lúc mưa gió đốt đuốc vác dao ập vào nhà cướp hết của cải gia tư, đồ dùng quần áo, lại đánh chết cả cha chúng con nữa. Muôn xin quan lớn làm phúc cho lũ dân đen.


Quan thứ sử nghe xong, lập tức điểm binh mã tinh nhuệ cùng bọn đinh tráng trương tuần gồm một trăm năm mươi người, vũ khí đầy đủ ra khỏi cửa tây đuổi bắt bọn Đường Tăng.


Lại nói chuyện thầy trò Đường Tăng trú mưa trong ngôi nhà đổ nát ở Hoa Quang hành viện cho tới khi trời sáng mới ra khỏi cửa, lên đường sang phương Tây. Vừa lúc ấy bọn cướp đêm qua ăn cướp ở nhà Khấu Hồng ra khỏi thành cũng tìm đường cái sang Tây. Bọn chúng đi miết cho tới khi trời sáng, vượt qua Hoa Quang hành viện về hướng Tây chừng hai mươi dặm, ẩn náu trong thung lũng chia nhau những thứ cướp được. Chia chưa xong, chợt thấy bốn thầy trò Đường Tăng thuận đường đi tới, bọn cướp lòng tham không đáy, bèn chỉ Đường Tăng quát:


- Đúng là bọn hòa thượng hôm qua được tiễn chân đây rồi. Bọn cướp ha hả cười nói:
- Thật đúng lúc! Thật đúng lúc! Bọn ta làm luôn cả món hời
có một không hai này nữa đi! Bọn hòa thượng này từ phương xa tới, nghỉ ở nhà Khấu Hồng đã lâu, ắt hẳn trong người giắt nhiều của quý, bọn ta ách luôn chúng lại, đòi tiền mãi lộ, cướp con ngựa bạch chia nhau, không khoái à?


Bọn cướp bèn lăm lăm dao gậy, hét vang một tiếng, xông ra giữa đường cái, dàn hàng ngang quát:


- Bọn hòa thượng kia chớ có chạy! Mau nộp tiền mãi lộ thì chúng ta tha chết cho, còn nếu hé răng nói nửa lời “không” thì cho mỗi đứa một dao không còn đường sống!


Đường Tăng sợ quá, ngồi trên mình ngựa run lẩy bẩy. Bát
Giới, Sa Tăng cũng hoảng hồn nói với Hành Giả:


- Làm thế nào bây giờ? Làm thế nào bây giờ? Suốt đêm mưa to đã khổ cực, sáng ra lại gặp cướp chẹn đường. Đúng là “họa vô đơn chí”!


Hành Giả cười nói:


- Sư phụ đừng sợ, anh em chớ lo, để lão Tôn lên hỏi chúng
xem sao.


Đoạn Đại Thánh thắt lại chiếc quần da hổ, vuốt lại chiếc áo dài gấm, bước tới khoanh tay trước ngực hỏi:


- Các vị định giở trò gì nào?




Bọn cướp quát:


- Tên này không biết sợ chết, dám tới hỏi chúng ông hả? Nhà
ngươi dưới trán không có mắt hay sao mà không nhận ra các vị đại vương của nhà ngươi? Mau mau nộp tiền mãi lộ thì bọn ông tha cho đi!


Hành Giả nghe xong, khành khạch cười ngất nói:


- À, hóa ra các ngươi là bọn cướp chẹn đường! Bọn cướp nổi giận quát:
- Giết!
Hành Giả giả vờ sợ sệt nói:


- Thưa các đại vương, chúng tôi là hòa thượng ở chốn quê
mùa, không biết ăn nói, xúc phạm tới các ngài, mong các ngài đừng trách. Còn nếu như các muốn đòi tiền mãi lộ thì đừng hỏi ba người kia, chỉ cần hỏi mình tôi là đủ. Tôi giữ sổ sách. Phàm các khoản tiền kinh, tiền tiêu pha, cùng tiền được bố thí tôi đều cất cả trong tay nải này, toàn do tôi coi giữ. Người cưỡi ngựa kia tuy là sư phụ tôi, nhưng ông ta chỉ biết niệm kinh thôi, công việc chẳng quản, tài sắc đều quên, tiền thì chẳng có. Người mặt đen kia là loại hậu sinh, tôi thu nhận ở dọc đường, chỉ biết nuôi ngựa. Còn anh mõm dài là người ở công cho tôi, chỉ biết gánh đồ. Các ngài thả cho ba người ấy đi, bao nhiêu tiền nong, đồ vật tôi biếu các ngài hết.


Bọn cướp nghe xong, nói:


- Chú hòa thượng này cũng thật thà đây. Đã như vậy chúng
ông tha chết cho, nhưng phải bảo ba tên kia bỏ hành lý lại, chúng ông mới cho đi.


Hành Giả quay đầu đưa mắt ra hiệu, Sa Tăng bèn đặt gánh hành lý xuống, tay dắt cương ngựa cho sư phụ, cùng Bát Giới đi thẳng sang hướng tây. Hành Giả cúi đầu mở tay nải, bốc nắm cát ở dưới đất tung lên, miệng đọc thần chú, sử phép định thân quát một tiếng “im!”. Bọn cướp cả thảy gần ba mươi tên, tên nào tên ấy nghiến răng, trợn mắt, duỗi tay đứng im như phỗng, chẳng hề động đậy. Hành Giả nhảy ra đầu đường gọi:


- Sư phụ lại đây! Lại đây! Bát Giới hoảng hốt nói:


- Hỏng! Hỏng! Sư huynh khai chúng ta ra rồi! Hắn chẳng có
một đồng kẽm, trong tay nải một vẩy vàng cũng không, chắc hắn gọi sư phụ quay lại đòi ngựa, còn chúng ta thì lột lấy quần áo.


Sa Tăng cười nói:


- Anh hai chớ nói lăng nhăng! Anh cả là người tài giỏi, ma
thiêng quái dữ còn thu phục được, sợ gì mấy thằng cướp ranh! Anh ấy gọi chắc có chuyện gì đó, ta mau mau quay lại xem sao.


Tam Tạng nghe lời vui vẻ quay ngựa tới bên Hành Giả hỏi:


- Ngộ Không, có việc gì mà gọi quay lại? Hành Giả thưa:
- Sư phụ nhìn lũ cướp này thấy thế nào? Bát Giới tới gần ẩy chúng một cái, nói:
- Bọn cướp, tại sao chúng bay cứ đứng im như phỗng thế kia?


Bọn cướp vẫn cứ như vô tri vô giác chẳng nói chẳng rằng. Bát
Giới nói:


- Sao cứ ngây ra thế này? Hành Giả cười nói:
- Lão Tôn dùng phép định thân bắt chúng đứng im đấy.


Bát Giới nói:


- Đã định thân nhưng chưa định khẩu, tại sao chúng chẳng nói
năng được gì?


Hành Giả nói:


- Mời sư phụ xuống ngựa ngồi đây. Thường có câu: “chỉ có
bắt nhầm, không có tha nhầm”, mấy chú quật ngã chúng xuống, trói chúng lại, lấy khẩu cung từng đứa xem chúng là kẻ cướp mới hành nghề hay đã lõi đời.


Sa Tăng nói:


- Không có thừng.


Hành Giả bèn nhổ mấy sợi lông, thổi hơi tiên khí, biến thành
ba mươi sợi thừng, cả bọn ra tay quật ngã từng đứa trói dúm bốn chân tay lại, sau đó Hành Giả đọc thần chú giải phép, bọn cướp dần dần tỉnh lại.


Hành Giả mời Đường Tăng ngồi chỗ cao, ba người cầm binh khí, quát:


- Lũ giặc cỏ kia, bọn các ngươi có bao nhiêu thằng? Hành nghề đã mấy năm? Cướp được bao nhiêu của? Giết chết bao nhiêu người? Hay là mới phạm tội lần đầu, lần thứ hai, lần thứ ba?


Bọn cướp mở miệng van xin:
- Xin các ngài tha tội chết! Hành Giả quát:
- Không van xin, cứ khai ra cho thực! Bọn cướp nói:
- Thưa các ngài, chúng con không phải hạng quen nghề ăn
cướp, mà vốn là con nhà tử tế. Chỉ do bất tài, rượu chè cờ bạc, ham chơi gái, đến nỗi bán sạch cả cơ nghiệp tổ tiên, lâu nay chẳng làm lụng gì, lại không có tiền tiêu, dò la biết được nhà Khấu viên ngoại trong thành phủ Đồng Đài rất giàu có, hôm qua cả bọn bèn tụ tập, thừa lúc đêm tối trời mưa tới ăn cướp, lấy được một ít vàng bạc châu báu, mang vào trong thung lũng ở phía bắc con đường này chia nhau. Bỗng chúng con nhìn thấy các ngài đến, trong bọn có đứa nhận ra là những hòa thượng mà Khấu viên ngoại vừa mới tiễn chân, chắc trong người có giắt của cải, lại thấy gánh hành lý nặng, con ngựa bạch giống tốt, bèn động lòng tham vô đáy, xong tới chặn đường, có biết đâu các ngài phép lực thần thông, trói chặt chúng con, muôn xin các ngài mở lòng từ bi, thu lại những của cải ăn cướp, còn tha cho tính mạng chúng con.


Tam Tạng nghe nói là của cải ăn cướp ở nhà Khấu Hồng thì giật mình sợ hãi, vội vàng đứng dậy nói:


- Ngộ Không, Khấu viên ngoại là người rất mực hiền lành, làm sao lại xẩy ra tai họa như vậy?


Hành Giả cười nói:
- Chỉ vì khi tiễn chúng ta lên đường, viên ngoại lại bày ra đủ thứ, nào là phướn hoa lọng báu, đội trống phường kèn đập vào mắt người ta, vì vậy bọn cướp này mới kéo tới cướp. Nay may mắn gặp chúng ta mới lấy lại được mọi thứ của cải ăn cướp ấy đấy.


Tam Tạng nói:


- Chúng ta quấy nhiễu viên ngoại suốt nửa tháng, cảm kích ơn
sâu chưa biết lấy gì báo đáp, chẳng bằng mang những của cải này về trả cho viên ngoại, đó không phải là việc tốt hay sao?


Hành Giả nghe lời, cùng Bát Giới, Sa Tăng vào thung lũng thu nhặt tang vật đặt lên lưng ngựa. Lại sai Bát Giới gánh một gánh vàng bạc, Sa Tăng thì gánh hành lý, Hành Giả định nện một chập gậy giết chết sạch lũ cướp, nhưng lại sợ Đường Tăng trách là giết người, nên chỉ rùng mình, thu lại những sợi lông lên người. Bọn cướp được sổng chân tay, lồm cồm bò dậy, rồi rúc vào bờ bụi chạy trốn.


Thầy trò Đường Tăng quay trở lại mang trả của cải cho viên ngoại. Chuyến đi này chẳng khác nào thiêu thân bay vào lửa, gặp phải tai ương. Có bài thơ làm chứng rằng:



Ơn trả ơn thế gian hiếm có, Ơn nghĩa kia lại hóa oan cừu. Cứu người thoắt bỗng gặp tai,
Việc làm nghĩ kỹ ấy thời không lo.




Thầy trò Tam Tạng gánh của cải vàng bạc quay lại, đang đi
bỗng thấy đoàn người giáo gươm tua tủa đi tới. Tam Tạng cả sợ nói:


- Đồ đệ ơi, các con nhìn xem giáo gươm ầm ầm kéo tới thế kia là lành hay dữ?


Bát Giới nói:


- Tai vạ tới rồi! Tai vạ tới rồi! Bọn cướp vừa được tha đi nay
cầm binh khí kéo thêm người quay lại đánh chúng ta đó!


Sa Tăng nói:


- Anh hai ạ, đoàn người kéo tới kia không phải kẻ cướp đâu.
Anh cả thử nhìn kỹ xem sao.


Hành Giả thầm thì với Sa Tăng:


- Tai tinh lại chiếu vào sư phụ rồi. Chắc hẳn đây là quan quân
đi bắt cướp đấy.


Vừa dứt lời quan quân đã ập tới trước mặt, dàn thành vòng tròn vây chặt bốn thầy trò, quát:


- Lũ hòa thượng này giỏi nhỉ! Đã ăn cướp của cải nhà người lại còn nghênh ngang ở đây!


Đoạn xông vào lôi Đường Tăng xuống ngựa, lấy thừng trói nghiến lại, sau đó cũng trói luôn cả bọn Hành Giả xỏ vào đòn khiêng, cứ hai người khiêng một, dắt ngựa gánh đồ về thẳng phủ
thành. Chỉ thấy:




























































Đường Tam Tang, Run như cầy sấy,
Nước mắt nghẹn ngào


Trư Bát Giới, Càu nhà càu nhàu, Trong lòng oán thán. Sa Hòa Thượng, Buồn như chấu cắn, Suy nghĩ miên man.
Còn Tôn Ngộ Không, Cười khành khạch, Muốn khoe thủ đoạn.
Quan quân xúm vào khiêng đi, chẳng mấy chốc đã về tới phủ thành, giải hết cả lên công đường báo bẩm:


- Bẩm quan lớn, chúng con đã bắt được bọn cướp về đây rồi ạ.


Quan thứ sử ngồi ngay ngắn giữa công đường, ủy lạo quân sĩ,
kiểm lại tang vật, cho gọi nhà họ Khấu tới nhận, lại cho giải bọn
Tam Tạng vào sảnh đường hỏi tội:


- Bọn hòa thượng này mồm kêu là từ phương Đông xa xôi tới, sang phương Tây bái Phật cầu kinh, hóa ra là một bọn cướp bày đặt ra thế để dò xét đường đi lối lại trong nhà người ta rồi ăn cướp của cải!


Tam Tạng thưa:


- Xin đại nhân cho được nói: Bần tăng thực không phải là
cướp, không dám dối trá điều gì. Trong người hiện có tờ điệp văn đại nhân có thể soi xét. Chỉ nhân nhà Khấu viên ngoại hiến trai chúng tôi nửa tháng, tình cảm sâu nặng, dọc đường gặp bọn cướp, chúng tôi lấy lại được số của cải bọn chúng cướp được ở nhà họ Khấu, định quay lại mang trả nhà họ Khấu để báo ơn, không ngờ gặp quân lính vây bắt cho là kẻ cướp. Thực tình chúng tôi không phải là kẻ cướp, muốn xin đại nhân xét kỹ.


Quan thứ sử nói:


- Bọn các ngươi bị quan quân bắt được, lại khéo nói là báo
ơn. Nếu đã dọc đường gặp cướp, tại sao không bắt ngay lấy bọn chúng, vừa báo quan báo ơn một thể, tại sao lại trơ khấc chỉ có bốn người bọn các ngươi? Các ngươi xem, Khấu Lương đệ đơn kiện, viết rõ tên các ngươi, các ngươi còn dám chối cãi gì nữa!


Tam Tạng nghe xong, khác nào sấm đánh mang tai, hồn xiêu phách tán, cất tiếng gọi:


- Ngộ Không, sao con không thanh minh đi! Hành Giả nói:
- Tang vật rõ rành rành, còn thanh minh gì nữa! Quan thứ sử nói:
- Đúng! Tang vật vẫn kia, còn dám chối cãi à? Đoạn ra lệnh cho thủ hạ:
- Cầm sợi thòng lọng lại đây, thắt vào đầu tên đầu trọc kia rồi
hẵng đánh!


Hành Giả hốt hoảng, trong bụng nghĩ thầm:


- Sư phụ tuy mắc nạn này, nhưng không thể để sư phụ chịu
cực khổ quá nặng được.


Thấy bọn lính lệ nhặt những sợi dây tết thành thòng lọng, Hành Giả vội cất lời nói:


- Quan lớn đừng thắt thòng lọng vào đầu vị hòa thượng ấy. Đêm qua cướp nhà họ Khấu, đốt đuốc là tôi, cầm dao cũng là tôi, cướp của giết người cũng là tôi. Tôi là đầu sỏ bọn cướp, có đánh thì đánh tôi, chứ mấy người này không liên can gì, chỉ bắt tôi là đủ.


Quan thứ sử nghe vậy, bèn truyền lệnh:


- Hãy thắt thòng lọng vào đầu tên này trước!


Bọn lính lệ nhất tề ra tay, chụp sợi thòng lọng lên đầu Hành
Giả, rồi xiết chặt, sợi thòng lọng liền đứt phựt, cứ thế lại xiết lại đứt, đứt đến ba bốn chiếc thòng lọng mà da đầu Hành Giả chẳng có tì vết xước nào. Đang gọi đi tết chiếc thòng lọng khác, thì nghe thấy có người vào báo:


- Bẩm quan lớn, có ngài Trần Thiếu Bảo ở kinh đô tới, mời ngài ra ngoài thành đón tiếp.


Quan thứ sử liền lệnh cho viên quan phòng hình:


- Đem bọn cướp vào nhà lao, canh giữ cẩn thận, đợi ta đi đón
thượng quan xong, lại tiếp tục tra khảo chúng.


Quan phòng hình giải ngay bốn thầy trò vào nhà lao. Bát
Giới, Sa Tăng cũng gánh hành lý của mình đi theo.


Tam Tạng hỏi:


- Đồ đệ ơi, họ giải chúng ta đi đâu thế này? Hành Giả cười nói:
- Sư phụ cứ vào đi! Cứ vào đi! Ở đây không có chó sủa tha hồ
vui chơi.


Thương hại thay bốn thầy trò bước vào, ai nấy bị ẩy vào một xó cũi, bị đá thốc vào bụng, đấm vào mặt, vào lưng. Những tên cai ngục đánh đấm họ túi bụi.


Tam Tạng đau đớn quá không chịu nổi, cất lời than:


- Ngộ Không ơi, biết làm sao bây giờ? Hành Giả thưa:
- Chúng đánh là vòi tiền đấy! Thường có câu “Chỗ tốt yên
thân, chỗ khổ đút tiền”. Nay thì cho chúng ít tiền là êm thôi.


Tam Tạng nói:


- Chúng ta làm gì có tiền? Hành Giả nói:
- Không có tiền thì quần áo cũng được. Mang chiếc cà sa cho
bọn chúng là xong.


Tam Tạng nghe thấy thế khác nào như dao cắt ruột nhưng qua một hồi bị đánh đau hết chịu nổi, đành mở miệng nói:


- Ngộ Không ơi, tùy con vậy. Hành Giả bèn gọi:
- Các ngài trưởng quan ơi, đừng đánh nữa. Trong hai cái tay
nải nơi gánh hành lý của chúng tôi có tấm áo cà sa gấm đáng giá nghìn vàng, các ngài cởi ra mà lấy.


Bọn canh ngục nghe nói, bèn ra tay ngay, cởi hai chiếc tay nải ra xem xét, thấy có mấy tấm áo vải, mấy chiếc túi, chẳng đáng giá là bao. Bỗng lại thấy một bọc được gói bằng mấy lớp giấy nến, hào quang chói lọi, biết là vật quý, bọn canh ngục bèn mở
ra xem. Chỉ thấy:




























Ngọc minh châu tuyệt đẹp Áo Phật diệu kỳ thay Thêu rồng lượn trời mây
Viền phượng dập dờn múa.
Mọi người xúm vào xem làm kinh động ngục quan bản ty. Viên quan bước tới quát:


- Các ngươi làm gì mà ồn ào thế? Bọn canh ngục quỳ xuống thưa:
- Thưa ngài, quan lớn vừa mới xử kiện, tống giam bốn vị hòa
thượng kẻ cướp. Bọn chúng bị chúng tôi đánh đau mấy trận, bèn đút lót hai chiếc tay nải. Chúng tôi mở ra xem, nhìn thấy vật này, chưa biết khu xử thế nào. Nếu phá ra chia nhau thì thực phí quá. Còn chia hẳn cho một người thì người khác không được tí gì. May quá có ngài tới, mời ngài phân xử hộ.


Ngục quan nhận ra đó là tấm áo cà sa, đoạn lại giở tung xem xét các loại quần áo, và lục soát lại toàn bộ chiếc túi. Viên ngục quan giở cả tờ điệp văn ra xem, thấy có đóng dấu triện báu của nhiều nước, bèn nói:


- May mà ta đến kịp xem xét. Nếu không, các ngươi làm hỏng việc mất. Mấy vị hòa thượng này không phải là bọn cướp, chớ
có động vào quần áo của họ. Đợi sáng mai quan lớn thẩm tra lại mới biết rõ hư thực.


Đám canh ngục nghe xong, gói lại cẩn thận trao cho viên ngục quan cất giữ.


Chẳng mấy chốc trời đã tối, tiếng trống canh trên thành lầu đã kiểm, trương tuần đã đi tuần. Vào khoảng canh tư ba khắc, Hành Giả thấy xung quanh im ắng, mọi người đã ngủ say, bèn nghĩ thầm:


- Sư phụ số phải chịu tai nạn ngồi tù đêm nay. Lão Tôn không mở mồm thanh minh, không thi thố pháp lực, cũng chỉ vì thế. Bây giờ đã là canh tư, tai nạn sắp qua khỏi, ta phải đi chuẩn bị trước, đợi trời sáng, ra khỏi nhà lao.


Đoạn Hành Giả thi thố tài nghệ, thu người nhỏ lại, chui ra khỏi cũi, lắc mình một cái, biến thành một con côn trùng, lách qua khe mái ngói chui ra ngoài, thấy trăng sao vằng vặc, trời đêm trong sáng. Hành Giả nhận ra phương hướng bay thẳng về phía nhà họ Khấu, thấy phố xá ở mạn này đèn lửa sáng rực, vội bay tới cửa xem xét, hóa ra là một nhà làm đậu phụ, thấy một cụ ông đang đun bếp, cụ bà thì vắt đậu. Cụ ông bỗng cất tiếng nói:


- Này bà ạ, quan lớn họ Khấu là người vừa có của vừa có con, chỉ có điều là chẳng được thọ. Thuở nhỏ, tôi và ông ấy cùng đi học với nhau, tôi hơn ông ta năm tuổi. Bố ông ấy là Khấu Minh, bấy giờ có tới nghìn mẫu ruộng, phát canh thu tô, thu lợi quá đáng. Năm hai mươi tuổi, cụ Minh mất. Ông ấy nắm cả cơ nghiệp, nhưng thực ra ông ấy cũng gặp vận may. Lấy vợ là con gái ông Trương Vượng, lúc ở nhà gọi là cô Xuyên Châm. Cô này cũng có số vượng phu. Từ ngày về nhà chồng, cày cấy càng
bội thu, tô tức càng nẩy nở, buôn bán cái gì cũng có lãi, làm ăn gì cũng ra tiền, dần dà gia tư cũng tới ức vạn. Tới năm bốn mươi tuổi, ông ấy lại hồi tâm làm thiện, nuôi cơm một vạn nhà sư, thế mà không ngờ đêm qua bị bọn cướp đá chết, thật đáng thương. Năm nay ống ấy sáu mươi tư tuổi, đang độ sung sướng. Ai ngờ những người lương thiện chẳng được gặp may, lại chết oan chết uổng như thế. Đáng thương lắm! Đáng thương lắm!


Hành Giả nghe rõ đầu đuôi, lúc ấy khoảng canh năm, bèn bay ngay vào nhà họ Khấu, thấy quan tài đã đặt ở giữa nhà. Trước quan tài có đặt đèn hương hoa quả, cụ bà ngồi bên cạnh khóc sụt sịt, hai cậu con trai vừa lạy vừa khóc, hai người con dâu đặt lên hai bát cơm cúng. Hành Giả đậu trên quan tài hắt hơi một tiếng, hai cô con dâu sợ quá, ba chân bốn cẳng chạy biến ra ngoài. Anh em Khấu Lương cứ gục mặt xuống đất chẳng dám cựa quậy, chỉ khóc lóc:


- Ới cha ơi, hu! hu! hu!…


Bà cụ mạnh dạn vỗ tay vào quan tài nói:


- Ông viên ngoại ơi, ông sống lại đấy ư? Hành Giả bắt chước tiếng viên ngoại nói:
- Tôi không sống lại được đâu.


Hai người con trai sợ giật thót, dập đầu lia lịa nước mắt ròng
ròng, cất tiếng khóc:


- Ới cha ơi! Hu! Hu! Hu!…
Bà cụ lại đánh bạo hỏi:


- Ông viên ngoại ơi, ông không sống lại sao lại nói được? Hành Giả đáp:
- Ta được Diêm Vương sai quỷ sứ đưa ta về bảo cho mọi
người biết rằng: “Chính mụ Xuyên Châm họ Trương kia ăn gian nói dối hãm hại người vô tội”.


Bà cụ nghe thấy gọi đúng tên tục lúc nhỏ của mình thì sợ quá, quỳ xuống dập đầu nói:


- Ới ông già ơi! Tôi ngần này tuổi đầu mà còn gọi tên tục ngày còn bé của tôi ra sao? Tôi đâu có ăn gian nói dối, hãm hại ai vô tội?


Hành Giả quát:


- Làm gì có “Đường Tăng đốt đuốc, Bát Giới gọi chết người,
Sa Tăng cướp vàng bạc, Hành Giả giết chết cha các ngươi”? Chỉ vì mụ mà khiến cho người ngay gặp nạn. Bốn vị trưởng lão triều Đường đi đường gặp cướp, đã lấy lại của cải mang về trả ta để tạ ơn, hảo ý biết chừng nào! Mụ lại vu oan giá họa, sai con làm đơn đệ lên quan. Quan phủ lại không xét kỹ, bắt người ta giam vào ngục. Thần ngục, thổ địa, thành hoàng đều cuống cả lên đứng  ngồi  không  yên,  đi  báo  cho  Diêm  Vương  biết.  Diêm Vương sai quỷ sứ áp giải ta về nhà, báo các ngươi mau mau đi giải cứu cho người ta. Nếu không, Diêm Vương sai ta về nhà quấy nhiễu một tháng, mọi người già trẻ gái trai cùng gia súc trong nhà, ta sẽ bắt đi không còn một mống!


Hai anh em Khấu Lương lại dập đầu van xin:


- Cha ơi, xin mời cha về, nhưng chớ hãm hại mọi người già
trẻ trong nhà. Đợi khi trời sáng, chúng con sẽ tới bản phủ đệ đơn xin tha họ, rút đơn kiện về, cốt mong sao kẻ sống người chết đều được yên ổn.


Hành Giả nghe xong, nói:


- Đốt sắc đi để ta đi đây!


Cả nhà vội vàng đốt tiền giấy.


Hành Giả đập cánh bay đi, bay thẳng vào tận chỗ ở của quan
thứ sử, cúi đầu xem xét, thấy trong phòng đã sáng ánh đèn, quan thứ sử đã trở dậy. Hành Giả bèn lại bay vào gian giữa quan sát, thấy trên bức tường sau gian giữa có treo một bức tranh, vẽ một vị quan cưỡi ngựa, vài người theo hầu vác một cây lọng xanh, cắp một chiếc ghế xếp, chẳng biết vẽ tích gì, bèn đậu ngay vào giữa. Bỗng thấy quan thứ sử từ trong phòng ngủ bước ra, cúi người chải đầu. Hành Giả thình lình hắt hơi một tiếng rất to, quan thứ sử sợ quá cuống quýt chạy vội vào phòng trong. Rửa mặt chải đầu, mặc quần áo xong, quan thứ sử trở ra thắp hương khấn khứa trước bức tranh:


- Kính lạy vong hồn bác Khương Công Càn Nhất, cháu hiếu là Khương Khôn Tam đội ơn âm đức tổ tiên thi đỗ khoa bảng, nay được bổ làm quan thứ sử phủ Đồng Đài, sớm tối thờ phụng hương khói, không hiểu tại sao hôm nay bác lại lên tiếng. Xin bác đừng để mọi người trong nhà phải sợ hãi.


Hành Giả cười thầm nghĩ bụng:


- À, té ra đây là bài vị bác hắn. Đoạn ra vẻ trang nghiêm nói:
- Cháu Khôn Tam kia! Cháu làm quan tuy được thừa hưởng
phúc ấm tổ tiên, giữ gìn trong sạch, thế mà tại sao hôm qua ngu tối, nhầm lẫn cho bốn vị thánh tăng là cướp. Rồi chỉ thẩm vấn tra hỏi qua loa, nhốt người ta vào ngục, khiến cho thần ngục, thổ địa, thành hoàng lo sợ, đi tâu báo Diêm Vương, Diêm Vương sai quỷ sứ áp giải ta về nói với cháu, bảo cháu phải xét thấu tình đạt lý, mau mau thả người ta ra. Nếu không sẽ bắt cháu phải xuống âm ty đối chứng.


Quan thứ sử nghe xong, trong lòng sợ hãi nói:


- Xin vong linh bác cứ ra về, chừng nào cháu ra công đường
sẽ tha họ ra ngay.


Hành Giả nói:


- Đã như vậy thì đốt giấy đi, để ta về tâu lại Diêm Vương. Quan thứ sử vội vàng thắp hương đốt giấy tiền lạy tạ.
Hành Giả lại quay trở ra xem xét, thấy phương Đông trời đã
sáng, bèn bay ngay về huyện Địa Linh, thấy các quan đã tề tựu đông đủ tại công đường. Hành Giả nghĩ:


- Côn trùng nói được, người ta nhìn thấy, sẽ lộ chân tướng, hỏng việc mất.


Bèn bay lên giữa không trung, đổi pháp thân, thò một chân xuống, giẫm lung tung giữa công đường cất tiếng gọi:


- Các quan nghe đây: Ta là Lãng Đãng Du Thần do Thượng Đế sai xuống, nói cho các ngươi biết là bọn canh ngục đánh đập con Phật đi lấy kinh, làm kinh động cả các thần trong ba cõi. Thượng Đế sai ta xuống bảo các ngươi phải thả họ ra ngay. Nếu chậm trễ, ta sẽ thả nốt chân nữa, trước đá chết hết các quan trong toàn phủ huyện, sau đá chết tất cả dân chúng, và đạp đổ thành trì thành tro bụi!





Quan lại trong huyện sợ quá, ai nấy quỳ mọp xuống, dập đầu
van lạy:


- Xin thượng thánh cứ về. Hôm nay chúng tôi vào phủ bẩm
lên quan phủ thả ngay họ ra. Muôn xin thượng thánh đừng giẫm chân, hạ quan chúng tôi sợ chết khiếp.


Hành Giả bèn thu pháp thân lại, chui qua khe ngõ, bay vào nhà giam, bò vào cũi ngủ như cũ.


Lại nói chuyện quan thứ sử trời sáng ra công đường, vừa khiêng tấm bài đựng đơn ra, đã thấy anh em Khấu Lương bưng bài vào quỳ trước cửa kêu van. Quan thứ sử cho gọi vào. Hai người đệ tờ đơn xin rút đơn kiện trước. Quan thứ sử xem xong nổi giận quát:


- Hôm qua các ngươi vừa phát đơn kiện, ta đã cho đi bắt bọn cướp về, tang vật cũng đã trả cho các ngươi, tại sao hôm nay lại đệ đơn xin thôi kiện?


Hai người nước mắt ròng ròng thưa:


- Bẩm quan lớn, đêm qua cha chúng con hiện hồn về nói:
“Thánh tăng triều Đường bắt được bọn cướp thu lại của cải, tha cho lũ cướp, lại có lòng tốt trả lại nhà ta của cải để báo ơn. Thế mà tại sao các ngươi lại vu cho họ là ăn cướp, bắt giam vào ngục chịu nhục hình? Thổ địa, thành hoàng trong ngục lo sợ tâu cho Diêm Vương biết. Diêm Vương sai quỷ sứ áp giải ta về bảo cho các ngươi phải tới phủ đường thưa lại, xin thả Đường Tăng ra, thì may ra thoát nạn. Nếu không già trẻ trong nhà sẽ chết hết”. Vì vậy, hôm nay chúng con đệ đơn xin thôi kiện, muôn xin quan lớn rủ lòng thương giúp đỡ.


Quan thứ sử nghe nói như vậy, nghĩ thầm rằng:


- Cha hắn vừa chết xác hãy còn ấm, ma mới hiện hồn báo ứng
còn có lý, chứ bác ta chết đã năm sáu năm nay, mà đêm qua cũng hiện hồn về bảo ta tra xét lại tha cho họ là cớ sao nhỉ?… Vậy xem ra chắc hẳn là bọn họ bị oan uổng rồi.


Đang lúc băn khoăn, bỗng thấy quan tri huyện và các quan ở huyện Địa Linh ập vào công đường nói cuống quýt:


- Bẩm quan lớn, hỏng rồi! Hỏng rồi! Vừa rồi Thượng Đế sai Lãng Đãng Du Thần xuống hạ giới, bảo ngài phải thả ngay người tốt bị giam trong ngục. Mấy hòa thượng bị bắt hôm qua không phải là kẻ cướp, mà là những Phật tử đi lấy kinh. Nếu chậm trễ, thì sẽ đá chết tất cả quan viên chúng tôi, lại còn đá chết trăm họ và đạp đổ thành trì ra tro bụi nữa.


Quan thứ sử càng sợ hãi tái mặt, gọi ngay quan hình phòng hỏa tốc mang thẻ bài tới nhà lao thả ngay thầy trò Tam Tạng. Bát Giới phát sầu cả người nói:


- Hôm nay không biết họ lại tra tấn kiểu nào đây? Hành Giả cười nói:
- Một roi họ cũng chẳng dám đánh chúng ta. Lão Tôn đã lo
liệu đâu vào đấy cả rồi. Đến công đường không những không phải quỳ, mà còn được họ mời chúng ta ngồi trên nữa ấy chứ. Hơn nữa tôi còn hỏi đòi họ hành lý, con ngựa, thiếu thứ nào, tôi còn nện cho một trận.


Vừa dứt lời, thầy trò đã được đưa tới công đường. Quan thứ sử, quan tri huyện, và đông đủ quan viên trong phủ huyện vừa nhìn thấy thầy trò Đường Tăng đã vội vã bước xuống nghênh đón nói:


- Hôm qua khi thánh tăng tới nơi, một là chúng tôi bận đi đón
quan trên, hai là thấy cả tang vật, nên chưa kịp tra xét kỹ càng cho rõ đầu đuôi…


Đường Tăng chắp tay cúi người, đem chuyện trước kể hết một lượt, mọi người không ngớt thán phục nói:


- Chúng tôi trót lầm lỡ, xin thứ lỗi! Thứ lỗi!


Lại hỏi ở trong ngục thầy trò có bị mất mát gì không. Hành
Giả bước tới trừng mắt, dõng dạc nói:


- Con ngựa bạch của tôi bị người của thượng quan bắt mất, hành lý thì bị lính canh ngục cướp đi, mau mau trả lại cho chúng tôi. Hôm nay mới là ngày tôi bạch tội lại các người đây! Vu cho người ngay là cướp thì mắc tội gì?


Các quan phủ huyện thấy Hành Giả tức giận, ai nấy sợ hãi, vội cho gọi ai giữ ngựa, ai cầm hành lý phải mang đến ngay. Mọi thứ nhất nhất được trao lại đầy đủ. Bọn Hành Giả đều tỏ vẻ giận dữ. Các quan đành phải lôi nhà họ Khấu ra làm cớ che đỡ. Tam Tạng khuyên giải nói:


- Đồ đệ ơi, vẫn chưa hẳn minh bạch đâu. Ta hãy tới nhà họ Khấu, một là để thăm viếng, hai là cùng họ đối chứng, hỏi cho ra người nào thấy chúng ta ăn cướp.


Hành Giả nói:


- Đúng. Để lão Tôn gọi người chết dậy hỏi xem bị người nào
đánh chết.


Sa Tăng đỡ Đường Tăng lên ngựa, quát tháo ầm ỹ, cả bọn kéo
ra. Các quan trong phủ huyện đi theo cùng tới nhà họ Khấu. Anh em Khấu Lương sợ quá đứng trước cửa dập đầu lạy lia lịa mời vào trong nhà. Mọi người trong nhà đang đứng bên màn khóc lóc ầm ỹ. Hành Giả đáp:


- Cái mụ già ăn gian nói dối hãm hại người ngay kia, đừng khóc nữa, để lão Tôn gọi ông cụ dậy xem cụ nói rõ bị ai đánh chết, cho mụ xấu hổ một trận!


Các quan ai cũng cho là Hành Giả nói cho vui mà thôi. Hành
Giả nói:


- Thưa các vị đại nhân, các vị hãy ngồi chơi với sư phụ tôi một lát. Bát Giới, Sa Tăng bảo vệ sư phụ cẩn thận để tôi đi một chuyến.


Đoạn Đại Thánh bước ra ngoài cửa, nhảy vút lên không trung. Chỉ thấy ráng đẹp mông lung trùm đất rộng, hào quang rực rỡ đỡ thiên thần. Bấy giờ mọi người mới nhận ra đó là vị tiên đi mây về gió, bậc thánh cải tử hoàn sinh. Ai nấy thắp hương khấn vái sì sụp. Chuyện không nói nữa.


Lại nói chuyện Đại Thánh dùng phép cân đẩu vân tới thẳng địa giới cõi u minh, xồng xộc vào trong điện Sâm La. Đã thấy:



Mười vị Diêm Vương tay chắp, Năm phương quỷ phán dập đầu. Nghìn cây kiếm nhọn cúi chào,


Muôn dãy đao to nghiêng đón. Thành Uổng Tử ma kia hiển hiện, Chân cầu Nại Hà quỷ nọ siêu sinh. Khắp một vùng rực ánh thần quang, U ám âm ty bừng sáng sủa.


Mười vị Diêm Vương đón tiếp Đại Thánh. Làm lễ tương kiến
xong, Diêm Vương hỏi Đại Thánh xuống có việc gì.


Hành Giả đáp:


- Con ma Khấu Hồng nuôi sư ở huyện Địa Linh, phủ Đồng
Đài ai bắt, mau mau đi tìm trả lại cho tôi ngay.


Mười vị Diêm Vương nói:


- Thiện sĩ Khấu Hồng chưa hề bị quỷ sứ câu hồn. Ông ta tự
tới đây, gặp Kim Y Đồng tử của Địa Tạng Vương, cậu ấy dẫn ông ta đến yết kiến Địa Tạng Vương rồi.


Hành Giả vội vã chia tay mười vị Diêm Vương, tới thẳng cung Thúy Vân gặp Địa Tạng Vương Bồ Tát. Hành Giả hỏi Bồ Tát xong, bèn thưa hết chuyện.


Bồ Tát vui vẻ nói:


- Tuổi thọ của Khấu Hồng vừa tới ngày hết. Khi mệnh chung,
không bận giường chiếu, lìa đời đi luôn. Ta thấy hắn là người thiện sĩ, nuôi nấng sư tăng, bèn thu nhận hắn làm người trưởng án giữ sổ thiện duyên. Nay Đại Thánh tới xin, ta bằng lòng cho hắn thọ thêm một giáp nữa, và bảo hắn về theo Đại Thánh luôn thể.


Kim Y đồng tử vâng lệnh đưa Khấu Hồng ra. Khấu Hồng vừa nhìn thấy Hành Giả đã rối rít van xin:


- Lão sư! Lão sư! Cứu tôi với! Hành Giả nói:
- Ông bị bọn cướp đá chết. Nơi đây là cung điện của Địa
Tạng Vương dưới âm ty. Tôi tới đây đưa ông về dương thế làm rõ chuyện này. Đội ơn Bồ Tát tha cho về, lại ban cho thọ thêm một giáp nữa, mười hai năm sau, ông lại về đây.


Viên ngoại cúi đầu tạ ơn mãi không thôi.


Hành Giả vái chào từ biệt Bồ Tát, thổi hồn Khấu Hồng hóa
thành hơi, bỏ vào ống tay áo, rời âm phủ trở về dương gian. Cưỡi mây một thoáng đã tới nhà họ Khấu. Hành Giả gọi Bát Giới mở nắp áo quan, trả linh hồn nhập vào thể xác. Một lát, Khấu Hồng thấm hơi sống lại, bò ra khỏi áo quan, dập đầu lạy bốn thầy trò Đường Tăng, nói:


- Sư phụ ơi, Khấu Hồng này bị chết bất đắc kỳ tử, đội ơn sư phụ xuống âm ty cứu sống, khác nào ơn tái tạo!


Nói rồi cảm tạ khôn xiết. Kịp khi quay đầu lại nhìn thấy các quan đứng cả đó, lại vội vàng dập đầu nói:


- Các vị quan lớn đến nhà tôi chắc có việc gì? Quan thứ sử nói:
- Các con ông lúc đầu đệ đơn kiện, ghi rõ tên, tố giác thánh
tăng này là cướp của giết người. Ta lập tức sai quân đi bắt. Không ngờ thánh tăng dọc đường gặp bọn cướp của giết người ở nhà ông, bèn lấy lại của cải mang trả cho nhà ông. Lính của ta bắt nhầm. Thêm nỗi ta cũng chưa xét kỹ, tống luôn vào ngục giam. Đêm qua ông hiện hồn về, bác ta cũng hiện hồn về trách móc. Lại thêm có Lãng Đãng Du Thần cũng giáng lâm chỉ giáo cho nữa. Một lúc mà có bao nhiêu việc hiển ứng. Vì vậy ta phải thả ngay thánh tăng. Còn vị thánh tăng này vừa đi cứu sống ông về đấy.


Viên ngoại quỳ xuống nói:


- Bẩm quan lớn, kỳ thực thật oan uổng cho bốn vị thánh tăng
này quá! Đêm ấy hơn ba mươi tên cướp, đốt đuốc vác dao xông vào nhà tôi cướp của. Tôi tiếc của, chạy ra van xin lũ cướp, bất ngờ bị chúng đá cho một cái chết ngay lập tức. Nào có liên can gì đến bốn vị này đâu!


Đoạn gọi vợ con lại nói:


- Kẻ cướp đá chết ta, các ngươi lại dám hùa nhau nói dối nói
càn vu cáo là cớ sao? Xin quan lớn định tội xét xử cho.


Lúc ấy mọi người già trẻ trong nhà đều dập đầu van xin. Quan thứ sử khoan dung cũng tha tội cho.


Khấu Hồng sai sửa soạn yến tiệc khoản đãi cảm ơn sâu của quan phủ. Nhưng mọi người đều chối từ trở về công đường.


Ngày hôm sau, Khấu Hồng lại treo biển nuôi sư, lại giữ thầy trò Tam Tạng ở lại khoản đãi, Tam Tạng nhất quyết không chịu. Khấu Hồng đành phải đi mời bạn bè thân thích sắm sửa cờ phướn tiễn đưa thầy trò như lần trước. Chà, như thế mới thật là:



Đất rộng nào ngờ còn việc ác, Trời cao đâu nỡ phụ người ngay.
Như Lai đường rộng thung dung bước, Thẳng tới Linh Sơn cõi phúc dày.


Cuối cùng không biết việc gặp Phật sẽ như thế nào, xem hồi
sau sẽ rõ.



HỒI THỨ CHÍN MƯƠI TÁM Vượn ngựa thục thuần nay thoát xác Công quả viên mãn gặp Như Lai
Lại nói chuyện Khấu viên ngoại được hồi sinh, bèn lại sửa
soạn cờ phướn, trống kèn, tụ tập các thân hữu tăng đạo tiễn chân thầy trò như lần trước.

Bốn thầy trò Đường Tăng đi thẳng ra đường cái. Thật đúng là Tây phương đất Phật, khác hẳn các nơi khác. Nhìn thấy nào là cỏ ngọc hoa ngà, thông xưa tùng cổ. Nơi đây, nhà nào cũng làm việc thiện, người nào cũng muốn nuôi sư, chân núi gặp người tu hành, rừng sâu thấy người niệm Phật. Bốn thầy trò ngày đi đêm nghỉ được chừng sáu bảy hôm, bỗng nhìn thấy một dải lầu cao, mấy tầng gác thẳm. Thật là:

Trăm thước vút trời, Chọc tầng Vân Hán.
Cúi đầu thấy mặt trời lặn, Với tay hái được sen trời.
Khung cửa sổ thoáng rộng như nuốt vũ trụ xa xôi, Điện các hệt tấm bình phong chắn tầng mây bạc.
Hạc vàng báo tin thu, cây cỗi, Loan tía đưa thư muộn, gió hòa. Thật chính nơi cung báu ngọc ngà, Quả một cõi tụng kinh đàm đạo. Hoa đón xuân về khoe đỏ rực,
Tùng cao mưa gội tán xanh om.

Hoa thắm quả thơm chiu chít quanh năm, Linh thiêng phượng múa ôi tuyệt đẹp!
Tam Tạng chỉ roi, nói:

- Ngộ Không ơi, vùng này đẹp quá! Hành Giả nói:
- Sư phụ những lúc gặp cảnh giả, Phật tượng giả, thì vội sụp người lạy. Bây giờ gặp cảnh thật, Phật tượng thật lại chẳng xuống ngựa là cớ sao?

Tam Tạng nghe vậy, vội vàng xuống ngựa, bước tới cửa tòa lầu, nhìn thấy một đạo đồng đứng nghiêng người trước cổng chùa cất tiếng hỏi:

- Ngài là người đi lấy kinh ở phương Đông đó chăng?

Đường Tăng vội vàng sửa lại quần áo cho ngay ngắn, ngẩng đầu nhìn, thấy đạo đồng ấy:

Mình khoác áo gấm, Tay phất ngọc trần.
Mình khoác áo gấm, gác ngọc lầu ngà thường đặt tiệc; Tay phất ngọc trần, đài son phủ tía sạch như lau.
Cổ tay lục lạc đeo, Chân hài cong bước nhẹ. Phong thái thần tiên quá, Diễm lệ lại thanh kỳ.
Luyện thuốc trường sinh giữa chốn thanh u, Thọ mãi không già khác xa trần thế
Người cõi Linh Sơn, thánh tăng chẳng rõ,
Kim Đính đại tiên tới đón đó mà.

Tôn Đại Thánh nhận ra đạo đồng, bèn nói:

- Sư phụ ạ, đó là Kim Đính đại tiên ở quán Ngọc Chân dưới chân núi Linh Sơn tới đón chúng ta đó.

Tam Tạng bấy giờ mới tỉnh ngộ, bước tới cúi chào. Đại tiên cười nói:

- Thánh Tăng năm nay mới tới đây à. Tôi bị Quan Âm Bồ Tát đánh lừa. Mười năm trước, ngài vâng lệnh Phật tổ sang cõi Đông tìm người lấy kinh, bảo là hai ba năm nữa sẽ tới đây, làm tôi phải năm nào cũng đợi, biệt vô âm tín, không ngờ bây giờ mới được gặp gỡ.

Tam Tạng chắp tay nói:

- Đại tiên chờ đợi vất vả quá! Xin đa tạ! Xin đa tạ!

Bốn người bèn dắt ngựa gánh đồ cùng đạo đồng bước vào quán. Làm lễ tương kiến xong, đại tiên sai pha trà, dọn cơm chay, lại gọi tiểu đồng mang nước thơm cho thầy trò Đường Tăng tắm gội sửa soạn lên đất Phật. Thật chính là:

Công thành tắm gội thơm tho,

Luyện thuần bản tính hợp hòa thiên chân.

Trăm cay nghìn đắng qua lần, Tam quy cửu giới thanh tân vô ngần. Hết ma, đất Phật đặt chân,
Tai qua, nạn khỏi thấy tầng sa môn.

Lầu lầu rửa sạch bụi trần,

Tìm về nguồn gốc thân tâm vững bền.

Thầy trò tắm gội xong, bất giác trời đã tối, bèn nghỉ cả trong quán Ngọc Chân.
Sáng hôm sau, Đường Tăng thay quần áo, khoác tấm cà sa gấm, đội mũ tỳ lư, tay chống gậy tích trượng, bước lên sảnh đường chào từ biệt đại tiên. Đại tiên cười nói:

- Hôm qua lam lũ, hôm nay sáng sủa. Nhìn tướng quả là con
Phật rồi.

Tam Tạng cúi chào từ biệt ra đi. Đại tiên nói:

- Khoan đã, để tôi tiễn ngài đi. Hành Giả nói:
- Ngài không phải tiễn đâu. Tôi biết đường rồi. Đại tiên nói:
- Đại  Thánh  chỉ  biết  đường  mây,  mà  thánh  tăng  chưa  đi đường mây bao giờ, phải đi theo đường bộ.

Hành Giả nói:

- Phải. Lão Tôn đã tới đây mấy lần, nhưng toàn đi mây về gió, chưa hề đặt chân tới đất. Nếu có đường dưới đất, phải phiền ngài dẫn mới xong. Sư phụ tôi đang sốt ruột muốn bái Phật, phải đi ngay đừng chậm trễ nữa.

Đại tiên cười khà khà dắt tay Đường Tăng dẫn vào cửa pháp môn. Nguyên con đường này không ra lối cổng chùa, mà từ gian giữa trong quán, đi xuyên qua lối cửa sau. Đại tiên chỉ Linh Sơn nói:

- Thưa thánh tăng, ngài hãy nhìn ở chỗ mây lành năm sắc, khí đẹp nghìn tầng đằng kia kìa. Nơi ấy là núi Linh Thứu, thắng địa của Phật tổ đấy.

Đường Tăng hướng về phía ấy sụp lạy, Hành Giả cười nói:

- Sư phụ ơi, chưa tới chỗ phải lạy đâu. Thường có câu: “Gần
[326]
nhà xa ngõ”

, núi ấy còn cách đây xa lắm, lạy làm gì cho
vội. Nếu lạy từ đây tới đỉnh núi ấy, thì không biết phải dập đầu
biết bao nhiêu lần!

Đại tiên nói:

- Thưa thánh tăng, ngài cùng Đại Thánh, Thiên Bồng, Quyển Liêm đã tới phúc địa, nhìn thấy Linh Sơn, bây giờ tôi xin quay về.

Tam Tạng cúi chào từ biệt.

Đại Thánh dẫn bọn Đường Tăng khoan thai trèo lên núi, được chừng năm sáu dặm, nhìn thấy một dòng nước cuồn cuộn, sóng vỗ tung trời, rộng tới tám chín dặm, bốn phía tịnh không bóng người. Tam Tạng sợ hãi nói:

- Ngộ Không, chúng ta nhầm đường, hay là đại tiên chỉ sai chăng? Dòng sông này rộng quá, sóng đánh dữ dội, lại không có thuyền bè, làm sao qua được?

Hành Giả cười nói:

- Không nhầm đâu! Sư phụ không nhìn thấy đằng kia có một cây cầu đó ư? Phải bước qua cầu mới thành chính quả.

Thầy trò bước tới gần xem xét, thấy một chiếc biển cắm bên cầu, trên biển đề ba chữ “bến Lăng Vân”. Bến này nguyên chỉ có một cây cầu độc mộc. Thật là:

Xa ngắm ngang trời như cột ngọc, Gần trông chẳng khác một cây khô.
Ngăn sông chặn biển dễ ơ,

Cây cầu độc mộc biết qua thế nào. Nghìn tấm lụa trắng phau trời rộng, Muôn trượng cao một cọng cầu vồng. Trơn như mỡ khó đặt chân,
Họa may thần thánh mới lần được sang.
Tam Tạng hồn vía rụng rời nói:

- Ngộ Không ơi, cầu này người không đi được, chúng tôi phải tìm đường khác sang thôi.

Hành Giả cười nói:

- Chính đường này đó! Chính đường này đó! Bát Giới cũng phát hoảng nói:
- Đường này thì bố ai dám đi? Sông thì rộng, sóng thì dữ, độc một cây gỗ vừa nhỏ vừa trơn, ai dám đặt chân?

Hành Giả nói:

- Chú cứ đứng đây, để lão Tôn qua cho mà xem.

Đoạn Đại Thánh rảo bước nhảy lên cầu lắc la lắc lư, trong giây lát qua được bên kia, rồi đứng bên đó gọi to:

- Sang đây, sang đây!

Đường Tăng xua tay. Bát Giới, Sa Tăng cắn móng tay nói:

- Gay lắm! Gay lắm!

Hành Giả từ bên kia lại chạy qua bên này, kéo tay Bát Giới nói:

- Chú ngốc theo tôi! Theo tôi! Bát Giới nằm lăn ra đất nói:
- Trơn lắm! Trơn lắm! Không qua được đâu, anh tha cho tôi, để tôi cưỡi mây qua thôi!

Hành Giả ngăn lại nói:

- Chỗ này là đâu mà chú dám cưỡi mây? Phải bước qua cây cầu này mới thành Phật được chứ.

Bát Giới nói:

-  Anh  ơi,  Phật  thành  hay  không  thành  cũng  cóc  cần,  em
không qua nổi đâu.

Hai người đứng bên cầu co kéo mãi. Sa Tăng bước tới khuyên giải, họ mới buông tay nhau ra. Tam Tạng quay đầu, chợt nhìn thấy phía hạ lưu có một người đang chèo thuyền bơi tới, cất tiếng gọi to:

- Lên đò! Lên đò!

Tam Tạng mừng quýnh, nói:

- Đồ đệ đừng cãi nhau nữa, có con đò đến kia rồi.

Ba người nhảy lên mừng rỡ, đưa mắt nhìn chăm chú, thấy con thuyền đã tới gần, hóa ra là một con thuyền không đáy. Cặp mắt lửa ngươi vàng của Hành Giả đã sớm nhận ra đó là Tiếp Dẫn Phật Tổ, còn gọi là Nam Vô Bảo Tràng Quang Vương Phật, nhưng chẳng dám nói ra, chỉ cất tiếng gọi:

- Lại đây cắm sào nào!

Trong giây lát, con đò ghé sát bờ, Phật Tổ nói:

- Mời lên, mời lên!

Tam Tạng thấy vậy, trong lòng sợ hãi nói:

- Thuyền của ngài là thuyền hỏng không đáy, qua sông làm sao?

Phật tổ nói:

- Thuyền ta đây:

Thuở hồng hoang đã từng nổi tiếng, Có ta đây chèo chống giỏi giang. Sóng to gió cả vững vàng,
Không đầu không cuối bước sang cõi lành.

Quay về gốc, bụi trần chẳng bợn, Muôn kiếp đày, thanh thản qua sông.
Thuyền không đáy vượt trùng dương, Xưa nay cứu vớt muôn vàn sinh linh.
Tôn Đại Thánh chắp tay đa tạ, nói:

- Xin cảm ơn tấm lòng tốt đón tiếp sư phụ tôi. Xin mời sư phụ lên đò nào. Chiếc thuyền này tuy không đáy nhưng vững vàng lắm, nhỡ có sóng to gió cả cũng chẳng lật được.

Tam Tạng bấy giờ vẫn chưa yên tâm, Hành Giả đứng khoanh tay trước ngực, bất ngờ ẩy mạnh một cái, Tam Tạng đứng không vững, rơi đánh ào một cái xuống nước. Phật tổ nhanh tay đỡ lấy, dắt xuống đò. Tam Tạng vừa phủi quần áo, vừa giậm chân oán trách Hành Giả. Hành Giả dắt luôn cả Sa Tăng, Bát Giới dắt ngựa gánh đồ xuống đò. Thầy trò đứng cả ở đằng mũi đò. Phật Tổ nhẹ nhàng ẩy con đò ra. Bỗng thấy phía thượng lưu một xác người trôi xuống. Tam Tạng sợ hãi luống cuống. Hành Giả cười nói:

- Sư phụ đừng sợ. Xác đó là sư phụ đấy. Bát Giới cũng nói:
- Đúng sư phụ rồi! Đúng sư phụ rồi! Sa Tăng vỗ tay nói:
- Đúng sư phụ rồi! Đúng sư phụ rồi! Phật tổ giơ tay làm hiệu nói:
- Đúng là ngài! Xin chúc mừng! Xin chúc mừng!

Ba người cùng đồng thanh họa theo lời Phật tổ. Con đò được chèo đi, trong chớp mắt đã vững vàng rời khỏi bến tiên Lăng Vân sang tới bờ bên kia. Tam Tạng quay người nhẹ nhàng bước lên bờ.

Có bài thơ làm chứng rằng:
Thoát rồi xương cốt trần gian, Tương thân tương ái vượt sang Niết Bàn. Viên mãn thành Phật thỏa lòng,
Từ nay rửa sạch bụi trần lâng lâng.

Thế mới gọi là pháp trí tuệ quảng đại, đưa thầy trò lên bờ kia cực lạc.

Bốn người lên bờ quay đầu nhìn, cả người và con đò không biết biến đi đằng nào mất. Bấy giờ Hành Giả mới nói đó là Tiếp Dẫn Phật Tổ, Tam Tạng tỉnh ngộ ra, vội quay người lại lạy tạ ba đồ đệ.

Hành Giả nói:

- Hai bên chẳng phải tạ ơn nhau, bởi cả hai cùng giúp nhau đấy chứ. Chúng con nhờ sư phụ được giải thoát, mượn đường lối tu hành, may thành chính quả. Còn sư phụ nhờ chúng con hộ vệ mà giữ giáo Già Lam, thoát khỏi thai phàm. Giờ đây sư phụ thử nhìn coi cảnh vật cỏ hoa tùng bách, loan phượng hươu nai nơi đây so với các nơi yêu ma quỷ quái, đâu đẹp đâu xấu? Đâu ác đâu lành?

Tam Tạng khen ngợi mãi không dứt. Bốn thầy trò lòng lâng lâng nhẹ nhõm, lên tới Linh Sơn, nhìn thấy ngay tòa chùa cổ Lôi Âm:

Ngọn sát tầng Vân Hán, Rễ tiếp mạch Tu Di, Đỉnh non xếp lô xô, Đá lạ bày cao thấp.
Cỏ lạ hoa kỳ lan vách ngất,

Chi tía huệ thơm ngát đường quanh.
Rừng đào vượn tiện hái quả tưng bừng, Đầu cành hạc trắng phơi lông tựa ngọc, Phượng tía từng đôi.
Loan xanh từng cặp…

Phượng tía từng đôi, chầu mặt trời hót mừng điềm tốt; Loan xanh từng cặp, đón gió xòe lông múa diệu kỳ Lại thấy ngói uyên ương vàng rực gần xa,
Gạch mã não tường xây lấp lánh.

Hàng bên đông, hàng bên tây lầu son gác phấn, Dãy bên nam, dãy bên bắc cung ngọc điện vàng.
Điện Thiên Vương rực rỡ ánh hào quang, Đường Hộ Pháp huy hoàng tia ráng đẹp.
Tháp phù đồ nổi bật, Hoa ưu bát ngát ngạt ngào.
Chính là nơi phúc địa riêng một góc trời, Mây nhởn nhơ bay, ngày dài tháng rộng.
Muôn duyên dứt, bụi trần chẳng bợn, Vạn kiếp vô biên đại pháp môn.
Thầy trò thung dung khoan thai bước lên đỉnh Linh Sơn, lại nhìn thấy các vị Ưu bà đứng dưới rừng tùng, các ngài thiện sĩ chờ trong rừng bách. Tam Tạng bèn cúi đầu chào. Các vị Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, Tỳ Kheo Tăng, Tỳ Kheo Ni vội vã chắp tay nói:

- Thánh tăng khoan hãy làm lễ vội, đợi khi nào yết kiến đức
Mâu Ni xong, ta sẽ nói chuyện sau.

Hành Giả cười nói:

- Đúng! Đúng! Hãy đi bái các vị trên đã.



Tam Tạng mừng rỡ khua chân múa tay đi theo Hành Giả tới bên ngoài cổng chùa Lôi Âm. Ở đấy đã có bốn vị Đại Kim Cương nghênh đón nói:

- Thánh tăng đã đến đấy ư? Tam Tạng cung kính đáp:
- Thưa vâng. Đệ tử là Huyền Trang đã đến.

Chào xong, định muốn bước vào. Kim Cương nói:

- Thánh tăng chờ một lát, đợi chúng tôi vào bẩm đã.

Các vị Kim Cương để một vị vào trong chùa báo với bốn vị Kim Cương ở tầng cửa thứ hai, nói là Đường Tăng đã đến. Tầng thứ hai lại chuyển vào tầng ba báo việc Đường Tăng đã đến. Vị ở tầng cửa thứ ba nguyên là một vị thần tăng làm đồ cúng, nghe báo Đường Tăng đã đến, vội vào ngay điện Đại Hùng thưa với đức Như Lai Chí Tôn Thích Ca Mâu Ni Vạn Phật:
- Thánh tăng triều Đường đi lấy kinh đã tới bảo sơn.

Phật tổ mừng lắm, lập tức xuống chiếu vàng, cho gọi tám vị Bồ Tát, bốn vị Kim Cương, năm trăm vị A La, ba nghìn vị Yết Đế, mười một vị Đại Diệu, mười tám vị Già Lam vào đứng xếp thành hai hàng, sau đó mới xuống chiếu vàng cho gọi Đường Tăng vào. Ở bên ngoài, từng tầng từng lớp kính vâng lệnh Phật, truyền lệnh:

- Mời thánh tăng vào.

Đường Tăng giữ đúng nghi lễ, cùng Ngộ Không, Ngộ Năng, Ngộ Tĩnh dắt ngựa gánh đồ bước vào trong cửa. Thật là:

Năm nào vâng mệnh thánh quân, Quê hương từ biệt rời chân cõi ngoài Sáng trèo non đón gió trời,
Chiều về gối đá ngủ nơi mây mù. Gói khăn nghìn dặm xông pha, Đường xa lặn lội biết là bao năm. Sắt son quyết chí cầu kinh,
Như Lai yết kiến thỏa tình từ đây.

Bốn thầy trò vào trước điện Đại Hùng, cúi người kính lạy Như Lai và lạy mọi người đứng ở hai bên hai lạy, đoạn mỗi người lại đi quanh lạy ba vòng, sau đó bước tới quỳ xuống trước mặt Phật Tổ trình dâng điệp văn. Như Lai xem xong trả lại cho Tam Tạng. Tam Tạng cúi đầu lạy thưa rằng:

- Đệ tử là Huyền Trang, vâng mệnh hoàng đế Đại Đường bên phương Đông sang bảo sơn cầu chân kinh cứu vớt chúng sinh. Muôn xin Phật Tổ ra ơn, ban cho chân kinh sớm mang về nước.



Như Lai bèn mở miệng từ bi, động lòng thương xót, nói với
Tam Tạng:

- Cõi đông thổ của nhà ngươi thuộc Nam Thiệm Bộ Châu, trời cao đất dày, người đông vật thịnh, tham lam độc ác, trí trá gian dâm, không theo Phật Giáo, không giữ thiện duyên, chẳng kính tam quang, chẳng trọng ngũ cốc, bất trung bất hiếu, bất nghĩa, bất nhân, lừa mình dối người, tranh to giành nhỏ, hại vật sát sinh, gây ra biết bao ác nghiệt, tạo nên tội lỗi vô vàn, đến nỗi phải đày xuống địa ngục, cho nên rơi mãi xuống cõi u minh, phải chịu đựng biết bao nỗi khổ bị đâm dập giã nghiền, biến thành súc vật. Có biết bao loài đâm lông mọc sừng đem thân trả nợ, lấy thịt nuôi người, mãi mãi rơi xuống ngục A Tỳ, vĩnh viễn chẳng được siêu thăng. Tuy có họ Khổng lập ra thuyết nhân nghĩa lễ trí, các vị đế vương nối nhau, cai trị bằng những hình phạt bỏ tù, đi đày, treo cổ, xử chém, nhưng còn những kẻ ngu xuẩn dốt nát phóng túng ngông cuồng thì biết làm sao? Nay ta
có ba tạng kinh có thể siêu thoát khổ não, giải trừ tai ương, ba tạng đó là: Một tạng Pháp bàn việc trời, một tạng Luận bàn việc đất, và một tạng Kinh siêu độ cho người chết, tổng cộng ba mươi nhăm bộ, gần một vạn năm nghìn một trăm bốn mươi bốn quyển. Đó thực là đường tu chân chính, cửa thiện rõ ràng. Phàm mọi việc thiên văn, địa lý, nhân sự, chim muông, hoa cỏ, đồ vật… trong bốn đại bộ châu không việc gì là không ghi chép. Các ngươi từ xa xôi tới đây, ta cũng muốn trao cho tất cả mang về, chỉ e người phương đó ngu si lỗ mãng hủy báng chân ngôn, không biết ý chí sâu xa trong đạo Sa Môn của ta.

Đoạn gọi:

- A Nan, Ca Diếp, các ngươi dẫn bốn người này tới dưới lầu báu thết đãi cơm chay. Ăn xong, mở gác báu, trong số ba mươi nhăm bộ của ba tạng kinh của ta, chọn lấy mấy quyển đưa cho họ, bảo họ truyền bá sang cõi Đông, ghi mãi ơn sâu!

Hai vị tôn giả tức khắc vâng lệnh Phật Tổ, đưa bốn thầy trò tới dưới lầu. Ở đây thầy trò thấy cơ man những của ngon vật lạ. Các vị thần bày đồ cúng dọn tiệc chay toàn những thứ hoa quả tiên, món ăn tiên, trà hương tiên, chân tu bách vị mà dưới trần không hề thấy bao giờ. Thầy trò đảnh lễ tạ ơn Phật, rồi thả sức ăn uống.

Thực là:

Hào quang rực rỡ khắp nơi,

Của ngon vật lạ tuyệt vời thơm ngon.

Gác vàng nghìn lớp sáng choang, Nhạc tiên réo rắt rộn ràng gần xa.
Hoa tiên thanh khiết thơm tho,

Trà hương phẩm quả toàn đồ trường sinh.

Bấy nay cực khổ vô cùng,
Hôm nay hưởng thụ thung dung thanh nhàn.

Lần này Bát Giới, Sa Tăng được ăn uống thỏa thuê. Những món ăn xứ Phật, toàn món hưởng thọ trường sinh, thay da đổi thịt, thầy trò tha hồ ăn uống. Hai vị Tôn giả bồi tiếp cho bốn người ăn uống xong, bèn đưa vào gác báu mở cửa cho xem. Bên trong hào quang khí đẹp rực rỡ nghìn trùng, ráng tía mây lành huy hoàng vạn khoảnh. Trên hòm kinh, mặt ngoài tủ báu đều dán thẻ đỏ, ghi đầy đủ danh mục các quyển kinh. Đó là:

Một bộ kinh Niết Bàn            748 quyển

Một bộ kinh Bồ Tát                         1021 quyển Một bộ kinh Hư Không Tạng       400 quyển Một bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm   110 quyển Một bộ kinh Ân Ý Kinh đại tập    50 quyển
Một bộ kinh Quyết Định               140 quyển

Một bộ kinh Bảo Tạng           45 quyển

Một bộ kinh Hoa Nghiêm             500 quyển

Một bộ kinh Lễ Thân Như   90 quyển

Một bộ kinh Đại Bát Nhã               916 quyển Một bộ kinh Đại Quang Minh      300 quyển Một bộ kinh Vị Tằng Hữu             1110 quyển Một bộ kinh Duy Ma            170 quyển
Một bộ kinh Tam Luận Biệt          270 quyển Một bộ kinh Kim Cương                100 quyển Một bộ kinh Chính Pháp Luận    120 quyển Một bộ kinh Phật Bản Hạnh         800 quyển Một bộ kinh Ngũ Long                  32 quyển
Một bộ kinh Bồ Tát Giới                116 quyển

Một bộ kinh Đại Tập             130 quyển

Một bộ kinh Ma Kiệt             350 quyển

Một bộ kinh Pháp Hoa                  100 quyển Một bộ kinh Du Già                        100 quyển Một bộ kinh Bảo Thường              220 quyển Một bộ kinh Tây Thiên Luận        130 quyển Một bộ kinh Tăng Kỳ            157 quyển
Một bộ kinh Phật Quốc Tạp         1950 quyển

Một bộ kinh Khởi Tín Luận 1000 quyển

Một bộ kinh Đại Trí Độ                  1080 quyển Một bộ kinh Bảo Uy                        1280 quyển Một bộ kinh Bản Các             850 quyển
Một bộ kinh Chính Luật Văn        200 quyển Một bộ kinh Đại Khổng Tước       220 quyển Một bộ kinh Duy Thức Luận        200 quyển Một bộ kinh Cụ Xá Luận               200 quyển
A Nan, Ca Diếp dẫn Đường Tăng xem khắp tên các bộ kinh một lượt, đoạn nói với Đường Tăng:

- Thánh Tăng từ phương Đông tới đây, chắc có chút lễ vật gì biếu chúng tôi chăng? Mau đưa ra đây, chúng tôi mới trao kinh cho.

Tam Tạng nghe xong nói:

- Đệ tử là Huyền Trang, vượt đường sá xa xôi, chẳng chuẩn bị được quà cáp gì cả.

Hai vị tôn giả cười nói:
- Hà! Hà! Tay trắng trao kinh truyền đời, người sau đến chết đói mất!

Hành Giả thấy bọn họ giở giọng xoay xở, không chịu trao kinh, thì nổi nóng nói:

- Sư phụ ạ, chúng ta đi thưa với Như Lai, bắt họ phải tận tay mang kinh tới cho chúng ta.

A Nan nói:

- Đừng làm ầm ĩ lên! Đây là nơi nào mà nhà ngươi dám càn rỡ điêu toa? Vào đây mà nhận kinh.

Bát Giới, Sa Tăng quen tính nhịn, khuyên can Hành Giả, rồi cùng quay vào lấy kinh, xếp từng quyển, từng quyển vào trong tay nải, đặt lên mình ngựa, lại xếp thành hai gánh cho Bát Giới và Sa Tăng gánh, đoạn thầy trò quay vào tòa báu cúi đầu tạ ơn Như Lai rồi đi thẳng ra cửa. Tại đây thầy trò gặp một vị Phật Tổ, bèn lạy hai lạy. Gặp một vị Bồ Tát cũng lạy hai lạy. Ra tới cửa lớn, lại cúi chào từ biệt các vị Tỳ Kheo Tăng, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, rồi xuống núi ra thẳng đường cái. Chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện có vị Nhiên Đăng Cổ Phật đứng trên gác báu, nghe mang máng có chuyện truyền kinh, và biết rõ ràng bọn A Nan, Ca Diếp đưa cho những quyển kinh không có chữ, bèn cười thầm nói:

- Các nhà sư bên cõi Đông thổ u mê, chẳng biết đó là kinh không có chữ, thật là uổng phí cả công sức thánh tăng lặn lội!

Đoạn hỏi:

- Có ai ở bên tòa không?

Thấy Bạch Hùng tôn giả bước ra. Cổ Phật dặn dò:

- Ngươi hãy trổ hết thần uy, đuổi theo ngay bọn Đường Tăng, lấy lại những quyển kinh không có chữ ấy và bảo họ quay lại lấy
loại chân kinh có chữ.

Bạch Hùng tôn giả lập tức cưỡi trận cuồng phong, bay vèo ra ngoài cổng chùa Lôi Âm, trổ hết thần uy gây thành một trận gió dữ dội. Thật là:













Trận gió này:


Dũng sĩ đất Phật, Thần gió nào bằng. Thiên thần nổi giận, Ai nấy sợ xanh!



Cá rồng đều vỡ tổ, Sông biển sóng trào dâng. Vượn đen hái quả khó hiếm, Hạc vàng quay vội về rừng,
Phượng tía hót nghe thảm thiết.

Gà rừng eo óc buồn tênh. Cành tùng xanh tươi gãy gục, Hoa ưu bát đảm cánh tung.
Khóm trúc thân dài nghiêng ngả, Đài sen gió thổi rập rình.
Chuông gõ vang mãi tận trời xanh.
Bên bờ hoa lạ tàn đi cả, Cạnh lối cỏ kỳ héo rũ thân. Phượng tía không xòe cánh, Hươu trắng vội ẩn mình.

Thoang thoảng hương bay đầy vũ trụ,
Lâng lâng gió mát rộn trời xanh.

Bọn Đường Tăng đang đi, bỗng nghe thấy một trận gió thơm cuồn cuộn, biết là điềm lành của Phật Tổ, nên chẳng đề phòng. Lại nghe thấy một tiếng vang dội trên không trung, rồi một bàn tay thò xuống, nhẹ nhàng lấy đi tất cả những quyển kinh chất trên mình ngựa. Tam Tạng hốt hoảng ôm bụng kêu ầm ĩ, Bát Giới cắm cổ đuổi theo, Sa Hòa Thượng giữ chặt gánh kinh, Hành Giả cũng lập tức đuổi theo vun vút. Bạch Hùng tôn giả thấy Hành Giả đuổi tới gần, sợ cây gậy sắt của Hành Giả chẳng phân biệt, bất chấp hay dở nện chết thì sao, bèn vội vàng xé tung cả gói kinh vứt vung xuống đất. Hành Giả thấy bọc kinh bị đứt tung rơi xuống, lại bị trận gió thơm thổi bay tứ tung, bèn hạ mây bước xuống nhặt kinh, không đuổi theo nữa. Bạch Hùng tôn giả thu gió cất mù trở về tâu lại với Phật Tổ. Chuyện không nói nữa.



Bát Giới đuổi tới nơi thấy kinh rơi xuống đất, bèn cùng Hành
Giả nhặt nhạnh đặt lên lưng quay về gặp Đường Tăng. Đường
Tăng nước mắt chứa chan than thở:

- Đồ đệ ơi, ở cõi Cực Lạc mà cũng có ma dữ hãm hại sao?

Sa Tăng đỡ lấy những quyển kinh vừa nhặt lại, mở ra xem, thấy trắng phau như tuyết, không có một chữ nào, bèn vội vã đưa cho Đường Tăng, nói:

- Sư phụ ơi, những quyển này không có chữ.

Hành Giả cũng giở một quyển ra xem cũng thấy không có chữ. Bát Giới giở một quyển ra xem cũng thấy không có chữ. Tam Tạng bảo:

- Giở tất cả ra xem nào.

Khi giở ra thì thấy quyển nào cũng chỉ toàn là giấy trắng. Đường Tăng thở vắn than dài:

- Người phương Đông ta thật là vô phúc! Toàn những quyển không có chữ thế này thì dùng được việc gì? Còn mặt mũi nào nhìn mặt đức vua nữa! Cái tội khi quân ấy thực là đáng chết!

Hành Giả đã biết chuyện, bèn nói với Đường Tăng:

- Thôi đúng rồi sư phụ ạ. A Nan, Ca Diếp đòi chúng ta lễ vật. Chúng ta không có, nên trao cho chúng ta những bản không có chữ này đây. Ta mau trở lại thưa với Như Lai, hỏi họ về tội đòi ăn của đút.

Bát Giới làm ầm lên:

- Đúng! Đúng! Phải đi tố giác họ!
Bốn thầy trò lập cập quay lại, vội vã trèo lên chùa Lôi Âm. Chẳng mấy chốc thầy trò đã tới cửa chùa, thấy mọi người đã
đứng chắp tay đón tiếp, cười hỏi:

- Có phải thánh tăng quay lại đổi kinh không?

Tam Tạng gật đầu tạ ơn. Các vị Kim Cương cũng không ngăn
cản để thầy trò đi vào. Tới trước điện Đại Hùng, Hành Giả kêu ầm ĩ:

- Thưa Như Lai, thầy trò chúng con chịu đựng trăm cay nghìn đắng từ phương Đông xa xôi tới đây, đội ơn được Như Lai bằng lòng trao kinh cho. Thế mà A Nan, Ca Diếp vòi tiền không xong, hùa nhau làm bậy, cố ý trao cho chúng con những quyển kinh không có chữ, chúng con mang về dùng được việc gì! Mong Như Lai xét cho!

Phật Tổ cười nói:

- Nhà ngươi cứ bình tĩnh. Việc hai người vòi lễ các ngươi ta đã biết rồi. Có điều kinh cũng không phải trao cho một cách dễ dàng, không thể lấy không được. Trước kia các Tỳ Kheo thánh tăng xuống núi cũng đem kinh này tụng hết một lượt cho nhà trưởng giả họ Triệu ở nước Xá Vệ, giúp cho nhà ấy người sống yên ổn, kẻ chết siêu thoát, thế mà chỉ lấy có ba đấu ba bơ vàng cốm của họ mang về thôi. Ta còn bảo họ bán kinh rẻ quá, con cháu đời sau lấy tiền đâu mà tiêu. Nhà ngươi tay không đến cầu, nên họ mới trao cho những quyển trắng tinh. Quyển trắng tinh là chân kinh không chữ, cũng là những kinh hay. Các ngươi là chúng sinh ở cõi Đông u mê ngu tối, lẽ ra chỉ nên trao cho những thứ đó thôi.

Đoạn lại gọi:

- A Nan, Ca Diếp, mau đem những chân kinh có chữ, mỗi bộ chọn vài quyển trao cho họ rồi về đây báo lại.

Hai vị tôn giả lại đưa thầy trò tới dưới lầu ngọc gác tía, nhưng vẫn vòi Đường Tăng phải có chút lễ vật. Tam Tạng chẳng có vật gì dâng, đành bảo Sa Tăng mang ra chiếc bát tộ vàng, hai tay dâng lên nói:

- Đệ tử xa xôi bần hàn, không chuẩn bị được thứ lễ vật gì. Chỉ có chiếc bát này đích tay vua Đường ban cho, bảo đệ tử giữ lấy
dọc đường xin ăn. Nay xin kính dâng tỏ chút lòng thành, muốn xin tôn giả nhận cho. Chừng nào đệ tử về nước, tâu lên nhà vua, chắc chắn có hậu tạ. Chỉ mong tôn giả lấy chân kinh có chữ ban cho, kẻo lỡ mất lệnh vua sai và uổng công lặn lội xa xôi vất vả.

A Nan nhận lấy chiếc bát, tủm tỉm cười. Mấy vị lực sĩ trông coi lầu báu, mấy người nhà bếp, cùng mấy vị tôn giả trông coi gác báu, người vuốt mặt, kẻ vỗ lưng, xua tay, bỉu môi cười rộ lên nói:

- Không biết xấu hổ! Không biết xấu hổ! Vòi của đút của cả người đi lấy kinh!

A Nan ngượng ngùng mặt mũi nhăn nhúm, nhưng vẫn giữ chặt chiếc bát không rời. Ca Diếp mời thầy trò vào gác báu soạn kinh, từng quyển từng quyển trao cho Tam Tạng. Tam Tạng nói:

- Đồ đệ ơi, các con phải xem lại cẩn thận, đừng để như lần trước.

Ba người nhận quyển nào đều mở ra xem quyển ấy, thấy quyển nào cũng có chữ cả. Tất cả gồm năm nghìn bốn mươi tám quyển, là số một tạng kinh. Thầy trò gói ghém cẩn thận chất lên lưng ngựa. Số còn thừa xếp vào một gánh để Bát Giới gánh, Sa Tăng thì gánh hành lý, còn Hành Giả thì dắt ngựa. Đường Tăng chống cây gậy tích trượng, sửa lại chiếc mũ tỳ lư, vuốt lại chiếc áo cà sa gấm, tươi cười bước tới trước mặt đức Như Lai. Thực là:

Đại Tạng chân kinh vị ngọt ngào, Như Lai tạo tác nhiệm mầu sao. Mới hay Tam Tạng trèo non khổ,
Đáng trách A Nan hạch sách nhiều. Lúc trước chẳng tường nhờ Cổ Phật, Rồi sau thành thực mới tin nhau.
Từ đây thỏa chí về Đông Thổ, Mưa móc sinh linh được thấm sâu.
A Nan, Ca Diếp đưa Đường Tăng vào yết kiến Như Lai. Như Lai ngồi trên tòa sen, truyền cho hai vị đại la hán Hàng Long, Phục Hổ nổi khánh mây mời ba nghìn chư Phật, ba nghìn vị Yết Đế, tám vị Kim Cương, bốn vị Bồ Tát, năm trăm vị La Hán, tám trăm vị Tỳ Kheo Tăng, Tỳ Kheo Ni, cùng các vị Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, các trời các động, đất phúc núi linh, các vị thánh tăng, tôn giả lớn nhỏ tới dự đông đủ, có người được mời ngồi trên tòa báu, có người đứng hầu ở hai bên. Một lát sau, nhạc trời ngân nga, sáo tiên réo rắt, khắp trời mây lành quấn quýt, xa gần khí đẹp vờn quanh. Các chư Phật đã tới đông đủ, cúi lạy Như Lai. Như Lai hỏi:

- A Nan, Ca Diếp đã trao được bao nhiêu quyển kinh cho họ, kể lại từng quyển xem nào.

Hai vị tôn giả thưa:

- Hiện đã trao cho Đường Tăng:

Kinh Niết Bàn                          400 quyển

Kinh Bồ Tát                    360 quyển

Kinh Hư Không Tạng  20 quyển

Kinh Thủ Lăng Nghiêm       30 quyển Kinh An Ý đại tập                  40 quyển Kinh Quyết Định          40 quyển
Kinh Bảo Tạng              20 quyển

Kinh Hoa Nghiêm                 81 quyển Kinh Lễ Chân Như                 30 quyển Kinh Đại Bát Nhã                   600 quyển
Kinh Đại Quang Minh 50 quyển

Kinh Vị Tăng Hữu                 550 quyển Kinh Duy Ma                          30 quyển Kinh Tam Luật Biệt               42 quyển Kinh Kim Cương          1 quyển
Kinh Chính Pháp Luận         20 quyển Kinh Phật Bản Hạnh    116 quyển Kinh Ngũ Long             20 quyển
Kinh Bồ Tát Giới           60 quyển

Kinh Đại Tập                           30 quyển Kinh Ma Kiệt                           140 quyển Kinh Pháp Hoa             10 quyển
Kinh Du Già                            30 quyển Kinh Bảo Thường                   170 quyển Kinh Tây Thiên Luận   30 quyển
Kinh Tăng Kỳ                          110 quyển

Kinh Phật Quốc Tạp    1638 quyển Kinh Khởi Tín Luận               50 quyển Kinh Đại Trí Độ             90 quyển
Kinh Bảo Uy                            140 quyển Kinh Bản Các                           56 quyển Kinh Chính Luật Văn  10 quyển
Kinh Đại Khổng Tước  14 quyển

Kinh Duy Thức Luận   10 quyển

Kinh Câu Xá Luận                 10 quyển
Tổng số tạng là 35 bộ, chọn trong các bộ được năm nghìn linh bốn mươi tám quyển, trao cho thánh tăng cõi Đông Thổ mang về triều Đường. Hiện đã gói ghém gọn gàng xếp trên lưng ngựa và thành một gánh, chỉ chờ vào tạ ơn.

Bốn thầy trò buộc ngựa, đặt gánh, đoạn chắp tay ngước lên lễ. Như Lai nói với Đường Tăng:

- Công đức của những quyển kinh này không gì sánh nổi. Tuy là giới luật của cửa ta, nhưng cũng là nguồn dòng của tam giáo. Khi về tới Nam Thiệm Bộ Châu phải bảo cho hết thảy chúng sinh không được coi thường, phải tắm gội trai giới sạch sẽ mới được mở xem. Phải quý báu! Phải coi trọng! Bởi trong đó có phép màu đắc đạo thành tiên, có phương lạ phát minh biến hóa.

Tam Tạng dập đầu tạ ơn, vâng mệnh tuân theo, lại cúi lạy Phật Tổ ba lần như lần trước, kính cẩn chân thành, rồi lãnh kinh ra về. Đi tới tầng cửa chùa thứ ba, lại cúi lạy cảm tạ các thánh. Chuyện không nói nữa.

Như Lai cho phép Đường Tăng ra về rồi, bèn bãi hội trao kinh. Lúc ấy, Quan Thế Âm Bồ Tát đứng bên cạnh ra chắp tay thưa với Phật Tổ:

- Trước đây đệ tử vâng lệnh sang phương Đông tìm người lấy kinh, nay đã thành công, tính ra là mười bốn năm, gồm năm nghìn linh bốn mươi ngày, còn thiếu tám ngày mới hợp với số tạng, vậy cho phép đệ tử được tiếp tục vâng lệnh nốt.

Như Lai mừng lắm nói:

- Lời ấy đúng lắm, chuẩn y lời tâu.

Liền gọi tám vị Kim Cương đến dặn dò:

- Các ngài mau mau trổ hết thần uy, đưa thánh tăng về cõi Đông, truyền bá chân kinh, rồi đưa thánh tăng về cõi Tây ngay. Phải làm xong trong vòng tám ngày cho đủ số tạng, chớ có chậm
trễ.

Các vị Kim Cương lập tức đuổi theo Đường Tăng cất tiếng gọi:

- Các người lấy kinh hãy theo ta!

Bọn Đường Tăng thân thể nhẹ nhàng, phiêu diêu phơi phới, cưỡi mây bay theo các vị Kim Cương. Đó thực là:

Thấy tính sáng lòng chầu Phật Tổ

Công thành hành mãn được siêu thăng.

Cuối cùng không biết về phương Đông truyền thụ thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ CHÍN MƯƠI CHÍN Tám mươi mốt nạn yêu ma hết Vẹn tròn công quả đạo về nguồn
Tạm gác chuyện tám vị Kim Cương đưa tiễn Đường Tăng về
nước lại. Lại nói chuyện ở tầng cửa thứ ba, các vị Ngũ phương Yết đế, Tứ trực Công tào, Lục đinh Lục giáp, Hộ giáo Già lam, bước tới trước mặt đức Quan Âm Bồ Tát thưa:

- Trước đây đệ tử chúng tôi vâng lệnh Bồ Tát, ngầm bảo vệ thánh tăng. Hôm nay thánh tăng đã viên mãn, Bồ Tát đã trao trả pháp chỉ cho Phật Tổ, vậy chúng tôi cũng xin được trao trả pháp chỉ cho Bồ Tát.

Bồ Tát vui mừng nói:

- Chuẩn y! Chuẩn y! Lại hỏi:
- Bốn người trong bọn Đường Tăng đi đường đức hạnh thế nào?

Chư thần thưa:

- Thật là lòng thành ý thực, chắc Bồ Tát cũng xét thấy rồi. Có điều Đường Tăng chịu đựng hoạn nạn thì không sao nói hết. Mọi điều tai ương cơ cực mà Đường Tăng gặp phải dọc đường, đệ tử đã chép đầy đủ trong cuốn sổ ghi tai nạn này.

Bồ Tát cầm quyển sổ xem từ đầu tới cuối, thấy ghi rõ:

“Trao cho Yết Đế phán chỉ quy y, ghi chép đầy đủ số tai nạn của Đường Tăng:
Nạn thứ nhất: Kim Thiền bị biếm (đọa). Nạn thứ hai: Đẻ ra hút chết. Nạn thứ ba: Đầy tháng quăng sông. Nạn thứ tư: Tìm mẹ báo oan. Nạn thứ năm: Ra thành gặp hổ. Nạn thứ sáu: Trượt ngã xuống hố. Nạn thứ bảy: Tại núi Song Soa. Nạn thứ tám: Trên núi Lưỡng Giới. Nạn thứ chín: Đổi ngựa khe sâu. Nạn thứ mười: Đêm bị lửa thiêu. Nạn thứ mười một: Mất áo cà sa. Nạn thứ mười hai: Thu hàng Bát Giới. Nạn thứ mười ba: Gặp quái Hoàng Phong. Nạn thứ mười bốn: Thỉnh mời Linh Cát. Nạn thứ mười lăm: Lưu Sa khó vượt. Nạn thứ mười sáu: Thu phục Sa Tăng. Nạn thứ mười bảy: Bốn thánh hóa phép. Nạn thứ mười tám: Trong quán Ngũ Trang. Nạn thứ mười chín: Nhân sâm khó sống. Nạn thứ hai mươi: Ngộ Không bị đuổi. Nạn thứ hai mươi mốt: Lạc rừng Hắc Tùng. Nạn thứ hai mươi hai: Mang thư nước Bảo Tượng. Nạn thứ hai mươi ba: Hóa hổ điện Kim Loan. Nạn thứ hai mươi tư: Gặp ma núi Bính Đinh. Nạn thứ hai mươi nhăm: Bị treo động Liên Hoa. Nạn thứ hai mươi sáu: Cứu vua nước Ô Kê. Nạn thứ hai mươi bảy: Bị ma hóa thân. Nạn thứ hai mươi tám: Núi Hiệu Sơn gặp quái. Nạn thứ hai mươi chín: Gió cuốn thánh tăng. Nạn thứ ba mươi: Hành Giả bị hại. Nạn thứ ba mươi mốt: Mời thánh hàng yêu. Nạn thứ ba mươi hai: Chìm sông Hắc Hà. Nạn thứ ba mươi ba: Vận chuyển nước Xa Trì. Nạn thứ ba mươi tư: Đánh cuộc thua được. Nạn thứ ba mươi nhăm: Nén đạo bênh tăng. Nạn thứ ba mươi sáu: Đường gặp sông lớn. Nạn thứ ba mươi bảy: Chìm xuống Thiên Hà. Nạn thứ ba mươi tám: Lồng cá hiện thân. Nạn thứ ba mươi chín: Gặp quái núi Kim Đâu. Nạn thứ bốn mươi: Thiên thần khó thắng. Nạn thứ bốn mươi mốt: Hỏi Phật ngọn nguồn. Nạn thứ bốn mươi hai: Uống nước ngộ độc. Nạn thứ bốn mươi ba: Nước Tây Lương giữ cưới. Nạn thứ bốn mươi tư: Động Tỳ Bà gặp tai. Nạn thứ bốn mươi nhăm: Ngộ Không bị đuổi lần hai. Nạn thứ bốn mươi sáu: Hai khỉ khó phân xử. Nạn thứ bốn mươi bảy: Hỏa Diệm Sơn chắn lối. Nạn thứ bốn mươi tám: Mượn quạt Ba Tiêu.
Nạn thứ bốn mươi chín: Bắt trói ma vương. Nạn thứ năm mươi: Trại thành quét tháp. Nạn thứ năm mươi mốt: Lấy báu cứu sư. Nạn thứ năm mươi hai: Ngâm thơ rừng Kinh Cúc. Nạn thứ năm mươi ba: Gặp nạn Tiểu Lôi Âm. Nạn thứ năm mươi tư: Thiên thần bị khốn. Nạn thứ năm mươi nhăm: Nghẽn lối hẻm Hy Thị. Nạn thứ năm mươi sáu: Chữa bệnh vua nước Chu Tử. Nạn thứ năm mươi bảy: Cứu chữa gầy còm. Nạn thứ năm mươi tám: Bắt yêu cứu hoàng hậu. Nạn thứ năm mươi chín: Bảy tình mê muội. Nạn thứ sáu mươi: Thần Đa Mục bị thương. Nạn thứ sáu mươi mốt: Nghẽn lối núi Sư Đà. Nạn thứ sáu mươi hai: Quái chia ba sắc. Nạn thứ sáu mươi ba: Trong thành gặp nạn. Nạn thứ sáu mươi tư: Mời Phật hàng ma. Nạn thứ sáu mươi nhăm: Cứu trẻ con nước Tỳ Kheo. Nạn thứ sáu mươi sáu: Phân rõ thực giả. Nạn thứ sáu mươi bảy: Cứu quái rừng Hắc Tùng. Nạn thứ sáu mươi tám: Buồng sư mắc bệnh. Nạn thứ sáu mươi chín: Khốn đốn ở động Vô Để. Nạn thứ bảy mươi: Bị nạn ở nước Diệt Pháp. Nạn thứ bảy mươi mốt: Gặp ma núi Ẩn Vụ. Nạn thứ bảy mươi hai: Quận Phượng Tiên cầu mưa. Nạn thứ bảy mươi ba: Mất trộm binh khí. Nạn thứ bảy mươi tư: Đại hội đinh ba. Nạn thứ bảy mươi nhăm: Gặp nạn núi Trúc Tiết. Nạn thứ bảy mươi sáu: Chịu khổ núi Huyền Anh. Nạn thứ bảy mươi bảy: Đuổi bắt tê giác. Nạn thứ bảy mươi tám: Nước Thiên Trúc kén rể. Nạn thứ bảy mươi chín: Bị giam ở phủ Đông Đài. Nạn thứ tám mươi: Thoát thai bến Lăng Vân.

Đường dài mười vạn tám nghìn dặm, thánh tăng gặp nạn đã ghi rõ ràng trong cuốn sổ này”.

Bồ Tát xem qua quyển sổ một lượt, bèn truyền bảo:

- Trong đạo Phật “chín chín tám mươi mốt mới về nguồn”, thánh tăng đã chịu tám mươi nạn, còn thiếu một nạn nữa mới đủ số.

Đoạn ra lệnh cho Yết Đế:
- Đuổi theo ngay Kim Cương, tạo thêm một nạn nữa.

Yết Đế lập tức vâng lệnh, cưỡi mây bay về hướng đông, một ngày một đêm thì đuổi kịp tám vị Kim Cương, ghé vào tai nói nhỏ:

- Cứ như thế… như thế… Phải tuân lệnh Bồ Tát không được chậm trễ.

Kim Cương nghe lời, thả luồng gió xuống thấp, khiến cho bốn thầy trò và cả con ngựa ngã lăn quay ra đất. Chà, ấy mới là:

Tám mươi mốt nạn tai ương trọn, Dựng cơ huyền, chí hướng sắt son. Ma lui là bởi lòng bền,
Muốn thành chính pháp phải nên tu trì.

Chớ bảo lấy kinh kia là dễ, Công thánh tăng chịu khổ xiết bao. Xưa nay hòa hợp tuyệt sao!
Một ly sai biệt kết nào nổi đan!

Tam Tạng giẫm chân trên mặt đất cõi trần, trong lòng cảm thấy lo sợ. Bát Giới cười ha hả nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Thế mới gọi là muốn nhanh lại hóa chậm.

Sa Tăng nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Tại chúng ta đi nhanh quá đấy mà, thế này thì chúng ta mới được nghỉ một chút chứ.

Đại Thánh nói:

- Tục ngữ có câu: “Buổi đực, buổi cái” mà[327]

Tam Tạng nói:
- Các con đừng đấu khẩu nữa, hãy nhận phương hướng xem đây là vùng nào.

Sa Tăng ngoảnh đầu nhìn bốn phía nói:

- Ở đây à? Ở đây à? Sư phụ ơi, có tiếng nước réo đấy. Hành Giả nói:
- Nước réo hay là quê quán của chú chăng? Bát Giới nói:
- Quê quán của chú ấy là sông Lưu Sa cơ mà. Sa Tăng nói:
- Không phải, không phải. Đây là sông Thông Thiên. Tam Tạng nói:
- Đồ đệ thử nhìn kỹ xem mình ở bờ bên nào?

Hành Giả nhảy vút lên trời, lấy tay khum khum che mắt quan sát, rồi hạ xuống nói:

- Thưa sư phụ, đây là bờ tây sông Thông Thiên. Tam Tạng nói:
- Ta nhớ ra rồi. Bờ bên đông kia là Trần Gia Trang. Năm xưa đi tới đây, nhờ hai con cứu được con cái họ, họ cảm ơn chúng ta, đóng thuyền tiễn đưa, sau nhờ có con rùa trắng cõng sang. Ta cũng nhớ ra rằng bên bờ tây này không có người ở, biết làm sao bây giờ?

Bát Giới nói:

- Con cứ tưởng người phàm mới làm hại, hóa ra những vị Kim Cương bên cạnh Phật Tổ cũng biết làm hại! Các vị ấy vâng lệnh Phật Tổ, đưa chúng ta về phương Đông, tại sao mới tới giữa đường lại quẳng chúng ta ở đây? Bây giờ tiến thoái lưỡng nan, làm sao qua được?
Sa Tăng nói:

- Anh đừng oán trách nữa. Sư phụ mình đã đắc đạo, đã thoát thai phàm ở bến Lăng Vân, lần này chắc không rơi xuống nước đâu mà sợ. Anh, tôi cùng với sư huynh ta trổ phép nhiếp thân, đưa sư phụ cưỡi mây bay qua.

Hành Giả tủm tỉm cười thầm nói:

- Không cưỡi mây qua được! Không cưỡi mây qua được!

Bạn bảo tại sao Hành Giả lại nói không cưỡi mây qua được? Bởi vì nếu cứ dùng phép thần thông sử dụng những điều huyền diệu của phép phi thăng, thì đến nghìn con sông thầy trò cũng qua được hết sao? Hành Giả lại biết rõ ràng Đường Tăng chưa hoàn thành con số chín chín tám mươi mốt, còn một nạn nữa mới hoàn tất, cho nên mới bị hãm chân ở đây.

Thầy trò vừa băn khoăn bàn tính, vừa thủng thẳng bước tới sát mép nước. Bỗng nghe thấy tiếng người gọi:

- Đường thánh tăng! Đường thánh tăng! Lại đây! Lại đây!

Bốn thầy trò giật mình, ngẩng đầu nhìn, chẳng một bóng người, chẳng một con đò. Hóa ra là một con rùa trắng kếch xù ở dưới sông vươn cổ lên gọi:

- Thưa lão sư phụ, con đợi ở đây mấy năm rồi, sao bây giờ sư phụ mới về?

Hành Giả cười nói:

- Chú rùa ơi, lần trước quấy quả chú, lần này ta lại gặp nhau ở đây.

Tam Tạng cùng Bát Giới, Sa Tăng vui mừng khôn xiết. Hành Giả nói:
- Chú rùa ơi, nếu chú có lòng đón tiếp, thì mời chú lên đây. Con rùa bò lên bờ, Hành Giả bảo dắt ngựa bước lên lưng nó.
Bát Giới ngồi xổm đằng sau con ngựa. Đường Tăng đứng bên cạnh đầu ngựa. Sa Tăng đứng ở bên phải. Hành Giả một chân giẫm trên cổ rùa, một chân giẫm trên đầu rùa cất tiếng nói:

- Chú rùa, bơi cho vững nhé!

Con rùa xoải bốn cẳng đạp nước vững vàng như đi trên mặt đất phẳng, cõng thầy trò và con ngựa trên lưng mình, bơi thẳng sang bờ bên đông. Thế mới gọi là:

Bất nhị pháp môn rất diệu huyền, Yêu ma lui sợ - rõ người tiên.
Bản lai diện mục nay mừng thấy, Một thể nguyên nhân đã vẹn tuyền. Đạo cả tam thừa tùy xuất nhập,
Linh đơn chín luyện mặc tuần hoàn.

Gậy bay gói khoác thôi đừng kể, Gặp lại rùa xưa thỏa ước nguyền.
Con rùa cõng thầy trò đè sông rẽ nước bơi chừng quá nửa ngày, tới lúc trời về chiều, sắp tới bờ sông, bỗng mở mồm hỏi:

- Thưa lão sư phụ, năm nao tôi có nhờ ngài khi nào tới Tây phương gặp đức Như Lai thì hỏi giùm tôi việc hậu vận, xem tôi thọ được bao nhiêu năm nữa, vậy sư phụ đã hỏi cho tôi chưa?

Nguyên Tam Tạng lúc tới Tây phương, tắm gội ở quán Ngọc Chân, thoát thai ở bến Lăng Vân, trèo lên Linh Sơn, chỉ chăm chăm việc lạy Phật, rồi tới khi vào yết kiến các vị Chư Phật, Bồ Tát, Thánh Tăng thì chỉ để ý vào việc lấy kinh, mọi chuyện khác quên khuấy đi mất, kể cả chuyện hỏi tuổi thọ cho con rùa, nên chẳng dám hé răng trả lời. Mặt khác Tam Tạng lại chẳng biết nói dối, chẳng quen trí trá nên cứ trầm ngâm một hồi lâu chẳng biết trả lời thế nào. Con rùa biết là Đường Tăng chưa hỏi giúp mình,
bèn xoay nghiêng người một cái, làm bốn thấy trò và cả con ngựa cùng kinh kệ rơi tõm xuống nước. Chà! Cũng may mà Đường Tăng đã thoát thai đắc đạo, nếu không sẽ chìm tới đáy sông như lần trước. Lại may con ngựa bạch là loài rồng. Bát Giới, Sa Tăng đều biết bơi. Hành Giả cười khành khạch trổ phép thần thông, dìu Đường Tăng chui ra khỏi mặt nước, bước lên bờ bên đông, chỉ có gói kinh, quần áo, yên cương là bị ướt mà thôi.

Thầy trò vừa bước lên bờ, bỗng một trận cuồng phong nổi lên, trời đất tối sầm, sấm chớp ầm ầm, cát bay đá lở. Chỉ thấy:

Một trận gió lung lay đất trời, Một tiếng sấm núi sông chấn động. Chớp lằng nhằng mây đen cuồn cuộn, Trời tối sầm đất rộng mông lung. Tiếng sấm dậy ì ầm,
Tiếng gió gào rin rít. Chớp rạch trời nhằng nhịt, Mù che kín sao trời.
Gió cuốn bụi bay thốc mặt người, Sấm nổi hổ báo run lẩn trốn.
Chim rừng nháo nhác bay tán loạn, Mù giăng nhìn chẳng thấy cây rừng.
Sóng sông Thông Thiên cuồn cuộn trào dâng, Cá sông Thông Thiên hoảng hồn sợ hãi.
Ánh chớp soi đáy sông mông mênh đỏ rực, Mây che bờ Thông Thiên tăm tối mịt mùng.
Gió gớm ghê! Đá lở nghiêng rừng,
Sấm khủng khiếp! Côn trùng nằm nép. Chớp loang loáng - rắn vàng nhằng nhịt, Mù dăng dăng vũ trụ tối đen.
Tam Tạng sợ quá đè chặt gói kinh. Sa Tăng cũng ôm chặt gánh kinh, Bát Giới giữ chặt lấy con ngựa, Hành Giả múa tít cây gậy sắt bảo vệ xung quanh.

Nguyên trận gió, mù, sấm chớp dữ dội ấy là do lũ ma ám gào thét, muốn cướp số kinh, làm ồn ào suốt một đêm, tới khi trời sáng mới thôi. Tam Tạng mình mẩy ướt sũng, run lẩy bẩy nói:

- Ngộ Không, làm sao bây giờ? Hành Giả thở hồng hộc nói:
- Sư phụ không biết đó thôi. Chúng con hộ vệ sư phụ lấy được kinh về, tức là cướp cả công tạo hóa của trời đất, mãi mãi dài lâu với càn khôn, sáng soi cùng nhật nguyệt, hưởng thọ vĩnh hằng, pháp thân chẳng nát. Vì vậy trời đất chẳng dung, quỷ thần ghen ghét, muốn ngầm cướp đi đấy mà. Vừa rồi, một là kinh kệ bị ướt hết, hai là được pháp thân sư phụ đè chặt, nên sấm hết đường nổ, chớp hết đường soi, mù hết đường trùm, lại được lão Tôn múa tít gậy sắt, mang tính thuần dương ra giữ gìn kín đáo, kịp khi trời sáng, khí dương hưng thịnh, cho nên số kinh không bị cướp đi đấy.

Tam Tạng, Bát Giới, Sa Tăng bấy giờ mới tỉnh ngộ, cảm ơn rối rít. Một lát sau, mặt trời lên cao, thầy trò mang kinh ra chỗ bờ cao, cởi ra phơi phóng.



Đến nay tảng đá phơi kinh hãy còn. Thầy trò lại cởi cả quần áo, giày dép ra phơi, kẻ đứng người ngồi mừng mừng rỡ rỡ. Chính thật là:

Một thể thuần dương thấy ánh dương, Ma âm thôi dám, chẳng ngăn đường.
Mới hay nước có làm kinh ướt, Chẳng sợ gió, mây, sấm dập dồn. Thỏa chí từ đây về chính quả,
Vui lòng nay đã hưởng Tây phương.

Phơi kinh đá nọ còn ghi dấu, Nghìn kiếp yêu ma chẳng bén bàng.
Bốn thầy trò kiểm lại tất cả số kinh đã phơi khô. Bỗng nhìn thấy có mấy người đánh cá dưới bờ sông đi lên. Trong số đó có
người nhận ra Đường Tăng bèn hỏi:

- Thưa lão sư phụ, ngài có phải là người năm xưa vượt sông đi lấy kinh đó không?

Bát Giới đáp:

- Phải phải. Các bác là ai mà lại nhận ra chúng tôi? Mấy người đánh cá thưa:
- Chúng tôi là người trong xóm Trần Gia Trang. Bát Giới hỏi:
- Trần Gia Trang cách đây bao xa? Người đánh cá đáp:
- Cách đây về phía nam độ hai mươi dặm. Bát Giới nói:
 -Sư phụ ạ, chúng ta mang kinh tới Trần Gia Trang mà phơi. Tới đó vừa có chỗ ngủ vừa có chỗ ăn, nhờ họ giặt hộ cả quần áo nữa, không tốt hơn à?

Tam Tạng nói:

- Không. Phơi ngay ở đây rồi thu xếp tìm đường về.

Mấy người đánh cá đi cả về phía nam, vừa vặn gặp Trần
Trừng, bèn cất tiếng gọi:

- Thưa ông, vị trưởng lão năm nào làm vật tế thay cho con ông quay trở lại kia kìa!

Trần Trừng hỏi:

- Các vị ấy ở đâu?

Mấy người đánh cá chỉ tay đáp:

- Họ đang phơi kinh trên tảng đá đằng kia.

Trần Trừng dẫn mấy người tá điền đi về hướng tay chỉ, bước
tới gần, quỳ xuống nói:

- Trưởng lão lấy kinh đã về, công thành hành mãn sao không ghé qua tệ xá mà lại bày kinh ở chỗ này? Xin mời về nhà tôi nghỉ.

Hành Giả nói:

- Đợi khô kinh đã rồi cùng đi với ông một thể. Trần Trừng lại hỏi:
- Kinh kệ, quần áo của trưởng lão sao lại ướt cả thế này? Tam Tạng đáp:
- Năm xưa, nhờ con rùa trắng cõng qua sông sang bờ tây, năm nay lại nhờ nó cõng qua sông, tới gần bờ con rùa có hỏi lại việc nhờ Phật Tổ xem cho tuổi thọ của nó thế nào, tôi quên khuấy không hỏi hộ nó, nó bèn lặn xuống nước, nên mới bị ướt như chuột lột thế này đây.

Đoạn lại đem các việc trước kể hết một lượt. Trần Trừng mời tha thiết quá, Tam Tạng không biết làm thế nào, bèn thu xếp kinh kệ lại, không ngờ quyển kinh Phật Bản Hạnh dính vào đá, rách mất mấy tờ cuối quyển. Vì vậy Kinh Bản Hạnh hiện nay không được đầy đủ, tảng đá phơi kinh vẫn còn dấu chữ. Tam Tạng hối hận nói:

- Tại chúng ta cẩu thả, không xem xét cẩn thận đấy mà. Hành Giả cười nói:
- Không phải! Không phải! Ấy là tại trời đất cũng không trọn vẹn đấy. Bộ kinh này vốn vẫn đầy đủ, nay dính rách, đó cũng là một sự huyền diệu ứng với sự không trọn vẹn đó thôi. Sức người giữ làm sao được!

Thầy trò thu xếp xong, cùng Trần Trừng về thôn. Người trong thôn một truyền mười, mười truyền trăm, trăm truyền nghìn, đủ
cả già trẻ gái trai đều tới đón tiếp. Trần Thanh nghe nói, bèn đặt hương án ngay trước cửa nghênh đón. Lại sai thổi kèn đánh trống tưng bừng. Một lát sau, đón Tam Tạng vào. Trần Thanh dẫn cả gia quyến ra đón, lạy tạ công ơn cứu con gái ngày nào, đoạn sai pha trà nấu cơm. Tam Tạng từ ngày được ăn những món ăn tiên; hoa quả tiên; trà hương tiên của Phật Tổ thết đãi, đã thoát thai phàm, không còn tơ tưởng gì đến những món ăn trần gian nữa. Hai cụ họ Trần năn nỉ mời mãi, bất đắc dĩ Tam Tạng  đành  phải  chiều  ý.  Tôn  Đại  Thánh  từ  ngày  không  ăn những thức nấu nướng nữa, cũng nói:

- Xin đủ ạ.

Sa Tăng cũng không ăn gì. Bát Giới không như trước kia, cũng đặt bát xuống. Hành Giả nói:

- Chú ngốc không ăn à? Bát Giới đáp:
- Chẳng biết vì sao dạo này tỳ vị kém lắm.

Người nhà bèn cất dọn mâm bát, rồi hỏi chuyện đi lấy kinh. Tam Tạng lại đem những chuyện đầu tiên tới tắm gội ở quán Ngọc Chân, thân thể nhẹ nhàng ở bến Lăng Vân, sau đó tới chùa Lôi Âm yết kiến Như Lai, được ban yến ở lầu báu, trao kinh ở gác báu rồi bị hai vị tôn giả vòi của đút, trao cho những kinh không có chữ, sau lại bái yết thưa cho Như Lai biết rõ, mới được trao cho đủ số một tạng kinh, đến chuyện con rùa dìm xuống nước, ma âm định cướp kinh kể hết một lượt, rồi định xin từ biệt.

Cả nhà hai cụ Trần nhất định không nghe, nói:

- Ơn sâu cứu cháu bé khi xưa chưa được báo đền, cho nên chúng tôi đã xây một ngôi chùa nhỏ đặt tên là chúa Cứu Sinh, hương khói thờ cúng quanh năm.
Liền gọi con trai con gái là Trần Quan Bảo và Nhất Xứng Kim được tế thay ngày trước ra cúi lạy bốn thầy trò, và mời thầy trò tới chùa vãn cảnh. Tam Tạng sai cất những xếp kinh vào nhà, chỉ tụng cho họ một quyển kinh Bảo Thường thôi. Vào tới trong chùa, đã thấy nhà cụ Trần dọn cơm ở đó. Thầy trò chưa kịp ngồi xuống, đã có một toán khác tới mời, chưa kịp cầm đũa, lại thấy một toán khác tới đón, liên tiếp không ngớt. Tam Tạng không nỡ chối từ, đành phải chiều ý. Tam Tạng thấy ngôi chùa rất tề chỉnh:

Cổng chùa quét sơn đỏ, Ấy chính công họ Trần.
Một tòa lâu đài cổ, Cùng hai dãy hành lang. Quạt quý màu son tía, Thất bảo sáng lung linh.
Khói hương xông nghi ngút, Lan tỏa khắp trời xanh.
Trắc biếc mấy cây soi bóng nước, Vài hàng tùng cổ rợp xung quanh. Thông Thiên sóng vỗ dâng đằng trước, Mạch núi tầng tầng tựa phía lưng.
Tam Tạng xem xong rồi bước lên lầu cao. Trên lầu, thấy đặt bốn pho tượng thầy trò, Bát Giới túm lấy Hành Giả nói:

- Pho tượng sư huynh giống quá! Sa Tăng nói:
- Anh hai trông cũng giống lắm. Chỉ có sư phụ thì đẹp hơn người thực.
Tam Tạng nói:

- Càng tốt! Càng tốt!

Thầy trò bèn xuống lầu. Bên dưới, trong hành lang sau tòa điện trước, cơm chay đã bày sẵn chờ đợi.

Hành Giả lại hỏi:

- Ngôi miếu đại vương ngày xưa thế nào rồi? Các cụ bô lão thưa:
- Ngôi miếu ngày ấy đã phá rồi. Trưởng lão ạ, từ ngày dựng ngôi chùa này, năm nào chúng tôi cũng được mùa, ấy là nhờ phúc ấm của trưởng lão.

Hành Giả cười nói:

- Trời ban cho đấy, chúng tôi có can dự gì đâu. Từ nay trở đi, chúng tôi sẽ phù hộ cho mọi người trong thôn ta con cháu đông đúc, súc vật dồi dào, năm năm gió hòa mưa thuận, tháng tháng gió thuận mưa hòa.

Mọi người dập đầu tạ ơn.

Lại thấy tíu tít xung quanh nào người hiến quả, nào người dâng cơm. Bát Giới cười nói:

- Thuở trước lận đận, ăn được thì chẳng có ma nào mời. Nay không ăn được thì chưa xong nhà này đã thấy nhà kia mời rồi.

Thầy trò tuy đã no, nhưng cũng gọi là nhúng đũa ăn liền tới tám chín mâm cơm chay. Ấy là tỳ vị đã kém, mà vẫn ăn thêm hai ba chục chiếc bánh bao nữa. Bụng đã no căng mà mọi người vẫn tới mời, Tam Tạng nói:

- Đệ tử có tài cán gì mà được yêu quý như vậy! Xin cho được chiều nay tạm dừng, sáng mai nhận tiếp.

Đêm đã khuya, Tam Tạng giữ chặt chân kinh, chẳng rời một ly, ngồi luôn dưới lầu coi giữ. Tới khoảng canh ba, Tam Tạng
khe khẽ gọi:

- Ngộ Không, mọi người ở đây biết chúng ta công thành hành mãn. Tự cổ có câu: “Chân nhân chẳng lộ tướng, lộ tướng chẳng phải chân nhân”, dùng dằng lâu e hỏng mất việc lớn.

Hành Giả nói:

- Sư phụ nói phải lắm. Ta nhân đêm khuya, mọi người ngủ say, cứ lẳng lặng ra đi.

Bát Giới cũng đã dậy, Sa Tăng cũng đã biết. Ngựa Bạch cũng hiểu ý, tất cả đều trở dậy, nhẹ nhàng xếp kinh lên lưng ngựa, gánh đồ men theo hành lang ra đi. Tới cổng chùa, thấy cổng chùa khóa kín, Hành Giả bèn dùng phép cởi khóa mở tầng cổng thứ hai, rồi tầng cổng ngoài, tìm ra đường cái đi thẳng hướng đông mà đi. Bỗng nghe thấy tiếng tám vị Đại Kim Cương đứng giữa tầng không cất tiếng gọi:

- Hỡi những vị đi trốn, theo tôi ngay!

Tam Tạng ngửi thấy mùi gió thơm thoang thoảng, bèn bay vút lên không trung. Ấy mới là:

Đan thành biết rõ diện mục cũ

Thân khỏe thung dung lạy chủ nhân.

Cuối cùng không biết việc gặp vua Đường như thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ MỘT TRĂM Về thẳng phương Đông Năm thánh thành Phật
Tạm gác chuyện bốn người trốn thoát, bay theo tám vị Kim
Cương cưỡi gió bay đi. Lại nói chuyện mọi người trong chùa Cứu Sinh ở Trần Gia Trang, sáng ngủ dậy, sửa soạn phẩm quả dâng lên, tới dưới lầu, chẳng thấy thầy trò Đường Tăng đâu cả, bèn hốt hoảng kẻ hỏi người tìm chẳng thấy ở đâu. Mọi người kêu la rầm trời:

- Mấy vị Phật sống lẳng lặng đi mất rồi!

Rồi chẳng còn cách nào, bèn sắm sửa phẩm quả, bưng lên lầu, đốt giấy tiền tế lễ. Từ đó trở đi, hàng năm đều tổ chức bốn lần đại lễ, và hai mươi tư lần tiểu lễ. Chưa kể những người cầu khỏi bệnh, cầu yên lành, cầu hôn nhân, cầu con cái, cầu của cải thì rầm rập suốt ngày đốt hương lễ bái không lúc nào vắng. Thật là:

Lò vàng nghìn thuở hương còn ngát, Đèn ngọc muôn năm lửa chẳng tàn.
Lại nói chuyện tám vị Đại Kim Cương nổi hai trận gió thơm đưa bốn người bay về cõi Đông, chưa đầy một ngày, xa xa đã nhìn thấy thành Tràng An.

Nguyên là vua Thái Tông từ ngày trước ngày rằm tháng chín ba hôm, năm Trinh Quán thứ mười ba tiễn chân Đường Tăng ra khỏi thành, tới năm thứ mười sáu, sai quan bộ Công dựng một ngôi lầu Vọng Kinh ngoài cửa Tây An để đón kinh, năm nào vua Thái Tông cũng tuần tới đó. Một hôm xa giá nhà vua vừa tới trước lầu, bỗng nhìn thấy ở phía chính tây mây đẹp khắp trời,
gió thơm lồng lộng. Kim Cương dừng lại giữa không trung nói:

- Thưa thánh tăng, đây đã là thành Tràng An. Chúng tôi không tiện hạ xuống. Người vùng này khôn ngoan lắm, e tiết lộ mất chân tượng. Tôn Đại Thánh và mấy vị này cũng không nên đi, một mình ngài xuống trao kinh cho chúa ngài xong rồi quay lại đây ngay. Chúng tôi đợi ngài trên tầng mây này rồi cùng về trao trả thánh chỉ.

Đại Thánh nói:

- Lời tôn giả tuy đúng, nhưng sư phụ tôi làm sao gánh được kinh? Làm sao dắt được ngựa? Phải cần có chúng tôi đưa sư phụ xuống, phiền các ngài đợi một lát, chúng tôi không dám làm lỡ việc.

Kim Cương nói:

- Hôm trước Quan Âm có thưa với Như Lai, cả đi cả về chỉ trong vòng tám ngày cho đủ số tạng. Nay đã quá bốn ngày rồi, chỉ sợ Bát Giới ham vòng giàu sang lỡ mất kỳ hạn thì chết.

Bát Giới cười nói:

- Sư phụ thành Phật, con cũng mong được thành Phật, đâu còn có lòng tham lam gì nữa! Có họa là đồ ngốc! Các ngài cứ đợi chúng tôi ở đây, trao kinh xong, chúng tôi quay lại ngay, rồi cùng đi.

Chú ngốc bèn gánh kinh, Sa Tăng dắt ngựa, Hành Giả hộ vệ thánh tăng hạ mây bước xuống bên lầu Vọng Kinh.



Vua Thái Tông và các quan nhìn thấy, vội vàng xuống lầu nghênh đón, hỏi:

- Ngự đệ đã về đấy à?

Đường Tăng cúi đầu lạy tạ. Thái Tông đỡ dậy, hỏi tiếp:

- Ba người kia là ai? Đường Tăng thưa:
- Đó là những đồ đệ mà bần tăng thu phục được dọc đường. Thái Tông mừng lắm truyền lệnh cho quan hầu:
- Mau sửa soạn yên cương ngựa của trẫm, mời ngự đệ lên ngựa cùng trẫm về triều.

Đường Tăng lạy ta, cưỡi lên ngựa. Đại Thánh múa gậy sắt đi sát bên cạnh, Bát Giới, Sa Tăng dắt ngựa gánh đồ theo sau xa giá cùng về Tràng An. Thật là:

Năm nào dự yến thanh bình,
Trăm quan văn võ triều đình xênh xang.

Diễn pháp thủy lục đàn tràng,

Vua ban chiếu chỉ lên đường sang Tây.

Điệp văn xuất cảnh trao tay,

Ngũ hành phối hợp mang ngay kinh về.

Tai ương, hoạn nạn vượt qua,

Công thành toại nguyện nay về Tràng An.

Bốn thầy trò Đường Tăng theo xa giá vào triều. Khắp thành không ai là không biết người lấy kinh đã về.

Lại nói các nhà sư chùa Hồng Phúc là nơi ở cũ của Đường Tăng ở Tràng An thấy mấy cây tùng ngọn nào cũng quay cả về hướng đông thì kinh ngạc nói:

- Quái nhỉ, đêm qua lặng gió, mà sao ngọn tùng lại vẹo cả đi thế kia?

Trong số đó có người là đồ đệ cũ của Tam Tạng, người ấy nói:

- Mau mặc quần áo vào, lão sư phụ đi lấy kinh về rồi đấy! Các nhà sư hỏi:
- Sao ngài biết? Người đồ đệ cũ đáp:
- Năm xưa, khi sư phụ ra đi, sư phụ có dặn rằng: “Sau khi ta đi, hoặc dăm ba năm, hoặc sáu bảy năm, nhưng chừng nào ngọn tùng ngả cả về hướng đông, ấy là lúc ta về”. Sư phụ tôi là bậc thánh, bậc Phật, đã nói tất đúng, nên tôi biết.

Đoạn mọi người mặc áo ra đi, lúc tới phố tây, đã thấy mọi người bàn tán:

- Người lấy kinh vừa mới về, đức vua đã đón vào thành.
Các nhà sư nghe nói vội vàng chạy theo, may ra được gặp. Nhìn thấy xa giá, mọi người chẳng dám tới gần, lẽo đẽo theo đằng sau tới ngoài cửa triều đình.

Đường Tăng xuống ngựa cùng mọi người vào triều, đặt gánh kinh và buộc con long mã lại, cùng Hành Giả, Bát Giới, Sa Tăng đứng cả dưới thềm ngọc. Vua Thái Tông truyền lệnh cho ngự đệ lên  điện,  mời  ngồi.  Đường  Tăng  tạ  ơn  ngồi  xuống,  và  bảo khiêng số kinh lại. Bọn Hành Giả lấy kinh ra, các quan cận thị chuyển vào. Vua Thái Tông hỏi:

- Lấy được bao nhiêu kinh? Làm thế nào đưa được về? Tam Tạng thưa:
- Bần tăng khi tới núi Linh Sơn, yết kiến Phật Tổ. Phật Tổ sai hai vị tôn giả A Nan, Ca Diếp dẫn vào lầu báu thết cơm chay, rồi đưa vào gác báu trao kinh. Hai vị tôn giả ấy vòi lễ, vì không chuẩn bị, không có vật gì biếu, nhưng hai vị vẫn trao kinh cho. Bần tăng tạ ơn Phật Tổ để về Đông Thổ, bỗng kinh kệ lại bị làn gió yêu cướp đi mất. May có đồ đệ của bần tăng trổ thần thông đuổi theo lấy lại kinh, nhưng kinh bị vứt tung tóe khắp mặt đất. Kịp khi giở ra xem, mới thấy toàn là kinh không có chữ. Bần tăng sợ quá, quay lại trình bày van xin tha thiết với Phật Tổ. Phật Tổ nói: “Đạo kinh ta mới tạo tác ra, thánh tăng, tỳ kheo mang xuống núi tụng cho nhà trưởng giả họ Triệu ở nước Xá Vệ, phù hộ cho những người trong nhà trưởng giả được bình yên, người chết được siêu thoát, mà chỉ lấy có ba đấu ba bơ vàng cốm, ta còn bảo là lấy rẻ quá, sau này con cháu lấy tiền đâu tiêu dùng”. Bần tăng biết hai vị tôn giả đòi ăn của đút, Phật Tổ cũng biết rõ việc đó, nhưng bần tăng vẫn phải biếu hai vị ấy chiếc bát tộ vàng thì mới được trao kinh có chữ. Số kinh gồm ba mươi nhăm bộ, hai vị chọn một số quyển trong đó trao cho, tổng cộng là năm nghìn linh bốn mươi tám quyển. Số ấy là số hợp
với số bộ tạng.

Vua Thái Tông mừng lắm, bèn truyền lệnh:

- Quan Quang lộc tự bày tiệc ở điện Đông Các để tạ ơn.

Chợt nhìn thấy ba vị đồ đệ đứng dưới thềm, mặt mũi dị thường, nhà vua bèn hỏi:

- Mấy đồ đệ này là người nước ngoài à? Tam Tạng phủ phục xuống thưa:
- Đồ đệ cả họ Tôn, pháp danh Ngộ Không, thần quen gọi là Tôn Hành Giả. Hắn là người động Thủy Liêm, núi Hoa Quả, nước Ngạo Lai, thuộc Đông Thắng Thần Châu. Năm trăm năm trước, do đại náo thiên cung, bị Phật Tổ nhốt trong một chiếc hộp đá đè dưới núi Lưỡng Giới ở Tây Phiên, đội ơn đức Quan Âm Bồ Tát khuyến thiện, hắn tình nguyện quy y, thần khi đi qua đó đã cứu hắn ra, công lao bảo hộ dọc đường là nhờ ở hắn nhiều lắm. Đồ đệ hai họ Trư, pháp danh Ngộ Năng, thần thường gọi hắn là Trư Bát Giới. Hắn vốn ở động Vân Sạn núi Phúc Lăng. Do hắn làm yêu quái ở thôn Cao Lão, nước Ô Tư Tạng, rồi đội ơn Bồ Tát khuyến thiện, lại được Hành Giả thu phục, dọc đường chịu khó gánh hành lý, lội nước cũng có công. Đồ đệ ba họ Sa, pháp danh Ngộ Tĩnh, thần còn gọi là Sa Hòa Thượng. Hắn vốn là yêu quái sông Lưu Sa, đội ơn Bồ Tát khuyến thiện, theo đạo Sa Môn. Còn con ngựa này không phải là của bệ hạ ban cho đâu.

Vua Thái Tông nói:

- Màu lông giống hệt, sao lại không phải? Tam Tạng thưa:
- Khi thần lội qua khe Ưng Sầu, núi Xà Bàn, con ngựa đó bị con ngựa này ăn thịt mất. May nhờ Hành Giả đi hỏi lai lịch con ngựa này, mới biết hắn là con trai của Tây Hải Long Vương, vì
có tội, may được Bồ Tát cứu thoát, bảo hắn làm ngựa đỡ sức chân cho thần. Khi ấy hắn biến thành con ngựa giống y con ngựa trước, nên bệ hạ không phân biệt được. Dọc đường hắn trèo đèo lội suối, vượt núi băng ngàn, khi đi thần cưỡi, lúc về chở kinh, toàn nhờ vào sức hắn cả.

Thái Tông nghe xong, thán phục mãi không thôi, đoạn lại hỏi:

- Đường sang Tây phương xa độ bao nhiêu? Tam Tạng thưa:
- Theo lời Bồ Tát là mười vạn tám nghìn dặm. Dọc đường thần chẳng ghi được mọi điều, chỉ biết rằng đã trải qua mười bốn lần nóng lạnh, ngày ngày vượt núi, tháng tháng băng đèo, qua bao rừng thẳm, lội bao sông sâu, đi qua kể cũng nhiều nước, tới nước nào đều có đóng dấu vào điệp văn.

Đoạn Tam Tạng gọi:

- Đồ đệ, mang điệp văn lại đây nộp trả cho đức vua.

Điệp văn được dâng lên. Thái Tông nhìn xem thấy tờ giấy cấp vào ngày trước ngày rằm tháng chín năm Trinh Quán thứ mười ba ba ngày, bèn cười nói:

- Lặn lội lâu ngày vất vả quá! Hiện tại đã là năm Trinh Quán thứ hai mươi bảy rồi.

Tờ điệp văn có đóng dấu nước Bảo Tượng, nước Ô Kê, nước Xa Trì, nước Tây Lương đàn bà, nước Tế Trại, nước Chu Tử, nước Tỳ Kheo, nước Diệt Pháp, còn có cả dấu của quận Phượng Tiên, châu Ngọc Hoa, phủ Kim Bình nữa. Thái Tông xem xong, sai cất đi.

Chợt có quan đương giá tới mời đi dự tiệc, Thái Tông bèn dắt tay Đường Tăng cùng xuống điện.

Thái Tông hỏi:
- Mấy đồ đệ có biết nghi lễ không? Tam Tạng thưa:
- Đồ đệ của thần đều xuất thân là yêu quái chốn rừng rú thôn quê, chưa từng am hiểu nghi lễ của thánh triều Trung Hoa, muôn xin bệ hạ tha tội.

Thái Tông cười nói:

- Không bắt tội đâu! Không bắt tội đâu! Xin mời cả vào điện
Đông Các dự tiệc.

Tam Tạng tạ ơn, gọi cả ba người vào điện cùng dự. Quả là đại quốc Trung Hoa, thật khác hẳn những nơi khác. Chỉ thấy:

Cửa treo bức thêu gấm, Đất trải thảm đỏ hồng. Hương xạ thơm ngan ngát, Phẩm lạ đẹp vô cùng.
Nào chén hổ phách, chén lưu ly dát vàng điểm thúy; Nào chén dạ quang, chén bạch ngọc chạm trổ lá hoa Củ từ bung thật dừ,
Khoai sọ thắng mật ngọt. Mạch nha mùi thơm phức, Rong biển vị thanh kỳ. Mấy loại măng ngon ghê,
Hạt hướng dương bùi béo. Miến đậu xanh trắng dẻo Đậu phụ, mộc nhĩ thơm. Rau rừng với hoa tiên, Thức nào cũng tuyệt diệu.
Mấy món thức ăn toàn đồ thượng hảo, Phẩm quả bày kia mới thực thanh kỳ.
Bánh hạnh nhân thơm tho, Vải thiều và long nhãn.
Lê Tuyên Châu đỏ thắm, Táo Sơn Đông mỡ màng. Ngân hạnh vùng Giang Nam, Cùng là lê đầu thỏ,
Đu đủ, bồ đào nữa, Lại củ ấu, hạt sen.
Lâm cầm với trám đen, Mận mơ và sa quả. Các loại đều đủ cả. Mọi thứ bày chỉnh tề.
Lại thêm mật ngọt với bánh, chè

Cùng là hương trà và mỹ tửu.

Kể sao hết các món bách vị chân tu tuyệt hảo, Quả là đại quốc Trung Hoa khác hẳn cõi Tây.
Bốn thầy trò cùng văn võ bá quan ngồi ở hai bên, hoàng đế Thái Tông ngồi ở chính giữa. Các đội múa hát sáo đàn tề chỉnh trang nghiêm. Mọi người dự tiệc vui vẻ suốt một ngày. Thật là:

Quân vương mở hội vui sao,

Chân kinh lấy được, phúc nào to hơn?

Công lao muôn thuở còn truyền,

Hào quang Phật rọi ngai vàng đế vương.
Tối hôm ấy, tiệc tạ ơn kết thúc. Thái Tông quay về cung, các quan cũng lui chầu. Thầy trò Đường Tăng về nghỉ ở chùa Hồng Phúc, các nhà sư trong chùa dập đầu đón tiếp. Vừa vào tới cửa chùa, các nhà sư đã nói:

- Thưa sư phụ, ngọn cây này hôm nay bỗng nhiên đều ngả về hướng đông, chúng con nhớ lời sư phụ ngày xưa, bèn ra ngoài thành đón tiếp, quả nhiên thấy sư phụ đã về.

Tam Tạng vui mừng khôn xiết, bèn bước vào phương trượng. Lúc ấy Bát Giới không hề ăn uống tí gì, cũng không nói năng ầm ĩ ồn ào. Hành Giả, Sa Tăng cũng điềm đạm ít nói. Ấy là do đạo quả đã hoàn toàn, nên tự nhiên an tĩnh như vậy. Sau đó mọi người đi ngủ.

Sáng hôm sau, Thái Tông khai triều, nói với quần thần:

- Trẫm nghĩ tới công lao của ngự đệ sâu xa rộng lớn, không gì báo đền được. Đêm qua trẫm không ngủ, ứng khẩu mấy câu nôm na, nhưng chưa viết ra giấy.

Đoạn truyền lệnh:
- Quan trung thư lại đây, trẫm đọc cho khanh viết. Bài văn viết rằng:

“Từng nghe lưỡng nghi[328]


có hình tượng, hiển hiện che
cho chúng sinh: bốn mùa không có hình lặng lẽ tạo nóng rét để nuôi dưỡng muôn vật. Vậy nên: nhìn trời ngắm đất, người bình thường cũng rõ được đầu mối: Sáng âm thấu dương, bậc hiền triết ít kẻ bắt thấu được tận cùng. Thế thì trời đất bao quát cả âm dương, dễ biết được là vì có hình tượng: Âm dương hoạt động trong trời đất, khó thấu tận cùng là vì vô hình thôi. Vậy mới biết hình tượng hiện rõ có chứng cớ, tuy ngu cũng không ngờ vực; Hình tượng lặn đi không nhìn thấy, kẻ trí cũng có khi mê. Huống hồ đạo Phật lại chuộng hư không, vượt vào cõi u
minh, giữ lấy tịch mịch, rộng giúp muôn loài, trị yên mười phương. Nâng uy tinh lên trên hết, nên thần lực không gì bằng. Lớn thì bao trùm cả vũ trụ; Nhỏ thì chứa đựng đến tóc tơ. Không diệt không sinh, trải nghìn kiếp mà vẫn trẻ: Như ẩn như hiện, chở trăm phúc vẫn mới nguyên. Đạo lớn diệu huyền, đi mãi không biết đâu là bờ bến: Dòng pháp trong lắng, bơi lặn lường sao được ngọn nguồn. Vậy nên những kẻ tầm thường, bo bo ngu xuẩn, cố giữ chấp trước, không hoặc không nghi làm sao được? Thế rồi đại giáo hưng thịnh, gốc từ Tây phương bừng tỉnh mộng vượt sang triều đình Hán; khơi dòng từ bi chiếu rọi cõi Đông. Thời xưa, khi mới chia hình chia dấu, lời nói chưa chạy xa mà đã thành giáo hóa; Đương lúc thường hiện thường ẩn, dân dã ngưỡng đức mà noi theo. Kịp khi bóng tối lẩn theo chân lý, dời đổi qua các đời, ánh vàng bị che sắc, không soi được ánh sáng ba nghìn: Tượng đẹp mở tranh, chỉ rõ ràng ba mươi hai tướng đẹp. Thế rồi chân ngôn truyền rộng, vớt loài chim ở ba đường: Di huấn vang xa, dẫn sinh linh khắp mười cõi. Nhà Phật có kinh chia ra đại thừa và tiểu thừa, lại có pháp đó là thuật truyền-ngoa-là-chính. Nhà sư của ta là pháp sư Huyền Trang, đứng đầu trong pháp môn, thuở nhỏ cẩn thận thông minh, sớm giác ngộ công quả tam không, lớn lên hợp với thánh thần, hành vi nào cũng gồm trong tứ nhẫn. Gió thông trăng nươc chẳng sánh vẻ hào hoa: Ngọc sáng móc tiên khó so bề cốt cách. Cho nên đem cái trí vô lụy, suy nghiệm thần tinh từ chỗ chưa thành hình, vượt ra sáu cõi lục trần, thật nghìn đời không ai sánh. Lắng lòng nơi nội cảnh, thường thương chính pháp trễ tràng: Thành tâm chỗ cửa huyền, hay bực bội kinh văn sai suyển. Những muốn xét rõ điều lý, mở rộng đường kiến văn đời trước: Phân rõ chân ngụy, mở lối cho kẻ hậu học đời sau. Cho nên lòng mong sang nơi Tịnh Thổ, chu du tới ba cõi Tây Vực, xông pha lặn lội, chống gậy ra đi. Buổi sớm tuyết trắng xóa lên đường, dặm trường mờ mịt; Buổi chiều bãi hoang lương
dừng lại, trời đất mông lung. Muôn dặm non sông, rẽ khói mây mà tiến bước: Trăm tầng nóng lạnh, đội mưa gió mà xông lên. Tấm lòng thành coi khinh vất vả, ước vọng lớn muốn thành tựu to, rong ruổi cõi Tây mười bốn năm ròng, đi khắp nước ngoài tìm cầu chính giáo. Vườn Lộc Uyển mến dạo xem hoa; Đỉnh Linh Thứu ngưỡng kỳ mộ lạ. Vâng lời chí ngôn của tiên thánh; Nhận sự chân giáo bậc thượng hiền, xem xét cửa diệu môn, nghiền ngẫm nơi áo nghiệp. Đạo tam thừa lục luật, rong ruổi nơi ruộng đồng; Kinh một tạng trăm hôm, chơi vơi nơi cửa biển. Vậy nên trải qua biết bao góc biển chân trời, cầu tìm được vô số kinh kệ. Tổng cộng được ba mươi nhăm bộ kinh Đại Thừa cốt yếu, gồm năm nghìn linh bốn mươi tám quyển, để dịch ra truyền bá khắp Trung Hoa, tuyên dương đức nghiệp. Dẫn mây lành từ Tây Vực, tưới mưa pháp khăp Cõi Đông. Thánh giáo khuyết nay lại tròn; Dân đen tội mà được phúc. Dập lửa đỏ nơi nhà cháy, cùng thoát đường mê; Soi sáng tối nơi nước vàng, cùng sang cõi Phật. Thế mới biết ác vì nghiệt đọa, thiện do duyên thăng. Đầu mối của sự đọa hay thăng, hoàn toàn do con người cả. Ví như cây quế mọc nơi núi cao, mưa móc thấm mới nở hoa thơm; Hoa sen chồi lên từ sóng xanh, bụi bậm không thể bám vào lá. Đâu có phải tính hoa sen tự trong sạch và chất cây quế tự thẳng ngay đâu, mà là do được mọc ở chỗ cao nên vật nhỏ không làm lụy đến; được sinh ở chỗ sạch, nên loài đục chẳng giây vào. Kìa đến cả loài cây có vô tri còn biết nuôi thiện mà thành thiện, huống hồ loài người có tri thức, lại không biết nương theo phúc mà cầu phúc ư? Mong rằng kinh này sáng soi mãi như hai vầng nhật nguyệt; Phúc lớn lan xa trường tồn mãi cùng đất trời!”

Quan trung thư viết xong, nhà vua cho gọi thánh tăng vào. Khi ấy Tam Tạng đã đứng đợi ngoài triều môn chờ lạy tạ, nghe nói nhà vua cho vời vào, bèn bước vào phủ phục làm lễ. Thái Tông mời lên điện, đưa bài văn cho Tam Tạng xem. Xem xong, Tam Tạng lại cúi lạy tạ ơn, thưa rằng:
- Văn từ của bệ hạ lời lẽ cao cả, nghĩa lý sâu xa, nhưng chưa rõ tên gọi là gì?

Thái Tông nói:

- Ấy là trẫm ứng khẩu lúc đêm khuya để tạ ơn ngự đệ đấy. Vậy gọi là bài “Thái giáo tự” không biết có được chăng?
Tam Tạng dập đầu tán thưởng mãi không thôi. Thái Tông nói:

 Trẫm tài kém ngọc ngà, Văn từ thua vàng đá. Còn như phần kinh kệ, Lại càng ít được nghe. Bèn ứng khẩu làm ra, Mấy lời văn quê kệch. Làm bẩn cả giấy mực, Múa bút mặt văn nhân. Lòng áy náy băn khoăn,
Mặt ngượng ngùng xấu hổ.

Thật chẳng đáng bày tỏ, Xin tâm thành cảm ơn.
Lúc ấy trăm quan lạy mừng đảnh lễ bài ngự văn thánh giáo, rồi truyền khắp trong ngoài.

Thái Tông nói:

- Ngự đệ hãy tụng chân kinh một lần xem sao. TamTạng nói:
- Thưa bệ hạ, muốn diễn chân kinh phải vào nơi đất Phật chứ, điện báu của bệ hạ không phải là nơi tụng kinh.
Thái Tông mừng lắm, lập tức hỏi quan Đương giá:

- Thành Tràng An có chùa nào thanh tịnh?

Quan đại học sĩ là Tiêu Vũ từ trong ban bước ra tâu:

- Trong thành có chùa Nhạn Tháp là thanh tịnh.

Vua Thái Tông bèn tức thời truyền lệnh cho các quan:

- Mau thành tâm mang mấy quyển chân kinh cùng trẫm tới chùa Nhạn Tháp, để mời ngự đệ tới giảng kinh.

Các quan ai nấy mang vài quyển theo xa giá đưa Thái Tông tới chùa, dựng một ngôi đài cao, sắp xếp ngay ngắn.

Tam Tạng ra lệnh:

- Bát Giới, Sa Tăng dắt con long mã, gánh hành lý. Hành Giả đứng bên cạnh ta.

Lại quay sang phía Thái Tông nói:

- Bệ hạ muốn truyền bá chân kinh trong thiên hạ thì phải sao lục thành một bản phụ khác, thì mới truyền bá được, còn nguyên bản phải giữ gìn trân trọng không được xem thường.

Thái Tông cười nói:

- Lời ngự đệ đúng lắm! Đúng lắm!

Đoạn cho gọi các quan trong viện Hàn lâm và khoa Trung thư sao chép chân kinh. Lại cho dựng một ngôi chùa ở phía đông thành đặt tên là chùa Đằng Hoàng[329]  Tam Tạng mang mấy quyển kinh lên đài, đang định tụng niệm, bỗng ngửi thấy mùi gió thơm phảng phất, tám vị Đại Kim Cương hiện thân giữa tầng không dõng dạc cất tiếng gọi:

- Hỡi người tụng kinh, hãy bỏ kinh xuống, theo chúng tôi về
Tây!

Bọn Hành Giả đứng dưới đài và cả con ngựa bạch bỗng từ
mặt đất bay thẳng lên trời. Tam Tạng cũng buông mấy quyển kinh, từ đài cao bay vút lên chín tầng mây cưỡi gió bay đi. Thái Tông và các quan vội vàng ngẩng lên trời lễ bái. Đó chính là:

Thánh tăng gắng sức lấy kinh,

Ruổi rong mười bốn năm ròng trời Tây.

Gian lao vất vả đêm ngày,

Trèo đèo lội suối đắng cay muôn phần.

Hoàn thành công quả vô vàn.

Ba nghìn viên mãn đủ vòng đại thiên.

Chân kinh về tới Đại Đường,

Từ nay mãi mãi lưu truyền cõi Đông.

Thái Tông và các quan lạy tạ xong, sau đó sai kén cao tăng tới chùa Nhạn Tháp, dựng đàn chay thủy lục, tụng bộ Đại Tạng Chân Kinh, siêu thoát cho các oan hồn cõi u minh, ban rộng thiện phúc, và cho sao chép số kinh ấy để truyền bá khắp thiên hạ. Chuyện không nhắc nữa.

Lại nói chuyện tám vị Đại Kim Cương cưỡi làn gió thơm đưa bốn vị trưởng lão cùng con ngựa là năm quay về Linh Sơn, cả đi cả về vừa đúng tám ngày.



Lúc ấy chư Phật ở Linh Sơn đang nghe giảng kinh trước mặt Phật Tổ. Tám vị Kim Cương dẫn thầy trò Đường Tăng vào thưa với Như Lai:

- Đệ tử vâng sắc chỉ đưa mấy vị thánh tăng về nước Đường nộp kinh văn, nay trở về dâng trả sắc chỉ.

Đoạn gọi thầy trò Đường Tăng vào nhận chức. Như Lai nói:
- Này thánh tăng, kiếp trước nhà ngươi là đồ đệ thứ hai của ta, tên gọi Kim Thiền Tử. Chính vì nhà ngươi không chịu nghe thuyết pháp, coi thường đạo giáo của ta, nên ta đày linh hồn nhà ngươi xuống cõi phương Đông. Nay mừng nhà ngươi đã quy y, giữ đạo Sa Môn, tuân theo giáo lý của ta, đi thỉnh chân kinh có nhiều công quả, vậy ta gia phong cho chính quả chức to là Chiên Đàn Công Đức Phật. Tôn Ngộ Không trước kia vì nhà ngươi đại náo thiên cung, ta lấy pháp lực vô biên nhốt nhà ngươi dưới núi
Ngũ Hành. May mắn nạn to đã hết, đi theo Thích Giáo. Cũng mừng nhà ngươi bỏ ác theo thiện, dọc đường diệt ma trừ quái có công, sau trước vẹn tròn, gia thăng chính quả chức to là Đấu Chiến Thắng Phật. Trư Ngộ Năng, nhà ngươi vốn là thủy thần Thiên Hà, giữ chức Thiên Bồng nguyên soái, chỉ vì nhà ngươi say rượu trong hội Bàn Đào, trêu ghẹo tiên nga, cho nên bị đày xuống đầu thai hạ giới, thân làm súc vật. May mà nhà ngươi biết quý thân người, làm yêu quái ở động Vân Sạn núi Phúc Lăng, biết theo về đại giáo, vào cửa Sa Môn của ta, dọc đường bảo vệ thánh tăng. Tuy tính ương vẫn còn, sắc tình chưa hết, nhưng dọc đường gánh hành lý có công, gia phong nhà ngươi chức chính quả là Tịnh Đàn Sứ Giả.

Bát Giới miệng lầu bầu:

- Mọi người đều thành Phật, tại sao chỉ mỗi mình con là Tịnh
Đàn Sứ Giả?

Như Lai nói:

- Tại nhà ngươi ăn khỏe tính lười, dạ dày to lắm. Mà khắp bốn đại bộ châu trong thiên hạ, những nơi ngưỡng mộ đạo ta rất nhiều, phàm các việc Phật, ta giao cho nhà ngươi làm tịnh đàn, cũng là một chức phẩm có được ăn uống, sao lại không tốt? Còn Sa Ngộ Tĩnh, nhà ngươi vốn là Quyển Liêm đại tướng, do đánh vỡ chiếc chén ngọc lưu ly trong hội Bàn Đào, nên bị đày xuống hạ giới, trú ở sông Lưu Sa làm yêu quái bắt người ăn thịt, sau đó may mắn theo giáo lý của ta, thành kính giữ gìn, bảo hộ thánh tăng, dắt ngựa trèo non có công, gia phong chính quả chức to làm La Hán Mình Vàng.

Rồi Phật Tổ lại nói với con Ngựa Bạch:

- Nhà ngươi vốn là con của Long Vương Tây Dương đại hải Quảng Tấn. Do nhà ngươi trái mệnh cha, mắc vào tội bất hiếu. May được quy y đạo pháp, theo đạo Sa Môn, hàng ngày cõng
thánh tăng sang Tây, lại cõng thánh tăng về Đông có công, ta gia phong cho nhà ngươi chức chính quả là Bát Bộ Thiên Long.

Bốn vị trưởng lão đều dập đầu tạ ơn. Con ngựa cũng cúi đầu lạy tạ. Phật Tổ sai các vị Yết Đế dẫn con ngựa xuống thung lũng đằng sau núi Linh Sơn, đến bên ao để hóa rồng. Con ngựa được đẩy xuống ao, trong chớp mắt nó vươn mình, trút hết da lông, thay đổi đầu tóc, vẩy vàng mọc ra khắp người, râu bạc dài hai bên mép, khắp người khí đẹp, bốn vuốt mây lành, hóa rồng bay ra khỏi ao, lượn quanh cửa chùa, sừng sững chống trời trên cây hoa biểu. Chư Phật đều không ngớt tán thưởng pháp lực của Như Lai.

Tôn Hành Giả nói với Đường Tăng:

- Thưa sư phụ, bây giờ con đã thành Phật giống sư phụ rồi, mà vẫn phải đội mãi cái vòng Kim Cô này sao? Sư phụ từ nay vẫn còn đọc bài “Khẩn cô nhi chú” để bóp đầu con nữa hay sao? Sư phụ mau mau đọc bài “Tùng cô nhi chú”, tháo vòng ra đập nát tan tành, đừng để Bồ Tát mang đi hại người khác nữa!

Đường Tăng nói:

- Trước đây chỉ vì con khó bảo, nên phải dùng phép đó để chế ngự con. Nay con đã thành Phật, nên phải dùng phép đó để chế ngự con. Nay con đã thành Phật, cái vòng ấy tự nhiên cũng biến mất, lẽ đâu cứ nằm trên đầu con mãi, con cứ thử sờ lên đầu mà xem.

Hành Giả giơ tay sờ lên đầu, quả nhiên không thấy cái vòng Kim Cô đâu nữa. Bấy giờ bốn vị Chiên Đàn Phật, Đấu Chiến Phật, Tịnh Đàn Sứ Giả và Kim Thân La Hán đã đều thành chính quả, con long mã cũng được trở về với chân như. Có bài thơ làm chứng rằng:

Một thể chân như lạc xuống trần, Hợp hòa bốn tướng lại tu thân.
Ngũ hành sắc tướng không rồi tịch, Trăm quái hư danh thấy chẳng bàn. Chính quả chiên đàn theo đại giác, Hoàn thành phẩm chức thoát trầm luân, Kính truyền thiên hạ ân vô lượng,
Năm thánh ngồi cao bất nhị môn.

Lúc ấy năm thánh đã thành chính quả, các vị Phật Tổ, Bồ Tát, Thánh Tăng, La Hán, Yết Đế, Tỳ Kheo, Ưu Bà Di, Ưu Bà Tắc, các vị thần tiên ở các núi các động, các vị đại thần, Lục đinh Lục giáp, Công tào, Già lam, Thổ địa, cùng các vị sư tiên đắc đạo tới nghe giảng kinh, đến bây giờ đều ra về. Thật là:

Đỉnh Linh Thứu ráng đẹp mơ màng, Cõi Tây phương mây lành quấn quýt.
Rồng vàng ngồi vững chãi, Hổ ngọc nằm yên vui.
Vầng ô bóng thỏ tùy ý trôi, Rắn rùa mặc sức bò quanh quẩn. Phượng tía loan xanh hót lanh lảnh, Vượn đen hươu trắng chạy tung tăng. Tám tiết hoa lạ nở tưng bừng,
Bốn mùa quả tiên sai chíu chít.

Tùng già gội cỗi, Trắc biếc hòe xanh.
Mơ năm sắc quả thơm trĩu cành, Đào vạn niên chín hồng đỏ mọng. Muôn quả nghìn hoa như thêu gấm,
Một trời rực rỡ ráng mây lành.

Mọi người chắp tay quy y cùng niệm:

- Nam Vô Nhiên Đăng Thượng Cổ Phật. Nam Vô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. Nam Vô Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam Vô Quá Khứ Vị Lai Hiện Tại Phật. Nam Vô Thanh Tịnh Hỉ Phật. Nam Vô Tỳ Lư Thí Phật. Nam Vô Bảo Tràng Vương Phật. Nam Vô Di Lặc Tôn Phật. Nam Vô A Di Đà Phật. Nam Vô Vô Lượng Thọ Phật. Nam Vô Tiếp Dẫn Quy Chân Phật. Nam Vô Kim Cương Bất Hoại Phật. Nam Vô Bảo Quang Phật. Nam Vô Long Tôn Vương Phật. Nam Vô Tinh Tiến Thiện Phật. Nam Vô Bảo Nguyệt Quang Phật. Nam Vô Hiện Vô Ngu Phật. Nam Vô Bà Lưu Na Phật. Nam Vô Na La Diên Phật. Nam Vô Công Đức Hoa Phật. Nam Vô Tài Công Đức Phật. Nam Vô Thiện Du Bộ Phật. Nam Vô Chiên Đàn Quang Phật. Nam Vô Ma Xi Tràng Phật. Nam Vô Tuệ Cừ Chiếu Phật. Nam Vô Hải Đức Quang Minh Phật. Nam Vô Đại Từ Quang Phật. Nam Vô Từ Lực Vương Phật. Nam Vô Hiến Thiện Thủ Phật. Quảng Trang Nghiêm Phật. Nam Vô Kim Hoa Quang Phật. Nam Vô Tài Quang Minh Phật. Nam Vô Trí Tuệ Thắng Phật. Nam Vô Thế Tinh Quang Phật. Nam Vô Nhật Nguyệt Châu Quang Phật. Nam Vô Tuệ Tràng Thắng Vương Phật. Nam Vô Diệu Am Thanh Phật. Nam Vô Tu Di Quang Phật. Nam Vô Đại Tuệ Lực Vương Phật. Nam Vô Kim Hải Quang Phật. Nam Vô Đại Thông Quang Phật. Nam Vô Tài Quang Phật. Nam Vô Chiên Đàn Công Đức Phật. Nam Vô Đấu Chiến Thắng Phật. Nam Vô Quan Thế Âm Bồ Tát. Nam Vô Đại Thế Chí Bồ Tát. Nam Vô Văn Thù Bồ Tát. Nam Vô Phổ Hiền Bồ Tát Chư Bồ Tát. Nam Vô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. Nam Vô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát. Nam Vô Tây Thiên Cực Lạc Chư Bồ Tát. Nam Vô Tam Thiên Yết Đế Đại Bồ Tát. Nam Vô Ngũ Bách A La Đại Bồ Tát. Nam Vô Tỳ Kheo Di Tắc Ni Bồ Tát. Nam Vô Vô Biên Vô
Lượng Pháp Bồ Tát. Nam Vô Kim Cương Đại Sĩ Thánh Bồ Tát. Nam Vô Tịnh Đàn Sứ Giả Bồ Tát. Nam Vô Bát Bảo Kim Thân La Hán Bồ Tát. Nam Vô Bát Bộ Thiên Long Quảng Lực Bồ Tát.

Ấy là niệm Chư Phật ở tất thảy thế giới.

Nguyện đem thửa công đức, Đất Phật tổ trang nghiêm. Trên báo bốn trọng ơn, Dưới cứu ba đường khổ. Những kẻ kiến văn tỏ,
Ắt phát tâm Bồ Đề. Cõi Cực Lạc theo về,
                                          Thân này được tận báo

Tất cả các vị Phật ở mười phương ba cõi, Chư tôn Bồ Tát ma ha tát, Ma ha bát nhã ba la mật.

Truyện Tây du ký đến đây là hết.

HẾT




[1]
 Nhà Hán học xô viết V. I Xêmanốp coi Tam quốc, Thủy hử, Tây du ký là “trung gian giữa anh hùng sử ca và tiểu
thuyết”. Xem bài: Tiểu thuyết anh hùng Trung Hoa và vai trò của nó trong việc hình thành nền văn học mới, in trong cuốn Chủ nghĩa hiện thực và tương quan giữa nó với các phương pháp sang tác khác. Viện hàn lâm khoa học Liên Xô xuất bản – Mátxcơva 1962.

[2]
 Tôn Ngộ Không có nghĩa là giác ngộ giáo lý nhà Phật (sắc không).

[3]
 Ngộ Tĩnh có nghĩa là giác ngộ giáo lý nhà Phật (tĩnh tâm).

[4]
 Bát Giới là tám điều răn của nhà Phật, Trư là con lợn. Trư Bát Giới có nghĩa là con lợn đã phá giới luật nhà Phật
(8 điều ấy là: không sát sinh, không trộm cắp, không dâm dục, không nói bậy, không uống rượu, không trang điểm, không nằm ngồi giường quá rộng, ăn chay).

[5]
 Trong bài Tây du ký khảo chứng Hồ Thích coi Tây du ký là “hàng nhập khẩu”, Tôn Ngộ Không là hình bóng
của hoàng tử Hanuman trong trường ca Ramayana của Ấn Độ, giá trị văn học của Tây du ký chỉ là “đùa cợt với đời”. Lỗ Tấn đã bác bỏ quan điểm này, coi Tây du ký là tác phẩm lãng mạn kiệt xuất, cho rằng hình tượng Tôn Ngộ Không bắt nguồn từ Lý thang truyện đời Đường.
[6]


 Lời nói đầu bộ Tây du ký do Phan Quán dịch, nhà sách Khai trí Sài Gòn in năm 1962. Thật ra lập luận này vốn
là của A. Walley, người dịch Tây du ký ra tiếng Pháp.

[7]


[8]

 Chính sách bỏ ngục, thậm chí chặt đầu các nhà văn, nhà thơ châm biếm chính trị.


  Theo V. I Xêmanốp, Tây du ký đánh dầu bước chuyển biến từ khuynh hướng “tiểu thuyết anh hùng” mà Tam
quốc, Thủy hử là tiêu biểu sang khuynh hướng “tiểu thuyết sinh hoạt” mà Kim Bình Mai, Hồng lâu mộng là tiêu biểu.

[9]
 Sự thật thì Trần Huyền Trang phải trốn đi và triều đình đã có lệnh truy nã, nhưng nhờ có thứ sử Qua Châu là Lý
Xương che chở nên mới đi thoát. Bấy giờ, nhà Đường nghiêm cấm việc đi sang phía Tây có lẽ vì sợ thong đồng với Tây phiên.

[10]


[11]

 Nguyên văn: Tây du thích ách.
 Thiệu Khang Tiết: một nhà triết học nổi tiếng đời Tống.

[12]
[13] [14] [15]

 Chín lỗ: Bảy lỗ (khiếu) trên mặt (hai lỗ mắt, hai lỗ tai, hai lỗ mũi, một lỗ mồm) và hai đường đại tiểu tiện.


 Nguyên văn: Cao thiên thượng thánh đại từ nhân giả Ngọc Hoàng đại thiên tôn huyền khung cao thượng đế.


 Nguyên văn: kim khuyết vân cung Linh Tiêu bảo điện.


 Nguyên văn: một chữ khải to. Chữ khải là một kiểu chữ nét chân phương, ngay ngắn, mạch lạc, rõ ràng, khác
với kiểu chữ thảo

[16]
[17] [18]

 Nguyên văn: Hoa Quả sơn phúc địa, Thủy Liêm động động thiên, chúng tôi (N D) lược ngắn lại.


 Nguyên văn: Thiên tuế


 Năm giống: Người xưa chia động vật ra làm năm loài: loài người là “khỏa trùng “(trần trụi), loài thú là “mao
trùng “, loài chim là “vũ trùng “, loài cá là “lân trùng “(có vẩy), loài côn trùng là “giới trùng “(theo nguyên chí)

[19]

[20] [21] [22]

 Thế giới Diêm phủ: tức thế giới loài người


 Tính: chữ Hán nghĩ là “họ”, đồng âm với chữ tính nghĩa là “tính tình”. Hầu vương không hiểu trả lời nhầm.


 Nguyên văn: Đẻ ra ở trên cây


 Ngộ Không: có nghĩa là giác ngộ lẽ sắc không. Đạo Phật quan niệm rằng ai giác ngộ được lẽ sắc không, thậy
sự vật chỉ là không hư giả tạm, thì mới sáng suốt, hết mê mờ.

[23]


[24]

 Bồ Đề: Phiên âm tiếng Ấn Độ, có nghĩa là giác ngộ chân lý, biết rõ mọi việc ác (theo nguyên chú).


  Nguyên thần: Đạo giáo quan niệm linh hồn người chết đã trải qua tu luyện thì gọi là nguyên thần. Những
người đắc đạo thành tiên, nguyên thần của họ có thể thoát khỏi xác, tự do tự tại (theo nguyên chú).

[25]
 Tam thừa: “thừa” là vận chuyển, chuyên chở. Phật giáo cho rằng Phật pháp có thể đưa người tu hành đến cõi
Phật. Nhưng tùy theo trình độ và phương pháp của người tu hành có khác nhau, mà chia làm ba bậc: Đại thừa, trung thừa và tiểu thừa, gọi chung là “tam thừa “(theo nguyên chú).

[26]
 Bàng môn: Đạo giáo cho rẳng chỉ có đạo luyên “kim đan” là con đường tu hành chính đáng, còn ngoài ra đều
là bàng môn, ngoại đạo cả, không thành chính quả (theo nguyên chú).

[27]
 Bói bằng cỏ thi: Một phép bói của Kinh Dịch.
[28]


[29]


 Chân tức là chân nhân, đạo tiên.


 Nhập định: Một cách tu hành trong Phật giáo, ngồi ngay mắt nhắm, không có những tạp niệm, để có thể cảm
thông với quỷ thần (theo nguyên chú).

[30]
 Tọa quan: Một phép tu hành của Phật gia, đạo gia, ngồi trong phòng nhỏ, kín, cách biệt với bên ngoài, trong
một thời gian lâu (theo nguyên chú).

[31]
 “Nấu hồng diên, luyện thu thạch”: Hồng diên là kinh nguyệt của phụ nữ, thu thạch là tinh hoàn nam giới (theo
nguyên chú)

[32]


[33]

 Công án tỉ ngữ: công án dùng lời nói hình tượng để so sánh, ví von giúp người nghe khai mở, hiểu được ý chỉ.


 Ngoại tượng: những cái thiện ác, tốt xấu biểu hiện ở thân, cùng hành động ngần ngừ biểu hiện ra ngoài (theo
nguyên chú).

[34]

[35] [36] [37] [38] [39] [40]

 Bao bì: chỉ hình thức, cái vỏ biểu hiện ra bên ngoài, giống nghĩa “ngoại tượng” (theo nguyên chú)


 Huyệt Dũng Tuyền: ở gan bàn chân (theo nguyên chú)


 Cung Nê Viên: Chỗ thóp trẻ con giật giật. Còn gọi là cung Nê Hoàn (theo nguyên chú)


 Tin môn: tức đỉnh thóp (theo nguyên chú)


 Đan điền: vùng dưới rốn 3 tấc (theo nguyên chú)


 Chín lỗ: Bảy lỗ (khiếu) trên mặt (hai lỗ mắt, hai lỗ tai, hai lỗ mũi, một lỗ mồm) và hai đường đại tiểu tiện.


 Nguyên văn: Bộ binh: một loại lính liên lạc dùng trong khi có tình hình khẩn cấp thời Nguyên, mỗi ngày phải
chạy trạm 400 dặm (theo nguyên chú).

[41]

[42] [43] [44]

 Trâu sắt: Trâu đúc bằng sắt, người xưa đúc ném xuống sông để tránh thủy tai.


 Nguyên văn: phương tốn.


 Nguyên tác: Ba xa không bằng hai gần.


 Ba cõi: Dịch chữ Hán “tam giới”, từ nhà Phật, gồm dục giới (thế giới của chúng sinh có tình dục), sắc giới ở
trên cõi dục giới, của những sinh vật còn hình sắc nhưng không có dục vọng, và trên nữa là vô sắc giới, thế giới không còn hình tượng, dục vọng (theo nguyên chú).

[45]

[46] [47] [48]

 Khỏa trùng: những loài thân thể trần trụi, không có lông.


 Nguyên văn: Cao thiên thượng thánh đại từ nhân giả Ngọc hoàng đại thiên tôn huyền khung cao thượng đế.


 Nguyên văn: Kim khuyết văn cung Linh Tiêu bảo điện.


  Hạ nguyên: Đạo giáo gọi bầu trời là thượng nguyên, mặt đất là trung nguyên, dưới nước là hạ nguyên (theo
nguyên chú).

[49]


[50]

 Nguyên văn: Hàng long.


 Xem chú thích trên Hồi 2.
[51]


[52]


 Ngự mã giám: Trại nuôi ngựa của Thượng đế.


 Bật mã ôn: Theo truyền thuyết dân gian loài khỉ có thể giúp ngựa tránh được bệnh dịch. Tác giả sử dụng truyền
thuyết này, đổi chữ tỵ (tránh) thành chữ bật (giúp), đổi chữ ôn (bệnh) thành chữ ôn (ấm), (theo nguyên chú),

[53]
  Xích thố, truy phong: Hai giống ngựa quý, ngày đi ngàn dặm. Nguyên bản còn kể tên nhiều giống ngựa quý
trong “bát tuấn cửu dật”.

Bát tuấn: tám con tuấn mã của Chu Mục Vương: Xích ký, Đạo ty, Bạch nghĩa, Thân luân, Sơn tử, Cử hoàng, Hoa lưu, Lục nhĩ.

Cửu dật: vua Hán Hiến Đế từ đất Đại về có chín con ngựa quý: Phù vân, Xích điện, Tuyệt quần, Dật phiêu, Tử yến lưu, Lục ly thông, Long tử, Lân câu, Tuyệt trần. Chúng tôi (ND) lược bớt chỉ dịch tượng trưng hai giống ngựa quý quen thuộc là Xích thố và Truy phong mà thôi.

[54]

[55] [56] [57] [58] [59] [60] [61] [62] [63]

 Tề thiên đại thánh có nghĩa là: thánh lớn bằng trời.


 Nguyên văn: Cái bọc thối.


 Nguyên văn: Răng sữa còn chưa rụng.


 Nguyên văn: Quang minh chính đại.


 Môi vượn, tay gấu: Những món ăn ngon và bổ. Nguyên văn: Ly hận thiên Thái Thượng Lão quân. Nguyên văn: Đến giọt nước cũng không tiết ra được.
Chín lỗ: Hai lỗ mắt, hai lỗ mũi, hai lỗ tai, một lỗ mồm ở đầu, và hai lỗ đại, tiểu tiện. Tam sinh: Ba con gồm lợn, trâu, dê dùng trong cuộc cúng tế.
 Tam quy: Đạo Phật gọi quy y phật, quy y pháp, quy y tăng là tam quy.

Ngũ giới: Năm điều cấm của đạo Phật: cấm sát sinh, cấm trộm cắp, cấm tà dâm, cấm nói dối, cấm uống rượu (theo nguyên chú).

[64]
 Thập địa: Mười cảnh giới mà Bồ Tát khi tu hành đã trải qua: Hoan hỷ địa. Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm
tuệ địa, Cực nạn thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện tuệ địa và Pháp chân địa (theo nguyên chú)

[65]


[65]

 Tứ sinh: Chỉ bốn loài: Thai sinh, noãn sinh, tháp sinh và hóa sinh


 Lục đạo: Sáu đường: Địa ngục, ngã quỷ súc sinh, A tu la, Nhân gian và thiên thượng, Con người, tùy theo hành
vi thiện ác mà luân hồi mãi trong sáu đường này (theo nguyên chú)

[66]


[67] [68] [69] [70]

 Du già: Dịch âm chữ phạn nghĩa là không có tham vọng.


 Nước yếu: Thứ nước quá yếu không đỡ nổi một vật gì, dù là một sợi lông nhỏ.


 Ngũ cốc: chỉ lúa nước, kê, cao lương, lúa mì và đậu.


 Trư: tiếng Hán nghĩa là con lợn.


  Ngũ huân: Phật giáo gọi năm loài cây theo giới điều phải kiêng, không được ăn gồm: Hành, tỏi, ớt, hạt tiêu,
rau thơm.

[70]
Tam yếm: Đạo giáo gọi ba loài: chim nhạn trên trời có đạo vợ chồng, chó trên mặt đất biết giữ nhà, loài cá chim
ở trong nước biết trung kính, thì cấm không được ăn thịt, gọi là “tam yếm” (theo nguyên chú).

[71]


[72]

 Bảng vàng: Bản yết thị của nhà vua viết bằng giấy màu vàng nên thường gọi là bảng vàng (Theo nguyên chú)


 Từ là một thể thơ cách luật của Trung Quốc, phát triển mạnh ở đời Tống, có số chữ trong bài cố định, câu dài
câu ngắn, cùng cách gieo văn có phối hợp chặt chẽ với âm nhạc. Có nhiều làn điệu từ khác nhau. Trong hồi này chúng tôi chuyển dịch sang thể thơ Việt Nam cho thích hợp.

[73]


[74] [75] [76] [77] [78] [79]
[80]

 Nguyên văn: Nói chuyện trên đường, bụi cỏ có người.


 Quân ngự lâm: Đội quân đi theo hầu hạ bên cạnh Hoàng đế còn gọi là quân vũ lâm (theo nguyên chú).


 Tam tào: chỉ nhân tào, âm tào và thủy tào cùng hợp lại đối án xét xử.


 Nguyên văn: xuất một thần sư


 Chữ nhất nghĩa là “một”, thêm hai nét, thành chữ tam nghĩa là “ba”


 Nguyên văn: châu huyện


 Chùa Tướng Quốc xây dựng theo sắc chỉ nhà vua.


 Ba đường: theo đạo Phật, người làm ác phải rơi xuống ba đường: đường địa ngục lửa dữ đốt thân, đường súc
sinh ăn thịt lẫn nhau, đường quỷ đói bị đao thương đâm chém. (theo nguyên chú).

[81]
 Năm đế ba vương: các triều vua xa xưa nhất của Trung Quốc: Phục Hy, Hoàng Đế, Thần Nông, đế Nghiêu, đế
Thuấn và vua Vũ nhà Hạ, vua Thành Thang nhà Thương, vua Văn vương, Võ vương nhà Chu.

[82]
 Đô tăng cương: Tăng cương là chức vụ của nhà sư quản lý các tăng, còn đô tăng cương là chức vụ tổng quản
lý các tăng (theo nguyên chú).

[83]


[84] [85] [86]
[87]

 Sa bà: thế giới loài người.


 Xá Vệ, Kỳ Viên: nơi đức Phật giảng đạo bên Ấn Độ.


 Nguyên văn: giang sơn.


 Non Thứu: tức nước Phật, còn đọc là non Tựu


 Tỳ kheo tẩy nghiệp: Theo truyền thuyết nhà Phật: có một lần đức Phật Như Lai nom thấy dưới chân một ngôi
thần ở mé Đông bắc vườn Cấp Cô Độc một người tu hành đau khổ. Như Lai hỏi ông ta: “Tại sao lại ngồi một mình buồn khổ như vậy?”. Người kia nói: “Tôi đang ốm và chẳng có ai chăm sóc”. Đức Phật Như Lai bèn lấy tay xoa nhẹ lên người người ấy, người ấy khỏi bệnh ngay. Như Lai lại đỡ người ấy dậy, dắt đi tắm, thay quần áo mới cho, và khuyên cố gắng tu hành. Từ đấy, người ấy tâm thần rất là thoải mái. Câu chuyện này, nhà Phật gọi là: tỳ kheo tẩy nghiệp. Tỳ kheo, dịch theo âm tiếng Ấn Độ, nghĩa là người tu hành (theo nguyên chú).

[88]
  Sáu giặc: Đạo Phật cho rằng có sáu thứ gây tác hại cho sự tu hành: sắc (màu sắc), thanh (âm thanh), hương
(mùi thơm), vị (vị ngon), xúc (tiếp xúc) và pháp (sự vật) gọi là “sáu giặc).

[89]
 Sa môn: người xuất gia tu hành theo đạo Phật.
[90] [91] [92] [93] [94] [95] [96] [97] [98]
[99]


 Đầu đà: Danh từ của nhà chùa chỉ lớp tu hành đàn em.


 Nguyên văn phun thành mấy hạt ngọc.


 Nghĩa là: Sắt thần quý trấn giữ thiên hạ.


 Nguyên văn: Có thủ đoạn hàng long, phục hổ, có thần thông lật bể nghiêng sông.


 Nguyên văn: Một bàn tay chẳng địch nổi hai nắm tay, hai nắm tay không bằng bốn bàn tay.


 Nguyên chú: tay bắt chuồn chuồn. Đó là cử động của người sắp chết.


 Nguyên văn: Tức nổi tam bành, bảy khiếu bốc khói.


 Nguyên văn: Hỗn nguyên thượng chân.


 Tam sinh: Ba loài trâu, dê, lợn giết để tế thần.


 Nguyên văn: Không biết cao thấp.

[100]
 Nguyên văn: Bố thí.

[101]
 Nguyên văn: ngồi đáy giếng dòm trời.

[102]
 Nguyên văn: Bẩn mắt

[103]
 Nguyên văn: giấy mỡ (hoặc giấy xoa dầu) dùng để chống ẩm.

[104]
 Nguyên văn: Phải xem xét động tĩnh.

[105]
 Nguyên văn: Bịt tai mắt mọi người.

[106]
 Nguyên văn: thuận tay dắt dê, tương kế tựu kế.

[107]
 Theo truyền thuyết của Trung Quốc, Toại Nhân là người phát minh ra lửa đầu tiên bằng cách dùi cây vào đá.

[108]
 Xích Bích: Một địa điểm trên sông Trường Giang. Thời Tam Quốc, Chu Du và Khổng Minh dùng mẹo hỏa
công đốt cháy toàn bộ hạm đội và tám mươi vạn quân Tào Tháo ở đây.

[109]
 A Phòng: Tên một cung điện nguy nga tráng lệ do Tần Thủy Hoàng xây dựng, bị Hạng Võ đốt cháy, ngọn lửa
ba tháng mới tắt hết.

[110]


[111]

 Nguyên văn: Tán chuyện lâu mục cả ghế.
 Nguyên văn: bánh thịt.

[112]


[113]

 Trong tiếng Hán còn có nghĩa là gấu đen.


 Đạo phật cho rằng vạn sự, vạn vật đều là một Pháp thân Chân thể mà ra cả, nhưng tùy theo nhân duyên hội
hợp khác nhau mà thành những hiện tượng khác nhau.

[114]
 Nguyên văn: giầy cỏ ba tai
[115] [116] [117] [118]
[119]


 Nguyên văn: cho người phương tiện thì mình cũng được phương tiện.


 Nguyên văn: như bốn hợp với sáu


 Ông tổ các thần thánh có tài quét sạch yêu ma


 Cửu chuyển đơn: Linh đơn qua chin lần luyện.


 Hoa trì: Tên gọi bộ phận dưới lưỡi.

[120] [121] [122]
[123]



 Đan điền: khu vực cách rốn chừng hai phân.


 Ly, Khảm: phương Nam thuộc hỏa (lửa), phương Bắc thuộc thủy (nước) ở đây nói âm dương điều hòa.


 Nguyên văn: không có ba người làm mối, sáu người làm chứng, và lễ rượu, trà.
 Ngũ huân, tam yếm: ngũ huân là năm thứ gia vị mà người tu hành không ăn: Hành, hẹ, tỏi, ớt, rau thơm. Tam yếm:
ba loài kiêng không giết thịt, chim nhạn, chó và cá đen (ô ngư). Vì chim nhạn có nghĩa vợ chồng, chó biết nghĩa chủ tớ, ca đen có lòng trung kinh.

[124]


[125]

 Nguyên văn: ba thạch.


Năm uẩn: năm cái chứa góp, che lấp: sắc, thụ, tưởng, hành, thức. Sắc là vật chất, thụ là lĩnh nhận lấy, tưởng là mơ
tưởng tới sự vật mình đã tiếp xúc, hành là trôi chảy, cái nhớ cứ bám víu trôi chảy mãi, thức: ý thức phân biệt những cái sự vật mà mình đã vấn vít. Năm cái uẩn này nó che lấp chân tình, khiến cho người ta mê hồn, cho sự vật là có thật.

[126]
Xá Lị Tử (Sariputra): một trong mười đệ tử giỏi của Phật

[127]
[128] [129]

 Xem chú thích về năm uẩn ở trên


 Nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý: tức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý mà đạo Phật gọi là sáu căn (lục căn)


 Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp: Đạo Phật gọi lá sáu trân (lục trần): sáu thứ bụi bặm làm vẩn đục chân tinh,
tương ứng với sáu căn ở trên. Những gì đối với mắt là sắc trần, đối với tai là thanh trần, đói với mũi là hương trần, đối với lưỡi là vị trần, đối với thân là xúc trần, đối với thân là pháp trần.

[130]

[131] [132] [133]

 Nhãn giới, ý thức giới: cảnh giới mà mắt nhìn thấy được và ý thức phân biệt được.


 Vô minh, vô minh diệt tận: trạng thái tâm trí không sáng suốt, u tối và trạng thái của sự “vô minh” bị diệt hết.


 Lão tử, lão tử diện tận: trạng thái sự vật già, chết và trạng thái không còn sự già chết.


 Niết bàn (Nirvana): một tráng thái của tâm hồn con người hoàn toàn trong sáng, an vui, tự tại, giải thoát một
khi con người đã hoàn toàn giác ngộ, thoát khỏi mê lầm, trừ bỏ hết tham, sân si không bị ràng buộc bởi phiền não, ô uế, đồng thời thể nhập vào vũ trụ không gian vô biên, thời gian vô tận vượt ra ngoài cảnh sinh tương đối.

[134]


[135]

 Ba đời: Quá khứ, hiện tại và tương lai.


 Bậc vô thượng chảnh đẳng chánh giác: Chỉ bậc công quả lại được cao nhất, chân chính bình đẳng, hiểu biết
hoàn toàn chân chính của Phật do tu tại phép Bát nhã bà la mật đã mang lại.

[136]
 Bài chủ đại thần: Chủ là những lời nói bí mật, huyền nhiệm có công hiệu phi thường, Kinh Bát nhã ba la mật
đa này cực kỳ thần diệu nên gọi là đại thần chủ.
[137]
 Bài chú vô thượng: Bài chú cao siêu nhất, vượt mọi bài chú khác.

[138]
 Bài chú mà không có bài chú nào sánh bằng.

[139]
 Yết đế yết đế, Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha.
Dịch âm theo tiếng Hán, lời chú bằng tiếng Phạn Gâti gâti Pragâti prasangâti Bodhi Svàhà. Theo nguyên tắc “bí mật bất phiên” bí mật thì không dịch nên để nguyên, chỉ phiên âm thôi. [140]
 Nguyên văn: Chào thí chủ

[141]
 Nguyên văn: ném đá ném gạch, rồi kêu mở cửa

[142]
 Theo lịch Trung Quốc, sáu mươi năm gọi là một hoa giáp, hết lại quay lại từ đầu. Vì vậy, sáu mươi mốt tuổi,
Hành Giả gọi là “hoa giáp trùng phùng”.

[143]
 Chữ Hán là quẻ bói đồng âm với chữ hào là món ăn ngon. Ở đây tác giả chơi chữ là cách sử dụng từ đông âm
dị nghĩa.

[144]
 Nguyên văn: chim ưng tha chim sẻ

[145]
 Nguyên văn: thoát thân muốn nhảy ra khỏi lưới, lại gặp rọ của ông chài.

[146]
 Nguyên văn: Chín đầu tám đuôi.

[147]
Nguyên văn: Người giỏi không vội, người vội không giỏi.

[148]
Nguyên văn: Phương tốn.

[149]
 Lỗ Ban: Ông tổ nghề mộc.

[150]
Nguyên văn: Mây nhiều người ít.

[151]
 Tức sao Tâm. Sao này lặn về phương Tây là ứng vào tiết thu (theo nguyên chú)

[152]
  Nước yếu: Dịch chữ “nhược thủy”, có nghĩa là nước yếu quá không đỡ nổi dù chỉ là một chiếc lông ngỗng
nhỏ bé, huống hồ thuyền bè thì chìm ngay.

[153]
 Nguyên văn: Gần son thì đỏ, gần nhọ thì đen.

[154]
 Nguyên văn: Mua bán

[155]
 Lỗ Ban: Ông là thợ mộc (theo nguyên chú)

[156]
 Mộc mẫu: tức thủy ngân, chỉ Trư Bát Giới

[157]
 Kim công: tức chì, chỉ Tôn Ngộ Không

Hoàng bà: thần của tỳ tạng

Xích tử: thần của tâm

Những từ trên đều là thuật ngữ của Đạo giáo

[158]
  Câu này ý nói phải có sự tu luyện công phu mới đạt được chính quả, cũng như muốn nắm bắt được những
hiểu biết chân chính (chân tiên tức) thì cần phải phá vỡ lớp vỏ che đậy bên ngoài rắn chắc (thiết đạn).

[159]
[160] [161]

 Nguyên văn: Lão bồ tát


 Dắt ngựa: Ở đây còn có nghĩa “dắt mối” (theo nguyên chú)


 Chu lễ: Một cuốn sách dạy nghi lễ của Trung Quốc thời xưa

[162] [163] [164] [165] [166] [167] [168] [169] [170] [171] [172] [173]
[174]



 Còn lâu, còn lâu.


 Nguyên văn: Xiểm nịnh.


 Nguyên văn: Cò không ăn thịt cò


 Nguyên văn: Đã điều động con trùng tham của em rồi.


 Áo chuông: Một loại áo của nhà sư, hình như cái chuông, trên chật dưới rộng (theo nguyên chú).


 Ngũ hành: kim loại, gỗ, nước, lửa, đất


 Nguyên văn: Nữ bồ tát


 Nguyên văn: “Người hiền tự có trời giúp”.


 Nguyên văn: có mệt nhọc mà không có công.


 Nguyên văn: Giấu quỷ trong tay áo


 Nguyên văn: Tai mềm


 Nguyên tác: Đại thánh gia gia.


Mỗi một câu thơ, tác giả dùng tên một vị thuốc bắc: Ô đầu, hải mã, nhân sâm, quan quế, chu sa, phụ tử, tân
lang, khinh phấn, hồng nương tử, mà vẫn miêu tả được cảnh bọn thợ săn bị thương vong (theo nguyên chú).

[175]


[176] [177] [178] [179] [180] [181] [182] [183]

 Nguyên văn: Dùi băng lấy lửa, ép tuyết tìm dầu.


 Nguyên văn: Làm bếp mới biết giá gạo củi.


 Nguyên văn: Nhặng xanh đậu trên râu, của cải tự đến.


 Nguyên văn: Nữ bồ tát.


 Nguyên văn: Hồn gia.


 Nguyên văn: Lang quân.


 Nguyên văn: Đến nói chuyện thị phi, hẳn là người thị phi.


 Nguyên văn: Ông thần mở đường.


 Nguyên văn: Đem Sa Tăng trói rúm chân tay như bốn vó ngựa.
[184]
 Nguyên văn: lang quân.

[185]
 Nguyên văn: Cho người phương tiện cũng là cho mình phương tiện.

[186]
 Nguyên văn: Có tính chất của nước.

[187]
 Kim công, mộc mẫu, hoàng bà: Xem chú thích ở hồi hai mươi hai và hai mươi ba.

[188]
 Xem chú thích trang trên.

[189]
 Nguyên văn: Một sợi tơ không thành chỉ, một bàn tay vỗ khó kêu.

[190]
 Nguyên văn: Đại Thánh gia gia

[191]
 Nguyên văn: Tùy làng vào làng

[192]
 Nguyên văn:

Trai không vợ như của cải không có chủ
Gái không chồng như lạc giữa không trung. [193]
 Xá lị: (Xá lị tử) danh từ nhà Phật dùng chỉ tinh cốt Phật.

[194]
 Nguyên văn: “Một ngày làm thầy như làm cha cả đời”.
“Bố con không để hận thù quá một đêm”. [195]
 Nguyên văn: “Diệp để thân đào thế”.

[196]
 Nguyên văn: Chân nhân.

[197]
 Nguyên văn: nát vụn sáu lá gan phổi, dùng hết quả tim ba lông bảy lỗ.

[198]
 Nguyên văn: Đốt giọt băng trên ngọn lửa.

[199]
 Bài thơ làm bằng tên các vị thuốc: ích tri, vương bất lưu hành, tam lăng tử, mã đâu linh, kinh giới, phục linh,
phòng kỷ, trúc lịch, hồi hương.

[200]
 Nguyên văn: công đến tự nhiên thành.

[201]
 Chùa Bảo Lâm dựng theo sắo chỉ vua ban.

[202]
 Nguyên văn: Trong Phật hội, đều là người có duyên.

[203]
 Một thạch, đơn vị đo lường cũ bằng mười đấu.

[204]
 Vua Hán Vũ đi ra vuờn chơi làm bài ca “thu phong tử” than tiếc tuổi già.

[205]
 Tần Thủy Hoàng có chiếc gương soi các cung nữ, biết được rõ tâm địa của mỗi người.

[206]
 Dữu Lượng: Một viên tướng giỏi đời Tấn. Một đêrn, các tướng ngắm trăng trên lầu, bất chợt Lượng đến. Mọi
người định bỏ trốn. Luợng vui vẻ giữ mọi người lại, cùng nhau làm thơ vịnh trăng.
[207] [208]
[209]


 Ngày hối: Ngày cuối tháng âm lịch.


 Ngày sóc: Ngày mồng một âm lịch hàng tháng.


 Theo thuyết nhà Phật: Hai tám là mười sáu, chỉ sự viên mãn, đầy đủ. Chín chín tám mốt. Tính từ ngày đông
chí trở đi tám mươi mốt ngày là vào lúc giữa xuân, muôn vật tuơi tốt, ở đây chỉ sự tu đạo đến chỗ vẹn tròn đầy đủ.

[210]




đức.



[211]

 Nguyên văn: Vẽ hùm khắc ngỗng.


 Nguyên văn: Không tin người thẳng trong những người thẳng, đề phòng kẻ bất nhân trong những người nhân

[212] [213] [214] [215] [216] [217] [218] [219] [220] [221] [222] [223] [224] [225] [226] [227] [228] [229] [230] [231]



 Kim, mộc: chỉ Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới.


 Tiêu Hà: Thừa tướng của Hán Cao Tổ.


 Nguyên văn: Quả hồ lô không miệng.


 Nguyên văn: giã tỏi.


 Nguyên văn: điếc mũi không uống rượu.


 Chữ “khiếu” là kêu và chữ “kiệu” đồng âm nên Hành Giả nghe nhầm.


 Nguyên văn: Làm bằng cái bấc đèn.


 Nguyên văn “nhiều sợi lông dệt thành tấm chăn”


 Nguyên văn là “gia gia”


 Tử bình: tên một cách bói


 Nguyên văn “ít gạo ít cải”


 Nguyên văn: công đến tự nhiên thành


 Phương chấn: tức phương đông


 phương thìn: tức phương đông đông nam


 Nguyên văn: dễ như thổi bụi


 nguyên văn: một sợi khó xe dây, một bàn tay không vỗ tay được


 Nguyên văn: như Lã Lương Hồng đánh đổ tấm ván


 Nguyên văn: oan gia đường trốn hẹp


 nguyên văn: Cửu thiên ứng nguyên Lôi thanh phổ độ thiên tôn


 Nguyên văn: “Lá mai vàng chưa rụng, lá mai xanh đã rụng. Trời già sao riêng hại người hiếm hoi.
[232]
 Nguyên văn: Con gà không ăn một cách không công.

[233]
 Nguyên văn là hương hỏa.

[234]
 Thạch” đơn vị đong lường xưa, một thạch là mười đấu.

[235]
 Nguyên văn: Một lời nói ra, ngựa tứ khó đuổi.

[236]
 Anh oa: Em gái nhỏ.

[237]
 Nguyên văn: Tình người là quan trọng ngang chiếu chỉ nhà vua.

[238]
 Chân diên: t ức chì.

[239]
 Chân hống: tức thủy ngân. Những câu thơ này nói về thuật luyện đơn của đạo sĩ.

[240]
 Anh nhi: Thuật ngữ của đạo giáo chỉ chì. Ở đây chỉ Tam Tạng, Bát Giới.

[241]
 Mẹ đất: Ở đây chỉ Sa Tăng, Hành Giả.

[242]
 Ý nói được làm vua. Thời xưa ở Trung Quốc, vua ngồi ngoảnh mặt về phương Nam, và tự xưng là “cô”.

[243]
 Nguyên văn: Cành liễu to thì đan thúng, cành nhỏ đan đấu.

[244]
 Nguyên văn: Nhánh tỏi xuân

[245]
 Tiếng Trung Quốc “cao” là cao và “cao” là bánh đồng âm. Tác giả chơi chữ

[246]
  Nguyên văn Hành Giả nói “phóng, phóng, phóng”. Bát Giới nói “lãng, lãng, lãng”. “phóng lãng” nghĩa là
phóng túng, buông thả. ở đây ý Bát Giới suy bụng ta ra bụng người, nghi ngờ sư phụ buông thả mê đắm nữ sắc.

[247]
 Nguyên văn: Cá kho có thể dùng làm gối cho mèo gối được không?

[248]
 Sáu giặc (lục tặc) gồm: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Chúng quấy rối, cướp đoạt thiện pháp làm người ta
mê muội. Muốn giác ngộ đạo Tam thừa (đạo phật), phải diệt trừ sáu tên giặc đó.

[249]
 Người nước Sở gói bánh nếp hình sừng bò thả xuống sông Mịch La nơi Khuất Nguyên tự vẫn để viếng ông
vào ngày Tết Đoan dương (hay) Đoan ngọ ngày năm tháng năm âm lịch.

[250]
 Ba hoa: Một phép tu dưỡng của đạo giáo: Ba hoa tụ ở đỉnh đầu, năm khí về nguồn. Ba hoa rụng thì chết. “Ba
hoa chưa rụng” chỉ sự sống

[251]
 Bốn đại: theo thuyết nhà Phật, bốn chất: đất, nước, lửa, gió tạo thành cơ thể con người gọi là “bốn đại”.

[252]
 Nguyên văn: Đòn xóc nhọn hai đầu tuột hết cả củi.

[253]
 Hoàng Bà: ở đây chỉ Sa Tăng-Kim Lão: chỉ Ngộ Không.

[254]
 Mộc Mẫu: ở đây chỉ Bát Giới

[255]
 Tâm Viên: chỉ Hành Giả
[256]


 Người có nhị tâm: chỉ người chưa giác ngộ theo giáo lý nhà Phật, nhìn nhận sự vật còn theo phương pháp nhị
nguyên, dùng lý trí tư tưởng phân chia sự vật ra manh mún để xem xét, đánh giá.

[257]

ngộ.




[258]

  Đoạn này đức Phật giảng về mối quan hệ giữa bản thể (không) và hiện tượng (sắc). Ai hiểu thấu thời giác



Ý nói thầy trò đã giác ngộ, vứt bỏ lối suy nghĩ nhị nguyên luận, giữ tâm mình trong lặng không xao động,
nhảy nhót trong những tạp niệm như loài vượn, loài ngựa hiếu động nữa.

[259]
[260] [261]

 Sách đơn thư: Sách dậy phép luyện linh đơn của đạo giáo


 Nguyên văn: Như thân mình không có chủ.
 Nguyên văn: Chiếc thuyền đậu phụ lật ngoài biển khơi, lại qua trong làn nước nóng


[262]
 Khảm ly kỷ tế: Tên một quẻ trong Kinh Dịch, tạo thành do sự kết hợp của nước (khảm) và lửa (ly), chỉ sự đã
thành công.


[263] [264] [265] [266] [267]


[268] [269]
[270] [271] [272] [273] [274]
[275]


 Nguyên văn: Con thỏ chết con cáo thương, vật cùng loài thì thương nhau.


 Chùa Kim Quang bảo hộ đất nước dựng theo sắc chỉ của nhà vua.


 Nguyên văn: Thấy trời xanh.


 Nguyên văn: như hổ nhai, sói nuốt.


 Mộc mẫu: Chỉ Bát Giới



 Tâm Viên: Chỉ Hành Giả.



 Chùa Phục Long bảo hộ đất nước xây dựng theo sắc chỉ của nhà vua.



 Kinh cức có nghĩa là cây gai.


 Thất hiền: Bảy người hiền ẩn dật cùng giao du với nhau trong rừng trúc đời Tấn.


 Tứ hạo: Bốn ông già ẩn dật ở núi Nam Sơn đời Hán.


 Lục căn lục thức: Tức sau giác quan: mắt, tai, lưỡi, mũi, thân, ý.


 Tượng võng: Chỉ sự vô tâm, rời bỏ thanh sắc, tuyệt hết tư lự.


  Đỉnh châm: Một lỗi thơ chơi chứ. Cách làm là lấy chữ cuối của câu trước làm chữ đầu của câu sau. (Theo
nguyên chú) nhưng ở đây, họ chỉ lấy chữ cuối ở hai câu của người thứ nhất làm chữ đầu ở câu thứ nhất của người thứ hai mà thôi.

[276]
  Hiến ô: Một tên khác chỉ chức Ngự sử đài: hiến đài và ô đài, tên một chức quan cao trong triều đình (theo
nguyên chú).

[277]
 Tử Du, Tử Hạ: Hai người học trò giỏi của Khổng Tử theo học môn văn học.

[278]
 Đế hồ: Một loại chế phẩm từ sữa bò mà người tu hành thường dùng.


[279]
 Nguyên văn: Uống nước đá mài dao.


[280]
 Mười đấu gạo là một thạch


[281]
  Những nhà tu hành theo đạo Phật coi sáu điều trần dục là sau giặc.

[282]
 Nguyên văn: Chuông hiện có chẳng đánh, lại đánh chuông đang đúc.


[283]
 Quan thái giám còn gọi là hoạn quan, bị thiến mất dương vât, nên Bát Giới gọi là bà.


[284]
 Nguyên văn: Yến tiệc ăn một nhìn mười.


[285]
 Nguyên văn: Có cái miệng muối và dấm


[286]
 Ô, thỏ: tức là mặt trời, mặt trăng.


[287]
 Sấu: tên một giống thú, thuộc loài chó.
 [288]
 Nguyên văn: Mèo cắn bọng đái vui mừng hão.

[289]
 Ngoại thụ phó huấn: Nghĩa là bên ngoài chịu sự dạy bảo.

[290]
 Hùng là vật dương, thư là vật âm.

[291]
 Nguyên văn: Rắm đã tuột khỏi lỗ đít, còn lấy tay bịt.

[292]
 Nguyên văn: Nữ bồ tát

[293]
 Nguyên văn: Bán đường ngọt lừa quân tử

[294]
 Nguyên văn: Đánh một cái hèn ba phân.

[295]
 Nguyên văn: Việc tốt không ra khỏi cửa, việc xấu lan nghìn dặm

[296]
 Đại diệu: Những ngôi sao lớn

[297]
 Nguyên văn: Có gió thì sóng nổi, hết triều nước lặng êm.
[298]


 Nguyên văn: Nói dối không giấu được người làng.

[299]



 Trong bài thơ này, tác giả dùng những thuật ngữ con bài chơi mạt chược tạo thành. Như: Thiên bài, cẩm bình
phong, quan đăng thập ngũ, Thiên địa phân, long hổ phong vân hội, ảo mã quân, Vu Sơn phong thập nhị đối từ … chúng tôi theo ý dịch nghĩa để được dễ hiểu.

[300]


[301] [302] [303]
[304]

 Nguyên văn: Có công đi mãi ắt có ngày đến


 Nguyên văn: Chớ tin điều thẳng trong điều thẳng, phải phòng bất nhân chỗ người nhân.



 Tức hai thanh kiếm báu Long Tuyền và Thái A mà Lôi Hoàn đời Tấn tìm thấy ở Phong Thành.



 Cây đao quý của Lữ Kiền đời Tấn.



 Thời Chiến Quốc, Quản Trọng và Bão Thúc Nha kết làm bạn thân, hai người cùng đi buôn, khi chia lãi, bao
giờ Quản Trọng cũng đòi phần hơn nhưng Bão Thúc Nha vẫn vui vẻ sẵn lòng.


[305]


[306] [307] [308] [309] [310] [311]


 Tôn Tẫn và Bàng Quyên, hai tướng giỏi thời Chiến Quốc.



 Nguyên văn: Người khác to gan thì thân thể bọc mật, nhà ngươi to gan, mật bọc thân thể


 Nguyên văn: Đánh rắm thêm gió.


 Nguyên văn: Muôn việc nên khoan dung.


 Nguyên văn: Chết đứng nằm chung mộ với người già chỉ tổ lộ chỗ sở đoản của mình.


 Nguyên văn: Một ngày việc quan, mười ngày bận rộn
 Nghĩa là khác họ vẫn sống chung với nhau.

[312]
[313] [314]
[315] [316] [317] [318]

 Trường chay: Ăn chay quanh năm.



 Nguyên văn: Mười ngày ngồi đầu bãi, một ngày đi chín bãi.



 Nguyên văn: trắng nhuộm thành đen.


 Nguyên gốc: Nắm tay nhúng vào giỏ cá, nào tránh khỏi tanh.


 Lão Quân họ Lý: Tức Lão Tử. Theo Sử ký, ông họ Lý tên Nhi.


 Cửa sài: Cửa làm bằng những cành cây ghép lại.
 Nghĩa là chùa nước ngọt cứu dân

[319]
 Một thạch bằng mười đấu.

[320]
. “Điêu Toàn Cổ Quái” hay “Cổ Quái Điêu Toàn” đều có nghĩa là tính tình quái dị.

[321]
 Nguyên văn: Dừng lại để có trí dài

[322]
 Nguyên văn: Gả gà sánh gà, gả chó sánh chó.


[323]
 Bốn thứ báu trong phòng văn là: bút, nghiên, giấy, mực.


[324]
 Thẻ tre: tức sách cổ. Thời xưa, chưa chế ra giấy, người ta khắc chữ lên những thanh tre.


[325]
 Nguyên bản nêu tên bốn viên tri phủ giỏi đời Hán là Cung Toại, Hoàng Bá, Trác Mậu, Lỗ Cung để so sánh.
Chúng tôi lược bớt (N. D).


[326]
 Nguyên văn: Trông thấy núi rồi còn phải chạy đổ ngựa

[327]
 Nguyên văn: Mười ngày ngồi đầu bãi, một ngày đi chín bãi.

[328]
 Lưỡng nghi - tức âm dương.

[329]
 Đằng hoàng nghĩa là chép kinh.

1 nhận xét: