Chủ Nhật, 18 tháng 1, 2015

TAM HẠ NAM ĐƯỜNG

Tam Hạ Nam Đường
MỤC LỤC
Lời Giới Thiệu
Hồi Thứ Nhất
Hồi Thứ Hai
Hồi Thứ Ba
Hồi Thứ Tư
Hồi Thứ Năm
Hồi Thứ Sáu
Hồi Thứ Bảy
Hồi Thứ Tám
Hồi Thứ Chín
Hồi Thứ Mười
Hồi Thứ Mười Một
Hồi Thứ Mười Hai
Hồi Thứ Mười Ba
Hồi Thứ Mười Bốn
Hồi Thứ Mười Lăm
Hồi Thứ Mười Sáu
Hồi Thứ Mười Bảy
Hồi Thứ Mười Tám
Hồi Thứ Mười Chín
Hồi Thứ Hai Mươi
Hồi Thứ Hai Mươi Mốt
Hồi Thứ Hai Mươi Hai
Hồi Thứ Hai Mươi Ba
Hồi Thứ Hai Mươi Bốn
Hồi Thứ Hai Mươi Lăm
Hồi Thứ Hai Mươi Sáu
Hồi Thứ Hai Mươi Bảy
Hồi Thứ Hai Mươi Tám
Hồi Thứ Hai Mươi Chín
Hồi Thứ Ba Mươi
Hồi Thứ Ba Mươi Mốt
Hồi Thứ Ba Mươi Hai
Hồi Thứ Ba Mươi Ba
Hồi Thứ Ba Mươi Bốn
Hồi Thứ Ba Mươi Lăm
Hồi Thứ Ba Mươi Sáu
Hồi Thứ Ba Mươi Bảy
Hồi Thứ Ba Mươi Tám
Hồi Thứ Ba Mươi Chín
Hồi Thứ Bốn Mươi
Hồi Thứ Bốn Mươi Mốt
Hồi Thứ Bốn Mươi Hai
.
.
.

.
Hồi Thứ Bốn Mươi Ba
Hồi Thứ Bốn Mươi Bốn
Hồi Thứ Bốn Mươi Lăm
Hồi Thứ Bốn Mươi Sáu
Hồi Thứ Bốn Mươi Bảy
Hồi Thứ Bốn Mươi Tám
Hồi Thứ Bốn Mươi Chín
Hồi Thứ Năm Mươi
Hồi Thứ Năm Mươi Mốt
Hồi Thứ Năm Mươi Hai
Hồi Thứ Năm Mươi Ba
Hồi Thứ Năm Mươi Bốn
Hồi Thứ Năm Mươi Lăm
Hồi Thứ Năm Mươi Bốn
Hồi Thứ Năm Mươi Lăm
Hồi Thứ Năm Mươi Sáu
Hồi Thứ Năm Mươi Bảy
Hồi Thứ Năm Mươi Tám
Hồi Kết
.
.
.
.
Lời Giới Thiệu
.
.

.
.
Bộ . là một truyện thuộc đời Tống của nước Trung Hoa, khởi đầu từ vua Tống
Thái Tổ tức là Triệu Khuông Dẫn lập quốc, truyền đến đời vua Tống Chơn Tôn.
Trong thời gian ấy, nước Tống chinh phục các nước lân bang, gồm thâu thiên hạ:
Cũng như các bộ truyện Tàu khác, tác giả đã thần thoại hóa qua các cuộc đua tài giữa thần tiên và
yêu quái bằng pháp thuật, làm cho cốt truyện chứa nhiều màu sắc ly kỳ.
Thế giới thần tiên đã tham dự vào cõi trần tục, như Dư Hồng, Dư Triệu, lôi cuốn một số tiên, làm
khổ chốn trần gian.
Mặt khác, trong chiến tranh tiêu diệt, sát phạt lẫn nhau, lại nẫy ra những mầm non, những mối tình
yêu đương giữa những cặp trai tài, gái sắc rất nên quyến rũ, trong tàn tạ, hũy diệt lại vươn lên
những mầm sống trong quy luật tự nhiên.
. còn ghi nhận cho chúng ta thấy những xấu xa hèn hạ của những con người vì
danh lợi mà hành động phi nghĩa, lại có những nhân vật quên mình để bão vệ nhân tính, bão vệ đạo
nghĩa làm người.
Bộ . đã phãn ảnh sâu sắc cho chúng ta thấy rằng giá trị con người không phải ở
trong những kẻ có quyền chức, uy thế, mà nó rải khắp trong dân gian, trong những kẻ cô đơn nghèo
khổ, nhưng biết tôn trọng đạo nghĩa làm người.
Đọc . là nhìn vào tấm gương xã hội, là suy xét những biến chuyển của tâm trạng
người xưa, so sánh với người thời nay.
Người biên soạn
MộNG BìNH SƠN
.
.
.
Hồi Thứ Nhất
.
.

.
   Xích Mi sai đệ tử phạt Thái Tổ
Dư Hồng quyết hạ san giúp Nam Đường
.
Tại núi Thái Sơn có một vị tiên trưởng tên là Xích Mi lão tổ tu luyện hơn mấy ngàn năm, phép tắc vô
cùng, tinh thông đúng mực. Ngày nọ các bạn tiên là: Lê Sơn Thánh Mẫu, Trần Đoàn lão tổ Hy Dy
tiên sanh, Tôn Tẩn chơn nhơn, cùng tới động ông Xích Mi đàm đạo việc nhân gian.
Xích Mi lão tổ nói:
- Nay thiên hạ gần về một mối, Hương Hài Nhi vâng lệnh Thượng Đế nối nghiệp vua Châu Thế
Tông, lại được Tào Bang, Triệu Phổ, Cao Hoài Đức, Trịnh ân, kẻ văn người võ phò tá, dựng nên cơ
nghiệp. Nghĩ lại Châu Thế Tôn hiền lành nhơn đức, nối cơ nghiệp của Quách Ngạn Oai trị nước bấy
lâu, sáng suốt hơn bốn đời vua trước. Nhưng lúc Châu Thế Tông băng hà, truyền ngôi cho ấu chúa,
Hương Hài Nhi kế tục trị vì, đến khi Trần Kiêu làm phản, chư tướng hết lòng báo quốc, thuận lòng
dân, hợp ý trời ấy cũng vì trời xui lòng người mới an thuận như vậy. Hương Hài Nhi lên ngôi, lẽ phải
yêu mến các tướng của mình, lại ham mê tửu sắc, giết trung thần, trảm Trịnh Ân là em nuôi rất trung
nghĩa. Rõ ràng là vua vô nhân đạo! Bởi kế ấy, ta muốn sai yêu quái xuống phá Hương Hài Nhi để
trừng phạt tội bất nhân, bất nghĩa ấy.
Trần Đoàn lão tổ nói:
- Việc ấy cũng tưởng đáng trừng phạt, song chẳng qua cuộc đời phải vậy. Xưa nay hễ bề tôi có công
lớn rồi thì phải giữ mình chẳng nên khinh xuất làm cho vua nghi ngờ nên mượn cớ đi tu mà lánh nạn,
còn các tôi có công khác không đề phòng đều bị Cao Tổ giết hết. Còn như Hàn Tín, Anh Bố, Bành
Việt là những người ham phú quý công danh, ỷ mình có công lớn, không đề phòng nên bị hại. Nếu
họ noi theo Phạm Lãi thuở xưa, hay bắt chước Trương Lương mà tránh, thì ai hại mình được.
Xích Mi lão tổ nghe Trần Đoàn nói thì cười lớn:
- Lời bàn của đạo hữu có thể giác ngộ các trung thần có công dựng nước. Nhưng cõi tục hễ được
chim thì bẻ ná, cho nên các vị vua hễ được nước rồi lại nghi tướng giỏi. Dù vậy Hương Hài Nhi và
Trịnh ân, tuy bề ngoài là nghĩa chúa tôi, mà trong là tình thủ túc. Lấy lẽ phải mà nói thì nếu không
đẹp lòng, không dùng nữa thì đuổi đi. Lẽ đâu giết oan người ta như vậy? Nếu không bị trừng phạt thì
sao gọi là lẽ công bằng.
Tôn Tấn nói :
- Nếu lão tổ trừng phạt một mình vua vô đạo mà hại trăm họ dân đen, dẫu công bình cũng là tội
nghiệp!
Xích Mi lão tổ nói:
- Nếu vậy ta không sai yêu quái xuống quấy rối, mà sai một vị thần thông phép tắc xuống đó trừng
phạt cho vui lòng kẻ tôi trung, làm gương người bội bạc.
.
.

.
.
Các tiên thấy Xích Mi lão tổ định trừng phạt một mình Triệu Khuông Dẫn thì đều bằng lòng, không
cãi nữa, cùng nhau từ giã lui về.
Xích Mi lão tổ bèn kêu một người đệ tử tên là Dư Hồng đến dạy rằng:
- Bởi ta trách vua Thái Tổ giết oan Trịnh ân, nên ta sai ngươi xuống nước Nam Đường, đầu vua Lý
Cảnh, khiến Lý Cảnh đem quân đánh Tống, và bắt phục làm tôi. Vua Thái Tổ tính nết hung hăng,
nghe chẳng phục tùng, ác là vấn tội. Lúc ấy ngươi phải ra tài thao lược, hóa phép thần thông, dạy
người bạc nghĩa ít năm, giải oan kẻ trung thần nơi chín suối. Song ta cấm ngươi một điều là chẳng
nên sát sánh giết tướng, bắt sống thì vô can, giết oan thì có tội. Ta chỉ muốn làm cho vua Thái Tổ
đau lòng nhọc trí, khổ sở mà thôi. Khi mãn hạn ngươi sẽ về non mà tu luyện.
Nguyên Du Hồng cốt là chim hồng nhạn, có công tu luyện ngàn năm mới được hóa hình người, sau
theo lão tổ học phép thần thông. Nay nghe có lời thầy cho hạ san thì muốn chớp cánh bay liền. Xích
mi lão tổ trao phép, Dư Hồng vâng lệnh đằng vân xuống núi.
Bấy giờ vua nước Nam Đường là Lý Cảnh đóng đô tại đất Kim Lăng. Khi trước bị vua Châu Thế
Tông hưng binh chinh phạt nên Vua Nam Đường sợ mà bỏ hiệu Hoàng Đế. Từ khi Tống Thái Tổ
hùng cứ nhất phương, gồm thâu bốn nước, thì vua Nam Đường trở lại xưng đế, chiêu hiền đãi sĩ, kén
chọn tướng tài ngày đêm rèn luyện ba quân. Quan văn tướng võ ước chừng vài mươi, quân giỏi binh
hùng chừng hai mươi vạn. Vả lại vua Nam Đường thông minh trí tuệ, còn các danh tướng như:
Huỳnh Phủ Huy, Huỳnh Nguyên Thế, Phụng Dương, đều là anh hùng cái thế, còn Tuyết Lữ, Tần
Phụng, La Anh, Trịnh Phi Hổ đều là con dòng cháu giống thời trước lưu truyền. Lại có hai tướng tài
là Long Văn, Văn Bảo, Lâm Văn Thả là tay hào kiệt. Vua sáng, tôi ngay quả Nam Đường là một
nước hưng thịnh.
Một hôm Vua Nam Đường lâm triều, các quan chầu chực đủ mặt. Vua phán:
- Tống Thái Tổ dẹp nước Hớn Nam của Lưu An, lại trừ Cao Quí Hưng nơi phương tây, dẹp Mạnh
Trí Tường nơi nước Thục đều nhờ binh tướng như Cao Hoài Đức, Vương Toàn Ban, Tào Ban, Phan
Nhơn Mỹ, cầm binh như thần nên mới thâu các nước ấy được, trong thiên hạ mười phần về tay Thái
Tổ hết tám. Tuy họ lấy đất Giang Nam ta chưa được, song ta cũng phải lo, vì sợ túi tham không đáy.
Các quan văn võ đều tâu:
- Tống mạnh tám phần, Đường chẳng được hai. Một góc Kim Lăng cự sao cho lại. Dẫu có binh hùng
tướng mạnh cũng cự không nổi họ Vương, họ Tàu, họ Cao, họ Phan, chi bằng bỏ hiệu Hoàng Đế giữ
bực chư hầu, dâng sớ chịu làm tôi, sắm lễ cống sứ thì giữ được cơ nghiệp, khỏi động đao binh.
Vua Nam Đường chưa kịp có ý kiến thì một viên tướng võ quì tâu:
- Chẳng nên ép mình làm tôi nước Tống. Nhà Đường là chính thống, cai trị mấy đời, còn nước Tống
là dòng quan, một tên tướng soán ngôi, huống chi nước ta vua sáng tôi ngay, binh ròng tướng mạnh,
bất quá Tống lo nghiệp Tống, Đường giữ nhà Đường, không lẽ họ dám cất quân đi đánh nước mạnh
.
.

.
.
mẽ? Chi bằng bệ hạ sai sứ đem thơ, mượn cớ dọ thám việc binh tình để biết thiệt hư mà liệu bề xử
sự, đừng thấy người đồn đại mà sợ.
Vua Nam Đường gật đầu khen phải.
Trong lúc chúa tôi đang bàn luận, xảy có quân vào báo:
- Có một đạo sĩ xin ra mắt.
Vua Nam Đường nghĩ thầm:
- Chắc có duyên cớ gì đạo sĩ mới đến đây.
Nghĩ rồi truyền lệnh cho vào ra mắt. Đạo sĩ bước vào thấy vua diện mạo oai nghi, hình dung mạnh
mẽ, đôi mắt sáng ngời, liền qui tung hô vạn tuế.
Vua Nam Đường mời ngồi và hỏi:
- Chẳng hay đạo sĩ đến đây có việc chi dạy bảo?
Người đạo sĩ chính là Dư Hồng. Khi nghe vua Nam Đường hỏi, liền thong thả đáp:
- Tôi ở núi Thái Sơn, có nghe bệ hạ chiêu hiền đãi sĩ, yêu nước thương dân. Còn vua Tống tuy đã
thâu được tám phần thiên hạ nhưng không lấy nổi Kim Lăng là vì phía đông có sông dài ngăn cách,
tôi e bệ hạ kiêng oai mà phục tùng vua Tống, nên xuống giúp Bệ hạ, chưa rõ ý định Bệ hạ thế nào.
Nếu Bệ hạ cần tôi giúp sức, tôi chẳng dám khoe, nhưng biết tài giá võ đằng vân, lại rõ vị lai quá khứ.
Bởi số Bệ hạ nối nghiệp nhà Đường một cõi lâu dài.
Vua Nam Đường nghe nói rất đẹp lòng, hỏi:
- Trẫm đang nghị luận với bá quan, song chẳng biết nên đầu hay nên thủ, nay có đạo sư đến cùng
luận việc ấy thì may cho trẫm biết chừng nào, nếu đạo sư sẵn lòng giúp đỡ thì trẫm khỏi lo, ấy cũng
nhờ phước trời mới gặp người tài đức.
Nói rồi truyền quân sĩ dọn cuộc đăng đàn bài tướng, phong Dư Hồng làm Hộ Quốc Quân sư.
Dư Hồng lên đứng trên đàn, văn võ hai bên hầu hạ . Vua Nam Đường thưởng ba chén rượu, Quân sư
nhậm lễ uống xong rồi xuống đài về dinh.
Hôm sau các quan vào chầu đủ mặt, vua Nam Đường hỏi Quân sư cách dùng binh. Dư Hồng đáp ứng
rất trôi chảy, bá quan đều phục tùng, vui mừng không còn lo bị Thái Tổ xâm phạm đến Giang Nam.
ấy cũng bởi trời xuôi cõi Kim Lăng có giặc.
Lời bàn.
Lòng tham vọng của con người phát xuất từ lúc đã thành công trên sự nghiệp. Xưa nay những vị về
khôi phục đất nước, thường hy sinh chịu những đắng cay khổ cực, nhưng lúc cơ nghiệp đã vững
vàng thái bình thạnh trị thì lại quên những lúc khổ đau, ham hưởng thụ những thú vui bỏ bê việc
nước. Mặt khác lại theo lời kẻ nịnh thần áp chế và vong ơn đối với những trung thần có công dựng
nước. Ấy vậy những kẻ có mưu lược hiểu được lòng người, khi nguy biến họ hế t mình phò vua giúp
.
.

.
.
nước, nhưng đến khi hưởng thụ họ không màng. Tấm gương phạm Lãi, Trương Lương thuở xưa thật
đáng là một bài học cho những ai ỷ vào công trạng của mình mà đòi hỏi vinh hoa phú quí để rồi chịu
đau khổ vì lòng ganh tị của kẻ có quyền thế.
.
.
.
Hồi Thứ Hai
Chúa Nam Đường trả lời ngỗ nghịch
  Vua Thái Tổ ngự giá thân chinh
Bấy giờ Triệu Khuông Dân nối ngôi Châu Hậu chúa nhường cho, cải tên nước là Đại Tống, xưng
hiệu là Thái Tổ, đánh đông dẹp tây gom về một mối, các vua nước nhỏ đều đầu hàng cống sứ.
Ngày nọ, vua Thái Tổ ăn lễ mừng thọ, bá quan đều dâng lễ chúc mừng. Các nước gần xa đều sai sứ
đem lễ vật đến bái kiến. Vua Tống Thái Tổ rất vui truyền dọn yến thết đãi. Giữa tiệc vua Thái Tổ
uống ba tuần rượu rồi phán:
- Nay trẫm đã năm mươi tuổi thọ, các nơi đều dâng lễ, trong ngoài đều một lòng, duy có Lý Cảnh ở
Kim Lăng, ỷ mình ở nơi hiểm hóc, khinh rẻ nước ta, đã không cho người đến viếng, cũng chẳng chúc
mừng. Các quan nghĩ thế nào?
Quan Binh Bộ Thượng Thơ là Phan Mỹ tâu:
- Tôi nghe Lý Cảnh chiêu hiền đãi sĩ, tích thảo dồn lương, chắc là có ý làm phản. Nay các nước nhỏ
đều về chầu cống lễ, chúc thọ bệ hạ. Nam Đường có chúa, coi Đại Tống không người, sẵn dịp này
vấn tội Kim Lăng là điều chính đáng.
Vua Thái Tổ chưa kịp nói thì Quân sư Miêu Huấn tâu:
- Tội Nam Đường đáng trách phạt, nhưng nay thiên hạ theo phò, giá một khoảng Giang Nam chống
trời sao nổi. Xin Bệ hạ xuống chiếu trách phạt vua Lý Cảnh làm nhục triều đình. Nếu Nam Đường
biết lỗi, dâng thơ chịu tội thì tha. Như vậy cũng rõ lòng nhân của Bệ hạ.
Vua Thái Tổ phán:
- Trẫm cũng thuận lòng trời, không ưa sát phạt, vậy thì khanh thảo một lời hịch cho sứ cầm đến Nam
Đường.
Mãn tiệc bá quan ai về dinh nấy.
Hôm sau, Miêu Huấn thảo xong tờ hịch dâng lên cho vua xem.
.
.

.
Vua Thái Tổ bằng lòng, đóng ấn rồi sai khâm sai đem qua cho Lý Cảnh.
Ngày nọ vua Nam Đường đang ngự, bỗng có quân vào báo:
- Vua Tống sai sứ đem thơ, xin vào ra mắt.
.
Vua Nam Đường đòi vào. Khâm sai dâng hịch trước sân chầu, vua Nam Đường mở ra xem, thấy tờ
hịch viết như sau:
“Xưa nhà Đường có suy yếu, khiến nước chia năm, sau nhà Châu hưng thịnh cũng khó bề thâu về
một mối. Nay nước ta vua nhân, tôi sáng, đổi họa làm an, cứu dân trong nước lửa, đức bủa khắp non
sông, trăm họ đội ơn, bốn phương mến đức.
Nước ngươi là Nam Đường, trộm xưng đế hiệu, chúa ta là Đại Tống muốn đem binh vấn tội bấy lâu,
song trước phải dạy khuyên chớ chưa vội trừng phạt, kém việc nhơn từ. Nay đem bút mực mà
khuyên, ngõ vẹn bề hòa hảo.
Vua Nam Đường có lẽ tai từng nghe, mắt đã từng thấy những gương xưa, bởi vì trời không có hai
mặt nhựt, nước không thể có hai vua. Người sánh thấy họa khí chưa bay mùi, kẻ trí lánh nạn khi
chưa có cớ. Cho nên Vi Tử bỏ nhà Thương mà chịu chức nhà Châu, A Đẩu dâng nước Thục mà làm
quan nước Tấn. Vua Nam Đường cũng nên bắt chước theo, thì bình an một nước êm ái muôn dân, kẻ
làm ruộng không bỏ đồng, người đi buôn không bỏ chợ, yên nhà, lợi nước, không tổn tướng hao
binh. Nếu chấp nhất chẳng suy thì ngọc đá cháy tiêu, binh Tống đến thành thì nóc nhà lật úp, không
kịp trở tay, ăn năn thì đã muộn ".
Vua Nam Đường giật mình, mời triều thần bàn luận. Dư Hồng xem tờ hịch giận lắm, nói:
- Ngòi bút kẻ nho tuy sắc sảo, song ta lương đủ, binh ròng, có sợ gì chúng nó.
Nói rồi lấy bút viết một bài thơ đằng sau tấm hịch rằng:
Nam Đường nối nghiệp của tiền Đường
Rằng muốn đem binh đánh Biện Lương
Trí sẵn Tôn Ngô, thông chiến trận
Mạng thêm La Tiết giỏi cung thương.
Trói mèo Hoài Đức chiêng chưa gióng
Bắt sống Tam Xuân ná chửa giương,
Sớm biết mạng trời âu cống lễ
Kẻo lâm rìu búa thấy Diêm Vương.
Ở dưới ký tên Đại Đường Hoàng Đế chánh tông gởi cho Tống Đế thâu khán.
Khâm sứ lãnh hịch đem về dâng cho Tống Thái Tổ.
Tống Thái Tổ xem hịch nổi giận vỗ bàn hét:
- Nam Đường quả thật to gan, lớn mật! Lý Cảnh thật có bụng khinh người. Ta đã dung cho nó một
vùng đất ở an, vì thương đến muôn dân lê thứ. Nay nó đã bày lời phản nghịch, dung tha thì các nước
.
.

.
.
chê cười. Nó đã dám nói như vậy thì chắc còn dám làm nhiều việc đối nghịch khác. Cỏ non chẳng
nhổ, để lớn nhọc công, lửa đốm không dập tắt để nó bừng lên thì khó chữa.
Nói rồi vua Tống hỏi các quan văn võ:
- Nay trẫm quyết đem quân phạt Nam Đường, làm cho Lý Cảnh vỡ mật mới vui lòng, chẳng hay chư
khanh nghĩ thế nào?
Đông Bình vương Cao Hoài Đức tâu:
- Quận Kim Lăng có tám mươi mốt châu, được bao nhiêu lương thực, còn các quan Nam Đường thì
khoe môi hưởng lộc, khua miệng làm oai, nhỏ muốn cự to, yếu không nhường mạnh. Ấy là đi tìm tai
họa, mang nạn vào thân. Không cần Bệ hạ phải nhọc sức, hạ thần chỉ xin mượn oai hùm cũng trừ
đặng loài cáo.
Vua Thái Tổ phán:
- Khanh luận bàn cũng phải, song trẫm mười tám năm cầm đao, cưỡi ngựa, xông pha chiến trận, nay
Lý Cảnh khoe tài xấc láo để quả nhơn ngự giá thân chinh, bắt sống nó mà rửa hờn. Trẫm đã có ý như
vậy khanh chớ ngăn cản. Nay phong cho Đông Bình vương làm chức Chinh thảo Đại Nguyên Soái,
Sử Khuê và Thạch Thủ Tín lãnh tả hữu tiên phong, Phùng Ích làm tham quan, Tào Ban, Phan Mỹ,
Vương Ngạn Thăng, La Ngạn Oai làm phụ quân.
Còn Quân sư Miêu Tùng Thiệu đi làm hộ giá. Vương Toàn Ban giải lương. Vậy các khanh ra công
hợp lực, đồng lòng trừ nghịch, thắng trận trở về trẫm sẽ luận công ban thưởng.
Các quan văn võ đều tuân lệnh. Vua Thái Tổ ra lệnh bắt chầu.
Hôm sau Thái Tổ nói với Hoàng đệ là Triệu Quang Nghĩa rằng:
- Ngự đệ ơi! Nay trẫm xuống Giang Nam phạt Lý Cảnh, giao nước lại cho Ngự đệ thay mặt triều
đình, trẫm đi chừng một năm sẽ trở về .
Triệu Quang Nghĩa vâng lời. Thái Tổ lại trình với Đỗ Thái hậu mọi dự tính.
Đỗ Thái hậu nói:
- Hoàng nhi mười tám năm chinh chiến, nay lại hưng binh chinh phạt làm cho nhọc mình vàng. Cứ
sai tướng đi đánh cũng đủ. Vả lại cách hai đêm nay mẹ chiêm bao thấy một điều không tốt.
Vua Thái Tổ hỏi:
- Chẳng hay mẫu hoàng thấy điềm gì?
Đỗ Thái hậu nói:
- Ta thấy Hoàng nhi leo lên cây lý rồi sút tay té xuống, năm con phụng từ trên trời bay xuống một
lúc, xòe cánh mà đỡ. Sau đó ta giật mình thức dậy. Vậy lần này Hoàng nhi sai tướng thì hay hơn.
Thái Tổ thưa:
- Xin Mẫu hậu đừng lo việc ấy, con từ mười sáu tuổi đã dạo khắp bốn phương, cả trong thiên hạ, từ
Biện Lương đến Kim Lăng đi chừng bốn mươi ngày, chẳng xa xôi gì đó. Vả lại Mẫu hậu thấy điềm
.
.

.
.
rất tốt. Con leo lên cây lý, mà lý là họ vua Đường, còn năm con phụng đỡ con, là có năm nữ tướng
tài hoa giúp sức. Bấy lâu ở trong cung tù túng, nay con dạo ra ngoài cho thảnh thơi, huống chi thiên
hạ mười phần đã thu hết tám, còn Kim Lăng là một khoảng núi non, lấy dễ như trở bàn tay. Nếu để
nó ngỗ nghịch thì các nước chê cười. Lẽ thường, trời không hai mặt đất chẳng hai vua, xin mẫu hậu
cho con đi, nếu không ngự giá thân chinh thì tướng sĩ không hết lòng.
Đỗ Thái hậu biết lánh Thái Tổ không ưa câu thúc, nên mỉm cười nói:
- Nếu Hoàng Nhi muốn đi xin chớ ra trận, phải giữ mình làm trọng thì mẹ mới an lòng.
Vua Thái Tổ vâng lời mẹ lui ra, về cung từ giã Hoàng hậu.
Hoàng hậu biết không cản được vua, liền rót rượu tiễn hành cầu xin thắng trận.
Lời bàn:
Tranh chấp quyền thế là bản chất của loài người tạo ra chiến tranh, đánh giết lẫn nhau, từ xưa đến
nay vẫn không tránh khỏi.
Vua Thái Tổ mỡ tiệc mừng thọ, các nước đều đem lễ vật triều cống, vua nước Nam Đường không
tham dư, làm cho vua Thái Tổ thấy bị mất danh dự trong thiên hạ. Ấy cũng chỉ vì tự xem mình là cao
hơn cả mọi người. Bản tính tự cao tự phụ gây nên những tệ hại trong cuộc sống, làm tất cả những
việc thiếu nhân tâm. Còn vua Nam Đường bị sỉ nhục không thể ngồi yên, thì đó cũng chỉ là bị đụng
chạm danh dự của mình. Cả hai đều từ bản chất tự cao tự phụ mà gây nên chiến tranh, giết hại lê
dân. Nếu tánh tự cao tự phụ mà ở trong một người thường thì tai hại bản thân không bao nhiêu, còn
ở trong một ông vua thì tai hại cả đất nước.
.
.
.
Hồi Thứ Ba
Tống Thái Tổ bị vây Thọ Châu thành
Dư Quân sư dùng phép bắt Hoài Đức
Bấy giờ Cao Hoài Đức lãnh chức nguyên soái trở về dinh, vào tâm sự với vợ là Hoàng cô Tiêu Mỹ
Dung, kể hết mọi việc.
Tiêu Mỹ Dung nói:
.
.

.
- Chẳng hay vương gia bữa nay đi chầu có việc gì lo lắng vậy?
Cao Hoài Đức nói:
.
- Ta nay vâng chỉ kéo quân đánh Kim Lăng. Thiên tử đã sai không thể chối từ. Việc chinh phạt chỉ
một vài năm, ít lâu sẽ trở về. Song chỉ còn một nỗi mẹ già đầu bạc, con trẻ mày xanh, vậy nhờ Hoàng
cô phụng dưỡng huyên đường, dạy Thế tử tinh thông võ nghệ, chớ cho nó hoang đàng, mang tiếng
họ Cao.
Vợ chồng bàn tính xong, mở tiệc cùng nhau ăn uống. Người con trai là Cao Quỳnh, tên chữ là Quân
Bảo đã mười tám tuổi, nghe tin cha vâng lệnh chinh Nam, liền bẩm:
- Con ở nhà không làm gì, xin đi theo hầu cha và đánh giặc, cho trọn niềm thần tử, đáp nghĩa quân
ân.
Hoàng cô nói:
- Ngươi tài cán bao nhiêu mà dám nói phách như vậy? Ngươi tưởng đánh giặc dễ lắm hay sao?
Cao Quân Bảo thưa:
- Xin mẹ đừng cho con là đứa vô dụng. Nay con đã biết cầm cung lên ngựa, gươm giáo tinh thông,
một lớp với con đều không địch nổi. Con xin tùy tùng ra chiến trận cho quen thuộc binh cơ, như vậy
mới nên con nhà tướng. Xin cha mẹ an lòng.
Cao Hoài Đức nghe con nói tỏ ý khen:
- Lời con nói rất phải, tính toán rất thông, ngặt vì bà nội con già nua, con thì còn bé, chi bằng ở nhà
thế cho cha thờ phụng bà nội cho trọn niềm hiếu thảo.
Cao Quân Bảo nghe cha khuyên không dám trái ý.
Đêm ấy, Cao Hoài Đức từ giã gia đình. Cả nhà đều bận bịu nhưng vẫn làm lễ tiễn hành.
Đến ngày xuất quân, Cao Hoài Đức dẫn binh đến diễn võ trường, vua Thái Tổ ngự đến. Các quan
văn võ đều đứng hai hàng làm lễ tiễn đưa. Vua Thái Tổ ngự giá lên đường quân đi rầm rầm rộ rộ
nhưng trật tự rất nghiêm, không ai dám phạm của ai một mảy.
Quân sĩ Nam Đường hay tin về báo lại. Vua Nam Đường nghe Thái Tổ ngự giá thân chinh lòng kinh
hãi, bèn triệu tập các quan đến nghị luận. Khi các quan tề tựu đông đủ, vua Nam Đường phán:
- Ngày trước vì phê bài thơ vào tấm hịch mà gây việc Tống chinh Nam. Người ta thì binh hùng
tướng mạnh, còn mình thì lực yếu thế cô chống cự sao lại, nên trẫm mời các khanh đến đây nghị luận
xem nên hòa nên chiến. Nếu để giặc đến, quân dân khốn khổ.
Dư Hồng tâu:
- Xin Bệ hạ chớ lo. Nước Tống mạnh là mạnh với các nước khác kia, còn đối với nước ta hễ tướng
Tống qua đây bao nhiêu, tôi bắt sống bấy nhiêu, để Bệ hạ biết phép thần thông của tôi lợi hại thế nào.
Tôi quyết đền ơn tri ngộ, xin Bệ hạ đừng than thở mà làm cho binh tướng ngã lòng.
Vua Nam Đường phán:
.
.

.
.
- Quân sư vốn thần thông binh pháp, lại hết lòng giúp trẫm, thì trẫm còn sợ gì. Song tướng Tống đại
tài, phải đề phòng cho kỹ.
Dư Hồng tâu:
- Tôi đoán chắc binh Tống kẻo qua đây sẽ đi qua ngã Thọ Châu.
Vua Nam Đường hỏi:
- Sao quân sư biết chắc như vậy?
Dư Hồng tâu:
- Vua Tống đã chinh chiến mười tám năm, từng trải việc binh cơ đồ trận. Nay đi đánh xa muôn dặm
phải lo việc lương thảo làm đầu, nên phải đi ngõ Thọ Châu, trước lấy lương, sau đó nơi theo đường
Phụng Dương thì thẳng đến Kim Lăng rất dễ.
Vua Nam Đường phán:
- Như vậy thì phải sai một vị Đại tướng qua giữ Thọ Châu.
Dư Hồng nói:
- Binh Tống mới kéo sang, tinh thần còn hăng lắm, quân ta khó bề giữ đặng Thọ Châu, chi bằng cứ
để thành trống, gạt chúng nó vào đó rồi bao vây thì quân Tống có mấy mươi vạn cũng phải chết đói.
Vua Nam Đường nghe tâu, gật đầu nói:
- Quân sư liệu kế rất hay, tướng Tống dù anh hùng thế nào cũng không thoát khỏi.
Sau đó, Dư Hồng sai Huỳnh Phủ Huy và Lâm Văn Báo lãnh kế đến Thọ Châu truyền rằng:
- Nay ta vâng lệnh Hoàng Đế, rao truyền cho dân chúng đất Thọ Châu hay, bất luận quan dân phải
dọn đồ ra khỏi thành, nếu chậm trễ, giặc Tống vào sẽ giết hết.
Hai mươi vạn dân Thọ Châu nghe lệnh thất kinh, kẻ cõng con, người dắt vợ cấp tốc lên đường.
Trong thành dọn hết kho lương, không còn một mảy, rồi về báo lại Dư Hồng.
Lúc này vua Thái Tổ kéo binh đi đã ngót một tháng mới đến địa phận đất Kim Lăng, trước tiên đánh
ải Giới Bài giết hai đại tướng rồi chiếm thành. Còn Cao Hoài Đức chia một muôn rưỡi binh cho Phan
Mỹ trấn ở đó, rồi cùng nhau bàn tính việc vào Kim Lăng.
Vua Thái Tổ nói:
- Nên đi vào ngõ Thọ Châu thì dễ hơn.
Cao Hoài Đức tâu:
- Thọ Châu là yếu địa của Kim Lăng, bên Nam Đường nghe ta lấy ải Giới Bài thế nào cũng đem binh
tướng trấn thủ hoặc mai phục, nếu đi ngõ ấy e mắc kế chăng . Chi bằng đi ngõ Lư Châu , rồi đem
binh lén qua sông Hiệp Phi, binh Đường không ngờ thì rất dễ phá.
Miêu Quân sư nói:
- Kim Lăng khi trước là xứ Đông Ngô, chỗ cũ của Tôn Quyền, ở đó tám mươi mốt châu địa hiểm trở,
phải dè dặt mới được.
.
.

.
Vua Thái Tổ phán:
.
- Trẫm há chẳng biết tánh dè dặt của nguyên soái hay sao, nhưng đánh nước nào thì phải cẩn thận,
còn Nam Đường binh thưa tướng ít ta mới đến đã chiếm ải Giới Bài, có phải chúng nó yếu kém hay
không? Vả lại, ngõ Lư Châu nước sâu núi cao khó bề vận lương, sao bằng đi đường Thọ Châu rộng
rãi, ta cứ đánh một trận xem sao rồi sẽ liệu.
Các tướng vâng lệnh kẻo binh đi ngõ Thọ Châu.
Khi binh đến còn cách thành năm mươi dặm thì Cao Hoài Đức truyền quân hạ trại, đào giếng mà
dùng, không cho uống nước ao của Nam Đường e có bỏ thuốc độc.
Hôm sau, Cao Hoài Đức hạ chiến thơ cho Nam Đường. Vua Nam Đường bèn sai Lâm Văn Báo và
Huỳnh Phủ Huy lãnh một muôn binh đi đánh, Cao Hoài Đức lại sai Sử Khuê, Thạch Thủ Tín ra trận
giao tranh.
Hai tướng Đường đánh không lại, vào bế thành mà trốn.
Cao Hoài Đức thừa thắng đem binh vây thành Thọ Châu, chẳng ngờ hai tướng vâng lệnh Dư Hồng
trá bại rồi bỏ thành đi mất. Té ra binh Tống chỉ vây thành không. Đến khi vào thành không thấy một
tên quân nào cả.
Sử Khuê Thạch Thủ Tín lấy làm lạ cho người chạy về báo với vua Thái Tổ rõ sự tình.
Vua Thái Tổ nghe báo lấy được Thọ Châu thì rất mừng, đinh ninh chẳng bao lâu sẽ lấy Kim Lăng
như trở bàn tay.
Cao Hoài Đức hộ tống vua vào thành tra xét lương thảo không có gì hết, ngoài đồng trong chợ cũng
không thấy một bóng người. Vua Thái Tổ thất kinh, biết là mình mắc kế, còn Cao Hoài Đức thì cúi
đầu không dám nói điều gì. . .
Miêu Quân sư nói:
- Chắc là bị kế không thành, chớ lẽ nào chỗ địa đầu mà không có quân canh giữ. Vậy phải mau kéo
binh ra khỏi, nếu chậm trễ ắt bị khốn.
Vua Thái Tổ biết lỗi, nhưng ăn năn thì việc đã rồi. Xảy nghe tiếng quân ó vang trời, ngoài thành có
quân vào báo:
- Bốn phía binh Đường đang kéo vào, đèn đuốc sáng chói.
Binh Tống thất kinh, không dám kéo ra. Cao Hoài Đức truyền quân thủ thành nghiêm ngặt, rồi thỉnh
vua Thái Tổ và Quân sư lên lầu xem hư thiệt. Lúc này binh Đường vây phủ trùng trùng. Xa xa, thấy
một đạo sĩ mặc áo bát quái, cưởi con nai bông, miệng hỏa lò, hàm răng cào cỏ, mắt sáng như sao, tay
trái cầm quạt lông, tay mặt cầm gậy sắt, xăm xăm đến cửa thành chỉ mặt vua Thái Tổ mắng rằng:
- Vua Tống trở lòng cướp ngôi Châu hậu chúa, lại bất nghĩa giết Trịnh ân, nên thầy ta là một vị đại
tiên, sai ta xuống trừng phạt. Nay đã mắc kế rồi, chúa tôi nhà ngươi như chim ở trong lồng, như cá ở
trong chậu, nếu còn tưởng mình là anh hùng trong thiên hạ thì khó mong giữ nước. Nếu khôn khéo
.
.

.
.
tùng phục vua Đường thì cũng được làm vua một cõi, bằng chống cự ắt không toàn mạng.
Dư Hồng đang diễu võ giương oai thì vua Thái Tổ nổi giận hét:
- Đạo sĩ ở trong rừng nào tới đây, dám nói nghịch quả nhân.
Nói rồi truyền quân trên thành bắn xuống như mưa.
Dư Hồng cười lớn:
- Ta có sá gì mấy mũi tên khốn đó, dẫu ngàn muôn gươm giáo cũng chẳng làm gì ta được.
Nói rồi niệm thần chú, lấy quạt lông quạt mấy cái, tên bắn đều vẹt ra hai bên, chẳng động đến Dư
Hồng.
Thạch Thủ Tín thấy vậy tức mình, xin phép xuống đánh, Cao Hoài Đức nói:
- Ta xem yêu đạo rất lợi hại, vậy ngươi có ra trận đừng đuổi theo mà khốn.
Thạch Thủ Tín vâng lệnh, lãnh năm ngàn quân khai thành múa đao xốc tới chém Dư Hồng. Hai bên
đánh nhau mười hiệp, Dư Hồng thối lui lại ít bước rồi lấy một cái chiêng nhỏ gọi là Lạc Hồn La đưa
trước mặt Thạch Thủ Tín đánh lên một tiếng, Thạch Thủ Tín bất tỉnh té xuống ngựa, binh Đường bắt
trói lại.
Vua Thái Tổ trông thấy rụng rời. Sử Khuê nổi giận nói:
- Yêu đạo không tài cán gì, bất quá dùng phép tà mà bắt tướng, xin Bệ hạ cho tôi ra trận thử sức xem
sao.
Vua Thái Tổ phán:
- Không nên! Yêu đạo có phép thuật như vậy, dùng lực làm sao đấu lại.
Cao Hoài Đức cũng chẳng cho đi. Sử Khuê cũng nằng nặc một mình một ngựa ra thành, kêu Dư
Hồng hét lớn:
- Yêu đạo! Nếu ngươi không thả Thạch Thủ Tín cho ta thì ta nguyện bêu đầu ngươi trên ngọn giáo!
Dư Hồng mỉm cười nói:
- Tướng Tống không biết thời cơ. Vua ta là dòng chính nối nghiệp Đường Cao Tổ trên ba trăm năm,
không phải là chúa của ngươi soán ngôi xưng đế. Nay đã sa vào lưới rọ, nếu biết mạng trời thì trở về
bảo vua Tống dâng biểu đầu hàng, bằng nghịch mạng thì vua tôi làm quỉ không đầu.
Sử Khuê nghe Dư Hồng nói liền nạt lớn:
- Yêu đạo đừng nói xàm. Hãy coi chừng mũi thương ta đây.
Nói rồi vung thương chém tới. Dư Hồng đỡ đánh rồi dùng phép như cũ, bắt Sử Khuê trói lại.
Tào Bản nổi nóng xông ra, cũng bị Dư Hồng dùng chiêng lạc hồn bắt nữa.
Trận này Dư Hồng bắt luôn ba tướng đem về dâng trước bệ tiền.
Vua Nam Đường mừng rỡ, nói:
- Quân sư phép tắc dường ấy, bắt ba tường Tống trong một giờ. Vậy thì việc lấy Tống không khó.
Chắc là giang sơn họ Lý thâu về, cơ nghiệp nhà Đường phục lại.
.
.

.
Bá quan văn võ đều khen:
.
- Bệ hạ có Quân sư như rồng gặp mây, như cá gặp nước, ắt khôi phục nhà Đường không khó.
Còn vua Thái Tổ thấy Dư Hồng bắt luôn ba tướng thì không dám cho ai ra trận nữa, truyền quân ráng
sức thủ thành.
Hôm sau, Cao Hoài Đức nghe quân báo có Dư Hồng khiêu chiến tức giận nói:
- Nó vừa bắt mất ba tướng còn hiên ngang khiêu chiế n, xin Bệ hạ cho hạ thần liều sinh tử với nó một
phen, nếu không nó sẽ làm nhục không chịu nổi.
Thái Tổ nói:
- Nguyên soái xem ba tướng bị bắt đó có phải dở đâu. Yêu đạo có nhiều yêu thuật nguyên soái đánh
sao cho lại nó. Nếu rủi có bề nào, trẫm biết nương tựa vào ai? Nguyên soái hãy nhẫn nhịn để tìm
mưu mà cứu ba tướng đó.
Cao Hoài Đức tâu:
- Tôi làm nguyên soái có lý nào chịu nhục để chúng khinh bỉ. Nay nhờ hồng phước Bệ hạ, nếu giết
được nó thì Nam Đường rất dễ chinh phục.
Nói rồi liền cầm thương lên ngựa, dẫn binh ra thành rồi hét:
- Yêu đạo! Hãy coi cây thương của bổn soái đây.
Dư Hồng thấy một tướng đội ngân khôi, mặc bạch giáp, mặt trắng như tuyết, giọng thanh như
chuông, nghĩ chắc là Đông Bình Vương Cao Hoài Đức, là tướng mạnh nhất trong đời, bèn giục hươu
tới hỏi lớn:
- Tướng Tống hãy mau xưng tên rồi chịu chết.
Cao Hoài Đức nói:
- Khá khen cho yêu đạo, không sợ phép trời, cả gan gây chiến với Đại Tống. Nay bổn soái đến đây
thì chớ trách ta không có lòng nhân đức. Ta là Đông Bình Vương Cao Hoài Đức, lẽ nào ngươi không
biết danh ta?
Dư Hồng cười ha hả nói:
- Ta há không biết ngươi là rường cột của vua Tống hay sao, song đã gặp ta thì uy danh trôi trên
dòng nước.
Nói rồi đập mạnh một gậy. Cao Hoài Đức đỡ gạt ra làm cho Dư Hồng ê ẩm cả cánh tay, muốn rơi
gậy xuống đất. Dư Hồng biết sức mình thua xa nên giục hươu bỏ chạy. Cao Hoài Đức không đuổi
theo, Dư hồng quay lại mắng:
- Dù cho ngươi có quỷ quyệt đến bực nào ta cũng bắt được.
Nói rồi trở lại giao tranh, lấy chiêng phép đưa ngay trước mặt Cao Hoài Đức đánh một tiếng. Cao
Hoài Đức hôn mê, sa xuống ngựa bị quẩn Nam Đường bắt trói lại. Binh Tống thất kinh chạy vào
thành hết. Dư Hồng bị cấm sát sinh nên không chém giết, bèn đánh kiểng thâu quân, dẫn Cao Hoài
.
.

.
Đức về nạp trước ngai.
Vua Nam Đường khen:
.
- Quân sư pháp thuật cao cường nên mới bắt được Hoài Đức. Nay Tống đã mất hết nhuệ khí, thì
Đường càng vững vàng, khỏi lo sợ.
Dư Hồng truyền quân khiêng thây Cao Hoài Đức bỏ chung với các tướng vừa bị bắt.
Còn vua Thái Tổ thấy Dư Hồng bắt Cao Hoài Đức thì buồn rầu, than thở mãi không nguôi. Triều
thần can gián, vua Thái Tổ nói:
- Trẫm chinh phạt lâu nay, đánh đâu thắng đó, dựng nên cơ nghiệp, ba cõi phục tùng. Không dè nay
đến Kim Lăng lại gặp yêu đạo bắt hết bốn tướng, nhắm lại giang sơn khó giữ, nếu chịu nhục mà đầu
Nam Đường thì uổng công bấy lâu trận mạc, lại để nhục ngàn thu. Vậy các khanh có mưu chi làm
cho khỏi cảnh vua buồn tôi nhục không?
Miêu Quân sư tâu:
- Xin Bệ hạ bớt phiền não. Xưa nay thắng bại trong trận mạc là chuyện thường. Bệ hạ là chúa trong
đời còn Lý Cảnh bất quá là tên soán nghịch. Xưa Văn Vương bị giam nơi Dũ Lý bảy năm, Quan Võ
bị vây ở đất Công Dương rất ngặt, nhưng tai nạn này cũng qua đi, sự nghiệp vẫn bền vững. Nay tuy
bốn tướng bị bắt, song Nam Đường còn ngại chưa dám giết. Bởi Bệ hạ cãi lời Nguyên soái vào Thọ
Châu nên mắc kế không thành, sớm muộn cũng sẽ tìm phương giải cứu.
Lúc này vua Nam Đường thấy Dư Hồng bắt luôn một lúc bốn viên tướng Tống thì mừng rỡ, truyền
quân mở tiệc ăn mừng, tự tay rót rượu đến trước mặt Dư Hồng ban thưởng.
Dư Hồng hai tay bưng ly rượu nói:
- Hạ thần chỉ có một chút công lao mà Hoàng Thượng trọng hậu như vậy, tôi đâu dám .nhận. Nhưng
Bệ hạ đã ban không thể chối từ.
Nói rồi bưng rượu uống.
Tiệc mãn, vua Nam Đường liền ra lệnh đem tướng Tống ra chém bêu đầu, rồi sẽ cử binh đến Thọ
Châu bắt vua tôi Thái Tổ, đưa sự nghiệp nhà Đường vào một mối giang san.
Dư Hồng tâu:
- Chẳng nên giết tướng Tống, bởi Bệ hạ chưa rõ. Nguyên tỉ tôi tu luyện lâu năm, sau học đạo Xích
Mi lão tổ nên biết Thái Tổ là chánh vì vương, bởi cớ ấy không nên giết tướng của người. Bất quá vây
cho Tống sợ, không dám đánh Kim Lăng mà giải hòa, ai lo nước nấy.
Vua Nam Đường phán:
- Hai nước giao tranh, lẽ nào bắt tướng mà không giết, vả lại những tên tướng ấy chẳng khác nào lại
hùm dữ, nếu để nó sống rất nguy hại cho cơ nghiệp nhà Đường.
Dư Hồng tâu:
- Mười hai tướng mạnh của Tống đều thân thích của nhà vua. Nay bắt được thì nên dùng phép bắt nó
.
.

.
.
đầu Đường đánh Tống cho Thái Tổ thất kinh, không dám đánh nữa, phải cầu hòa. Vả lại làm cho
chúng đánh giết lẫn nhau, chúng ta khỏi phải mang tiếng dữ.
Vua Nam Đường nói:
- Người đã thác rồi còn sống sao được. Lại những tướng ấy là thân thích của vua, làm cho nó sống
lại, rồi thả nó trở về chẳng khác nào thả cọp về rừng, thật khó tin nổi.
Dư Hồng đáp:
- Phép tiên hay lắm, cho hoàn hồn sống lại coi như chơi, lại có bùa linh, khiến đâu làm đó. Chúng sẽ
không biết đến vua tôi cha mẹ, vợ con nữa, mà chỉ biết có hiệu lệnh mà thôi, nên tôi mới dám mạo
hiểm như vậy.
Vua Nam Đường nửa tin nửa ngờ, nói gượng:
- Quân sư đã có phép lạ, vậy thử thực hiện xem sao?
Dư Hồng tâu:
- Tôi đâu dám giấu, để tôi làm thì thấy.
Lời Bàn.
Làm tôi không đem thân bảo vệ đất nước là bất trung, nhưng làm vua mà giết hại tôi trung là bất
nghĩa. Hai hành động đó đều là vô nhân đạo, nhưng lịch sử vẫn diễn biến ngàn xưa, sanh ra nhiều
cuộc tranh chấp.
Sư nghiệp của một quốc gia không thể một cá nhân nào xây dựng nổi, mà phải nhờ vào sức mạnh
của toàn dân. Nếu một vị vua, lúc nguy biết dựa vào sức dân để xây dựng cơ đồ, rồi đến lúc thành
công không nghĩ đến dân, chỉ biết hưởng thụ riêng mình thì đó là một vì vua bất nghĩa. Huống chi,
lúc được việc quên ơn những kẻ có công, giết oan họ thì đó là một hành động bạo tàn. Ở hồi này,
Xích Mi lão tổ cho Dư Hồng xuống trần trừng phạt vua Tống là một quan niệm răn những kẻ bạo
tàn, vong ơn bội nghĩa. Điều này cốt làm cho người đọc tự xét mình, xét đời, để rút ra bài học về đạo
nghĩa làm người.
.
.
.
Hồi Thứ Tư
.
.

.
Bị bùa độc họ Cao phản chúa
Rõ phép tà vua Tống hết nghi
.
Dư Hồng truyền lệnh khiêng mười hai tướng Tống để xếp hàng dưới thềm, rồi dùng máu chó, máu
gà và giấy vàng vẽ bùa mười hai con hình nhơn, niệm chú, giắt vào chiếc mũ cho mười hai tướng,
đội lên đầu. Xong, Dư Hồng cầm gươm, vỗ bàn một cái nạt lớn:
- Mỗi người ba vía một hồn nhập xác, còn hai hồn bốn vía thu vào bùa ở mái tóc, không được cãi
lệnh.
Sau đó Dư Hồng lại cầm gươm chỉ vào các tướng mà bảo:
- Phụng sắc hồi dương cấp cấp như luật lệnh.
Mười hai tướng lồm cồm ngồi dậy, bộ tịch như điên như dại , hai con mắt trợn tròn vo, đứng trơ trơ
không nói gì hết. Các viên quan Nam Đường đều rởn ốc, mồ hôi ướt áo, sợ tướng Tống hại nhầm.
Dư Hồng thấy vậy cười nói:
- Tướng đầu Đường là đồng liêu với các ông, việc gì mà sợ.
Vua Nam Đường nghe báo, liền ngự ra xem thấy mười hai tướng Tống đứng hầu hạ hai hàng. Dư
Hồng tâu:
- Các tướng đã theo phù phép, đầu hàng Bệ hạ rồi, xin đừng sợ.
Vua Nam Đường phán:
- Tuy phép Quân sư hay thật, song sợ họ không chịu đầu Đường, thành ra rước voi về phá mồ, trẫm
lấy làm lo.
Dư Hồng tâu:
- Bệ hạ và bá quan còn nghi ngại, để tôi sai thử cho Bệ hạ xem.
Nói rồi niệm chú, cầm gươm chỉ Cao Hoài Đức kêu lớn:
- Cao Hoài Đức đến đây ta bảo!
Cao Hoài Đức bước tới thưa.
- Chẳng hay Quân sư đòi tôi có việc chi sai bảo?
Dư Hồng nói:
- Ngươi lãnh một ngàn quân sang đánh Thọ Châu, không được cãi lệnh.
Cao Hoài Đức phụng mạng đi liền.
Vua Nam Đường xem thấy mới tin, các quan đều khen phép lạ.
Vua Nam Đường bảo:
- Cao Hoài Đức là tôi lương đống của nhà Tống, nay nhờ bùa linh sai khiến thì lo chi cơ nghiệp
không dựng lại được như xưa.
Dư Hồng tự đắc nói:
.
.

.
.
- Bệ hạ thật có phước mới giữ gìn được đất Kim Lăng. Thái Tổ tuy là vị chính vương mà vẫn không
làm hại Nam Đường được.
Bấy giờ vua Thái Tổ đang bị vây, và bị bắt hết tám tướng, tuy chưa thấy bêu đầu, nhưng trong lòng
buồn bã không an.
Xảy có quân vào báo:
- Cao Nguyên soái dẫn quân Nam Đường về đứng ngoài thành khiêu chiến. Chúng tôi không rõ thiệt
hơn, nên chạy về thông báo.
Thái Tổ nghe nói giận lắm, than:
- Chúng bay là quân thấp thố, không nhìn kỹ lại về báo láo.
Nói rồi liền cùng Quân sư lên mặt thành xem xét, quả thấy Cao Hoài Đức ngồi trên ngựa múa gươm,
coi binh lính phá thành.
Thái Tổ thấy việc lạ, gọi lớn hỏi:
- Bớ ngự đệ ? Trẫm cùng khanh tuy bề ngoài là tôi chúa nhưng bên trong là nghĩa tay chân. Hai mươi
năm nay tin nhau một lòng một dạ, nay sao lại tham sống mà bỏ nghĩa xưa. Hãy nghe lời trẫm vào
thành bàn kế chiến chinh, cho vẹn đạo tôi thần, cho trọn nghĩa anh em.
Tiếng kêu không làm cho Cao Hoài Đức chú ý, chỉ thấy Cao Hoài Đức trợn mắt, múa thương, miệng
hét liên hồi làm cho vua Thái Tổ nổi giận nói:
- Đồ thất phu? Tham sống sợ chết, lẽ đâu lại lãnh binh về phá đánh thành, không biết thẹn.
Thái Tổ truyền lệnh quân bắn vãi xuống. Miêu Quân sư can:
- Không nên bắn ? Tôi chắc lòng Đông bình vương trung dũng có thừa, chắc là bị phép thuật của yêu
đạo nên sanh ra như vậy.
Thái Tổ nghe nói suy nghĩ, rồi phán:
- Nếu Quân sư không nói thì trẫm đã mắc mưu yêu đạo rồi. Cao Hoài Đức trung nghĩa thuở nay,
không lẽ lại phản chúa, cũng bởi có cớ gì đây.
Thái Tổ vừa đi xuống lầu vừa khóc. Miêu Quân sư nói:
- Bệ hạ chớ nên phiền não, tuy các tướng bị bắt, song Nam Đường không dám làm hại đâu. Chỉ sợ
một điều là bị vây trong thành lâu ngày, lương thực bị cạn kiệt. Tối nay xin Bệ hạ đặt bàn hương án
cầu phật trời cứu độ, có khi thần tiên đến giúp.
Vua Thái Tổ khen phải. Đoạn có quan coi lương vào tâu:
- Lương còn dùng chừng một tháng nữa là hết.
Ai nấy nghe nói kinh hãi, vua Thái Tổ phán:
- Như vậy thì khổ lắm, biết liệu làm sao?
Miêu Quân sư cũng hết kế.
.
.

.
Lời Bàn.
.
Trong đời người, những kẻ hy sinh có hai mục đích.Một là: Vì quê hương dân tộc, hai là: Vì
phú quí vinh hoa.
Cao Hoài Đức là một trung thần nước Tống bị địch bắt dùng bùa phép để sai khiến phản lại đất
nước. Nếu nước Tống không rõ bản chất của Cao Hoài Đức thì Cao Hoài Đức đã bị giết oan. Cao
Hoài Đức trung với vua không phải vì danh lợi mà chỉ vì đất nước, dân tộc. Chỉ có những kẻ chạy
theo quyền lợi vật chất, để hưởng thụ thì mới gặp đâu theo đó, miễn có lợi cho mình.
Tình yêu quê hương dân tộc là tình yêu cao cả, thiêng liêng. Đối với những loài vật mà còn biết
thương giống nòi, thương cái ổ của mình, huống hồ là con người. Vua Thái Tổ hiểu rõ điều đó nên
không lầm mưu địch.
Trong xã hội con người, mỗi người có một bản chất khác nhau, muốn luận tâm ý kẻ nào, phải biết
bản chất của họ thì mới khỏi bị lầm lẫn.
.
.
.
Hồi Thứ Năm
 Thái Tổ cầu xin cứu nạn,
Trần Đoàn cho tướng hạ san
Đêm ấy, vua tôi Thái Tổ ăn chay cầu nguyện, quì trước bàn hương án cầu trời, và đọc sớ như sau:
“Triệu Khuông Dẫn xin cáo với Hoàng Thiên. Tôi từ mười ba năm trước, đem binh dẹp loạn cứu
dân. Trời cho được nối ngai vàng ra ơn bủa đức, gồm tám phần thiên hạ, đem về một mối giang sơn.
Mạng trời đã cho, lòng người mến phục. Nào ngờ nay Lý Cảnh gởi thơ nhục mạ triều thần. Cực
chẳng đã tôi mới cử binh chinh phạt Kim Lăng, chẳng ngờ mắc kế bị vây, bởi Dư Hồng yêu đạo xúi
Lý Cảnh nghịch thần, dùng tà pháp bắt tướng, bày kế dụ hàng. Tôi thế không đương, lương gần hết.
Nhờ ơn trời phật sai tướng thần thông xuống trừ Dư Hồng yêu đạo, cứu hai mươi vạn sinh linh. Khi
tôi về nước rồi, sẽ giảm thuế tha tù, làm phước mà chuộc tội ".
Thái Tổ vái xong đất sớ, thì đã hết canh ba, vua tôi vào trướng an nghỉ.
Du thần đem sớ về dâng cho Ngọc Hoàng. Biết Thái Tổ bịt vây ba năm tại thành Thọ Châu, vì giết
oan trung thần nên Xích Mi phạt tội. Ngặt lương đã kiệt mà cứu binh chưa tới, mấy mươi muôn sanh
.
.

.
.
linh chắc phải chết đói. Vậy phải sai phi thử vận hai mươi vạn giạ lúa của Lý Mật năm xưa mà cứu
Tống.
Hôm sau, vào lúc trời rạng sáng, các quan đang chầu chực trong thành, xảy có trận gió ào ào, không
biết thứ gì bay vào kho lúa, rồi lại bay ra hết.
Quan coi kho vào tâu:
- Có bầy chuột tha lúa nhả đầy kho, được hơn ba mươi muôn giạ.
Vua Thái Tổ và các quan nghe tâu mừng rỡ vô cùng, định chắc là có thần linh giúp đỡ.
Bấy giờ Trần Đoàn lão tổ ở núi Hoa Sơn biết vua Thái Tổ bị Dư Hồng vây phủ ngày đêm cũng bởi
Xích Mi lão tổ muốn trừng phạt Triệu Khuông Dẫn, về tội giết oan Trịnh ân. Vả lại Trịnh Ấn tuy bị
giết oan, song ta đã cứu được con của Trịnh Ấn là Trịnh Ấn về dạy pháp thuật đã ba năm. Vậy nay
sai nó xuống phò vua Thái Tổ mà chế ngự Dư Hồng, sau nữa kết duyên Tần Tấn.
- Nghĩ rồi, Trần Đoàn gọi Trịnh Ấn vào hầu.
Trịnh Ấn lau nước mắt, theo đồng tử vào , quỳ thưa :
- Chẳng hay sư phụ đòi tôi vào có việc chi dạy bảo?
Trần Đoàn nói:
- Thầy đem con về núi nay đã ba năm, dạy cặp song chùy đã giỏi, nay thầy cho con xuống Thọ Châu,
trước là vua tôi biết mặt, sau nữa là mẹ con sum vầy cho thỏa lòng nhung nhớ. Sau đó se duyên cá
nước, trả nợ áo cơm, đền ơn dưỡng dục. Vậy con hết lòng trung nghĩa mà lo việc công danh.
Trịnh Ấn thưa:
- Nhờ ơn thầy dạy dỗ cứu con thoát hiểm, song vua Thái Tổ không có lòng nhân đức, giết oan cha
con, nay thành cừu địch, làm sao con phò vua Thái Tổ.
Nói xong khóc ròng, Trần Đoàn nói:
- Ngươi đừng lo việc ấy làm chi, vua Thái Tổ giết oan cha con sau đó đã hối lỗi. Ngặt chuyện đã lỡ,
không biết làm sao.
Con là dòng dõi trung thần, trời cho phước lộc, đừng vì thù cha mà oán chúa, cũng nên suy xét bỏ
qua. Vì cha con quen miệng mắng vua nên bị hại mạng. Còn con nay nếu đem lòng phò chúa thì
hưởng phước trọn đời.
Nói xong, truyền tiên đồng đem kim khôi kim giáp giao cho Trịnh ấn, rồi lấy cây kim định hồn găm
trên mão để trừ tà phép của Dư Hồng.
Trịnh Ấn vâng lệnh lạy thầy xuống núi.
Trần Đoàn dặn:
- Con phải đến Thọ Châu, đường xa ngàn dặm, hãy xoè tay ra để thầy làm phép.
Trịnh Ấn xòe tay, Trần Đoàn lấy viết vẽ bùa phong vân, rồi bảo nhắm mắt lại, chừng nào nghe hết
gió sẽ mở mắt ra.
.
.

.
.
Vua Thái Tổ lúc này đang lo sợ cái chiêng lạc hồn của Dư Hồng, bỗng thấy trên mây có một người
bay xuống, lưng có dắt cặp song chùy thì thất kinh la lớn:
- Có thích khách?
Trịnh Ấn nói lớn:
- Không phải thích khách! Ta là Trịnh Ấn con của Nhữ Nam Vương Trịnh ân, vâng lệnh sư phụ đến
Thọ Châu cứu giá!
Các tướng nghe rõ nhìn thấy Trịnh Ấn tuổi độ mười lăm, mình cao, mũi nhọn, mặt đen mắt dài,
tướng mạo mạnh dạn giống như Trịnh ân.
Miêu Quân sư hỏi:
- Ngươi xưng là con Nhữ Nam Vương xuống đây cứu giá sao không làm lễ bệ hạ cho rõ đạo vua tôi?
Trịnh Ấn nghe nói bèn sụp lạy vua Thái Tổ.
Vua Thái Tổ thấy Trịnh ấn, nghĩ nhớ đến Trịnh ân, lòng rất hối hận, ăn năn thì đã muộn, nên mủi
lòng rơi lệ, bước xuống nắm tay Trịnh Ấn nói:
- Cháu hãy đứng dậy, nghe câu chuyện cho rõ ràng. Khi trẫm hai mươi tuổi kết làm anh em với Nhữ
Nam Vương, tuy khác họ mà anh như ruột thịt. Bởi trong cơn say, ta đã làm hại Nhữ Nam Vương,
lúc tỉnh rượu ăn năn không kịp. Nay thấy ngự điệt hình dung như tạc, thì mủi lòng, vậy trẫm cho ngự
diệt giữ chức Nhữ Nam Vương để đền đáp lúc ngự đệ bị thác oan, cho rõ sự lỗi lầm của trẫm.
Vua Thái Tổ nhắc đến chuyện cũ làm Trịnh Ấn khóc ròng, rồi kể lể:
- Ba năm trước cháu bị gió thổi bay mất, được sư phụ là Trần Đoàn đem về nuôi dưỡng, rèn luyện võ
nghệ. Nay sư phụ sai xuống Thọ Châu cứu giá nhưng sức tôi đánh với Dư Hồng sao cho lại, chừng
có đủ mặt năm vị âm tinh mới thắng nổi. Đó là lời thầy tôi dạy bảo.
Vua Thái Tổ mừng rỡ nói:
- Cách ba đêm trước trẫm có cầu trời khẩn phật xin có người tài phép đến Thọ Châu giải vây. Trẫm
có hứa khi dẹp giặc xong rồi sẽ về nước giảm thuế, tha tù mà chuộc tôi. Nay có ngự diệt vâng lệnh
tiên ông xuống đây thì trẫm hết lo sợ.
Trịnh Ấn tâu:
- Thầy tôi có nói Dư Hồng là con chim hồng nhạn, tu cả ngàn năm, học trò của Xích Mi lão tổ, phép
tắc thần thông không ai đánh lại. Tôi đến đây là bảo hộ thành Thọ Châu cho an lòng bệ hạ mà thôi.
Thầy tôi có nói rằng: Đợi đủ mặt năm tướng ngũ âm xuống chừng ấy mới lấy được Nam Đường, và
có đưa tám câu thơ xin bệ hạ xem qua thì rõ.
Vua Thái Tổ lấy xem, thấy bài thơ như vầy:
Muốn thắng Nam Đường đặt cõi ba,
Cho năm tướng gái giúp triều ca,
Phải Lưu Kim Đính cầm mây lại,
.
.

.
Chờ Ngại Ngân Bình cưỡi gió qua,
Còn Út Sanh Hương bay cứu giá,
Nhành hoa Giải Nữ giỏi trừ tà,
Tiến Tiêu Dẫn Phụng về sân Thuấn
Cá nước rồng mây hiệp một nhà.
Vua Thái Tổ xem thơ xong mà không rõ ý bèn trao cho Miêu Quân sư.
.
Miêu Quân sư là người giỏi thiên văn, thông việc xét đoán hiểu rõ lời sấm của Trần Đoàn, biết là có
năm tướng gái đến bảo giá. Đó là: Lưu Kim Đính, Ngại Ngân Bình, Út Sanh Hương, Hoa Giải Nữ,
Tiêu Dẫn Phụng.
Vua Thái Tổ phán:
- Lúc gần đi chinh nam, Thái Hậu có thấy một điềm là trẫm trèo lên cây lý, sa tay rớt xuống, có năm
con chim phụng bay đến đỡ trẫm. Nay Trần Đoàn tiên ông nói có năm tướng gái đến dẹp giặc, thì
chính là điềm ứng mộng đó.
Trịnh Ấn tâu:
- Nay tiên ông sai ngự điệt xuống giúp, vậy xin cho ra trận một phen giải phá trùng vây để về Biện
Lương mà cầu viện.
Vua Thái Tổ mừng rỡ, viết chiếu trao cho Trịnh ấn, sai phá vòng vây đi cầu cứu.
Trịnh Ấn lãnh chiếu, lạy vua lên ngựa, ra khỏi thành mới nghĩ thầm:
- Mình đến Thọ Châu chưa lập được công gì, vậy thì phá trùng vây cho biết sức.
Vua Thái Tổ và Miêu Quân sư đồng lên đứng trên mặt thành xem Trịnh Ấn ra đi thế nào, thấy Trịnh
Ấn tay xách cặp roi, xông vào dinh Nam Đường, bị binh tướng chậu lại, dùng cung tên bắn như mưa.
Trịnh Ấn múa cặp roi gạt hết tên, làm cho binh Nam Đường thất kinh chạy tứ tán, tránh cho Trịnh
Ấn đi ra.
Trịnh Ấn thừa thắng phá hết các vòng binh, cho đến vòng thứ tư thì có đại tướng Huỳnh Phủ Huy
phục binh ở đó, kêu Trịnh Ấn nói:
- Ngươi là tướng gì bên Tống, cả gan dám phá trùng vây?
Trịnh Ấn không thèm xưng tên, cứ múa cặp roi đánh tới làm cho Huỳnh Phủ Huy bị thương chạy
dài. Các tướng Nam Đường xông tới bao nhiêu đều bị Trịnh Ấn đánh chạy ráo.
Phá đến vòng vây thứ bảy, Trịnh Ấn gặp một tướng cưỡi hươu xông ra đón lại. Trịnh Ấn biết là Dư
Hồng liền nạt lớn:
- Yêu đạo! Người biết lòng trời đã định, hãy về núi cho mau kẻo uổng công tu luyện.
Dư Hồng cười lớn, nói:
- Như là đứa con nít, đã không biết sợ chết lại dám nói hỗn hào.
Nói rồi vung gậy đánh Trịnh Ấn hai bên giao đấu một lúc,
.
.

.
Dư Hồng cự không lại bèn giục hươu bỏ chạy. Trịnh ấn xách roi đuổi theo.
Vua Thái Tổ đứng trên mặt thành nhìn thấy thất kinh, kêu lớn:
- Bớ ngự diệt, đừng đuổi theo. Yêu đạo có tà phép rất nguy hiểm.
Lời Bàn
.
Trong cuộc sống, ai cũng có sai lầm, nhưng biết sai lầm mà sửa chữa thì không thiệt hại đến
danh dự, mà còn rèn luyện được bản thân.
Vua Thái Tổ giết Trịnh ân, Trịnh ấn là con của Trịnh Ân vẫn không oán trách, mà tiếp tục phò chúa.
Đó là vì vua Thái Tổ biết ăn năn hối hận, cải tạo lỗi tầm.
Trong cuộc sống con người, nhiều kẻ vì tự ái, tự phụ mà dẫu có lỗi lầm cũng viện lý để che đậy,
không tự sửa chữa, đó là một tai hại rất nguy hiểm cho bản thân không được sửa chữa, rồi tiếp tục
phạm những lỗi lầm khác.
Không ai khen những kẻ tự cao, tự phụ, tìm cách che đậy những lỗi lầm của mình, mà nhiều kẻ hiểu
đời lại ngợi khen những người biết lỗi lầm để sửa chữa.
.
.
.
Hồi Thứ Sáu
Phá trùng vây, Trịnh Ấn viện binh
 Gặp tướng tài, Dư Hồng độn thổ
Dư Hồng thấy Trịnh Ấn đuổi theo, bèn lấy chiêng lạc hồn gióng lên. Vua Thái Tổ càng thêm hết
hoảng, té ra coi lại Trịnh Ấn vẫn như thường.
Trịnh Ấn lướt tới đập xuống một roi, chiêng lạc hồn gần bể.
Dư Hồng thất kinh, xách chiêng chạy dài, không rõ vì cớ gì mà phép hết linh, liền rút cây đạo trảm
thần phóng lên, hào quang sáng rực, Trịnh Ấn trông thấy cũng hoảng kinh, chẳng ngờ hào quang trên
chiếc mão chiếu lên, làm cho đao phép sa xuống đất.
Dư Hồng tức mình thấy hào quang trên mão của Trịnh Ấn chiếu ra biết trên mão Trịnh Ấn có bửu
bối, liền hốt đậu trong túi vải lên, đọc thần chú hóa ra vài ngàn binh mã bao vây Trịnh ấn.
.
.

.
.
Trịnh Ấn nhờ mặc giáp tiên nên binh quỷ không dám đến gần. Trịnh Ấn múa roi đánh binh tướng té
lăn, hóa ra toàn là đậu đen, đậu đỏ.
Dư Hồng ngả lòng muốn trở về e vua Nam Đường cười chê, nhưng muốn đánh nữa lại sợ không
thắng nổi, ngẫm nghĩ một lúc không ra kế.
Trịnh Ấn nhớ lời thầy dặn, biết mình không phải là đối thủ với Dư Hồng nên tính ra tay trước, liền
lấy trái chùy ném vào Dư Hồng.
Dư Hồng tránh không khỏi trúng vào chân mày, đau nhức quá sức, gần té xuống hươu, Trịnh Ấn lại
quăng bồi một trái chùy nữa, Dư Hồng bên độn thổ về trại, còn hươu bị chùy ngã xuống đất chết
tươi.
Trịnh Ấn thấy Dư Hồng độn thổ, tiền múa roi trở lại lên yên giục ngựa trở về nước viện binh. Còn
vua Thái Tổ và Miêu Quân Sư thấy rõ mừng rỡ vô cùng, biết Trịnh Ấn thế nào cũng viện được binh
tướng đến giải cứu.
Trịnh Ấn đi hơn mấy ngày mới tới ải Giới Bài, thấy một vị tướng đi có quân hầu rất đông, trên cờ đề
chữ Phan, coi lạ là cờ nguyên soái.
Trịnh Ấn nghĩ thầm:
- Người này bất quá là một đại tướng mà thôi, lẽ thì phải xuống ngựa chào mình, sao dám làm kiêu,
ngồi trên lưng ngựa.
Vị tướng này là Phan Nhơn Mỹ thấy Trịnh Ấn tuy nhỏ tuổi mà mặc sắc phục nhà vua, nhìn ra là
Trịnh ấn, nên Nhơn Mỹ xuống ngựa hỏi chào :
- Người ngồi trên ngựa đó có phải là con Nhữ Nam Vương không? Vì tôi không biết nên thất lễ.
Trịnh Ấn thấy Phan Nhơn Mỹ giữ lễ, cũng xuống ngựa chào hỏi, và nói:
- Chú có phải là Phan tướng quân không? Cháu thiệt Trịnh ấn, năm trước bị gió thổi bay lên núi, học
võ nghệ tinh thông, nay vâng lệnh tiên ông xuống Thọ Châu cứu giá. Nhờ ơn thiên tử cho thế chức
Nhữ Nam Vương, nay phá được trùng vây về viện binh ứng tiếp.
Phan Nhơn Mỹ nói:
- Như vậy ngài lên ngựa trước tôi nối gót theo sau.
Hai người dắt nhau vào ải Giới Bài, cùng nhau trà nước.
Trịnh Ấn hỏi:
- Chú có rõ bệ hạ và các quan đang bị vây tại Thọ Châu không?
Phan Nhơn Mỹ nói:
- Tôi có nghe, nhưng ngặt không chiếu chỉ, lại phải trấn ải địa đầu nên không dám tự tiện mà bỏ đi.
Song bệ hạ và các tướng bị vây đã lâu nên nay tôi định đánh liều dẫn binh đi cứu giá, may gặp ngài
về đây, vậy thì tôi khỏi đi.
Trịnh Ấn nói:
.
.

.
.
- Tôi đến Biện Lương nhờ giám quốc sai năm nữ tướng ra giải vây cứu chúa, vậy chú giữ ải này cho
nghiêm ngặt, đợi binh trào kéo đến sẽ hiệp nhau phá Nam Đường.
Phan Nhơn Mỹ tuân lệnh, Trịnh Ấn từ giã ra đi không đầy mấy bữa đã đến Biện Lương.
Trịnh Ấn tính nết cũng lỗ mãng như cha, vừa bước vào cửa đã kêu mẹ và đi thẳng vào nhà. Có mấy
tên lính mới chưa từng thấy mặt, đón Trịnh Ấn lại nạt lớn:
- Thằng nhỏ này từ đâu đến mà dám đi thẳng vào cung vua?
Bọn lính xô Trịnh Ấn ra, may có tên lính già nhận rõ là con Nhữ Nam Vương, vội chào hỏi rồi dắt
Trịnh Ấn vào cung.
Mẹ con mừng rỡ, Trịnh Ấn quỳ lạy kể lại mọi chuyện. Đào Tam Xuân nói:
- Có phải vua đòi mẹ đem quân cứu giá không? Dù vua không nói rõ, bổn phận làm tôi phải xông
vào cứu nguy. Chỉ có một điều là cha con công lao rất lớn mà bị chết oan, ấy là vua vô tình bạc
nghĩa, lúc hoạn nạn cùng lo, lúc giàu sang không cùng hưởng. Tuy nay có chiếu mặc lòng, song lòng
mẹ không thấy vui.
Nay mẫu tử đoàn viên, mẹ xin hưu trí cho thông thả, dẫn nhau về xứ cũ mà vui vầy, làm ruộng chăn
tằm, thức khuya dậy sớm, miễn mẹ con ta sum họp là hơn, lựa phải tước lộc quan quyền báu quí.
Trịnh Ấn thấy mẹ giận, khó nổi can gián nên lặng im.
Đào Tam Xuân mừng con, thức đến canh ba chưa ngủ bỗng mơ màng thấy một ông thần mặc giáp
vàng, đội mão vua, hình tựa diêm vương. Đào Tam Xuân thất kinh cúi lạy, nhìn lên thì quả thấy
người ấy là chồng mình, nên kêu lớn:
- Bấy lâu Đại Vương đi đâu, bỏ thiếp một mình.
Nhữ Nam Vương cúi xuống đỡ vợ, khuyên giải nhiều lời:
- Khi trước là chồng vợ, tình nghĩa với nhau, nay đã biệt ly, âm dương cách trở, tuy dứt niềm ái ân
mà không quên nghĩa tào khang. Phu nhân số mạng còn dài, đợi chừng nào tới tuổi, ta sẽ rước lại
cảnh tiên. Trước khi ta bị thác oan là bởi khi vua nên trời giảm thọ tuổi, ấy là số định, phu nhân chớ
đem lòng oán chúa. Nay chúa bị vây tại Thọ Châu, có đốt sớ cầu trời giải cứu, phu nhân chớ chấp
trách mà lỗi đạo quân thần, ta về để mách bảo là muốn cho phu nhân đem binh ta cứu giá, nghe theo
lời Trịnh Ấn cho trọn nghĩa trọn trung.
Đào Tam Xuân nghe mấy lời khuyên không còn hờn trách nữa, giật mình thức dậy mới biết là chiêm
bao.
Sáng hôm sau Trịnh Ấn vào hầu. Đào Tam Xuân rơi lệ than:
- Con ơi ! Số trời đã định, hồn trung nay đã được thành thần, vậy chẳng nên oán vua mà lỗi niềm
thần tử, vậy ta kịp đến đơn trì dâng chiếu lãnh binh ra Thọ Châu cứu giá.
Trịnh Ấn nghe mẹ nói mừng rỡ, theo mẹ vào chầu.
Giám quốc là Tân Vương Triệu Quang Nghĩa thấy Đào Tam Xuân trình sớ, mới hay là Thái Tổ bị
.
.

.
vây tại Thọ Châu nên than rằng:
.
- Vương huynh ngự giá thân chinh làm chi cho đến nỗi bị vây, khó biết việc hung kiết.
Nói rồi cho đòi năm nữ tướng vào nghe chiếu.
Năm nữ tướng vâng lệnh lo đem binh đi cứu giá, duy chỉ có một mình Triệu Hoàng Cô nói:
- Cao Hoài Đức tại sao lại phản, phải hỏi cho rõ ngọn ngành.
Trịnh Ấn quì thưa:
- Tôi có nghe rõ là Cao Nguyên soái bị Dư Hồng bắt, sau đầu giặc mà đánh vua.
Triệu Mỹ Dung sợ hãi vào lạy anh mà chịu tội. Triệu Quang Nghĩa nói:
- Cao nguyên soái lòng trung trọng nghĩa, trong thiên hạ đều hay, ngự muội chớ phiền, chắc có sự gì
mờ ám. Hoàng Cô than thở, rồi từ tạ về dinh.
Lời Bàn.
Tình vợ chồng, cha mẹ thiêng liêng, nếu phải đem trách nhiệm vua tôi mà cân nhắc, thì không
xoá hết nỗi đau lòng.
Triệu Khuông Dẫn chém Trịnh ân, dù đã hối hận, thì việc hối hận chỉ là việc sửa chữa lỗi lầm đối
với Triệu Khuông Dẫn, còn Đào Tam Xuân, và Trịnh Ấn là tình nghĩa vợ chồng, con cái, tình cảm
thiêng liêng ông thể nào nguôi được. Vì chuyện đã lỡ rồi nên Đào Tam Xuân và Trịnh Ấn phải buộc
lòng xóa những nỗi đau buồn để làm nhiệm vụ phò vua cứu nước. Hoàn cảnh như vậy chúng tôi
không thể trách Đào Tam Xuân và Trịnh Ấn không lưu hận trong lòng. Ở đây, tác giả viết câu
chuyện đã đặt tình cảm cá nhân và nhiệm vụ đất nước để diễn tả lòng đại nghĩa của mẹ con Đào
Tam Xuân. Thật là một hoàn cảnh đáng thương.
.
.
.
Hồi Thứ Bảy
Cao Quân Bảo trốn mẹ đến Thọ Châu
 Đào Tam Xuân cử binh đi cứu giá
Triệu Hoàng Cô về đến dinh buồn bã . Thế tử Cao Quân Bảo thấy vậy hỏi:
- Chẳng hay mẹ vào chầu có nghe việc chi mà mặt mày buồn bực như vậy ?
.
.

.
Triệu Hoàng Cô nghe con hỏi, sụt sùi nói:
.
- Chắc con chưa hay sự cố. Cha con làm nguyên soái bị yêu đạo bắt đã sợ chết mà hàng Đường, lại
đem binh về đánh chúa, có phải làm xấu cả họ Cao không? Mẹ không rầu sao được.
Cao Quân Bảo nghe nói thất sắc, bèn hỏi:
- Mẹ ơi. Chẳng hay ai về thuật chuyện này.
Triệu Hoàng Cô nói:
- Trịnh Ấn về thuật lại, mà trong chiếu cũng nói xa gần, không phải đồn đãi đâu mà bán tính bán
nghi.
Cao Quân Bảo ngẫm nghĩ một lúc, rồi nói:
- Cha con trung nghĩa trên đời, mẹ cũng từng biết, lẽ nào sợ chết mà đầu Nam Đường? Có lẽ cha con
gặp biến mà phải tùng quyền, xin mẹ đừng phiền. Nay có chiếu viện binh, con xin đến Thọ Châu cứu
giá, một là đền nợ nước, hai là biết rõ tin cha.
Triệu hoàng Cô nói:
- Các tướng đều bị địch bắt, con còn nhỏ chưa từng việc chiến chinh, có đi cũng vô ích. Cực chẳng
đã mẹ phải đi vì có chiếu triệu của vua. Như con có nhớ thì gởi thơ thăm mẹ cũng được, hãy cố gắng
tập luyện nghiệp võ nghề văn, chẳng nên ham chơi mà quên lời dặn.
Cao Quân Bảo nhiều lần năn nỉ mà Triệu Hoàng Cô vẫn nhất mực không cho, túng thế phải vào thư
phòng thuật lại cho em là Cao Quân Bội nghe.
Cao Quân Bội nói:
- Vương bá Mẫu đã chẳng cho anh theo, còn tin chiến trận mập mờ làm sao an lòng được. Lúc này là
lúc nên lập công, anh thừa dịp lén trốn đi, còn phần em ở nán chờ cơ hội. Em tính như vậy ý anh
nghĩ sao?
Cao Quân Bảo nói:
- Lời nói rất hợp ý ta. Vậy em đừng tiết lộ với ai.
Hôm sau, Cao Quân Bảo nai nịt hẳn hòi, giả đò đi săn bắn.
Triệu Hoàng Cô thấy vắng mặt hỏi bọn gia nhân, nhưng không ai biết cả.
Triệu Hoàng Cô nghĩ thầm:
- Không xong rồi? Nó đã nghênh ngang, không nghe lời dạy, thế nào cũng bị giặc bắt mà thôi.
Lý phu nhân khuyên giải:
- Cháu gần hai mươi tuổi, võ nghệ tinh thông, nhưng đơn thân độc mã chẳng khác nào xông vào cá
chậu chim lồng. Nay nó đến Thọ Châu thế nào cũng đi qua ải Đồng Quan chắc là mượn binh đi cứu
giá. Xin chị sai người theo ngã đó mà bắt về.
Triệu Hoàng Cô nói:
- Nó ra đi ba bốn bữa rày, dù cho người theo cũng không kịp.
.
.

.
Lý phu nhân nói:
- Dẫu theo không kịp cũng hỏi thăm cho biết tin tức.
Triệu Hoàng Cô nói:
- Sẽ sai người đi theo.
Lý phu nhân hỏi Cao Quân Bội:
- Mày có bày tính gì với anh mày không?
Cao Quân Bội nói:
- Anh tôi nay đã trốn rồi, tôi ở nhà một mình buồn bực, xin cho theo dò la tin tức.
Triệu Hoàng Cô nói:
.
- Con nhà tướng ít chịu ngồi không, nếu chẳng cho nó đi, chắc nó cũng trốn, thà đem theo thì khỏi lo.
Lý phu nhân vâng lời, Cao Quân Bội vô cùng mừng rỡ. Hôm sau, Triệu Hoàng Cô và Lý phu nhân
tựu đến võ trường thì gặp La thị, Dư thị, Nhị vị phu nhân, cùng nhau mừng rỡ đồng vào ra mắt Đào
Tam Xuân là nguyên soái lãnh binh cứu giá. Triệu Hoàng Cô đi tiên phong, Lý phu nhân làm tham
quân, La phu nhân đi tả chi, Dư phu nhân đi hửu giựt.
Triều đình văn võ bá quan đưa tiễn. Đào Tam Xuân truyền nổi ba tiếng pháo, kéo mười vạn binh lên
đường. Các nữ tướng đều kéo đi rầm rộ, qua khỏi sông Hoàng Hà, đến Ngôi Dương, khi lên bộ, lúc
xuống thuyền rất cực nhọc.
Lúc này Cao Quân Bảo tuy đã trốn đi, nhưng không dám noi theo đường lớn, sợ mẹ sai người theo
bắt, nên cứ tuôn bụi băng rừng, miễn đi cho khỏi. Đường sá gập ghềnh, một thân trơ trọi, đói thì ăn,
khát thì uống, ngựa không ngừng vó, mệt mỏi vô cùng.
Ngày kia, Quân Bảo đến một xóm làng, gặp cơn mưa, xin vào trú ngụ. Khi đến cửa gặp một ông già,
hỏi:
- Chú bé này đi đâu đó?
Cao Quân Bảo nói:
- Tôi lỡ đường rủi bị mắc mưa, xin vào trú ngụ một đêm.
Ông già ấy là Lưu An trả lời rằng:
- Xin quí khách ngủ nhờ chỗ khác, vì xóm này hôm kia bị ăn cướp, nên chúng tôi cấm người lạ mặt.
Nói xong, ông già ấy đóng cửa đi mất.
Cao Quân Bảo nghĩ thầm:
- Nếu chẳng vô đây thì không chỗ trú.
Cao Quân Bảo cứ năn nỉ mãi, bọn gia nhân giả cách không nghe, làm cho Cao Quân Bảo tức hét
lớn:
- Đồ chó má? Ta là khách lỡ đường, xin cho vào nghỉ đỡ, nếu không bằng lòng cũng bước ra nói dứt
một lời, lẽ đâu lại không biết phải, giả điếc làm lơ. Để ta phá cửa xem thử thế nào.
.
.

.
Bọn gia đinh nghe nói cười với nhau:
.
- Người đó bộ điên khùng, hình như một kẻ đi săn chớ không phải bọn lâu la, tướng cướp, phá cửa
sao nổi.
Cao Quân Bảo nổi giận, hét một tiếng, xô hai cánh cửa gãy đôi. Bọn gia đinh thất kinh, than:
- Tướng học trò mà giò ăn cướp! Nếu gặp tay chánh đảng chắc chết hết cả xóm.
Tức thì chúng vào báo với tiểu thơ. Cao Quân Bảo thấy chúng rùng rùng chạy hết, biết sẽ có chủ nhà
ra làm dữ, nên tạm ngồi ghế ngoài, coi chủ nhà ra sao. Cao Quân Bảo vẫn biết mình phá cửa là tội
lỗi, song nghĩ mình là con cháu nhà vua, năn nỉ người ta cũng kỳ.
Giữa lúc đó có tiếng nói:
- Ông ra đó.
Cao Quân Bảo thấy một ông già phất phơ tóc bạc, mặc áo rộng đen, mắt sáng tỏ sao, nhắm tuổi chưa
cao, cầm quạt lông quá lớn.
Ông chủ xông ra trước, nhìn thấy Cao Quân Bảo là chàng trai lịch sự, tướng mạo khỏe mạnh, tuổi
chừng hai mươi, trong tay có cầm thương, ngựa buộc trước cửa, khôi giáp đoan trang, làm cho ông
chủ biết đây là con nhà tướng, hèn đổi giận làm vui.
Còn Cao Quân Bảo thấy ông già thái độ hoà nhã, thì hổ mình tính nết ngang tàng, nên làm ra vẻ cung
kính.
Ông chủ nhà điềm đạm hỏi:
- Lúc nãy bọn gia đinh nó không hiểu nên đã vô lễ với quí khách. Chỉ vì hôm kia có bọn ăn cướp vào
xóm nên tôi mới cấm người lạ mặt ngủ nhờ, e chúng làm nội công ngoại kích. Nay gặp khách quí mà
tôi không biết để tiếp nghênh, thật có lỗi.
Cao Quân Bảo nghe chủ nhà nói có lễ nghi, thì cám cảnh vô cùng, ăn năn vì mình là con nhà tướng
mà hung hăng vô lễ, nên vội bước xuống ghế, bái ba bái, nói:
- Tôi còn nhỏ tuổi, tánh hay thô lỗ, lỡ làm hư cánh cửa, có tội rất nhiều, bởi trời mưa ướt quần áo,
túng phải vô nhà mà núp, vậy tôi xin đền tiền mà chuộc lỗi mình. Tôi tạm ngoài hiên, đợi rạng ngày
sẽ dời gót, song tôi chưa rõ lão trượng tên họ là chi.
Ông chủ nhà nói:
- Cánh cửa đáng giá là bao nhiêu mà nói việc bồi thường. Tôi họ Lưu tên Nãi, buồn đời nên ở ẩn nơi
đây. Chẳng hay công tử quý danh là chi, xin cho tôi rõ.
Cao Quân Bảo không muốn nói thật, nên né tránh:
- Tôi họ Cao tên Bội, làm chức chỉ huy, vâng lệnh thiên tử đi Thúc Lương, tình cờ ghé lại đây, may
gặp ông thương tưởng.
Lưu Nãi nghe nói, mừng rỡ, hỏi:
- Như vậy ngài là một vị tướng quân, để ngồi ngoài hiên sao phải, xin mời vào nhà khách dùng dưa
.
.

.
muối với tôi.
.
Nói rồi dắt tay Cao Quân Bảo vào nhà trước. Cao Quân Bảo dựng cây giáo vào dựa cửa. Lưu Nãi
truyền gia đinh dắt ngựa vào chuồng, dặn dò cho ăn tử tế. Một già một trẻ dùng rượu cúc trà thung
nói chuyện rất vui tai, hiệp ý.
Bọn gia đinh dọn tiệc, chén ngọc que vàng bưng ra, trân châu hải vị ê hề, thật là một bữa tiệc thịnh
soạn.
Tánh Quân Bảo còn con nít rượu vào sao khỏi lời ra, khi bọn gia đinh đã tản đi hết, với nói Lưu Nãi
rằng:
- Tôi thấy ông tử tế, nên nói thiệt cho ông biết. Tên tôi là Cao Quân Bảo, con trai Đông Bình Vương,
cha tôi đánh bắc dẹp nam, dựng nên cơ nghiệp nhà Tống.
Rượu càng hứng càng nói nhiều, chẳng ngờ Lưu Nãi là em họ Lưu Sùng ở nước Bắc Hớn. Lưu Nãi
làm chức trấn quốc tướng quân, khi trước cần quân đánh tống, bị Cao Hoài Đức đánh thua một trận,
còn vua Bắc Hớn ham mê tửu sắc, không ai can gián được nên Lưu Nãi bỏ về ẩn trú nơi đây.
Khi nghe Cao Quân Bảo khoe tài Cao Hoài Đức anh hùng, thì nghĩ đến vua anh, động lòng rơi lệ.
Cao Quân Bảo đang trò chuyện vui vẻ, bỗng thấy Lưu Nãi lau nước mắt, thì thất kinh đứng dậy hỏi:
Tôi thuật lại chuyện người trên của tôi, cớ gì mà ông lại khóc?
Lưu Nãi nói:
- Không can gì hết, chỉ vì tôi có việc sầu tư.
Cao Quân Bảo biết mình nói lỡ lời, không biết làm sao, hèn bước xuống ghế chấp tay chịu tội.
Lưu Nãi đỡ dậy, nói:
- Ấy là việc cũ, cũng chẳng can chi. Trước đây hai mươi năm hai nước tranh đua, ai thờ chúa nấy, vì
số trời đã định. Vả lại, vua Bắc Hớn đam mê tửu sắc, không nghe lời can gián, nên tôi trả chức mà ẩn
mình cho khỏi tai họa. Tôi muốn gởi một lời cho thái tử, nếu thái tử không chấp thì tôi mới dám nói.
Cao Quân Bảo hỏi:
- Ông là người trên trước, từng trải việc đời, nay đem lòng thương mến mà dạy bảo, thì tôi hết sức
cám ơn, xin lắng tai nghe dạy.
Lưu Nãi nói:
- Kẻ trượng phu coi mòi mà lui trước, người quân tử sợ họa phải dè chừng. Xin thế tử từ nay nếu bèo
nước gặp nhau, xin đừng tỏ thiệt cùng kẻ mới quen, e họ trở mặt hại mình phải lụy.
Cao Quân Bảo vâng dạ, nói:
- Ông đã ban lời vàng ngọc, tôi xin tạc dạ ghi xương, vâng lời dạy bảo trọn đời, không phải cám ơn
một lúc.
Hai người ngồi ăn uống cho đến lúc trống đổ canh ba, Lưu Nãi bảo người tâm phúc là Lưu An trải
chiếu hoa cho thế tử am giấc điệp, Lưu Nãi say quá, vừa vào phòng đã nằm ngủ mê man.
.
.

.
.
Còn Cao Quân Bảo bước vào phòng khách, ngồi với ngọn đèn chong, vì có việc sầu riêng nên không
ngủ được chỉ mong đến Thọ Châu để cứu giá.
Bấy giờ Lưu Kim Đính tiểu thơ là con Lưu Nãi mồ côi mẹ từ thuở bé, mộ đạo thần tiên. Lúc mười ba
tuổi đã luyện binh thơ nổi tài kiếm cung, được Lưu Nãi dắt lên núi Lê Sơn cho học phép tiên với
Thánh Mẫu, kết làm chị em với bốn nàng con gái xinh đẹp là Tiêu Dẫn Phụng, Út Sanh Hương, Ngại
Ngân Bình, Hoa Giải Nữ. Trời sanh năm ả này phòng sau thâu cơ nghiệp nhà Đường, dựng giang
sơn nhà Tống. Bà Lê Sơn Thánh Mẫu thương Lưu Kim Đính hơn bốn nàng kia, nên truyền phép cho
năm vì sao để sau giúp Tống, mà Lưu Kim Đính được Lê Sơn Thánh Mẫu truyền dạy nhiều hơn cả,
nào là giá võ đằng vân, nào là di sơn đảo hải, nào là hô phong hoán võ, sái đậu thành binh, với các
phép thần thông rất nhuần nhã. Bà đã nói cho Lưu Kim Đính biết trước rằng:
- Ngày sau con có số kết duyên cùng tướng Tống, dòng dõi nhà vua.
Bấy giờ Lê Sơn Thánh Mẫu tiếp được chiếu trời truyền Thánh Mẫu phải cho năm vì sao xuống núi
giúp Tống.
Bởi vậy bà cho năm nàng đâu về đó. Lưu Kiến Đính về nhà được ít tháng, thì Cao Quân Bảo đến nơi
phá cửa.
Lúc Cao Quân Bảo làm dữ, thì con đòi có vào báo với tiểu thư nhưng Kim Đính ngờ là tướng cướp
nên nai nịt ra, kế nghe gia đinh nói không phải là tướng cướp, nên tiểu thơ hỏi lại:
- Vậy người đó là ai mà hung dữ như vậy?
Bọn gia đinh thưa:
- Người đó là một quan chức bên Tống, ông nhà đã rước vào phòng khách đãi đằng.
Sau đó, Lưu An nói:
- Người ấy là con Đông Bình Vương, tên là Cao Quân Bảo.
Lưu Kim Đính nghe nói nhớ lại lời thầy, lén ra sau bức bình phong xem thử người thế nào mà hung
dữ như vậy? Chẳng ngờ vừa nhìn qua thấy chàng mặt sáng như ngọc, môi đỏ như son, miệng nói rất
có duyên, lời lời kinh sử, thật thông thái nghề văn, am tường nghiệp võ.
Lưu tiểu thơ thấy mặt, biết rõ duyên trời bèn van vái cho cha mẹ xét định phải chỗ trao thân. Song
nghĩ lại, người ta là lá ngọc cành vàng, việc lứa đôi ở tại mẹ cha, không mai mối khó gầy duyên loan
phụng.
Lúc này Cao Quân Bảo ngại nói lỡ lời, sợ e mắc họa nên không dám ngủ, Lưu An vào thấy Cao
Quân Bảo còn ngồi, nên hỏi:
- Sao thế tử không nghỉ ngơi mai đi cho khỏe?
Cao Quân Bảo nói:
- Tôi vì lạ nhà không ngủ được, trong lòng lại có việc riêng nên giấc ngủ không yên.
Quân Bảo lại ngồi nói chuyện với Lưu An để chờ trời sáng.
.
.

.
Khi hỏi đến việc nhà ông chủ đặng có mấy người con thì Lưu An đáp:
.
- Ông chủ tôi góa vợ, mải lo việc nước việc binh, chỉ sánh hạ một vị tiểu thơ, nay mới mười lăm tuổi
mà võ nghệ rất cao cường.
Cao Quân Bảo nói:
- Chẳng hay nghề võ tiểu thơ để dùng vào việc gì?
Lưu An đáp:
- Tôi nói thật tình, tiểu thơ tôi không phải tầm thường đâu! Chẳng những thông thạo về văn võ mà
nhan sắc thì cá lặn chim sa. Nếu ra giúp nước thì ít ai bì kịp, trên đời có một, e không kẻ nào sánh
kịp.
Cao quân Bảo chúm chím cười và nói:
- Từ xưa đến nay thì con gái cầm kỳ thi họa, nếu biết võ nghệ cũng chỉ sơ sài, còn luận về cầm đao ra
trận, khiển tướng điều binh, phò vua dẹp giặc thì có mấy ai được nổi tiếng. Vả lại tiểu thơ dù tài giỏi
đến đâu, không gần thầy giỏi bạn hay, hiu quạnh một mình thì làm sao nổi tiếng được. Tôi đây chẳng
phải là một tướng nhác, sợ sệt những lời nói ngoa, xin đừng quá khoe khoang.
Cao Quân Bảo đã không tin, lại kiêu ngạo nữa, nên mới nói như vậy
Lời bàn.
Tình yêu là lẽ sống con người là bản chất thiên nhiên, dù trong tham vọng tranh đoạt chém giết
lẫn nhau, tình yêu vẫn luôn luôn chớm nở trong lòng người.
Quan niệm Đông Phương, mọi việc đều do trời định, từ cuộc chiến tranh trên việc hôn nhân lứa đôi.
Con người sống do quy luật thiên nhiên và hứng chịu những hậu quả của hành động con người. Lưu
Kim Đính, một gái sắc nước hương trời, tài năng lỗi lạc, nhưng lại mong ước được kết hôn với trai
hào kiệt, thì đó cũng là lẽ tự nhiên, nhưng ở đây tác giả lại quy cho lương duyên trời định. Lẽ trời là
quy luật của mọi sinh vật, nhưng lẽ trời cũng phải cấu tạo trên bản năng của con người, không thể
định đoạt một cách nhất thiết.
Trong quang cảnh chém giết, tranh đoạt uy quyền, thế lực vẫn nảy sinh tình yêu, đó là lẽ sống, là
quy luật bảo tồn lẽ sống vậy.
.
.
.
.
.

.
Hồi Thứ Tám
Kim Đính treo bài khích tướng
Quân Bảo đập bảng chiêu phu.
.
Lưu An thấy thế tử không tin, bèn cười rằng:
- Phải chi thế tử tới trước đây vài ngày, mới thấy tài tiểu thơ thứ nhất.
Cao Quân Bảo hỏi:
- Như tới sớm thì thấy tài chi?
Lưu An nói:
- Bởi vì cõi bờ loạn ly, thiên hạ chia phôi, những trai võ nghệ quen cầm giáo múa đao, cậy mình là
anh hùng, coi người như thảo giới. Họ chụm ba chụm bảy đi phá xóm làng, sáng ẩn núi rừng, tối ra
thành thị. Canh ba, hôm kia, có năm trăm ăn cướp tên nào cũng thương búa, to nách lớn lưng, mắt
sáng như sao, tiếng vang dường sấm, kéo tới dộng cửa. Tiểu thơ bèn lên ngựa cầm đao đánh một hồi
như Triệu Tử trận Đương Dương, được mấy khắc chẳng khác Mã Siêu dạ chiến. Tiểu thơ đánh lũ ăn
cướp tan tàn như hoa rơi lá rụng, đứa thì quì lạy xin tha, đứa thì gãy chân nằm vạ. Chủ tôi không nỡ
giết, khuyên chúng nó ăn năn, vì người sẵn lòng nhơn tha hết như Thành Thang mở lưới. Phải khi ấy
có thế tử, làm sao cũng ngợi khen, để hồi hôm mới vô, bọn gia tướng hồ nghi là chánh đảng !
Cao Quân Bảo nghe thuật chuyện lấy làm lạ, bèn nói lớn:
- Thiệt là con gái anh hùng đó! Chắc là trời có sanh trai cọp sánh duyên mới xứng gái rồng, lẽ nào
hạc lộn bày gà, châu xen mắt cá ? Vậy tiểu thơ đã có người dâng ngọc hay còn kén khách giao cầu?
Hoặc là tu chín kiếp chưa thành, nên mới đặng ba sanh chẳng rủi đó!
Lưu An cười nói:
- Thế tử chớ hỏi thăm việc ấy, tôi nói ra nhắm ngài cũng không tin, dầu chẳng nghi nan cũng là biếm
nhẽ.
Cao Quân Bảo nói:
- Nếu không duyên đằm thắm, lẽ nào tôi dám cười chê?
Lưu An nói:
- Xưa nay việc gả cưới tự nên cha mẹ, ấy là thiên hạ thường lệ. Chủ tôi còn đang kén rể đông sàng,
xứng hương trời sắc nước. Cũng có nhiều chỗ cầu hôn, song còn chờ kẻ bắn binh tước mới đành.
Còn tiểu thơ lại cầm duyên, chê kẻ nọ bất tài, chê người kia liệt nhược, nên có xin cha cho phép treo
bảng chiêu phu. Chẳng luận hèn sang, ai đánh lại tiểu thơ, thì ông tôi bắt rể? Từ treo bảng tại non
Song Tỏa, bốn phương hào kiệt đồng hay, anh hùng các xứ tới hoài, cậu nào cũng khoe tài võ nghệ.
Mà tráng sĩ mọi nơi thua mãi, thảy đều sút miếng nữ lưu. Khi xưng tên thì gương mặt tươi như
.
.

.
.
chong, lúc đấu lực thì mồ hôi nhỏ giọt, miễn đặng còn hồn, hết mong việc nọ, cho nên bảng chiêu
phu ít kẻ dám nhìn, núi Song Tỏa không ai tìm đến! Sài Thiệu chưa ra mặt, Lý thị buồn cũng phải
chờ duyên. Đinh San chẳng trổ tài, Lê Huê tức đã thành ở góa!
Cao Quân Bảo nghe nói khích, tức thí nổi nóng ngứa nghề, bèn nói lớn:
- Nếu trong đời có tướng gái hơn người, tôi xin học đường roi kẻo uổng. Vậy ngày mai tôi xin tỉ thí,
kẻo hổ mặt anh hùng, song lại thắng tiểu thơ thì bị ông bắt rể, bày đặt cho rồi cuộc hoa chúc, thì trễ
việc giải cuộc vây có phải làm mất thảo với cha, không ngay cùng chúa không?
Quân Bảo còn nghĩ việc xa gần, cân điều nặng nhẹ, xảy ra gà gáy sáng, trống đã tan canh, vừa tạnh
hột mưa, bóng hồng ló rạng. Cao Quân Bảo nóng lòng trung hiếu, cần việc chiến chinh, phần Lưu
Nãi ngủ trưa, nếu đợi dậy giã từ thì e trễ việc, mới nói với Lưu An rằng:
- Đáng lẽ đợi ông thức dậy, từ tạ mà đi, ngặt việc gấp quá chừng, nên chờ không đặng. Xin quản gia
làm ơn nói lại, tôi cảm tình hậu đãi đến thác không quên, đợi thắng trận về trào, sẽ tính đến tạ ơn đáp
nghĩa.
Lưu An cố ý mời mọc nhiều phen mà Cao Quân Bảo kiếu hoài không chịu ở nán lại. Lưu An túng
thế phải đem ngựa cho Cao Quân Bảo. Cao Quân Bảo cầm giáo lên yên từ giã vài lần rồi giục ngựa
ra khỏi ngõ. Lưu An thế chủ đưa một đoạn đường, thấy Cao Quân Bảo đi ngay không quẹo qua núi
Song Tỏa thì
Lưu An kêu lớn nói:
- Thế tử đi lạc đường rồi đó ?
Cao Quân Bảo dừng ngựa ngó lại nói:
- Cám ơn quản gia, chẳng hay ngã nào đi xuống Nam Đường?
Lưu An chỉ qua lộ bên tả, đặng đi ngang Song Tỏa sơn, là chỗ Kim Đính treo bảng chiêu phu. Ấy là
mưu Kim Đính rập với Lưu An đặt lờ đuổi cá.
Cao Quân Bảo nghe nhắc, hèn nóng họng ngứa nghề, quay ngựa qua Song Tỏa sơn, sẵn dịp thuận
đường, coi bảng chiêu phu luôn thể.
Xảy thấy trên núi tre cao tàn rậm, vượn hú chim kêu, dưới thì đồng trống mênh mông, lộ ngay thẳng
tắp, dựa núi có treo tấm bảng cao chừng hai thước bề dài, một thước bề rộng. Trên bảng có đề hai bài
tứ tuyệt như sau:
Bài thứ nhất:
Gái rồng thường bữa múa đao thương
Chưa gặp trai hùng sức dám đương,
Huề đặng cũng đàng theo sửa tráp,
Liệu thua làm rể, chớ phô trương !
Bài thứ hai:
.
.

.
Tài hay sẽ đến đấu đao thương
Sức yếu đừng mơ tới chiến trường,
E sĩ sa cơ mà uổng mạng.
Thuốc hàn không có, khó liền xương.
Cao Quân Bảo thấy lời nói xấc xược nên đỏ mặt phừng phừng, liền mắng:
.
- Thiệt con nhỏ này phách quá ! Dầu là trai hào kiệt cũng chưa dám đăng bảng như vậy. Sức con gái
bao nhiêu, mà khinh khi anh hùng quá vậy. Nếu ta để lại lời kiêu ngạo, thì mất thể trượng phu ?
Nói rồi đấm một đấm khiến tấm bảng gãy làm hai khúc.
Lưu An ngó thấy hèn la lớn rằng:
- Cha chả ! Thế tử báo hại rồi, về bữa nay chắc bị quở phạt.
Cao Quân Bảo nói:
- Tại tôi đấm gãy bảng mà chú bị quở phạt phải không?
Lưu An nói:
- Bữa nay nhằm phiên tôi gác, như có ai muốn thí võ thì về thưa lại với tiểu thơ, nay thế tử không
quyết việc giao thương, mà lại làm hư tấm bảng, té ra tôi chẳng gìn giữ, không tội làm sao?
Cao Quân Bảo nói:
- Tôi thấy hai bài thơ nói phách, nổi xung đánh gãy lỡ rồi.
Quản gia có sợ bị quở, thì tôi ở đây mà đợi, chú về mời tiểu thơ ra đặng tôi khuyên giải phân minh,
chú khỏi tội lỗi.
Lưu An nghe nói mừng lòng, lật đật chạy về. Ấy là trời khiến trai tài gái sắc gặp hội nhân duyên, vợ
Bắc chồng Nam phải thời hào hiệp. Cái nợ tam sanh trời đã định trước, bài thơ tứ tuyệt quá lời mai ?
Lưu Kim Đính từ khi thấy Cao Quân Bảo diện mạo khôi ngô, hình dung tuấn tú, phải lòng vừa ý, mê
mặt đồng tình. Nàng nghĩ tới thánh mẫu không sai, nhắm việc nhơn duyên đã xứng ngặt một điều là
lòng đã quyết, tình khách khó dò. Thế thường phụng cầu hoàng, không lẽ hoa tìm bướm? Canh
khuya không hề nháy mắt, sáng rạng vội vã điểm trang, tiểu thơ ngồi tủi phận hồng nhan lòng đau
quặn quặn. Xảy thấy con đòi mặt mày hồ hải vào thưa:
- Quản gia Lưu An về đó, hối tôi vào thưa với cô rằng cậu ngủ nhờ hồi hôm đi ngang núi Song Tỏa
đấm gãy bảng chiêu phu, cậu ấy còn chờ cô, đặng thử tài cao thấp.
Lưu Kim Đính nghe nói dường hạn gặp nước vào, liền đổi buồn làm vui. Biết Quân Bảo mắc kế
mình, chắc nhân duyên tiền định song chẳng nên thố lộ, e miệng thế chê cười, nàng liền mặt giận mà
nói:
- Người này quả vô tình, đã phá cửa hồi hôm, nay lại đập bảng chiêu phu bể nữa!
Nói rồi truyền bốn con đầy tớ tên là Xuân Đào, Hạ Liên, Đông Mai, Thu Cúc, bốn người này là tì nữ
của Lưu tiểu thơ ca tập luyện. Bốn nàng vâng lệnh chủ nai nịt gọn gàng. Lưu Kim Đính cầm siêu,
.
.

.
bốn tì nữ cầm song kiếm. Tớ đi chân, chủ cỡ ngựa, đồng ra núi Song Tỏa một lần.
Lưu Kim Đính ngó thấy Cao Quân Bảo dừng ngựa đợi làm bộ hỏi:
.
- Ông thân tôi bày bảng chiêu phu mà kén rể đông sàng việc ấy không can phạm tới công tử, sao
công tử đập bảng bể đi? Thế công tử khi người quá!
Cao Quân Bảo nói:
- Xin tiểu thơ bớt giận nghe lời thẳng bày ngay, việc hôn nhơn do ở lệnh cha mẹ, tại nơi lời mai mối,
không lẽ làm bia chọn rể, dựng bảng kén chồng? Thế thường trâu tìm cột chớ bao giờ cột lại tìm trâu.
Vả lại tánh tôi ghét lời kiêu ngạo mà câu thơ trong bảng cậy mình có sức coi bốn biển không người.
Tiểu thơ là phận khuê môn bất xuất, thêu rồng vẽ phụng, khảy nguyệt hoặc ngâm thi, là tài nghệ thục
nữ, chớ như việc cầm đao lên ngựa ra trận giao thương, ấy là phận đàn ông, không phải nghề con gái.
Tôi xin từ nay sắp tới, tiểu thơ phải nhớ câu tại gia tùng phụ, đừng dựng bảng chiêu phu nữa. Khi
nào mẹ cha định đâu, thì con đành đó.
Lưu Kim Đính nói:
- Thấy thơ còn ngại thử sức mới tin, bởi công tử chưa bị ngọn đao của ta nên còn khinh suất!
Cao Quân Bảo nói:
- Cũng muốn vâng lời đó, song còn ngại dạ này, sợ mũi thương của ta chẳng biết vị tình mà miệng
thế trách rằng bạc ngãi. Trước cám ơn ông thết đãi, sau là thương dáng đó mảnh mai, lẽ nào gái lại
hơn trai, mà ve kia so chấu? Xin nàng trở ngựa, cho ta dời chân.
Lưu Kim Đính nói:
- Thiếp dựng bảng kén duyên, người người đều thua tài chạy mặt. Công tử chẳng xét mình thiếu sức,
cứ quen tánh khinh người, làm oai đánh bảng lỡ rồi, kiếm chuyện nói cho khỏi đánh! Nay thiếp cũng
dung người lầm lỗi, song đừng xưng đấng anh hùng, e khi gặp gái chẳng lành mà phải làm ma oan
mạng! (Tiểu thơ nói khích cho công tử nổi xung)
Cao Quân Bảo nghe nói giận lắm, bèn đáp lại:
- Sao, sao tiểu thơ cũng muốn thí võ với ta à! ấy là tại nhà ngươi sanh sự, chớ trách ta chẳng vị tình!
Nói dứt lời, Cao Quân Bảo hèn đâm một giáo. Lưu Kim Đính đưa siêu ra đỡ. Hai người đánh ẩu đả
một hồi, ban đầu Cao Quân Bảo thấy Lưu tiểu thơ, mặt hoa tươi trắng vóc liễu dịu dàng, ngỡ là con
gái tầm thường, học võ nghệ được đôi ba miếng, giỏi đá mấy thằng ăn cướp, không lẽ nào sánh với
trai anh hùng? Chẳng ngờ đánh sáu mươi hiệp có dư, gái rồng không thua trai cọp, múa siêu đao
sáng giới gạt lưỡi giáo ngả ngang. Chừng ấy Cao Quân Bảo mới khen gái anh hùng, hết ỷ mình hào
kiệt, hèn chi nói kiêu cũng phải, sức mạnh khá khen!
Lưu Kim Đính thấy ngọn thương của Cao Quân Bảo như rồng, tài cao khó sánh, sức mạnh không
đương, nếu thầy không dạy đao vàng, thì mình khó ngăn mũi bạc. Vả lại công tử da vàng mặt ngọc,
mắt phụng mày tằm, lại là cháu của vua, con dòng thao lược, người trong hàng rồng cọp, khách trên
.
.

.
.
giống phụng hoàng. Nếu đánh ráng thì mệt thêm, thà giả thua làm phép đặng bắt sống cho nên
duyên, bỏ đi thì uổng lắm! Nghĩ rồi Lưu tiểu thơ trá bại chạy dài, Cao công tử ỷ tài đuổi riết, và kêu
lớn mà nói:
- Bớ tiểu thơ ! Chuyến này đã biết sức, khi khác chớ khoe danh!
Quân Bảo rượt tiểu thơ chạy trối chết, vừa rượt vừa nói:
- Chẳng phải tôi cậy tài đuổi cô nương một cách bức xúc, mà chỉ muốn cô nương xuống ngựa chịu
thua, biết tài kẻ dũng sĩ, nếu để lòng cô nương bất phục, e sinh ra tính khinh người.
Lưu Kim Đính nhìn lại, liếc mắt cười nói:
- Nay đã thấy công tử rồi, tôi rất vừa ý, muốn chịu phục tùng, nhưng phải theo lời trong bảng chiêu
phu, đến thưa với thân phụ mà tính việc cho xong.
Cao Quân Bảo đã rõ lòng Kim Đính, ngặt vì nóng việc giải vây cho chúa, chuộc tội cho cha, trong
bụng rối như tơ vò đâu còn tưởng đến chuyện se duyên kết toc. Vả lại, chưa biết lòng cha mẹ có chấp
thuận hay không, nên không dám tự chuyên.
Cao Quân Bảo nghĩ thầm:
- Nếu cứ ở đây lo việc vợ chuồng, thì lỗi niềm cha chúa. Chi bằng ta kiếm lời nói cho nó mắc cỡ bỏ
đi cho rồi, để ta còn đi giải vây cứu chúa kẻo trễ thời gian.
Nghĩ lại, Cao Quân Bảo kêu Lưu Kim Đính nói:
- Tôi rất tiếc cho tiểu thơ, mặt hoa mày liễu, má phấn môi son mà không biết giữ nếp nhà. Vả lại đạo
làm con không thể mặc áo qua khỏi đầu. Ta cùng nàng gặp gỡ, chưa có tiếng mối mai, cũng không
có ý kiến cha mẹ, nếu nói việc vợ chồng thì khác nào như kẻ trêu hoa ghẹo nguyệt. Tôi chưa từng
thấy một người con gái nào lại dựng bảng kén chồng. Vậy xin tiểu thơ xét lại cho mạt tướng chịu
thua.
Kim Đính giận hét lớn:
- Thất phu! Ta dùng lời lễ phép đối xử, đó trả lại bằng cách kiêu ngạo, thật là người vô lễ, không
phải khách hữu tình. Phen này ta quyết đánh thẳng tay cho nhà ngươi biết sức.
Nói rồi vung đao chém tới. Cao Quân Bảo cũng trở lại giao tranh, nhưng lần này rất dữ dội.
Lưu Kim Đính nói:
- Xin công tử bớt giận, duyên trời xui khiến gặp nhau, chúng ta không thù oán, chẳng phải đánh giặc
mà quyết lấy đầu. Để thiếp về thưa lại với cha, rồi cùng chàng gầy duyên cầm sắt.
Cao Quân Bảo nói:
- Nay ta đã biết sức nhau, vậy xin giã từ để nàng ở lại kén chồng, còn tôi qua Nam Đường cứu chúa.
Lưu Kim Đính thấy Cao Quân Bảo quay ngựa bỏ đi, hèn nắm đuôi ngựa kéo lại làm cho Cao Quân
Bảo thất kinh hồn vía, không dè sức con gái mà mạnh hơn voi, nên la hoảng:
- Ôi chao? Thật là bậc kỳ tài, trên đời chưa từng thấy.
.
.

.
Kim Đính giả giận, nói:
.
- Chàng chê thiếp thì thôi, không lẽ ép duyên. Song phải bồi thường tấm bảng rồi mới đi. Lúc đó mặc
sức đến Thọ Châu cứu giá.
Cao Quân Bảo nghe mấy lời biết nàng quyết hơn thua, nên nạt lớn:
- Để ta bắt đền cho nàng một ngọn giáo là xong.
Lưu Kim Đính hèn niệm chú cho cây giáo Quân Bảo nặng đến độ dỡ lên không nổi. Quân Bảo xấu
hổ, không biết nói sao còn Lưu Kim Đính thì cười mỉa mai, nói:
- Bởi tôi biết công tử là con nhà danh giá, nên muốn trao thân gởi phận, chớ thiệt tình công tử đánh
sao cho lại tôi. Bởi muốn giao hòa nên tôi mấy phen trá bại. Sao công tử thấy ngữ lành lại phụ, gặp
châu sáng không ham, tưởng rằng sức gái hơn trai, nên phụ tình cầm sắt.
Cao Quân Bảo nói:
- Xin nàng chớ giận để tôi bày rõ thiệt hơn. Chúng ta tuy đã thuận, nhưng còn ba điều chưa an. Một
là: Cha tôi là em rễ Tống trào, còn bác nhà là người thân của Bắc Hớn. Chuyện tuy cũ nhưng oán hận
chưa nguôi, không lẽ trở thành thông gia. Hai là: Nếu nay mạt tướng hứa lời kết tóc, sau song thân
nặng tiếng quở la, có phải là mang câu bất hiếu không? Ba là: Thiên tử đang bị vây, thân phụ đang bị
bắt, lúc này phải xông vào trận chiến cho trọn tiếng hiếu trung, có rảnh đâu mà tính việc vợ chồng,
hưởng vui với mối tình gặp gỡ. Bởi có ba điều chẳng tiện đó nên không thể làm vừa ý nàng. Còn tiểu
thơ là hoa thơm ngàn dặm, sắc chói mười phương, thiếu gì anh hùng hào kiệt, đừng thấy đá mà tưởng
làm ngọc, thấy mắt mà tưởng là châu.
Lưu Kim Đính nghe mấy lời càng yêu quý mười phần, yêu quý chừng nào lại không muốn buông tha
chừng ấy, nên nói:
- Xét lời công tử đáng bậc hiền lương. không có lòng say đắm nguyệt hoa, cũng chẳng có dạ phụ tình
bạc ngài. Thật nên trang quân tử, đáng mặt trượng phu. Duyên nợ tôi với công tử là do Nguyệt lão đã
se. Thánh Mẫu biết trước trời xui gió bấc mưa cầm, nếu không duyên nợ ba sinh, chưa dễ vấn vương
dường ấy. Xin công tử chớ chấp nhất mà lỗi đạo xướng tùy. Vả lại, Dư Hồng pháp thuật rất cao,
công tử làm sao đánh lại. Nếu không có tôi trợ giúp, chắc công tử bị Dư Hồng bắt nữa. Nếu công tử
không chê thiếp hư hèn, thiếp nguyện theo chàng phò chúa cứu cha.
Cao Quân Bảo nói:
- Nàng là gái nghiêng thành đổ nước, lại thêm võ giỏi văn hay, ai lại không kính mến. Tuy chúng ta
đã quyết, e cha mẹ không vừa lòng làm cho sau này hai ta cùng đeo dạ thảm, mua sầu, thì chẳng khổ
tâm lắm sao?
Kim Đính nghe nói nổi giận liền ném dây hồng tươi sách lên không và niệm thần chú hào quang
chiếu sáng, trói Quân Bảo treo trên cây, lửng lơ trước gió.
Quân Bảo nhìn lại thấy tiểu thơ đã biến đi mất, trong rừng xuất hiện một tướng mặt mũi đen sì, cầm
.
.

.
siêu lớn tiếng, hét:
.
- Cao Quân Bảo phụ bạc duyên trời, cho nên ta là thần núi phải ra đây, chém một đao cho bõ ghét.
Cao Quân Bảo thất kinh năn nỉ:
- Xin sơn thần bớt giận, tiểu tướng xin vâng lời.
Thần núi mắng cho mấy lời, rồi bỏ vào rừng. Xảy thấy tiểu thơ ngồi trên ngựa lướt ngang qua, rồi
biến mất.
Cao Quân Bảo hèn kêu lớn:
- Tiểu thơ ơi! Nỡ nào làm phép hại ta, rồi khoanh tay ngồi ngó, mặc kệ cho rơi xuống nát thân sao?
Lưu Kim Đính đáp:
- Thiếp đã nói hết lời mà chàng không nghe. Phận vô duyên nên đành giục ngựa về nhà, ai có phước
ở đó chờ ngươi cứu mạng.
Nói rồi giục ngựa bỏ đi. Cao Quân Bảo kêu lớn:
- Tiểu thơ ơi? Tôi Chịu! tôi Chịu! Xin mở sợi dây oan gia!
Lưu Kim Đính nói:
- Chàng đừng năn nỉ uổng công, thiếp đã cạn lời mà chàng một mực phũ phàng.
Dứt lời Kim Đính niệm chú mở dây. Cao Quân Bảo sa xuống như một tàu lá.
Mừng được thoát nạn, Cao Quân Bảo nói:
- Cám ơn tiểu thơ cứu mạng, ngày sau trở lại đền ơn.
Nói rồi cầm giáo lên ngựa bỏ đi.
Lưu Kim Đính thấy vậy trở về gọi bốn con tỳ nữ, trao cho phù phép tàng hình đuổi theo.
Bấy giờ Cao Quân Bảo mừng được thoát nạn giục ngựa thẳng một nước, chạy năm sáu dặm đường
không hề ngó lại. Người hết hơi, ngựa hết sức, bụng thì đói, quán xá thì không, rờ vào túi không có
một đồng tiền, nên buông lời than:
- Chao ôi! Hai lượng bạc đem theo bỏ quên trên giường. Nếu trở lại không dám, còn đi biết lấy chi
làm lộ phí?
Đang lo lắng, bỗng thấy xa xa có một quán rượu, chàng vội giục ngựa chạy tới, thấy trong quán
không có đàn ông, chỉ thấy ba cô gái đang ngồi đong rượu. Cao Quân Bảo đem ngựa cho uống nước,
rồi nghĩ thầm:
- Bây giờ ta phải ăn giựt một bữa mới xong. Quán toàn đàn bà ta không sợ.
Cao Quân Bảo liền xông vào. Ba cô gái ân cần chào hỏi:
- Khách vào đây uống rượu phải chăng?
Cao Quân Bảo gật đầu, nói:
- Phải ? Hãy dọn đồ ăn ngon và đem rượu thượng hạng ra đây !
Một trong ba cô gái nói:
.
.

.
.
- Rượu thịt ngon đã có sẵn, song tiền bạc phải cho phân minh, bởi chốn này là rừng núi, không ai
dám buôn bán, chỉ có mình ba chị em tôi một chợ, nên giá đắt mười phần. Có đành thì dọn, không
muốn thì thôi.
- Các người hãy dọn cơm trắng cá tươi, món ngon vật núi, ăn rồi sẽ hay, và cho con ngựa của tôi nó
ăn nữa rồi tính tiền luôn thể.
Ba cô gái nghe nói liền dọn đồ ăn ra, rượu thịt ê chề. Cao Quân Bảo cứ việc ăn no, uống rượu như
uống nước, chỉ một bữa mà đồ ăn còn nửa quán. Ba cô gái dọn dẹp đồ thừa thấy chẳng còn bao
nhiêu. Ăn rồi Cao Quân Bảo tính lên ngựa bỏ đi, thì ba người đàn bà chặn lại, nói:
- Xin khách tính tiền ăn uống rồi sẽ lên yên.
Cao Quân Bảo nói:
- Tính hết là bao nhiêu đó?
Một cô gái nói:
- Tất cả là tám mươi hai lượng.
Cao Quân Bảo biết mình không có tiền, túng phải nói đỡ:
- Hãy biên vào sổ để cho nhớ. Tôi đi có việc quan, lúc trở về sẽ trả đủ.
Một cô bèn nói:
- Chị em tôi với khách không quen. Thuở nay quán cơm không ai biên sổ. Cứ theo tục lệ cháo múc là
tiền phải trao, nếu liệu trong người không có tiền thì đừng bước vào quán. Công tử coi bộ là người ăn
học, sao xử sự theo lối bợm đường. Không thấy đôi liễn trước quán sao.
Cao Quân Bảo ngó lên, thấy hai câu liễu như vầy:
Trong lưng có bạc thời kêu rượu,
Nhắm túi không tiền chớ hỏi cơm.
Cao Quân Bảo coi rồi làm thinh. Một cô gái nói tiếp:
- Công tử tưởng của không vốn nên ăn liều lĩnh, bây giờ tính sao?
Cao Quân Bảo túng phải nói thật:
- Tôi là Cao Quân Bảo cháu vua Tống Thái Tổ, con của Đông Bình Vương, vì gấp rút đi giải vây,
quên đem theo tiền lệ phí. Vậy cho xin thiếu ngày sau trả đủ, chớ tôi không phải là người ăn giựt.
Một cô gái nói:
- Người này thật là điếm đàng, đã ăn giựt lại mạo con vua cháu chúa mà hăm dọa bọn đàn bà chúng
tôi, chúng tôi không biết con cháu nhà ai, hễ thiếu tiền cơm thì phải trả, nếu không để con ngựa lại
đây, rồi sẽ đem tiền mà chuộc.
Cao Quân Bảo thấy ba cô gái quyết bắt ngựa để thế chân, nếu đi bộ đường rừng biết chừng nào mới
tới?
Nghĩ như vậy, Cao Quân Bảo liều mạng rút gươm ra, ba nàng thấy Quân Bảo làm dữ, bèn nói:
.
.

.
- Không xong! Phải thỉnh bà ra mới được.
.
Nói rồi ba cô gái chạy thẳng vào nhà trong. Tức thì có một bà già hình thù cổ quái bước ra hét lớn:
- Ngươi có biết ta là người nước nào không? Ta vâng lệnh vua Nam Đường giả lập quán tại nơi đây,
chờ tướng Tống lỡ bước ghé vào chém lấy đầu mà nạp cho vua. Nay nhà ngươi đã sa vào đây, thật số
trời đã định!
Nói rồi truyền mấy cô gái, khóa cửa ngõ, bắt tên giặc ăn giựt nạp cho vua lãnh thưởng. Cao Quân
Bảo biết mình mắc kế, tính bỏ ngựa chạy bộ, ngặt cửa ngõ khóa rồi, mụ đàn bà lại cầm dao rượt theo
muốn chém.
Cao Quân Bảo thấy hình thù bà già ấy mà ghê: Da mặt tổ than hồng con mắt sâu tợ giếng, cái miệng
hỏa lò, cặp nanh rắn hổ.
Cao Quân Bảo bị ba nàng kia áp lại bắt trói khiêng vào quán.
Mụ già nói:
- Tội thằng này đã đáng, đừng nạp đến vua làm chi. Hãy làm thịt để bán hàng, thấy thịt trừ tiền cũng
đủ. Ba đứa bay hãy sửa soạn bắt nước mài dao cho sẵn.
Cao Quân Bảo nghe nói thất kinh nghĩ thầm:
- Lúc trước Kim Đính trói mình, bởi có tình thương nên năn nỉ được, nay gặp lũ ác nhơn này, chắc là
phải thịt nát xương tan. Uổng công ăn học, nợ nước chưa đền, tình nhà chưa báo. Dẫu chết tấm thân
không tiếc, chỉ phiền mất chữ hiếu trung.
Mụ đàn bà thấy Quân Bảo khóc, thì cười lớn nói:
- Thấy quân ăn giựt cũng giận,thấy kẻ than khóc cũng thương. Thôi, nếu nghe lời ta thì việc dữ cũng
lành, cãi lời thì sẽ chết yểu.
Cao Quân Bảo nói:
- Chuyện gì tôi cũng chịu, xin cứ nói ra.
Mụ đàn bà nói:
Hãy nghe lời này thì đã khỏi họa e lại sướng thân, chồng ta đã bỏ mình, phận thiếp hai mươi năm
trường cô phòng lạnh lẽo muốn chọn người xứng sức mà không gặp kẻ vừa lòng. Nay thấy chàng có
sắc có tài, nên xui thiếp nở gan nở ruột. Lời tục người hằng nói: "Vợ già chồng trẻ là tiên". Nếm mùi
đời chưa đủ thiệt quê, gặp cuộc biến phải quyền mới trí! Chết sống một bên con mắt, mất còn cũng
tại trái tim. Thuận thời mở trói vào phòng, nghịch ắt khiêng thây xuống bếp!
Cao Quân Bảo nghe nói càng tức tối, nghĩ cũng lạ lùng, tuổi tác này mà còn muốn thế này, xuân sanh
nọ há đành duyên ấy. Bị bà kia hỏi thét nên công tử đáp rằng:
- Tôi đến nước này lẽ nào dám cãi. Nghe nói phòng loang lạnh lẽo tình cũng khá thương. Song xem
qua tóc bạc phất phơ lẽ đâu dám loạn? Chết thân là việc nhỏ, trái lẽ ấy tội dày. Bằng thương, dung
mạng tôi nhờ, như ghét, nát thân cũng chịu.
.
.

.
Bà ấy giận nói lớn rằng:
.
- Trước sợ chết mà than khóc, nay nói cứng chẳng kiên gì? Tánh ở không chừng, nói càng vô ích.
Vậy chúng bay cứ việt thọc huyết, rồi cứ việc làm hàng.
Cao Quân Bảo xem thấy ngọn đao, chắc hồn về chín suối:
Xảy thấy một con nhỏ vào hớt hải, nói với bà ấy rằng:
Lầm rồi mẹ ơi ? Người này là chồng của Lưu tiểu thơ, mình không biết bắt lỡ. Nay Kim Đính hay tin
đến tiếp, đang phá cửa xông vào?
Bà ấy nghe nói thì thất kinh, than với mấy người kia rằng:
- Ba đứa bây phải trốn theo ta, kẻo Kim Đính giết luôn bốn mạng.
Nói rồi cả bọn bỏ Quân Bảo ngồi đó, ra cửa sau trốn đi mất.
Lưu Kim Đính dắt thế nữ xông vào, thấy Quân Bảo trói mèo nằm đó thì Kim Đính cười nói:
- Tôi đi tiếp trễ, để cho công tử bị gia hình. Người ép duyên, tình nặng hơn tôi, sao chàng nỡ phũ
phàng không chịu. Đã là trai tài gái sắc, sao không phụng chả loan chung? Chớ như phận tôi là: Bị
gạt đã nhiều phen, mắc mớp đà hai thứ. Chàng chê cũng phải, thiếp dám trách đâu. Trắc trở đã đành
phận thiếp, thày lai dám cướp duyên người. Thôi, giả chàng nằm đó nghỉ ngơi, cho thiếp gia trung
trở lại.
Nói rồi, Kim Đính cười chúm chím lên yên giục ngựa trở về. Cao Quân Bảo hổ thẹn trăm bề, làm
thinh sượng mặt, thấy Kim Đính đi thẳng, mới kêu lớn:
- Tiểu thư ôi! Tôi biết lỗi rồi, xin mở dây này, thì đành duyên nợ!
Lưu Kim Đính nghe nói, trả lời rằng:
- Chàng hay nói gạt, tôi chẳng dám tin?
Cao Quân Bảo nói:
- Nếu nàng chẳng tin lòng, tôi thề cho biết mặt.
Lưu tiểu thơ nói:
- Xin chàng thề độc, thiếp mới chịu tin.
Cao Quân Bảo thề rằng:
- Trên có trời soi xét, dưới có đất chứng minh, bằng tôi phụ tình nàng thì thác nơi giếng lạng.
Kim Đính thấy thề thốt, bèn mở trói. Cao quân Bảo đặng mở trói, mới nói rằng:
- Nay tôi phải đến Nam Đường cứu giá, công thành rồi về thưa với cha mẹ ta, dùng sáu lễ dâng sang,
đem xe loan rước lại. Nói rồi Quân Bảo cầm giáo lên ngựa dông thẳng, chạy một hồi ngó lại, không
thấy quán lều chi hết.
Xuân Đào nói với tiểu thơ:
- Tôi coi bộ công tử vô tình đi chẳng nói trả ơn một tiếng. Thiệt là thề mắc, thắt rối cho đặng mà đi!
Lưu Kim Đính cười nói:
.
.

.
.
- Lời thề ăn trượt ta chẳng biết hay sao? Giếng lạng khô rơm, không nước làm sao mà chết? Bởi công
tử lánh khẳng khái, nói êm chẳng biết nghe. Phải làm cho cơ cực nhiều phen, mới cảm tình chịu
phép! Nếu muốn cho nó mắc lời thề nọ, thì ta phải dụng phép này.
Lưu Kim Đính bèn họa phù cho bốn con đòi, tới trước chậm đầu đào giếng.
Quân Bảo vừa đi vừa thấm thía nực cười, nói:
- Gặp dâm phụ bất nhơn, tưởng ta đà tận số! Nhờ tiểu thư giải cứu, nên ta đặng toàn sanh. Nàng thiệt
đấng hữu tình, ta là người bạc ngài, như tiểu thơ hình dung tợ ngọc, nhan sắc như hoa, biết phép thần
thông, thêm tài võ nghệ, vị tình hết sức, cứu mạng nhiều phen. Ta mấy thứ trớ trinh nàng một lòng
tin cậy. Mình chẳng phải là săn cỏ, lẽ nào không nghĩa không tình, lại duyên đã xứng duyên, phận đà
đẹp phận? Song còn ba điều ngăn trở nên đôi lứa dở dang, bây giờ xin phụ tình nàng, ngày sau sẽ
đền ơn nghĩa ấy. Nghĩ mình thề dối mà nàng vẫn tin lòng, ai đời té giếng khô mà chết bao giờ.
Mãi còn ngẫm nghĩ, mặt trời đã xế về Tây, Quân Bảo cứ đi tầm quầng trong rừng, không biết chỗ
nào mà nghỉ.
Cao Quân Bảo thấy trời đã tốt, trong lòng thầm nghĩ:
- Hôm qua bị đụt mưa mà sanh ra nhiều việc. Nay chẳng nên ngủ đỡ nhà ai, vì sách có câu: "họa vô
đơn chí", e bị hại một lần nữa. Vậy ta phải tìm đường cái mà đi.
Thật là mang sao đôi nguyệt, chải gió dầm sương, trông đến chốn thị thành, sẽ tìm nơi nương tựa.
Vừa đi vừa nghĩ, đương kiếm nẻo kiếm đường, phần trời tối mập mờ, nào dè cả người cả ngựa đồng
sa xuống giếng lạng.
Cao Quân Bảo ngỡ là sa xuống địa ngục, té ra là cái giếng khô nhắm bề sâu ba chục thước có dư,
trên miệng giếng thấy trời bằng cái chén, Cao Quân Bảo mới than rằng:
- Mới nói gạt vừa rồi, mắc lời thề lập tức! Những tưởng khôn ngoan thề thốt, nào hay quỉ thần chứng
minh, nếu trời mưa xuống một đám, uống nước chắc cũng chết. Phải chi có ai đi ngang dòng dây mà
kéo mình lên, hoặc may sống đặng. Phần không cơm không nước, ắt ở đây chờ ngày mà ra mắt Diêm
vương !
Than rồi, Quân Bảo hèn xuống ngựa mà ngồi, hơi ra lạnh lắm. Bỗng thấy có ngọn đèn nhấp nháy ở
đằng xa. Cao Quân Bảo đoán rằng:
- Có lẽ hầm rộng mênh mông nên có người ta ở?
Khi ấy Quân Bảo đành mò theo chỗ đèn sáng, thủng thẳng bò lần không vật chi ngăn cản. Giây lâu
gặp đường hẻm, Cao Quân Bảo mới nghĩ:
- Đường hẻm vừa một người đi, chắc ngõ ấy có khi lên đặng! Không biết chỗ gì lạ vậy? Thôi Chẳng
cần gì ngựa, miễn đặng còn hồn.
Quân Bảo bèn cầm giáo mà đi, đi khoảng chừng một dặm trường mới khỏi đường chẹt, thấy lộ cái
trước mặt, sao mọc trên trời trăng tỏ làu làu, hương bay thơm phức, trăm hoa rực rỡ, năm sắc rõ ràng.
.
.

.
.
Cao Quân Bảo thấy cảnh vui lòng, đi hoài không mỏi. Xảy thấy một tòa cao lớn, dường thể đền vua,
khác nào tiên động. Cao Quân Bảo xem xét lại kỹ lưỡng thì không phải đền vua, cũng chẳng phải
dinh miếu. Chỗ không người ở, thì đây có phải dinh quan. Một là động tiên, hai là đền vua thập điện?
Quân Bảo bèn đến ngõ, nghe tiếng giày nhẹ nhẹ, giọng nói thanh thanh, thì nghĩ là con gái đàn bà,
song chưa rõ người tiên hay kẻ tục. Nghĩ rồi Quân Bảo làm gan gõ cửa, coi thử thế nào?
Xảy thấy một nàng, tay cầm phất chủ, dung nhan có vẻ, cất cách tợ tiên, tiếng hỏi dịu dàng rằng:
- Khách ở đâu đến đây vậy?
Cao Quân Bảo thưa tự sự mình lạc đường sa xuống giếng, xin làm ơn chỉ ngả trở về, đặng qua cứu
giá tại Thọ Châu thành.
Nàng ấy cười chúm chím và nói:
- Chàng đến đây chẳng khác Lưu Thần và Nguyễn Triệu, lạc lối thiên thai mà kết duyên cùng tiên
nữ. Chắc là số trời đã định, nên khiến người lạc bước lỡ đường như vậy? Chớ đây không phải là đền
vua, cũng đừng tưởng rằng cảnh phật. Ấy là tiên động của Thánh Mẫu ở núi Lê Sơn. Thánh Mẫu có
nói trước rằng: Ngày này tháng này, có công tử Cao Quỳnh tới đây. Còn ngươi tên chữ là Quân Bảo
phải không? Thánh Mẫu lại dặn nữa: Quân Bảo là kẻ vô tình, thề liều mạng. Khi lòng, ấy là khi
chúng, dối người tức là dối trời. Vậy nên Thánh Mẫu có để bốn câu thơ, dặn đưa cho nhà ngươi xem
thử.
Cao Quân Bảo nghe nói trúng tên thì thất kinh, mọc ốc rùng mình, run en phát rét, gượng đọc bài
thơ, lời lẽ như vầy:
Hang sâu người ngựa phải sa ngay
Cái giống vô tình thật đáng thay!
Cho biết thề sao thì có vậy,
Giữ lời vàng đá, khỏi tai bay.
Nàng ấy kêu Quân Bảo mà hỏi rằng:
- Bốn câu thơ đó Thánh Mẫu viết đã lâu. Công tử quả như vậy không? Xin nói cho tôi biết.
Cao Quân Bảo nghe nói như ngó thấy, nên không dám giấu tình, mới thuật hết đầu đuôi và xin mở
đường chỉ nẻo. Nàng ấy cười nói:
- Nếu vậy thì Kim Đính hửu tình hết sức, còn Cao Quỳnh bạc ngãi quá chừng! Chẳng những trượng
phu quân tử đều chê, dẫu cho con nít đàn bà cũng ghét. Thề thì mắc, thắt thì rối, chạy sao cho khỏi,
trốn sao cho xong, ai chỉ ngõ làm chi, giếng lạng ấy là huyệt tốt! Tuy vậy mà Thánh Mẫu có dặn: "Ta
mắc đi chầu Thượng Đế, như Quân Bảo có đến đây phải ở chờ”, vậy công tử ở đây mà chờ, hoặc
may Thánh Mẫu có tha về thì là phước đức mười đời để lại.
Cao Quân Bảo nghe nàng ấy hỏi tội thì mặt mũi sượng trân tức mình hết sức, biết là ưng tội nên mới
làm thinh, chờ Thánh Mẫu trở về hoặc thương hại mà cho chỗ nghỉ. Đứng một hồi mỏi quá, xảy câu
.
.

.
nghe tiếng nhạc vang trời, thì nàng ấy nói:
- Thánh Mẫu chầu trời về đó !
Giây lâu nàng ấy ra nói:
- Thánh Mẫu đòi Quân Bảo vào hầu.
.
Cao Quân Bảo theo vào tới trước sân, thấy phía tả trồng tùng xanh, bên hữu trồng lựu đỏ, nhiều thứ
hoa tươi cỏ tốt, thiếu chi cây lạ có một bà ngồi chính giữa, có mang xâu chuỗi hột bồ đề, tóc bạc phơ
như bông, đầu đội mão thất tinh, mà mặt là mặt con gái. Cao Quân Bảo bước vào bèn lạy. Thánh
Mẫu nói:
- Thôi, công tử hãy đứng dậy, đặng ta khuyên bảo vài lời.
Quân Bảo quì và bẩm:
- Bởi tôi lạc đường nên mới sa xuống giếng lạng, đến cảnh tiên, vậy xin Thánh Mẫu lòng thương cho
người đưa lại phàm trần, tôi đội ơn cứu mạng.
Thánh Mẫu nói:
- Ngươi dầu không nói ra, ta cũng biết rồi? Khen cho trí cả hơn người, lòng ngay vì nước, anh hùng
đệ nhất, trung hiếu lưỡng toàn. Song yêu đạo phép cao, công tử đánh sao cho lại, người cự yêu sao
nổi, tài đánh phép đặng nào, nếu có Kim Đính giúp công, trừ Dư Hồng mới đặng! Học trò ta muốn
nâng khăn sửa tráp, sao nhà ngươi cứ chê ngọc bỏ châu, nhà ngươi coi tác hãy xuân xanh, khá khen
bì Hạ Huệ. Đến nay lửa hương chưa bén, cầm sắc không hòa, tại cớ làm sao nhà ngươi cư xử như
vậy, hãy nói thử?
Cao Quân Bảo đọc lại ba điều trở ngại đã nói với Kim Đính cho Thánh Mẫu nghe và nói:
- Bởi cho nên khó nổi vị tình, sợ không vẹn trước sau, chớ dám nào phụ bạc .
Thánh mẫu nói:
- Suy ba điều rất phải, song phải biết tùng quyền. Lời xưa có nói: "Đời thái bình lấy đức làm quan,
cơn bát loạn trổ tài làm tướng". Tánh sao hay chấp nhất, lòng lại chẳng tùng quyền? Nay hai nước
đua tranh phải nhờ người tài phép. Nam Đường có Di Hồng mới thắng, Đại Tống không Kim Đính
sao xong? Vả lại nội nhà công tử đều hưng binh liều mình báo chúa, song đến đó mà dâng thủ cấp
cho Dư trồng, chớ đánh sao cho lại? Nếu để đến chừng đó ăn năn sao kịp? Chi bằng trước vầy duyên
nữ hiệp sau giải nạn mình rồng, sẵn có kẻ trừ yêu, mới vẹn bề cứu giá.
Cao Quân Bảo còn giục giặc, Thánh mẫu thấy vậy mới nói nữa rằng:
- Bởi duyên trời đã định, chẳng phải ta là người làm mối mà ép việc nhơn duyên! Nếu công tử không
tin thì ta mời bà Nguyệt ông Tơ tới đây, người soạn bộ chồng vợ cho ngươi coi.
Quân Bảo nghe nói liền dạ thưa rằng:
- Nhắm đó đây rất xứng đôi vừa lứa, dám đâu phụ nghĩa bạc tình, chỉ e sầu cha mẹ tôi trách rằng
không thưa mà cưới. Cho nên chắc là chẳng nhậm ngôn có phải lỡ việc nhơn duyên thiệt lòng thục
.
.

.
nữ!
Thánh Mẫu nói:
.
- Công tử lo chi cho mệt! Chừng đôi ba tháng nữa, Kim Đính tới Thọ Châu cũng làm tôi một triều,
cha mẹ lẽ nào chê mà không dụng.
Lời Bàn.
Tài năng và pháp thuật khi nó sử dụng đúng tâm lý cũng có thể chinh phục tình yêu giữa trai
gái.
Trong cốt truyện, tác giả vận dụng tài năng và pháp thuật tranh tài nơi chiến trận, nhưng ở đây, tác
giả đã sử dụng tài năng và pháp thuật để chinh phục tình yêu. Đó là một câu chuyện khá ly kỳ làm
độc giả thích thú theo dõi.
Lưu Kim Đính lập bảng chiêu phu, con gái lập bảng kén chồng là điều hiếm thấy, nhưng rất sôi
động, làm cho anh hùng hào kiệt phải nể mặt.
Nhưng xét ra, Lưu Kim Đính kén chồng đã chọn ba điểm:
- Thứ nhất: Tài năng, điểm này nàng chọn lựa bằng cách giao đấu.
- Thứ hai: Dòng giống, nàng chọn bằng cách dò xét tâm ý và công việc làm của Cao Quân Bảo.
Thứ ba: Tâm hồn, điểm này nàng chọn bằng cách dụ dỗ bướm ong, và lòng trung hiếu của Cao
Quân Bảo.
Ở đây điểm khó khăn nhất đối với Lưu Kim Đính là tìm hiểu tâm hồn. Khi đã biết Cao Quân Bảo
không chê nhan sắc của nàng chỉ vì lo đi giải vây và cứu cha nên không màng đến việc nhân duyên,
làm cho Lưu Kim Đính càng kính phục.
Cái giá trị của Cao Quân Bảo là ở chỗ đó, mà tác giả đã diễn tả một cách tế nhị từ lời nói, cử chỉ
của Cao Quân Bảo.
Lưu Kim Đính dùng pháp thuật để ràng buộc tình nhân của mình cũng để thăm dò đạo nghĩa và tâm
hồn của người mình yêu. Lối kén chồng như vậy quả là bậc nữ lưu trong thiên hạ.
.
.
.
Hồi Thứ Chín
.
.

.
Vâng lệnh hứa hôn gái sắc
Vì nước tạm biệt má hồng
.
Chẳng bao lâu, có ông Tơ đến, tay ôm sổ bộ đến ra mắt Thánh Mẫu.
Thánh Mẫu truyền mở sổ ra tra xét, thấy tên họ, căn duyên rõ ràng bằng những hàng chữ.
“Cao Quân Bảo, lưu Kim Đính là duyên nợ với nhau”.
Cao Quân Bảo xem thấy lấy làm lạ, thưa:
- Tôi cũng muốn vâng lời Thánh Mẫu cho xong việc nhân duyên, ngặt vì tôi ở một nơi, tiểu thơ ở
một ngả, làm sao hứa hôn, vậy nhờ ơn Thánh Mẫu chỉ giáo cho tôi đi phò vua giúp nước kẻo trễ.
Thánh Mẫu nói:
- Thật công tử trọn thảo vẹn ngay.
Cao Quân Bảo thúc giục trở về dương thế để lo việc cầu hôn, nên Thánh Mẫu ngước mặt lên nói:
- Lưu Kim Đính! Hãy xuống đây cho thầy dạy bảo.
Vừa kêu lên ba tiếng bỗng thấy Kim Đính đằng vân bay xuống.
Cao Quân Bảo thấy tiểu thơ nét mặt khác hơn trước, nết na chỉnh tề, diện mạo nghiêm trang, vừa
bước tới thấy Cao Quân Bảo đã hổ thẹn không dám nhìn mặt. Lưu Kim Đính lạy Thánh Mẫu và nói:
- Nay công tử đi gấp lo việc cứu giá Thọ Châu, sao lại ghé non tiên làm trễ nải công việc?
Cao Quân Bảo lau nước mắt, thuật lại mọi điều, Lưu Kim Đính mỉm cười nói:
- Tuy là chuyện tình cờ, nhưng cũng tại lời thề của công tử. Từ nay về sau chớ nên thề như vậy.
Cao Quân Bảo nói:
- Lời tiểu thơ đáng ngàn vàng, tôi ghi lòng tạc dạ.
Thánh Mẫu bèn kêu hai người, nói:
- Hai vợ chồng có nợ ba đời, căn duyên tiền định. Nay tới kỳ hội hiệp, còn nhắc chuyện cũ làm chi?
Công tử đã bằng lòng rồi, ngày mai phải cần gấp đưa về dương thế. Còn đêm nay nhằm kỳ hòa hiệp,
để trễ không nên. Tuy cha mẹ hai đàng chưa biết, song có ta làm chứng, Nguyệt lão làm mai, phải lo
việc hoa chúc cho rồi. Nếu chờ có lệnh cha mẹ gả cưới, thì lấy ai tác hợp đến già, vang danh cả họ.
Còn Dư Hồng là loài chim chóc, có công tu hành, nhưng tính nết hung hăng, công đức ba ngàn chưa
đủ, nay vâng lệnh Xích Mi lão tổ vây phủ Thọ Châu, nếu không phạm sát sinh thì vài trăm năm nữa
cũng thành tiên, bằng phạm sát sinh thì bỏ thây ngoài trận. Thôi, việc chưa đến thẩy không nói nhiều.
Dứt lời, Thánh Mẫu rũ tay áo một cái, vầng mây năm sắc sa xuống trước mặt, Thánh Mẫu bước lên
ngồi, đằng vân bay đi.
Cao Quân Bảo thấy việc lạ lùng, nên nhìn sững. Lưu Kim Đính rút gươm làm phép, lâu đài biến mất,
nhìn lại thì thấy là khu rừng cũ, không có hầm hang chi hết, con ngựa còn buộc tại gốc cây.
Lưu Kim Đính bước lại vỗ vai công tử nói:
.
.

.
- Phép tiên biến hóa vô cùng, đừng cho là lạ lùng mà ngơ ngác như vậy.
.
Sau đó, Lưu Kim Đính đòi bốn con tỳ nữ tới, mời công tử lên yên trở lại nhà. Hai vợ chồng hai ngựa
song song ra khỏi cụm rừng trông thấy ánh trăng vằng vặc.
Kim Đính nói:
- Xin công tử trở lại nhà nghỉ ngơi, rồi mai sáng sẽ đăng trình không trễ đâu mà sợ.
Cao Quân Bảo nói:
- Đêm hôm tối tăm khó đi lắm. Còn trở lại nhà bác bắt lỗi biết nói làm sao?
Kim Đính đáp:
- Công tử nói rất phải, song mọi việc tôi tính cũng xong.
Liền kêu bốn con tỳ nữ dặn rằng:
- Các người về trước bẩm với ông có chàng săn bắn trở về đã đi gần tới.
Kim Đính vẽ một lá bùa trao cho Quân Bảo nên ai nhìn cũng không thấy.
Đêm ấy, Kim Đính dắt tay về phòng ân ái mà không một ai biết, chỉ có bốn con tỳ nữ biết thôi.
Sáng hôm sau, tiểu thơ nói với công tử:
- Đêm nay đã kết nghĩa trăm năm, nếu ngày sau cha có bắt bẻ thế nào thiếp cũng liều mình cho trọn
tiết.
Quân Bảo nói:
- Tiểu thơ có tình sâu nghĩa nặng, tôi tạc dạ ghi lòng. Đã đáng bậc anh hùng phải trọn niềm chung
thủy. Xin nàng chớ ngại.
Kim Đính nghe nói mừng rỡ, đáp:
- Như vậy mới là vàng đá.
Hai người tình mặn nghĩa nồng, lòng yêu dạ mến.
Sáng hôm sau, Cao Quân Bảo giã từ tiểu thơ lên yên đi cứu giá. Kim Đính sợ cha trông thấy, nên
chẳng dám cầm, buồn bã nói với Quân Bảo:
- Đã tưởng nghĩa vợ chồng, xin nhớ lời dặn. Đây đến Đồng Quan ngàn dặm, phải giữ gìn bản thân,
trước là cha mẹ khỏi lo, sau là vợ chồng sum hiệp.
Cao Quân Bảo thấy tiểu thơ ân cần săn sóc, động lòng nói với Kim Đính:
- Tiểu thơ chớ lo xa ! Tôi biết giữ gìn lời vàng ngọc. Thánh mẫu đã có nói, vài ba tháng nữa nàng
cũng đến Thọ Châu, thì sớm muộn vợ chồng cũng họp mặt. Xin đừng bịn rịn kẻo bị tiếng chê cười.
Kim Đính lau nước mắt nói:
- Chàng đã khuyên dạy, thiếp phải vâng lời. Xin nhớ lời thề chớ quên điều tình nghĩa.
Quân Bảo vừa lên ngựa, tiểu thơ kéo lại nói:
- Tôi buồn rầu mà quên việc lớn, chút nữa để chàng phải khốn.
Quân Bảo giật mình hỏi:
.
.

.
- Chuyện gì mà quan trọng vậy?
Kim Đính nói:
.
- Công tử đến Thọ Châu giải vây, nếu gặp Dư Hồng thì chẳng nên cự địch, vì tài không lại phép,
người phải thua yêu.
Kim Đính liền vẽ một lá bùa, giắt lên đầu Quân Bảo và dặn nhỏ rằng:
- Bùa này linh lắm! Phép tà chẳng hại đặng mình, mà chớ khá đánh lâu e nó phép cao nhiều món?
Quân Bảo thấy tiểu thơ bận bịu, liền vịn vai tuôn lụy hai hàng, mà không dám dĩ hơi, sợ người ta hay
biết.
Tiểu thơ đưa công tử bảy tám dặm đường bốn con thiếu nữ thúc tiểu thơ và nói:
- Dẫu đưa ngàn dặm cũng giã có một lời. Vậy xin cô trỡ về, kẻo ông hay khó dễ.
Tiểu thơ nghe nói than thở, khóc lóc. Quân Bảo thấy nàng rơi lụy thì gan ruột như bào. Tiểu thơ nói:
- Chàng đi tới ải đặng cứu giá, thiếp dựa nương phòng thẳm chờ tin.
Cao Quân Bảo nói:
- Nếu ta vào tới bệ rồng, sẽ tâu cho rõ trước sau, và rước nàng ra ải.
Nói rồi họ từ giã, kẻ tới người lui.
Lưu Kim Đính trở về nhà, ngày đêm vò võ buồn rầu, ngại nỗi Dư Hồng phép tắc, lo vì công tử can
cường, nếu chàng chẳng nhịn thua, ắt là mang họa, nên đêm nào Kim Đính cũng thấp hương van vái
cầu trời cho công tử bình yên.
Còn Cao công tử lộ trình hiểm trở, tối ngủ sáng đi, đói ăn khát uống. Đi gần tới ải Đồng Quan, ấy là
chỗ Tam Vương Triều Quang Mỹ trấn thủ, có binh nhiều tướng mạnh. Cao Quân Bảo tới trước cửa
hối quân vào thưa rằng:
- Có Cao Quỳnh đến thăm cậu!
Tam vương đòi vào ra mắt, cậu cháu vui mừng. Cao Quân Bảo thăm mợ xong rồi, Tam vương bày
tiệc thết đãi.
Cao Quân Bảo thưa:
- Tôi nóng giải vây nên đi trước, vậy nhờ cậu giúp binh Đào nguyên soái và mẹ tôi kéo binh đi sau, ít
ngày nữa cũng tới.
Tam vương nghe nói bèn ừ.
Hôm sau Triệu Quang Mỹ, cấp cho Quân Bảo một muôn binh ròng, khí giới hẳn hoi, lương thảo đầy
đủ. Cao Quân Bảo biết mình vi lệnh nên không dám ở lâu, bèn tạ từ kéo binh đi gấp.
Vài ngày sau đó, kế quân của Triệu hoàng cô đến ải Đồng Quan ghé nghỉ binh và hỏi thăm việc Cao
Quân Bảo trốn mẹ đi trước. Tam vương nghe tức mình hết sức, sợ Hoàng cô phiền trách mình nên
lập tức cho quân theo kêu, song theo không kịp.
Cao Quân Bảo được binh rồi kéo rầm rộ, giục ngựa bôn ba, chẳng bao lâu gần tới thành Thọ Châu.
.
.

.
.
Đến nơi Cao Quân Bảo thấy binh vây trùng trùng điệp điệp. Lúc chưa đến nơi cũng ngỡ là tầm
thường, bây giờ xem thấy binh gia đông quá, Cao Quân Bảo mới ghê mình, ví như thấy biển mênh
mông, sánh với sông nhỏ xíu.
Quân Bảo nghĩ vậy bèn truyền lệnh đồn quân lại, cho ăn uống no nê.
Quân lính lấy làm lạ không biết vì cớ gì.
Cao Quân Bảo nói:
- Lương đã cạn hết rồi, nếu ở lâu sẽ chết đói. Hễ giải vây được vào thành thì không thiếu gì cơm, nếu
không ráng sức xông vào thì ở đó cũng chết.
Nói xong rồi vào trước, quân binh ráng sức theo sau, liều mạng đánh đùa, một người cự cả hàng trăm
người. Cao Quân Bảo cầm giáo đâm chém binh Đường ngã nghiêng ngã ngửa.
Binh Đường vào phi báo. Dư Hồng lập tức ra trận thấy binh tướng bỏ chạy tơi bời. Quân Tống đang
xông vào hăm hở, bên trong có một tiểu tướng, mặt sáng như gương, đi tới đâu binh Đường chết tới
đó, chẳng khác Trịnh ấn ngày xưa.
Dư Hồng xông tới nạt lớn:
- Có tổ sư ở đây nhà người đừng hung hăng nữa.
Cao Quân Bảo nhìn thấy diện mạo, biết ngay là yêu đạo hư Hồng, liền nói:
- Nay ta vào thành cứa chúa, nếu ngươi biết điều thì đừng cản ngăn, còn ỷ tài phép thì sẽ bêu đầu nơi
ngọn giáo, uổng công tu luyện ngàn năm. Bởi ngươi dùng phép tà, bắt cha ta phản chúa làm hư danh
tiết thật đáng tội hành hình.
Dư Hồng nghe mấy lời, biết là con trai Cao Hoài Đức, khen thầm.
- Cha hùm đẻ con cọp, quả là Thái Tổ thạnh thời, nên có nhiều tướng tài phò tá. Chắc là đấu tài
không thắng, phải dùng phép mới xong.
Nghĩ rồi, Dư Hồng lấy chiêng lạc hồng đánh lên một tiếng không ngờ trong mão của Quân Bảo có
bùa định hồn nên chiêng phép không linh.
Cao Quân Bảo cười lớn nói:
- Yêu đạo! Người làm cái gì mà đánh chiêng inh ỏi vậy? Còn phép gì nữa cứ đem ra thử coi cho biết.
Ấy là lời khách sáo của Quân Bảo mà làm cho Dư Hồng giật mình nghĩ thầm:
- Thằng nhỏ này không sợ chiêng phép, hay nó cũng học phép tiên, nếu ta dùng món khác mà không
làm gì được nó thì ắt mang xấu. Thôi thì cho nó vào thành tuyệt hết lương thực thì cũng bó tay.
Nghĩ như vậy, Dư Hồng nói lớn:
- Thằng con nít kia? Ta cho ngươi vào thành, không ngăn cản làm chi.
Quân Bảo mừng rỡ kéo binh vào thành như đi vào chỗ không người.
Bấy giờ Tống Thái Tổ từ khi sai Trịnh ấn về viện binh đã được Trịnh Ấn lại báo tin:
- Binh viện đã đến gần, nay mai ắt được giải vây.
.
.

.
.
Tống Thái Tổ ngày đêm mong đợi, bỗng có Cao Quân Bảo đứng ngoài thành kêu lớn:
- Có Cao Quân Bảo đến cứu giá, xin mở cửa thành mà tiếp binh.
Tống Thái Tổ và Miêu quân sư vội lên mặt thành xem thử, quả thấy có cờ Đại Tống. Chúa tôi mừng
rỡ mở cửa thành đón tiếp.
Cao Quân Bảo vào đến nơi quì lạy chúc mừng. Vua Thái Tổ phán:
- Sao năm vị phu nhân chưa thấy đến?
Cao Quân Bảo tâu:
- Bởi mẹ cháu cản trở, nên cháu trốn đi trước một mình vì nghe cha cháu bị bắt, lại đầu Đường phản
chúa chưa rõ thiệt hư, nên cháu ghé ải Đồng Quan mượn một muôn binh đến trước. Còn mẹ cháu và
bốn vị phu nhân ít ngày nữa cũng đến.
Vua Thái Tổ nghe nói mừng rỡ phán:
- Cháu tuy nhỏ tuổi mà chí khí rất cao. Nếu nghe lời mẹ thì quên chúa bỏ cha. Còn Cao Nguyên soái
lòng trung liệt thuở nay có lẽ đâu đầu Đường đánh Tống. Chẳng lẽ là phép yêu đạo nó làm cho tôi
chúa giận nhau. Nếu Hoàng cô có đến đây quở trách thì trẫm sẽ xin tha tội cho.
Cao Quân Bảo mừng lạy tạ ơn. Vua truyền dọn yến thết đãi.
Trong khi ăn uống, vua Thái Tổ hỏi Quân Bảo:
- Chẳng hay quân giặt thì đông binh cháu thì ít, còn Dư Hồng có nhiều phép thuật, cháu làm sao phá
nổi trùng vây.
Cao Quân Bảo tâu:
- Cháu nhờ trên đầu có dắt lá bùa linh, nên yêu đạo không làm chi nổi.
Vua Thái Tổ khen:
- Cháu thuở nay ăn học, chưa từng việc chiến chinh mà tài ta lại rất đáng khen. Nay phép yêu không
hại được, chắc là trừ giặc Nam Đường không khó.
Cao Quân Bảo cúi đầu lạy tạ. Vua Thái Tổ hỏi:
- Bùa linh ở đâu mà cháu có? cao Quân Bảo chưa kịp tâu, bỗng té nhào xuống đất. Vua Thái Tổ và
bá quan thất kinh, vội đỡ Cao Quân Bảo dậy, thì Cao Quân Bảo đã nhắm hai con mắt, cắn chặt hàm
răng, nằm bất tỉnh, nhưng còn hơi ấm.
- Cháu đang khỏe mạnh sao bệnh phát bất thường như vậy . Nghĩ thương hại cho vợ chồng Hoàng
cô, nửa đời mới được chút trai, lại nữ trang hào kiệt. Nếu chẳng may thì đau xót biết chừng nào?
Miêu Quân sư tâu:
- Xin bệ hạ chớ lo, bệnh ấy không chết đâu mà sợ. Bởi công tử chưa từng lao khổ, nay trải gió dầm
sương, phá trùng vây vào đây, đang mệt mà uống rượu nên bị hôn mê. Xin cứ giao cho ngự y điều trị
sẽ bình phục.
Vua Thái Tổ theo lời tâu đòi thái y đến. Quan thái y khám bệnh xong liền cạy răng đổ thuốc vào.
.
.

.
.
Quân Bảo tỉnh dần, nhân nói chưa được, phải hằng ngày chăm sóc mới thuyên giảm.
Lời bàn.
Lòng nhiệt tình sinh ra sức mạnh và can đảm.
Cao Quân Bảo đem lòng nhiệt thành đến giải vây Thọ Châu mặc dầu binh ít, tài trí thô sơ, nhưng nhờ
có lòng nhiệt thành đã khiến cho Quân Bảo có thêm sức mạnh và lòng dũng cảm.
Mặt khác, vì Quân Bảo nặng lòng hiếu đạo, nên may gặp được Lưu Kim Đính yêu thương và giúp
đỡ.
Ấy vậy những kẻ có đạo nghĩa bao giờ cũng gặp mà nếu không gặp Lưu Kim Đính thì tài năng của
Cao Quân Bảo không thể nào vào được Thọ Châu thành.
Lẽ đời, những kẻ làm điều lành, biết phụng sự đạo nghĩa thì tránh được những phản ứng. Đừng
tưởng mỗi hành động mỗi ý nghĩ của mình không phải là nguyên nhân để gây nên một hậu quả
không thể lường trước.
.
.
.
Hồi Thứ Mười
Tam Xuân phá vây cứu chúa
Dư Hồng nỗ lực giao tranh.
Bấy giờ Triệu Hoàng Cô thấy gia đinh trao thơ của Triệu Quang Mỹ, liền mở ra xem hiểu rõ sự việc,
mới hay Cao Quân Bảo mượn một muôn binh, nối dối rằng vâng lệnh đi cứu giá.
Xong việc đã lỡ rồi, Hoàng Cô không biết làm sao, phải dằn lòng hiệp với Đào Nguyên soái kéo viện
binh đi giải cứu.
Cực khổ nửa tháng trời, binh mới đến Thọ Châu, rồi tìm chỗ dồn binh, đóng trại cách thành hai mươi
dặm.
Hôm sau, Đào Nguyên soái truyền lệnh xua quân đến. Binh tướng đều vâng lời, hăng hái đánh vào
trại binh Đường.
Trình Anh là tướng tiên phương của Nam Đường thấy binh Tống kẻo đến, liền chận lại giao tranh.
Trình Anh cười ha hả, nói:
- Bên Tống hết tướng nên sai đàn bà ra trận.
.
.

.
.
Đào Nguyên soái nổi giận, đưa roi sắt lên, đánh vào mặt Trình Anh, làm cho Trình Anh đỡ không
kịp té nhào xuống ngựa chết tươi. Binh Đường thấy chủ tướng bỏ mạng đều bỏ chạy. Kế đó bốn nữ
tướng nối tiếp nhau tới. Cao Quân Bảo xách cặp roi bạc đánh vào, mấy tướng bên Đường thua chạy
về phi báo với Nam Đường.
Vua Nam Đường cùng bá quan văn võ đều thất kinh hỏi:
- Tướng tống là người nào mà lợi hại như vậy?
Quân thám thính tâu:
- Có năm tướng đàn bà đến giải vây đánh Trình Anh bể sọ, quân sĩ chạy tán loạn.
Vua Nam Đường nghe báo thất kinh. Bỗng có Lâm Văn Thã tuổi đã ngoài bảy mươi, là anh ruột
Nguyên soái Lâm Văn Bản xin ra đấu chiến.
Dư Hồng can:
- Bữa nay là ngày xấu, không nên ra trận, vả lại binh chúng nó mới đến còn đang hăng, cứ để cho
chúng nó vào thành, quá ba ngày sẽ đem binh đi đánh.
Lâm Văn Thả nói:
- Giặc đã đến thành Thọ châu, không lẽ chờ cho đến ngày tốt mới ra ngăn cản. Tôi bình sanh không
tin việc dị đoan như vậy chắc Quân sư chê tôi già nên chẳng muốn cho đi.
Dư Hồng nói:
- Tướng quân tuy tuổi già mà sức còn khoẻ mạnh, tôi đây dám khinh khi. Bởi vì đêm qua tôi có xem
thiên văn, thấy sao của tướng quân lu lắm. Nay hoãn lại ít ngày cũng chẳng can chi.
Lâm Văn Thả không nghe nghĩ thầm:
- Dư Hồng trước khi thắng trận, ỷ thế kiêu căng, nay thấy tướng Tống có tài nên sợ sệt.
Nghĩ vậy, Lâm Văn Thả nằng nặc truyền quân thắng ngựa khiêng đao ra, quyết dẫn binh ra trận.
Dư Hồng thấy vậy, chỉ còn biết lắc đầu, than:
- Thật là liều lĩnh.
Bên Tống, Đào Nguyên soái thấy quân Đường chạy loạn, hèn dẫn binh vào thành, xảy có một tướng
già cưỡi ngựa cho tới hét:
- Có ta đây! Chạy đâu cho khỏi!
Triệu Hoàng Cô nghe nói đáp lại:
- Già gần xuống lỗ, còn muốn làm gió xoáy hay sao?
Nói rồi giục ngựa tới hét lớn:
- Tướng Đường đã chết hết, còn sót một mình lão phải không?
Lâm Văn Thả tuy tuổi đã cao, mà máu dê còn đỏ, thấy Triệu Hoàng Cô tuổi ngoài ba mươi, cốt cách
dịu dàng, dung nhan đẹp đẽ thì ngó không nháy mắt, và nói lớn:
- Bên Tống có kẻ anh hùng, không người làm tướng hay sao mà đàn bà con gái ra đối địch binh
.
.

.
.
Đường? Ta thấy gương mặt nàng như hoa nên ta không nỡ giết, ở nhà đây tuy tác đã già, mà sức
mạnh còn hơn trai. Vậy nàng cũng nên theo ta, về làm bé một vị công hầu cũng là vinh dự, nếu đợi
Đường lấy Tống thì mắc họa liên can, ta thương chút phận hồng nhan, chẳng muốn cho nàng bạc
mạng!
Nói rồi, Lâm Văn Thả vuốt râu cười chúm chím và nhìn mặt Hoàng Cô.
Triệu Hoàng Cô nghe nói vô lễ, giận mắng:
- Mi là con trâu già không biết xấu hổ? Cốt nhà ngươi là thú thấy vợ chúng thì mê, tao quyết chém
đầu, mới là đã giận.
Hoàng Cô giá siêu chém xuống. Lâm Văn Thả đỡ liền. Đàn bà cự với đàn ông, đánh mười hiệp chưa
ai thắng bại. Lâm Văn Thả khen rằng:
- Đường đao của nàng giỏi lắm? Ngặt một điều là sức đàn bà.
Triệu Hoàng Cô thấy Lâm Văn Thả tuổi già mà sức mạnh hơn trai, mình lại cầm cây siêu quá nặng,
tính đánh không lại mới nhịn thua, đánh vài hiệp rồi quất ngựa chạy dài, Lâm Văn Thả ráng hơi theo
mãi.
Lâm Văn Thả đuổi gần kịp thì cười và nói:
- Chuyến này chắc bắt đặng nữ tướng đem về làm tiểu thiếp ?
Triệu Hoàng Cô liếc mắt thấy Lâm Văn Thả đến gần, liền rút ba mũi tên thần ra lấy cung nỏ lắp tên
vào bắn Lâm Văn Thả. Hai mũi tên trúng vào gò má, một mũi trúng màng tang.
Lâm Văn Thả la to:
- Chao ôi !
Chưa kịp nhổ tên thì Triệu Hoàng Cô đã tới, chém Lâm Văn Thả bay đầu? Tiếc thay một tướng anh
hùng, bị đàn bà mà chết, vậy mới biết sanh nghề tử nghiệp, vậy mới tin sắc lịch hại anh hùng!
Triệu Hoàng Cô chém rồi, chê đầu xấu nên không thèm lấy. Quân bên Đường áp tới, khiêng thây
Lâm Văn Thả về thành.
Vua Nam Đường đương ngồi trông tin Văn Thả, xảy thấy quân khiêng thây về, vua Nam Đường biến
sắc phán:
- Lão tướng quân không nghe lời Quân sư, nên không toàn tánh mạng. Nay tướng quân vì nước mà
tử tại sa trường, rất nên trung nghĩa với triều đình.
Vua Nam Đường truyền chôn cất Lâm Văn Thả theo lễ chôn vua. Người đời sau có đặt hai bài thơ
biếm Lâm Văn Thả như vầy:
1 - Đàn ông nhiều kẻ lạc lòng thương
Nên bị thuyền quyên sát hại thường.
Hào kiệt xưa nay lầm mãi mãi
Khuyên ai xem đó lấy làm gương!
.
.

.
2 - Làm trai chớ khá dễ đàn bà,
Tên độc trong mình bắn chẳng tha.
Thành tặc bởi già mà chẳng biết,
Nhờ nàng đưa xuống tới Diêm la.
Vua Đường thấy binh Tống mạnh quá, bền phán hỏi Dư Quân sư.
.
- Tuy chúa tôi Thái Tổ bị vây, mà có viện binh đến giải cứu bận trước tướng trai cũng thắng, đem
binh cả vạn vô thành, bây giờ năm ả đàn bà, giết thác của mình hai tướng. Vậy xin Quân sư xét lại tại
sao mình trước thắng rồi sau bại?
Dư Hồng tâu:
- Xin bệ hạ chớ lo, tại Văn Thả cãi lời nên phải chết, ấy là số trời đã định, huống chi thắng bại lẽ
thường, tử sanh hữu mạng, có phải là tại bại ở đâu? Ngày mai tôi ra trận một phen, chắc đặng mười
phần trọn thắng.
Vua Nam Dường nghe tâu mừng rỡ liền phán:
- Nếu Quân sư đến chốn chiến trường thì trẫm còn lo chi nữa !
Nói rồi vua truyền thị thần dọn yến tiệc mà đãi Quân sư. Nội ngày đó tôi chúa vui say, vì theo lời
Quân sư, chắc mai thắng trận.
Còn Triệu Hoàng Cô tuy thua mà thắng, giết đặng một lão già yêu Đào Nguyên soái rất ngợi khen vì
ba mũi tên thần đều trúng, khi ấy trời đã tối nên họ truyền quân đóng trại ở ngoài.
Rạng ngày, Đào Nguyên soái truyền cho quân binh đồng kéo rốc vào thành, xảy thấy Dư Hồng đem
binh đến cản lại. Đào Nguyên soái nói rằng:
- Nay có binh Dư Hồng ngăn trở, nó có phép tắc cao kỳ, ai giao thương cũng phải giữ mình, nếu nó
bại trận chớ đuổi theo mà chết !
Lý Túy Huê nói:
- Binh mình đã thắng hai trận, chắc sao yêu đạo cũng báo thù, trận này chẳng phải tầm thường, phải
ráng giữ gìn cho lắm. Vậy xin Nguyên soái hiệp năm tướng lại, chẳng nên để cho một Hoàng Cô ra
trận.
Đào Nguyên soái khen:
- Lý phu nhân phải lắm?
Rồi truyền gom binh tả hữu lại đồng theo tiếp tiên phong.
Triệu Hoàng Cô đi trước bỗng gặp đạo sĩ đón đường, nghi cờ tướng này là Dư Hồng, bắt chồng mình
ngày trước, nên nổi giận nghiến răng trèo trẹo không thèm hỏi họ tên, xốc tới đánh chém đầu. Dư
Hồng đưa gậy ra đỡ, biết là gái cọp, đến sức như Lâm Văn Thả còn phải bay đầu, nên Dư Hồng
không dám đánh lâu, chỉ ít hiệp rồi chạy.
Triệu Hoàng Cô thấy Dư Hồng chạy thì biết không phải thiệt thua, ấy là kế trá bại gạt mình đặng
.
.

.
.
dùng phép yêu mà bắt, biết thế không đuổi theo, truyền quân giục ngựa vô thành. Dư Hồng thấy
Hoàng Cô không đuổi theo thì khó nổi dụng phép tà. Vì như cá không ăn câu làm sao bắt đặng, liền
trở lại mà nói khích:
- Ta biết rồi, bên Tống hết tướng tài, cứ quen thói đem mồi câu cá. Lâm Văn Thả mê nhan sắc mày
mà chết, cũng khá khen cho son phấn ròng nghề, song nghề là nghề với ai kia, cứ như ta là một vị
thần tiên, không ham hoa đắm nguyệt. Ta không lòng Lữ Bố, mà đó phải bán dạng Điêu Thuyền, liệu
bề dỡ thì chạy đi, bằng có tài thì đánh nữa. Ta nói thiệt, nguyện bắt cho đặng nhà ngươi mà tế mồ
Văn Thả, kẻo vong hồn còn thương gió nhớ mây!
Triệu Hoàng Cô nghe nổi xung, hét lớn một tiếng và mắng:
- Ngươi là yêu đạo ! Quen thói gạt người, ta cho ngươi phải tội trời mà phải bỏ mình giữa trận!
Dư Hồng vừa nghe vừa ngẫm nghĩ:
- Cái lạc hồn ta đây giờ chẳng linh nghiệm như trước, còn đánh đấu lực thì mang xấu với quan gia,
vậy phải dụng phi đao giết con cọp cái này mới được!
Nghĩ rồi Dư Hồng lấy con dao nhỏ, phóng đại lên trời, đao ấy hóa ra lớn và dài dường như cái mống.
Triệu Hoàng Cô ngồi trên ngựa thấy cái mống trên trời sa ngay vào mình, hào quang chiếu sáng lòa,
ai nấy cũng thất kinh hồn vía. Triệu Hoàng Cô giục ngựa chạy dài, mà coi lại thì cái mống ấy theo
hoài, Triệu Hoàng Cô không biết tránh cách nào, đương lính quýnh bỗng bị cái mống ấy sa nhằm
cánh tay mặt, liền té nhào xuống ngựa tức thì Dư Hồng xốc tới định chém đầu, thì may gặp Đào
Nguyên soái đón lại, đâm Dư Hồng một giáo. Dư Hồng liền đỡ. Kế có La phu nhân và Dư phu nhân
ra phò Triệu Hoàng Cô trở lại dinh trại.
Đây nói về Dư Hồng bị Đào Nguyên soái đâm một giáo. Dư Hồng vừa đỡ vừa thốt lui, thì Đào
Nguyên soái lấy cây cờ nhỏ đen phất qua phất lại, niệm thần chú lâm râm, bỗng nhiên ám địa hôn,
gió thổi đến ào ào, cát tuôn bay mù mịt, hóa ra hùm beo tây tượng bấu ăn thịt binh Đường. Dư Hồng
thấy thất kinh độn thổ đi về mất.
Thương hại cho binh Đường bị thú dữ cắn chết biết bao nhiêu ! Phần binh Tống đuổi theo, giáo đâm
gươm chém, máu tràn như mây, thây chất tựa gò.
Đào Nguyên soái mới thâu phép thần thông lại và đem binh về trại, thì thấy Triệu Hoàng Cô mặt
thâm đen sì, nằm thiêm thiếp bốn vị phu nhân ngồi than vắn thở dài.
Còn Dư Hồng độn thổ về ra mắt vua Đường, tâu sự phi đao chém Hoàng Cô chắc nội bảy ngày phải
chết, chỉ trừ ra có thuốc Tiên phép Phật thì mới cứu đặng cho, còn việc hao binh cũng là tiểu sự. Vua
tôi cùng bàn luận, tính đem thêm binh vây thành Thọ Châu.
***
Lại nói Lưu Kim Đính ở Song Tỏa sơn từ khi đưa công tử rồi bèn dẹp bảng chiêu phu không còn kén
chồng nữa. Lưu Nài không rõ vì cớ nào vậy, mới hỏi tiểu thơ:
.
.

.
.
- Con tuổi cũng trọng rồi mà kén không gặp đặng rể, không gặp người đồng lực mà sao con dẹp bảng
chiêu phu đi?
Lưu Kim Đính thưa :
- Khi Cao Quân Bảo ghé tránh mưa đó, sáng ra y đi qua núi Song Tỏa, ỷ mình ròng võ nghệ đấm gãy
bảng chiêu phu, con tức mình ra đánh với chàng, là quyết rửa hờn, chẳng ngờ cây thương của Quân
Bảo hơn hết mọi người, con thua phải chạy dài nên thẹn mình dẹp bảng. Con nghĩ lấy làm thẹn mặt
nên chưa dám thưa lại với cha.
Lưu Nãi nghe nói mừng trong lòng và nói:
- Khi ấy sao con không cho cha hay, để cho chàng đi mất như vậy? Cao công tử là cháu Tống Thái
Tổ, con Đông Bình Vương, người đã vẹn hiếu vẹn trung, lại văn võ song toàn, cha mà đặng rể đông
sàng như vậy thì mừng biết dường nào! Chẳng biết công tử có tưởng tình có lời chi giao ước hay
không?
Lưu Kim Đính thưa :
- Công tử cũng yêu tài mến sắc con lắm, song gặp một điều đi cứu chúa cứu cha, nên có hẹn cùng
con rằng: để đến thành Thọ Châu rồi sẽ tâu Thiên từ cho người đến rước. Đường từ đây đi Thọ Châu
hơn nửa tháng, đi vừa khứ hồi chừng bốn mươi ngày, nay cũng đà hai tháng, sao mà bặt tin nhạn cá.
Lưu Nãi nói:
- Hồi trước cha phò vua Bắc Hớn đánh với Tống nhiều phen, bây giờ tính việc sui gia ắt là Thái Tổ
ngại nước cừu không khứng. Lúc này sẵn dịp Tống Thái Tổ bị vây, con nên đem binh đánh giúp lập
công, thì Thái Tổ hết lòng nghi ngại: trước làm quen với Tống, sau cho xong việc nhân duyên, ấy là
con lấy tiếng với người, cho khỏi uổng công ăn học.
Lưu Kim Đính nghe cha nói cho đi, như đặng ngàn vàng, liền vui vẻ rồi trở vào phòng sửa sang đi
cứu giá, có đem theo các phép của Lê Sơn Thánh Mẫu và bốn con thế nữ đã tập rèn. Sữa soạn xong
ra lạy tạ từ cha, rồi Kim Đính lên yên giục ngựa. Đường đi mang sao đội nguyệt, chải gió dầm mưa,
đi nửa tháng trường mới tới thành Thọ Châu.
Lời Bàn.
Lấy chồng phải theo chồng, theo chồng phải gánh sự nghiệp nhà chồng. Đó là quan niệm
Khổng học.
Vợ chồng là một khối thống nhất giữa tình cảm và ý thức trong cuộc sống. Nếu hai bên không kết
hợp được thì cuộc sống gia đình không có hạnh phúc. Lưu Kim Đính theo chồng, đem thân phụng sự
nhà chồng, đó là việc làm theo ý nghĩa xây dựng gia đình theo quan niệm Đông Phương. Lưu Nãi,
một ngươi cha đã biết dạy con gái mình, và giúp cho Lưu Kim Đính thực hiện đúng nhiệm vụ làm
.
.

.
vợ, làm dâu khi về nhà họ Cao.
.
.
.
.
Hồi Thứ Mười Một
   Vâng lời cha, Kim Đính giá,
Mang ơn chúa, Quân Bảo vầy duyên.
Khi tới Thọ Châu, nhằm lúc Triệu Hoàng Cô bị thương nằm trong trại la, Kim Đính bèn sai bốn con
đòi vào báo với Đào Nguyên soái hay. Đào Nguyên soái với ba vị phu nhân chưa rõ ra cội rễ. Lưu
Kim Đính bước vào ra mắt, và thưa hết sự tình.
Đào Nguyên soái và ba vị phu nhân nghe nói mới hay rằng: công tử đi dọc đường tỉ võ và hứa việc
nhân duyên, nên nay Lưu tiểu thơ vâng lệnh cha đến giúp. Lý phu nhân thấy tiểu thơ sắc nước hương
trời thì lòng mừng thầm cho cháu phỉ duyên đẹp phận. Lưu Kim Đính thưa cùng mấy vị phu nhân
xin ra mắt mẹ chồng cho biết mặt.
Đào Nguyên soái nói rằng:
- Triệu Hoàng Cô ra trận bị phi đao của Dư Hồng, hôm rày thuốc thang cũng chẳng lành bịnh làm
khi mê khi tỉnh, lúc mê thì nằm hoài nằm hủy, khi tỉnh lại la nhức la đau, còn nằm tại dinh sau,
không biết thuốc chi mà xức! Vì Hoàng Cô bịnh trọng quá nên phá vây chưa đặng mà đem binh
tướng vào thành.
Lưu Kim Đính nghe nói, lật đật thưa:
- Xin cho tôi coi thử thương tích ra thế nào, tôi có thuốc linh đơn hoặc may cứu đặng.
- Lý phu nhân mừng rỡ nói:
- Vậy thì cháu đi với thím ra sau coi có thuốc chi cho thử.
Lưu Kim Đính vào coi kỹ lưỡng thấy một vết trên vai thì nói rằng:
- Cái đao này đã rèn một trăm năm, ai phạm tới nó thì mục xương mà chết, không thuốc chi cứu
đặng, trừ ra có một món tiên đơn, Lê Sơn Thánh Mẫu có cho tôi để đem theo mình, hễ uống vào thì
lành mạnh.
Bốn vị phu nhân đồng nói rằng:
- Trời khiến tiểu thơ đến đây cứu Hoàng Cô khỏi nạn!
.
.

.
.
Sau đó Lưu Kim Đính sai con đòi đem nước lạnh ra lấy hoàn thuốc nhỏ màu đỏ như son, hòa ra một
chum, nửa thoa, nửa cho uống. Triệu Hoàng Cô uống rồi giây lát trong vai chảy nước độc đen như
mực, ra đặng chừng một chén đầy thì vết ấy tự nhiên gom miệng, Hoàng Cô hết la đau nhức, ngủ
một giấc thẳng thừng, khi thức dậy ngồi tỉnh rồi hỏi:
- Tôi bị phi đao, nhờ thuốc chi mà hết?
Bốn vị phu nhân bèn chỉ Kim Đính và nói:
- Nhờ Lưu Kim Đính tiểu thơ đến đây quyết ra tay giúp Tống, nhân dịp cho Hoàng Cô uống thuốc
linh đơn, bởi mình làm lành nên gặp lành, dầu mắc cạn cũng khỏi nạn.
Triệu Hoàng Cô nghe rõ, bèn bước xuống tạ ơn. Lưu Kim Đính chối từ không dám nhận.
Lý phu nhân kéo Hoàng Cô lại, rồi thuật chuyện trước sau, Triệu Hoàng Cô nghe rõ mừng và nói:
- Ấy cũng là duyên tiền định nên khiến cho Quân Bảo trốn nhà đi mà gặp đặng duyên lành! Nay có
nàng dâu đến cứu, nhắm cũng xứng trai tài gái sắc, hiệp nhau mà phò Tống dẹp Đường. Thiệt là
nàng trung hiếu lưỡng toàn, đã nên trang tài nữ.
Lưu Kim Đính làm lễ và thưa rằng:
- Công tử đã hứa lời vàng đá, nên cha tôi sai đến tiếp binh xin Nguyên soái biên tên đặng lập công
với nước.
Đào Nguyên soái ghi tên vào sổ công rồi truyền quân dọn yến mà thết đãi tiểu thơ. Tiệc rồi ai nấy
đều nghỉ ngơi, song có Hoàng Cô với tiểu thơ không ngủ. Mẹ chồng với nàng dâu mới nói chuyện,
hỏi thăm từ chân tóc kẽ răng, tình ưa càng kể càng dài mà không hay trời sáng.
Rạng sáng, Đào Nguyên soái truyền lệnh hiệp binh đặng giải phá trùng vây. Binh gia bốn mươi vạn,
kéo đi rầm rầm rộ rộ, Lưu tiểu thơ có phép nên đi tiên phong thế chức cho Hoàng Cô, đặng nếu gặp
Dư Hồng sẽ ra tài đấu phép, trước là vào thành cho Hoàng Đế hay tin, sau là giáp mặt Cao Quỳnh
kẻo lâu ngày trông đợi. Lưu Kim Đính lãnh lệnh tiễn rồi, cầm đao lên ngựa tức thì.
Đào Nguyên soái bèn hỏi:
- Tiểu thơ muốn lãnh bao nhiêu binh đặng đi trước giải vây cho chắc thắng?
Lưu Kim Đính thưa:
- Đánh giặc với giải vây khác xa nhau lắm! Đánh giặc thì dụng binh đông cho mạnh thế, lập trận
khỏi thiếu người, còn như việc giải vây đem binh đông càng khó giữ, bốn con đòi của tôi đây cũng
đủ, chẳng dùng binh tướng làm chi!
Đào Nguyên soái khen phải nên dẫn binh tướng đi sau, một mình Kim Đính đi tiên phong với bốn
con thế nữ.
Lưu Kim Đính một người một ngựa, vào chém loạn đả Đường binh, gặp tướng thì tướng nhào, gặp
binh thì binh chết, phá luôn luôn như vậy, hết bảy vòng binh Đường.
Còn trên thành Thọ Châu khi nghe binh ó vang trời, tôi chúa lên thành coi thử, ngỡ là năm vị phu
.
.

.
.
nhân đến tiếp, song coi lại ngọn cờ không phải của nước mình. Tôi chúa hồ nghi không hiểu là binh
của ai và ở đâu kéo đến, xảy thấy một nữ tướng cưỡi ngựa đến thành, hình dung tươi tốt như hoa,
diện mạo xem dường tiên nữ, nàng ấy nói lớn:
- Tôi vào báo tin cho Bệ hạ hay, có năm vị phu nhân đem binh đến cứa giá còn đi sau.
Tống Thái Tổ mới hỏi rằng :
- Nữ tướng là ai đó?
Lưu Kim Đính tâu:
- Tôi là con gái Lưu Nãi, tên là Kim Đính, vợ của Cao Quỳnh, xin vào ra mắt Bệ hạ.
Tống Thái Tổ nghi ngờ:
- Lưu Nãi làm quan Bắc Hớn là nước cừu thù, sao con này lại đến đây giải vây, xưng là vợ của Cao
Quân Bảo? Vả lại Quân Bảo thuở nay chưa có vợ, chuyện này không biết giả chân, còn Quân Bảo
nằm mê man biết làm sao mà hỏi cho rõ?
Nghĩ rằng Nam Đường làm kế, gạt mở cửa cho quân vào nên Tống Thái Tổ hỏi lớn:
- Nữ tướng nói vâng lệnh Nguyên soái xin nhập thành, vậy chớ có lệnh tiễn hay không, đưa ra coi
thử.
Lưu Kim Đính nói có, liền thò tay rờ trong túi thì đâu mất, bèn phách lạc hồn xiêu, mồ hôi ra ướt áo,
mới tâu lớn:
- Tôi vâng lệnh Nguyên soái đi tiên phong, có lãnh lệnh tiễn, bởi phá bảy vòng binh lâu lắm. chắc là
làm rớt dọc đường, xin Bệ hạ rộng suy, dung tội cho hạ thần thứ nhất.
Tống Thái Tổ phán:
- Viện binh cứ tin ở cờ lệnh tiễn, nếu không làm sao biết đặng thiệt hư? Trẫm cũng muốn cho vào, lại
sợ lầm mưu của giặc.
Lưu Kim Đính bèn tâu:
- Tuy mất cờ lệnh tiễn mà còn có vật làm tin, xin Bệ hạ xem qua, thì hết lòng nghi ngại. Tống Thái
Tổ truyền quân dòng cái thùng xuống, Kim Đính lấy đôi vòng của Quân Bảo để vào thùng. Quân rút
dây lên, lấy đôi vòng dâng cho Thái Tổ. Thái Tổ cầm vòng coi rõ có chạm chữ Cao Quỳnh thì lòng
đã tin rồi, chẳng còn nghi ngại, song nghĩ lại con này tài lắm, mới phá nổi trùng vây, chi bằng giả
dạng hồ nghi cho nó trở lại một lần nữa. Trước là thử tình thiệt dối, sau là giết bớt binh Đường. Như
vậy đặng lợi hai phần, song cũng là lòng độc!
Tống Thái Tổ mới nói rằng:
- Đôi vòng thiệt có tên Quân Bảo, song e khi nó làm mất mà nàng xí được chăng? Lại cũng nhiều
người trùng họ trùng tên, có chỗ chi làm chắc?
Lưu Kim Đính tâu:
- Nếu Bệ hạ không tin, thì cho Quân Bảo ra đây sẽ biết.
.
.

.
Tống Thái Tổ nghe nói khen thầm:
.
- Mình tính kế cũng sâu, nó kêu nài cũng phải. Muốn vậy cho vậy, để gạt nó đi cho giáp vòng thành.
Thái Tổ bèn nói:
- Nàng muốn gặp cháu trẫm, cũng chẳng khó chi. Quân Bảo đang trấn tại thành Nam, vậy hãy đi tới
Nam môn thì gặp.
Lưu Kim Đính túng thế, phải giục ngựa qua thành Nam.
Lưu Kim Đính nghe Thái Tổ nói Cao công tử trấn tại thành Nam, vì muốn thấy mặt chồng, nên bèn
dẫn bốn con thế nữ phá trùng vây thẳng tới cửa Nam. Lưu Kim Đính đi tới đâu binh tướng tránh
đường, không ai dám ngăn cản. Tiểu thơ giục ngựa đến cửa Nam kêu lớn rằng:
- Có Cao công tử ở đó không?
Kêu rồi bỗng thấy một người mặt đỏ đứng trên thành, coi lại là Thái Tổ.
Lưu Kim Đính thấy Thái Tổ thì chúc vạn tuế rồi tâu:
- Chẳng hay công tử đi đâu vắng, không có lên thành?
Thái Tổ nói:
- Bởi vì binh Đường phá thành Tây không ai đánh lại, phải triệu ngự sanh qua đó mà trấn thủ thành
Tây nên trẫm đến đây trả lời cho nữ tướng rõ.
Lưu Kim Đính nửa giận nửa nghi. Song đã lỡ bề, lui không tiện mà tới cũng gay, nghĩ vậy tạ từ
Hoàng Đế, một đoàn kéo tới thành Tây.
Khi Kim Đính dẫn mấy con tỳ nữ đi đặng một hồi, bỗng có tướng canh ra đón đường, bị tiểu thơ
chém chết, bốn con đòi lướt tới phá nát vòng binh. Lưu Kim Đính giục ngựa tới cửa thành và kêu
lớn:
- Cao công tử ! Có Lưu Kim Đính tới đây !
Kêu rồi xảy thấy Thái Tổ lên mặt thành phán:
phá bên thành cửa Bắc rất gấp cho nên ngự sanh phải đến Bắc môn ứng tiếp, vậy nữ tướng phải đi
qua thành Bắc thì chắc gặp chẳng không !
Lưu Kim Đính nghe nói liền khóc và than:
- Mình phá thành Đông, thành Nam, thành Tây là ba cửa chẳng nài đụt pháo xông tên, mà không
thấy mặt chồng, thiệt lấy làm vô duyên bạc phận! Không rõ vì cớ nào mà chẳng cho chồng vợ gặp
nhau?
Lưu Kim Đính đứng lau nước mắt hoài, không tung hô vạn tuế nữa. Con đòi của Kim Đính tên là Hạ
Liên thấy vậy liền thưa:
- Chuyện này tôi đã rõ rồi, Tống Thái Tổ tánh nghi như Tào Tháo, thấy mình không có lệnh nên nghi
là Nam Đường giả mạo vào thành, nên cố ý thử hoài, bắt đi cùng bốn cửa. Một là coi thiệt giả, nếu
quả là binh trá hàng thì đánh chẳng thiệt tình, hai là mượn sức mình, giết bớt binh Đường cho Thái
.
.

.
.
Tổ, nên phá ba cửa mà chẳng gặp công tử của cô. Mình đã phá ba dinh chỉ một cửa lẽ nào trở lại?
Huống chi bây giờ trở về cũng khó, biết làm sao thưa lại với ông? Công đào giếng đã lâu, chỉ một
thước nữa bỏ đi uổng lắm! Nếu phá xong thành Bắc, không lẽ vua còn biểu đi đâu? Dầu người hiểm
bậc nào cũng phải cho gặp mặt.
Tiểu thơ đánh phá ba cửa đà hết nửa ngày trong bụng thì đói lòng, ngoài lại mệt hết hơi. Lưu Kim
Đính mới lấy năm hoàn thuốc chia nhau mà uống đỡ lòng, rồi ráng qua cửa Bắc.
Còn về Nam Đường từ lúc ban mai đến nửa ngày thì nghe quân báo, lần đầu:
- Có năm tướng gái đến phá vây cửa thành Đông.
Hai lần sau:
- Chúng nó qua cửa thành Nam, thành Tây, mà Quân sư làm lảng.
Vua Nam Đường không lẽ ép đi, nay nghe quân báo rằng:
- Năm nàng ấy xông vào cửa thành Bắc nữa!
Vua Nam Đường mới tức giận nói:
- Trong nửa ngày mà bị năm con a hoàn phá bốn vòng binh tan nát, coi như thế đến chỗ không
người, đi giáp vòng không biết sợ ai, thế này phải thỉnh Quân sư ra cứu binh mặt Bắc.
Dư Hồng nghe báo rằng có năm nàng nữ tướng phá hết ba mặt binh thì rõ biết là Kim Đính, học trò
của Lê Sơn Thánh Mẫu, chắc nàng này phép tắc cao lắm, báu vật cũng nhiều, nghĩ vậy nên làm lảng
làm ngơ, chẳng dám ra thành cự địch. Chẳng dè vua Đường ép trí, không lẽ từ chối. Dư Hồng bèn cử
binh ra thành mà chỉ thấy có năm tướng gái phá nát các vòng binh!
Dư Hồng hỏi:
- Nữ tướng có phải là Lưu tiểu thơ, đệ tử của Lê Sơn Thánh Mẫu chăng?
Lưu Kim Đính đáp:
- Phải!
Rồi Lưu Kim Đính hỏi lại Dư Hồng:
- Dư sư huynh có phải học trò Xích Mi lão tổ chăng?
Dư Hồng đáp phải và hỏi lại Lưu Kim Đính:
- Ông thân đại hữu hồi trước phò Lưu Sùng là vua Bắc Hớn, vả lại ngài là em của vua. Làm quan đến
cực phẩm, sau Thái Tổ lấy Bắc Hớn vậy có phải Tống là nước cừu thù! Đạo hữu là dòng dõi họ Lưu,
cháu vua Bắc Hớn, đáng lẽ thì oán Tống, qua giúp với Đường, bởi vì Đường đánh Tống trận này,
cũng để trả thù ho Bắc Hớn. Ông thân đạo hữu hồi trước là tôi Bắc Hớn, nay tuy tuổi già mà không
lẽ phụ quân vương, sao đạo hữu lại đánh Đường, mà giúp Tống là nước cừu nước oán là nghĩa lý gì?
Xin đạo hữu xét lại có phải là trái lẽ chăng? Đạo hữu với tôi tuy khác thầy song cũng là một đạo.
Nếu đua tranh như thế, chắc là thiên hạ chê cười, vả lại ngao cò chẳng nhịn nhau, chắc ông câu có lợi
chi bằng xét lại lời can gián về giúp Đường thì vua Đường kính trọng mười phần, mà đạo hữu cũng
.
.

.
.
đặng làm quan tột phẩm. Tôi cũng bày lời hơn thiệt, xin đạo hữu xét lại thử coi, chớ như Thái Tổ là
người bạc nghĩa vô tình, đến nỗi Trịnh ân là em bạn có công mà còn sát hại. Nếu tin lòng đầu Tống,
ra công lấy nước Đường thì Thái Tổ như Hớn Cao Tổ còn đạo hữu như Hàn Tín, hẳn đặng chim rồi
bẻ ná, bắt đặng cá lại quên nôm, chừng đó đạo hữu mới ăn năn sao kịp?
Lưu Kim Đính đáp lại:
- Mấy lời nói đó, nghe ra chẳng khác kẻ nghịch thiên, mình đã lầm lỗi lại muốn cho người khác phải
khốn! Khi trước cha ta có làm quan Bắc Hớn, bởi vua chẳng nghe lời can gián, bỏ việc chánh nhân,
dùng kẻ gian tà, tham lòng sắc dục, lòng dân chẳng phục, vận nước hầu suy, cha ta liệu khó nỗi phò
trì, nên từ chức lui về phường rẫy. Ấy là người minh triết, biết họa mà lánh trước, còn sư huynh
không biết tùng quyền, cứ chấp kinh mà trách? Vả lại đệ tử Xích Mi lão tổ cũng là một vị thần tiên,
há không biết cơ trời xây giang sơn về cho Tống? Khí số nhà Đường đã hết, cãi trời sao đặng mà
phò, tiếc cho sư huynh công tu hành đã tám trăm năm, cũng gần thành chánh quả, nếu mến công
danh phú quí, làm nghịch ý trời, sợ bỏ xác nơi chiến trường, rất uổng công tu luyện.
Dư Hồng nghe Kim Đính nói mình là: "Sợ bỏ thây nơi chiến trường” thì nổi giận, mình nói lành mà
nó sanh dữ. Nên Dư Hồng đỏ mặt tía tai, hét lớn:
- Mi là con khốn! ăn nói hỗn hào, quyết một trận cho biết thấp cao ?
Nói rồi đánh xuống một gậy, Lưu Kim Đính đưa đao ra đỡ.
Hai đàng đánh đặng mười hồi mà không phân thắng bại. Dư Hồng có tuổi, mà Quân sư cũng ít tài, bị
Kim Đính đánh đỡ đà không kịp.
Dư Hồng nghĩ:
- Chắc đấu tài không lại, phải dụng phép mới xong!
Liền lấy phi đao quăng lên, hào quang chiếu ra sáng giới.
Còn Tống Thái Tổ đứng trên thành nhìn xuống, ban đầu mới thấy hai người nói chuyện, ở xa nghe rõ
ràng, kế thấy Dư Hồng móc túi lấy phi đao quăng lên. Thái Tổ thất kinh hồn vía, chắc lưỡi nói:
- Nếu nữ tướng bị phi đao, thì cũng như trẫm giết, phải cho vào trước, đâu đến đỗi nước này.
Thái Tổ đương than thở, bỗng thấy Kim Đính lấy một cây cờ nho nhỏ năm sắc quăng lên phía trên
hào quang chiếu sáng, thì cây phi đao ấy sa xuống đất tức thì.
Tống Thái Tổ mừng rỡ khen:
- Không dè con nhỏ này có phép tiên như vậy? Ai cũng sợ yêu đạo mà Kim Đính lại có phép cao
hơn, chắc phải nhờ con này giải vây mới đặng! Thiệt đáng làm cháu dâu của trẫm lắm. Chắc là trời
sanh gái anh hùng đặng dẹp Đường giúp Tống, thôi để trẫm đánh trống trợ oai cho nữ tướng.
Dư Hồng đang đấu phép với Kim Đính, bỗng bị cờ Ngũ Thể âm dương đánh phi đao rơi xuống thì
Dư Hồng thâu phi đao lại mà cất, rồi niệm thần chú hớp một hơi gió bên Tây Bắc thổi qua, Dư Hồng
cầm gươm báu trong tay mà chỉ, xảy đâu gió giông như bão, không thấy mặt trời, cát bay ào ào vãi
.
.

.
tới.
Lưu Kim Đính cười và nói:
- Yêu đạo làm phép ấy rất nhỏ mọn và không biết hổ ngươi!
.
Kim Đính liền niệm thần chú rồi vỗ tay tức thì sấm vang một tiếng, hết giông hết gió, trời nắng như
thường.
Dư Hồng thấy Kim Đính phá phép mình thì ngẫm nghĩ:
- Nếu mình dùng mấy phép tầm thường thì nó biết hết, bây giờ không biết dùng phép chi lạ mà hại
nó cho đặng?
Lưu Kim Đính thấy Dư Hồng đứng trơ trơ, biết anh ta hết phép và nghe trống trên thành giục tới, coi
lại là Thái Tổ cầm dùi. Kim Đính muốn làm phép cao kỳ cho Thái Tổ ngó thấy. Nhớ lại Thánh Mẫu
có cho một báu vật là cây roi đả tiên, dầu cho quỉ thần nó cũng đánh hết. Kim Đính liền lấy cây roi
ấy quăng lên, hào quang chiếu sáng cả trời. Dư Hồng ngó thấy liền nhảy xuống hươu độn thổ trốn
mất, bỏ hươu đứng đó. Kim Đính thấy Dư Hồng chạy mất rồi, liền đánh binh Đường, bốn con đòi
cũng đuổi theo chém giết, còn tên nào chưa tới số thì thoát đặng chạy về trào. Còn Lưu Kim Đính trở
ngựa đến ngoài thành với bốn con thế nữ.
Lúc ấy Tống Thái Tổ mới truyền mở cửa thành rước vào hết thảy, năm nàng bước tới đồng lạy và
chúc thọ nhà vua.
Tống Thái Tổ cho ngồi và phán:
- Chẳng phải trẫm không cho nữ tướng thấy mặt ngự sanh bởi vì hai tháng trước nó vào thành bị bịnh
nằm liều, nói năng không đặng. Nay nữ tướng muốn thấy mặt nó thì đi thẳng đến nhà sau.
Kim Đính nghe nói chồng đau đã hai tháng thì thất kinh, bèn tâu:
- Tôi tuy chẳng biết làm thầy, song có thuốc của Thánh Mẫu để cho hộ thân, trị bệnh cũng mạnh,
chắc là công tử bị trải gió dầm sương, nên bị chứng thương vong mà mê mẩn. Đến như Hoàng Cô bị
phi đao bịnh trọng, thuốc tiên tôi còn chữa lành thay huống chi công tử chứng ấy, mà lo ngại gì, hễ
gặp thuốc tiên thì phải hết, không hề gì đâu?
Tống Thái Tổ nghe Kim Đính nói có thuốc, thì mừng rỡ vô cùng, bèn truyền cho Miêu Quân sư dẫn
tiểu thơ và bốn con đòi đến nhà sau, nơi công tử nằm, và dẫn Lưu Kim Đính đi trị bệnh. Lưu Kim
Đính truyền a hoàn đi múc nước, rồi tán thuốc linh đơn, bước lại giường ngà thấy Cao công tử mặt
như tàu lá, nằm nhắm hai con mắt, không động đậy chân tay. Kim Đính thấy chồng như vậy, đau
lòng rơi lụy và than:
- Cách hai tháng trước, gặp chàng mạnh dạn, nay chẳng may mang bệnh bất kỳ mà sanh ốm gầy thể
ấy, vì tôi đến đây chậm bước nên chàng bệnh nhiều ngày, ấy là lỗi tại tôi, vậy mà cứ trách chàng sao
lỗi hẹn!
Khóc rồi Kim Đính sai bốn con đòi đỡ công tử dậy.
.
.

.
.
Kim Đính một tay đỡ lưng Quân Bảo, một tay bưng thuốc linh đơn cho công tử uống, rồi đỡ công tử
nằm xuống lấy mền gấm đắp lên. Công tử nằm một hồi lâu đổ mồ hôi như tắm, qua nửa ngày mới
tỉnh, bèn cựa quậy chân tay, dụi con mắt thở ra và chống tay ngồi dậy.
Tống Thái Tổ mừng rỡ và khen:
- Không ngờ con cháu dâu có thuốc tiên hay quá ! Bệnh hơn hai tháng trị có nửa ngày, ngự y điều trị
thuở nay mà chẳng hề thuyên giảm, may gặp đặng thuốc hay, dầu Lư Y, Biển Thước đời xưa trị cũng
không mau lành như vậy!
Cao Quân Bảo thấy Thái Tổ ngự đến, liền bước xuống giường làm lễ tức thì. Thái Tổ khuyên:
- Cháu chẳng nên giữ lễ làm chi, bệnh mới khá hãy nằm mà nghỉ, ít ngày cho thiệt mạnh, rồi sẽ ra
ngoài.
Cao Quân Bảo tâu:
- Tôi bây giờ mạnh khỏe như thường, xin Bệ hạ đừng lo chi nữa. Song chưa rõ Lưu tiểu thơ đến hồi
nào đó?
Tống Thái Tổ nghe hỏi thì biết công tử bệnh nhiều nên không hay tới chuyện ngoài, liền cười chúm
chím, phán:
- Lúc cháu phá vòng vây vào ải, trẫm truyền dọn yến ăn mừng, cháu đương dự tiệc bởi nhiễm gió
bệnh hơn hai tháng nay, nay có vợ cháu đến giúp, cho cháu uống thuốc tiên. Có nhờ sức tiểu thơ
cháu mới lại hoàn sanh mạng, vậy cháu phải tạ ơn Lưu tiểu thơ cứu mạng.
Cao Quân Bảo thấy Kim Đính đến đó thì lo sợ mười phần, e Thái Tổ chấp rằng một mình hứa việc
nhân duyên, chẳng thưa cùng cha mẹ. Nay nghe Thái Tổ thuật chuyện lại thì Quân Bảo biết vua đã
hay rồi, mới nói đỡ:
Khi cháu quyết đến đây cứu giá, lỡ đường ghé nghỉ nhà họ Lưu, có nói lỡ một lời chớ chưa có giáp
mặt tiểu thơ mà giao lời ước hẹn, sao tiểu thơ dám kể chắc đến đây tâu trước bệ rồng?
- Tôi chưa bẩm với song thân, biết cha mẹ có khứng? Nay tiểu thơ nói quả quyết như vậy có phải là
buộc tội cho tôi không?
Lưu Kim Đính nghe Quân Bảo nói thì nổi giận trả lời:
- Nếu vậy thì công tử là người bội ước, còn tôi đây cũng chẳng phải là hoa tàn héo úa chi mà mọng
đeo theo lá ngọc cành vàng?
Công tử nhớ lại mà coi, khi đập bảng chiêu phu tại Song Tỏa, cùng nhau đấu võ, tôi có giao rằng:
"Hễ ai hơn tôi thì phải nâng khăn".
Câu nhứt ngôn thiết quá, công tử hứa chắc rồi mới đi cứu giá. Nay cha tôi sai tôi xuống, một là lập
công với Bệ hạ mà đánh phá Dư Hồng, hai là cứu Đông Bình Vương cho trọn niềm phụ tử, không
phải tại tôi tự ý, sao chàng buông tiếng bạc đen?
Tống Thái Tổ hiểu ý nên cười và nói:
.
.

.
.
- Thôi! Hai cháu chớ đôi co, trẫm dã biết hết! Chắc ngự sanh có hứa, song sợ phạm tội triều đình,
một là chưa thưa với cha mẹ, hai là kết duyên với nước giặc, sợ e phạm luật, cũng như lâm trận chiêu
thân. Thôi, nay trẫm đứng chủ hôn, không bắt tội chi hết. Vả lại cháu đặng vợ như vậy phước biết
chừng nào, khi ở ngoài trại thì cứu Hoàng Cô lành bệnh phi đao, bây giờ vào thành cứa ngươi đặng
thuyên cửu bệnh. Cứu được hai mạng nhờ có một tay nàng, ngươi phải lạy tiểu thư tạ ơn cứu mẹ,
chẳng nên sợ tội mà nói bạc tình. Huống chi Kim Đính đánh đuổi Dư Hồng có công với trẫm, việc
lứa đôi đã xứng còn cãi lẫy làm chi?
Khi ấy Cao Quân Bảo cười chúm chím, cúi đầu mà lạy Lưu tiểu thơ. Lưu Kim Đính hai tay đỡ dậy
và nói:
- Đạo làm dâu phải vậy, chớ có ơn chi!
Tống Thái Tổ nghe hai vợ chồng thuận hòa, lòng mừng khấp khởi lại nghe quân báo:
- Đào Nguyên soái và Triệu Hoàng Cô đã đến.
Thái Tổ liền truyền cho các quan văn võ và hai vợ chồng Quân Bảo mở cửa thành ra nghinh tiếp.
Năm vị phu nhân vào thành, đồng quì lạy vua và tung hô vạn tuế, vua Thái Tổ cho ngồi và giả ơn
cứu giá.
Cao Quân Bảo lạy mừng mẹ và thưa:
- Xin mẹ dung tội cho con, một là trốn đi cứu giá, hai là tội thí võ nghệ mà hứa việc nhơn duyên nhờ
Bệ hạ dung thứ, đem công trừ tội.
Hoàng Cô mới nghe qua bèn quở trách, thì Thái Tổ giải khuyên:
- Trốn đi cứu chúa, cứa cha, trốn ấy cũng nên dung tội!
Mấy vị phu nhân cũng nói giúp nên Hoàng Cô đổi giận làm vui. Còn Cao Quân Bảo ra mừng em là
Cao Quân Bội, cùng nhau thuật chuyện đi đường.
Lúc ấy, Thái Tổ nói với Hoàng Cô rằng:
- Kim Đính tài sắc song toàn thiệt xứng đôi với Quân Bảo, nàng ấy phép tiên nhiều lắm, đánh mới lại
Dư Hồng, trị bệnh cho Hoàng Cô và Quân Bảo nữa. Vậy phải chọn ngày huỳnh đạo mà lập cuộc
đuốc hoa, rồi lo phá Nam Đường mà ban sư về nước cho sớm. Vả lại Đông Bình Vương lòng ngay
dạ thẳng, mật giải gan trung, nếu để sau về đây chắc không cho con kết duyên cùng gái nước nghịch,
thì sanh ra lỗi nguyền ước hẹn, phụ tình Kim Đính trẫm chẳng bằng lòng. Thà một mình Hoàng Cô
đứng chủ hôn tính trước.
Triệu Hoàng Cô tâu rằng:
- Vương huynh tính vậy hay lắm! Kim Đính ân tình đã nặng tài phép cũng cao, tánh nết lại dễ
thương, việc ấy cũng nên tính gấp kẻo ngày sau trắc trở lứa đôi.
Tống Thái Tổ mừng rỡ liền phán:
- Mai đây đặng ngày lành, vậy phải dọn phòng hoa chúc.
.
.

.
Nói rồi vua truyền quân sửa soạn cho kịp ngày mai.
Triệu Hoàng Cô bèn tâu:
.
- Tôi nghe nói Đông Bình Vương bị bắt, đầu Đường đem binh về đánh Tống, vua mắng, chẳng hay
có vậy chăng? Xin cho tôi tường kẻo ngại!
Thái Tổ phán:
- Quả có như vậy, ban đầu trẩm giận lắm, sau Quân sư bàn rằng: Đông Bình Vương trung nghĩa,
không lẽ như vậy, chắc là bị bùa mê thuốc lú của Dư Hồng nó khiến cho Nguyên soái danh nhơ tiếng
xấu. Trẫm nghe phải lẽ nên không chấp. Hoàng Cô còn ngại làm chi.
Hoàng Cô và Quân Bảo nghe vua nói như vậy đồng lạy tạ ơn. Qua đêm sau dọn tiệc giao duyên.
Về sau ông Háo Cổ có làm một bài thơ như vầy:
"Tuy hai người mới, mà một cặp quen
Thiên nhai ngõ cũ, bánh xe đi đã êm đường,
Đỉnh Giáp điềm sau, giấc điệp xem liền biết mặt
Ong chưa nếm nhụy, khôn tìm một điểm mật hoa.
Mưa tối dầm non, trực nhớ hai phần mái nước. "
Đêm ấy hai người vâng chỉ hiệp vầy cầm sắt, gắn chặt keo sơn, hoa đuốc rỡ ràng, bây giờ dạn dĩ hơn
khi trước. Bởi Cao Quân Bảo khi có mặt Thái Tổ nên chối việc hẹn hò, e tiểu thơ không suy, trách
mình phụ bạc, nên trả lời cùng Kim Đính rằng vì mình sợ tội nên phải nói màu.
Tiểu thư nghĩ thông nên không hề giận, liền nói với công tử:
- Nhờ ơn hoàng đế đứng việc chủ hôn, nên vợ chồng ta mới đặng kết nghĩa trăm năm, vầy duyên cá
nước. Vậy đôi ta phải quyết liều thân trâu ngựa mà đền đáp nghĩa quân vương.
Hai người kể hết ân tình, xảy nghe gà gáy sáng, vợ chồng mới trang điểm ra lạy tạ ơn vua, rồi lạy
Hoàng Cô, tạ ơn sanh thành dưỡng dục.
Hoàng Cô thấy con dâu thuận thảo, rất mừng nên nói:
- Hai vợ chồng bây nên đôi là nhờ ơn vua cậu, phải hết lòng ráng sức mà báo nghĩa quân ân. Còn mẹ
từ khi đến đây cũng chưa rõ việc cha bây ra thế nào, trong lòng rất ái ngại. Ngày mai phải ra trận
đánh với Nam Đường đặng dò tin cha bây coi thử đầu thiệt hay đầu đỡ.
Cao Quân Bảo nghe mẹ nói thì thưa:
- Khi con vào thành, quyết dò tin cha cho rõ, rủi mang bệnh nặng, mê mẩn nằm liều, mấy ông ngự y
cho thuốc không mạnh, may nhờ linh đơn của Thánh Mẫu, nên mới tỉnh hồn, hai vợ chồng con cũng
có bàn luận ngày mai xin ra trận.
Trịnh ấn từ khi Quân Bảo mang bệnh, vua sai Trịnh ấn đi vận lương, khi giải lương về gặp mẹ tới ải,
mẹ con cùng nhau mừng rỡ, tức thời liền tâu cho vua hay.
Thái Tổ phán:
.
.

.
.
- Nhữ Nam Vương rất dày công, vận lương lao khổ, vậy trẫm cho nghỉ ngơi cho khỏe, sẽ ra trận giao
thương.
Trịnh ấn tạ ơn lui về.
Bữa sau, Thái Tổ thấy lương thảo đã đủ, binh tướng cũng đông, bèn truyền lệnh đánh Nam Đường,
quyết tranh tài cao thấp.
Đến khi hai bên giáp chiến thì Nam Đường bại trận luôn luôn.
Dư Hồng làm phép bao nhiêu, bị Kim Đính phá tan hết thảy không còn như khi trước mà bắt tướng
như chơi !
Vua Nam Đường thấy Quân sư ra trận bại hoài, hết chỗ trông cậy, nên ra tuồng lợt lạt, không trọng
đãi như xưa. Đã vậy vua Nam Đường theo nói khích hoài, cho Dư Hồng ráng sức.
Dư Hồng thấy vua nói khích, tức mình tâu:
- Việc binh thắng bại là lẽ thường, Bệ hạ hơi nào mà lo sợ? Tôi là học trò của một vị tiên lớn, tu
luyện ngàn năm, lẽ nào chịu thua đàn bà con gái! Vậy để tôi làm miếng cũ, cho bên Tống chúa tôi
hờn giận nhau, con nói cha chẳng trung, vợ trách chồng làm phản, khi ấy trong thành nó có điều xao
xuyến, trễ việc binh cơ, chúng ta thừa dịp sẽ kéo qua đánh ùa, lo chi không thắng?
Vua Nam Đường nói:
- Trẫm giang sơn một khoảng, nhờ cậy có Quân sư, xin làm phép bày mưu, cho yên lòng trẫm.
Dư Hồng nói:
- Để mai tôi dùng phép ấy, chắc là bên Tống sảng kinh, như vậy nghĩa là:
“Nếu có tướng tài đều thối chí,
Dầu cho gái phép cũng co tay!”
Lời Bàn:
Tình thương cha mẹ đối với con cái là thiêng liêng, nó vượt lên trên những nguyên tắc thông
thường của lễ giáo.
Lưu Kim Đính yêu Cao Quân Bảo là một mối tình của tuổi xuân xanh, tình cảm ấy là Lưu Kim Đính
dùng tài năng, tình nghĩa chinh phục. Phương pháp chinh phục tình yêu ở đây vận dụng rất nhiều
mặt, nàng chiêu phu bài để thách thức những kẻ có tài, rồi dùng pháp thuật gây ra những tai nạn để
người mình yêu chịu công ơn, và cuối cùng đem thân làm nghĩa vụ để phụng sự cho đường lối của
người yêu. Việc chinh phục ấy thật hoàn hảo.
Đến như Lưu Nãi, xóa bỏ nguyên tắc và quyền hạn làm cha, để cho hôn nhân của con mình được
thành tựu. Điều đáng nói là Lưu Nãi đã đặt nặng ý thức tùng phu, tức là phụng sự tư tưởng và công
nghiệp của Cao Quân Bảo, nên đã sai Lưu Kim Đính đi giải giá Thọ Châu, làm cho chồng nàng và cả
.
.

.
vua tôi nước Tống phải khâm phục.
.
.
.
.
Hồi Thứ Mười Hai
Dư Hồng túng thế dùng phép cũ
Hoài Đức hai lượt đánh vua anh.
Từ lúc Dư Hồng vâng lệnh vua Nam Đường làm mưu hại Tống, song nghĩ lại đánh phép thì không
hơn Kim Đính. Vả Đường như nai, Tống như cọp, khó nổi đua tài, chi bằng làm phép sai Cao Hoài
Đức về phá thành, cho vợ chồng, cha con đánh lộn với nhau, vua nghi tôi làm phản, binh noi theo
tướng mà đầu Đường! Tống chém giết Tống, mình ngồi không cho khỏe. Tính rồi, Dư Hồng bèn làm
phép phun nước trong mặt Đông Bình Vương, rồi giắt bùa lên đầu, y như hồi trước. Cao Hoài Đức bị
phù phép, biểu gì nghe nấy không dám cãi lời. Dư Hồng cấp cho năm ngàn binh, sai kéo đến Thọ
Châu đánh Tống.
Tống Thái Tổ nghe quân báo nói có Đông Bình Vương kéo binh Đường về đánh thì kinh hãi, bèn
kêu Hoàng Cô và Quân Bảo đồng lên mặt thành mà xem. Thật quả thấy Cao Hoài Đức dẫn mấy ngàn
quân Đường, chỉ lên thành mà múa giáo. Hoàng Cô giận, mặt mũi đỏ lơ, tay chân lạnh ngắt. Quân
Bảo thấy thất kinh hồn vía, chẳng dè cha mình đến thế này !
Hoàng Cô tâu:
- Chồng tôi đã trở lòng, xin xuống bắt lên thành trị tội.
Thái Tổ nói:
- Nguyên soái thuở nay trung nghĩa, trời đất cũng biết lòng, nay đến thế này chắc là mắc phép yêu,
chớ không phải tham sanh húy tử. Dầu chẳng nghĩ tình tôi chúa, cũng nghĩ tình chồng vợ cha con,
vậy Hoàng Cô với ngự sanh ra thành mà khuyên dỗ, họa may Đông Bình Vương có hồi âm lại, thì
chúa tôi, cha con, chồng vợ sum hiệp một đoàn, nhược bằng chẳng nghe lời thì bắt sống chớ nên giết
chết, e lầm mưu tà thuật mà giết oan kẻ chí thân!
Hai mẹ con Cao Quân Bảo vâng lệnh. Đem binh ra thành, gặp Cao Hoài Đức dẫn binh Đường đến
khiêu chiến, Hoàng Cô xem thấy giọt lụy chứa chan, kêu Đông Bình Vương mà hỏi:
- Vì cớ nào phu quân đầu Đường mà đánh chúa? Vậy xin phu quân vào thành sum vầy vợ con. Lòng
.
.

.
vua cũng rộng dung, chẳng làm tội đâu mà sợ?
.
Té ra Cao Hoài Đức bị bùa, tâm thần mê mẩn, không biết vợ con gì hết nên hét lớn:
- Con nào dám tới đây !
Nói rồi vung đao muốn chém. Hoàng Cô né tránh, than:
- Đông Bình Vương là anh hùng, đội trời đạp đất, xông pha công trạng đã nhiều, nay lại đầu Đường
đánh Tống, cũng không nhìn đến vợ con, cố thay lòng đổi dạ, để tiếng xấu ngàn thu, thật nhơ nhuốc
cho dòng họ Cao, còn mặt mũi nào đứng trên đời.
Cao Hoài Đức bị bùa mê, nên nói gì cũng không biết. Còn Cao Quân Bảo quì lạy, và khóc:
- Xin cha nghe lời mẹ trở về với vua.
Cao Hoài Đức không trả lời. Hoàng Cô thấy vậy tức giận, nhưng không dám chống cự, bỏ ra ngoài.
Cao Hoài Đức cứ việc mắng nhiếc, các quan đều tức giận không ai nói lời nào.
Tống Thái Tổ phán:
- Coi bộ Đông Bình Vương chẳng kể tôi chúa, nếu mở trói ắt là hại trẫm, còn cứ phép giết đi thì tội
cho Hoàng Cô và Quân Bảo. Trẫm chẳng biết xử lý sao cho phải.
Các quan đồng tâu:
- Xưa nay phép nước hễ làm phản thì giết ba họ, nay bệ bạ đã tha không giết thì không khỏi trái luật
triều đình.
Hoàng Cô và Quân Bảo nghe nói thất kinh, quì lại xin vua tha tội.
Tống Thái Tổ than:
- Hai mẹ con đừng than khóc nữa. Trẫm nghĩ tình xưa nghĩa cũ bỏ phép nước mà tha, song phải làm
cho tàn phế, không thể để cọp dữ trong nhà.
Cao Quân Bảo lau nước mắt, lạy tạ ơn vua, tâu:
- Bệ hạ rộng lòng, tha không giết, ơn ấy thật như trời biển.
Lúc này Lưu Kim Đính ở nhà sau, nghe câu chuyện muốn ra khuyên giải, nhưng mới về chưa dám
khuyên vua nên bước ra hỏi thăm Hoàng Cô đầu đuôi câu chuyện.
Hoàng Cô nói:
- Tuy bệ hạ thương tình chẳng giết, nhưng mặt nào còn đứng trên đời. Không biết họ Cao thất đức
điều chi mà rủi ro như vậy.
Kim Đính động lòng, liền lạy Đông Bình Vương ra mắt.
Cao Hoài Đức không nhìn đến tiểu thơ, còn Lưu Kim Đính nhìn thấy con mắt Cao Hoài Đức lúc
xanh, lúc vàng, màu da biến đổi nhiều sắc, giật mình la lớn:
- Không xong rồi!
Thái Tổ và Hoàng Cô vội hỏi:
- Chuyện gì vậy?
.
.

.
Lưu Kim Đính nói:
.
- Nếu tôi đến trễ, chắc là lầm mưu độc của Dư Hồng. Nó đã dùng bùa yêu cài lên mái tóc nên mê
sảng không biết gì hết.
Cao Quân Bảo nói:
- Vậy phu nhân có cách nào giải cứu không?
Lưu Kim Đính liền bước lại, giở mão của cha chồng ra, quả nhiên trên mái tóc có một tấm giấy vàng,
chữ bùa bằng châu sa, nàng vội đem dâng cho Thái Tổ.
Tống Thái Tổ nổi giận nói:
- Tên yêu đạo này thật là độc ác! Thiếu chút nữa trẫm gãy mất một cánh tay.
Tống Thái Tổ lại bảo Kim Đính:
- Cháu có phép trị bùa độc này không? Nếu có thì cứu Nguyên soái tỉnh lại để biết mặt vợ con.
Lưu Kim Đính tâu:
- Chẳng cần làm phép gì cả, đã lấy được bùa mê rồi thì phụ thân tôi sẽ lần lần tỉnh lại. Còn muốn cho
mau tỉnh thì đốt lá bùa ấy đi, hoà với nước lã cho uống thì hồi phục tức khắc.
Cao Quân Bảo nghe nói lật đật đốt bùa hòa nước cho cha uống, còn Lưu Kim Đính thì đứng một bên
đọc thần chú truy hồn.
Cao Hoài Đức mở mắt ra như người ngủ mới thức dậy.
Lưu Kim Đính bảo Cao Quân Bảo:
- Hãy mở trói cho cha đi.
Tống Thái Tổ sợ hãi, nói:
- Hãy khoan! Đông Bình vương mạnh như cọp, biết đã chịu phép chưa mà mở trói. Nếu còn hung
hăng trẫm biết chạy trốn nơi đâu.
Lưu Kim Đính tâu:
- Trước khi bị bùa mê thì như thể hùm dữ, bây giờ đã tỉnh lại rồi xin bệ hạ chớ ngại, bề nào cũng có
cháu ở đây.
Tống Thái Tổ kêu Quân Bảo nói:
- Cháu mở dây thì mở, song phải đề phòng cẩn thận. Hãy ôm chặt cha cháu lại, xem thử có còn hung
hăng hay không?
Cao Quân Bảo vâng lệnh, mở trói cho cha.
Cao Hoài Đức đứng dậy dụi mắt, nhìn quanh quất, thấy vợ con đứng hai bên, còn vua Thái Tổ thì sợ
sệt không biết chuyện gì còn chưa kịp hỏi, thì Hoàng Cô đã khóc lóc, nói:
- Thiếu chút nữa thì phu quân đã mất mạng rồi, lại để tiếng xấu cho vợ con. Hãy mau quì lạy vua mà
xin tội, rồi thiếp thuật lại chuyện cho mà nghe.
Cao Hoài Đức thất kinh, không biết mình đã phạm tội gì, song cũng nghe lời vợ liền quì xuống lạy
.
.

.
vua:
Lời Bàn.
Kế ly gián làm cho người thân oán nhau, từ xưa đó là một độc kế.
.
Dư Hồng bắt được Cao Hoài Đức không giết, mà dùng bùa mê làm phép ly gián, để cho vua tôi nhà
Tống thù ghét lẫn nhau.
Từ xưa đến nay, kế sách ly gián đã làm cho nhiều hoàn cảnh hiểu lầm, gây đau thương không ít. Bởi
vậy, mọi việc xảy ra, nếu chúng ta không đủ bình tĩnh, nhìn vào âm mưu của địch thì sẽ thất bại
trước mọi cơ nghiệp của mình.
Để chiến thắng kế sách ly gián, chỉ có những kẻ bình tĩnh tìm hiểu bản chất của kẻ khác thì mới đối
phó được.
Chẳng những trong chiến trường, mà trong tình yêu, xưa nay người ta vẫn dùng kế ly gián để chiến
thắng kẻ khác, tranh đoạt quyền lợi về cho mình, và nó trở thành tấm gương để cho người sau soi
xét.
.
.
.
Hồi Thứ Mười Ba
Hoài Đức một nhà đoàn tụ,
Dư Hồng tức trí trái thầy.
Cao Hoài Đức khi tỉnh hồn vía, không biết chuyện gì, thất kinh liền quì xuống.
Hoàng Cô và Cao Quân Bảo kể chuyện động lòng, lụy nhỏ dầm dề, tức tối nói không ra tiếng, còn
Cao Quân Bảo kể chuyện đầu Đường đem binh về khiêu chiến, mắng chúa phá thành.
Cao Hoài Đức nghe thuật lại thì sững sờ, thất kinh lạy Thái Tổ và tâu:
- Tôi làm con giặc, xin bệ hạ chiếu theo phép nước luật vua xử trảm cho rồi, kẻo các quan noi gương
phản quốc?
Tống Thái Tổ nghe tấu, động lòng rơi lụy, bước xuống kim giai đỡ Cao Hoài Đức dậy phán:
- Hoàng đệ có tội chi mà hành phạt ấy là tại tà thuật của yêu đạo nó làm cho Hoàng đệ hôn mê, thiếu
.
.

.
.
chút nữa trẫm mất một tôi lương đống! Chẳng những mất tôi lương đống, cũng như rụng hết tay
chân. Nay nhờ trời đặng hiệp. thiệt rủi mà may. Hoàng đệ hãy ngồi, kẻo vợ con buồn bực.
Cao Hoài Đức tạ ơn rồi ngồi xuống, hỏi thăm việc nhà cửa và giã ơn vợ con.
Lý phu nhân và các phu nhân đồng vào ra mắt, thuật chuyện các việc trước sau, lúc ấy Cao Hoài Đức
mới hay Trịnh Ấn còn sống và vâng lệnh đi viện trợ năm vị phu nhân. Lúc đó Cao Quân Bội và Cao
Quân Bảo vào làm lễ. Triệu Hoàng Cô cũng thuật chuyện Cao Quân Bảo sánh duyên cùng Lưu Kim
Đính nên nay có dâu đến cứu giá và cứu cha chồng.
Cao Hoài Đức nghe rõ trách rằng:
- Sao con lại làm rể tôn thờ vua Bắc Hớn? Ấy là con kết duyên cùng giá giặc mà không thưa với mẹ
cha, tội ấy lẽ nào dung đặng? .
Thái Tổ phán:
- Nếu không có Lưu Kim Đính trợ chiến thì vua tôi, chồng vợ cha con, thân thích, họ hàng sao đặng
sum vầy? Cuộc đoàn viên hôm nay đều nhờ sức cháu dâu có công giúp nước, chẳng những cứu
Hoàng đệ, lại trị bệnh cho Hoàng Cô, đáng lẽ nội nhà phải cảm ơn Lưu Kim Đính ? Hoàng Cô bị phi
đao gần chết, nếu không nhờ thuốc của Lưu Kim Đính thì đã bỏ mạng rồi. Trẫm đã đứng chủ hôn,
khanh chẳng nên quở cháu!
Triệu Hoàng Cô bèn tiếp nói:
Nội nhà mình đều mang ơn Lưu Kim Đính, nhờ có nàng mà cha con chồng vợ sum vầy. Huống chi
nàng tài phép cao kỳ, cũng đáng một tôi lương đống.
Cao Hoài Đức nghe vợ nói, liền đổi giận làm vui, lúc ấy Lưu Kim Đính mới dám ra ngoài làm lễ cha
chồng.
Lúc Tống Thái Tổ truyền dọn tiệc đãi Cao Hoài Đức, và nội thành bá quan văn võ. Đang ăn uống,
Cao Hoài Đức giận đỏ mặt và nói:
- Dư Hồng nó hại tôi, dầu sống thác cũng cam, tức có một điều là nó buộc chữ "phản" cho tôi, làm
cho danh trung nghĩa của tôi bấy lâu trôi theo dòng nước, để tiếng lại sau muôn đời, thật là thù yêu
đạo ví tợ biển sâu! Mai tôi sẽ hỗn chiến với Dư Hồng quyết một còn một mất .
Lưu Kim Đính nghe nói, bước ra thưa :
- Xin bệ hạ với công công xét lại, chẳng nên đấu lực với Dư Hồng. Chỉ có một mình Nhữ Nam
Vương dám cự mà thôi, nếu công công ra trận, ắt là bị tà thuật nữa. Để mai tôi ra trận đánh báo cừu
cho công công, may nhờ hồng phúc của trời mà thắng đặng nó chớ công công bị bùa mê, bệnh chưa
thuyên giảm, xin công công phải tịnh dưỡng trong mười ngày, thì mới dứt hậu hoạn.
Tống Thái Tổ nghe nói, liền khen:
- Lời cháu luận phải lắm? Trẫm cũng nhậm ngôn.
Nói rồi, Vua tôi ăn uống no say, đến khuya mới nghỉ.
.
.

.
Đêm ấy, Cao Hoài Đức vợ chồng con cái mừng rỡ, kể chuyện đến canh tư.
.
Sáng sớm, Lưu Kim Đính nai nịt vào xin lãnh binh mã của Đông Bình vương đặng ra trận. Cao Hoài
Đức cấp cho tiểu thơ một muôn hai ngàn rưỡi. Lưu Kim Đính lãnh binh, từ tạ kéo rầm rộ ra thành.
Trước khi Cao Hoài Đức chưa bị bắt về thì mẹ con Hoàng Cô đánh binh Đường chạy rót. Quân ấy về
báo vơi Nam Đường.
Vua Nam Đường hỏi Quân sư:
- Nay Quân sư toan liệu lẽ nào?
Dư Hồng nói:
- Tôi nhắm Tống bắt đặng Cao Hoài Đức về thành, cũng như cướp đặng một đứa điên, không hồn
không tánh. Chắc Tống Thái Tổ bắt tội Hoài Đức phản chúa nghịch quân, rồi cũng xử tử. Vậy là trừ
đặng một tướng rồi, chắc Tống Thái Tổ cũng làm tội tới vợ con. Nếu không có Lưu Kim Đính thì
bao nhiêu binh tướng Tống cũng phải thua ta.
Vua Nam Đường nghe Quân sư nói vậy thì tin bằng lời.
Rạng ngày, quân vào báo:
- Có nữ tướng là Lưu Kim Đính đến khiêu chiến, kêu đích danh vua Nam Đường với Quân sư ra đối
địch. vua Nam Đường nghe tin kinh hãi. Dư Hồng thấy vua sợ sệt thì nói:
- Có khi con khốn đó coi ra biết có lá bùa trên đầu?
Nói rồi Dư Hồng cỡi cọp mắt vàng ra trận, có đem theo một vạn binh.
Ra trận đã gặp Kim Đính đánh một hồi không phân thắng bại. Dư Hồng nghĩ rằng:
- Mình phải ra tay trước, chẳng nên mê trận mà thất cơ!
Nghĩ rồi Dư Hồng thối lui lại, giở bầu phép và niệm chú, tức thì một bầy quạ lửa nho nhỏ ở trong
bầu bay ra thẳng lên mây rồi hóa ra lửa hơn mấy vùng, bay xuống đốt binh Tống thiệt là :
Thình lình lửa dậy thiêu binh Tống
Vụt vụt gió giông giúp tướng Nam,
Lưu Kim Đính thấy Dư Hồng hóa phép cười, nói :
- Biến hóa ngũ hành là phép sơ học, người đừng múa búa trước cửa Lỗ Bang !
Rồi Lưu Kim Đính rút gươm báu chỉ về hướng Bắc, niệm thần chú lâm râm, tức thì trận giông nổi
dậy lên, thổi ngọn lửa trở lại Dư Hồng hóa lửa mà đốt binh Đường, không ngờ lửa trở lại đốt binh
mình, quân sĩ thất kinh chạy tứ tán, Dư Hồng nổi giận, mau mau thâu lửa lại mà cứu quân, rồi lấy
thần đao quăng lên, bỗng hóa ra muôn muôn ngàn ngàn thần đao bay chém binh Tống. Lưu Kim
Đính cũng quăng bửu kiếm, lên hóa ra thiên vạn phi đao mà cự với thần đao. Thần đao của Dư Hồng
bị bửu kiếm của Lưu Kim Đính đánh sa xuống hết. Kim Đính bèn thâu bửu kiếm lại.
Dư Hồng tức giận hét lớn:
- Con khốn này dữ thiệt, dám phá thần đao của ta !
.
.

.
.
Nói rồi quăng cây gậy lên, nó hóa ra muôn ngàn con rít chúa bay cắn binh Tống. Kim Đính xem thấy
liền lấy xâu chuỗi bồ đề quăng lên niệm chú hóa ra con cú dài hơn hai trăm thước bắt nuốt hết bầy rít
chúa, không còn sót con nào, rồi cây gậy Dư Hồng cũng sa xuống đất.
Dư Hồng thâu gậy lại và ngẫm nghĩ rằng:
- Mình hóa phép chi, đều bị con này phá hết! Còn có một bửu bối nữa của Xích Minh lão tổ, phép ấy
chẳng hiền, nếu quăng ra thì phạm tội sát sanh. Vì cái chuông Hóa huyết kim chung đó dẫu thần tiên
chụp nhằm cũng tiêu ra tro bụi. Chẳng những là người phàm, vì muốn khỏi thất danh, nên phải chịu
phạm sát sanh mới đặng!
Nghĩ rồi Dư Hồng quăng chuông Hóa huyết lên chiếu ra muôn đạo hào quang gần chụp đầu Kim
Đính. Kim Đính biết vật ấy chẳng hiền, liền lấy trái cầu nhật nguyệt trấn yêu của Thánh Mẫu quăng
lên, hiện ra hào quang sáng giới, đỡ cái hóa huyết kim chung, nên chuông ấy lững đững nửa chừng,
chụp xuống không đặng.
Dư Hồng kinh hãi nghĩ thầm:
- Con này thiệt có nhiều phép thần thông quá ! Không biết lấy vật chi mà trừ nó!
Lúc ấy hai báu vật chiếu hào quang nửa lừng dằn quay chống trả với nhau, không báu vật nào chịu
sút. Dư Hồng thấy vậy niệm chú thâu chuông, liền cất vào túi. Lưu Kim Đính cũng ngoắt trái cầu
xuống mà cất đi.
Dư Hồng lại nghĩ:
- Mình không còn phép gì mà trị Kim Đính. Thà thừa dịp binh mình chưa bại, lui trước kẻo hư danh.
Nghĩ rồi truyền quân lui binh, giục cọp mắt vàng chạy mất.
Còn Lưu Kim Đính quyết bắt cho được Dư Hồng, trước trả thù cho cha chồng, sau nữa trừ hậu hoạn
cho yên nhà lợi nước nên liền đốt bùa niệm chú. Bỗng trên trời hiện ra bốn vị thần tướng giáng hạ
tức thì. Bốn ông ấy tóc râu đỏ hoét, ông cầm roi, ông cầm búa, ông cầm kích, ông cầm chùy, đến
trước Lưu Kim Đính mà hầu việc.
Lưu Kim Đính cảm tạ nói:
- Bốn vị tôn thần giáng hạ, tôi rất cảm ơn! Bởi vua Nam Đường không thuận theo lòng trời, lại rước
đạo triệt giáo là Dư Hồng, phong cho làm chức quân sư mà cự với Tống. Tội Dư Hồng đáng đày
xuống địa ngục Phong đô. Nay nó đã chạy qua phía đông nam, vậy xin bốn vị tôn thần theo bắt giùm
nó lại.
Bốn vị vâng lệnh giã từ Kim Đính, theo đuổi Dư Hồng.
Dư Hồng cỡi cọp đang đi không biết vì cớ gì mà con cọp hộc lên và đứng ngừng lại. Dư Hồng thấy
cọp không đi nữa và hộc tiếng chỉnh ghê, thì biết có điềm bất lợi. Bèn ngó quanh quất, thấy bên hửu
có thần Bạch Hổ, tả có thần Thanh Long, phía trước thần Huỳnh Phan, phía sau thần Báo Vĩ. Bốn
thần mặc giáp vàng, cầm khí giới, bốn bề áp lại, trợn con mắt ngó Dư Hồng lườm lườm.
.
.

.
Dư Hồng xem thấy kinh hãi, nghĩ rằng:
.
- Phải hay cãi trời chẳng đặng, thì không sát sanh làm chi cho phạm tội, mà nay phải mắc nạn này.
Thiệt là mình làm khôn mà hóa vụng!
Nghĩ rồi Dư Hồng liền bái bốn vị thần, nói:
- Tôi vâng lệnh thầy xuống vây Thái Tổ, trước phạt tội giết Trịnh Ân, sau nữa bảo hộ cho cõi Giang
Nam, cho nhà Đường còn chút hương lửa. Bấy lâu nay giữ phép, không hại một vị tướng Tống nào.
Thiệt tình vây cầm chừng, kẻo Nam Đường mang hại. Nay chư thần xuống đây tôi xin trở lại non
tiên giữ phận tu hành, không màng việc thế nữa. Xin chư thần vị tình thầy tôi mà dung thứ một phen!
Bốn thần tướng nghe nói, nổi giận đáp :
- Thầy ngươi giận Tống Thái Tổ giết Trịnh Ân nên sai ngươi vây cho bỏ ghét, lại cấm ngươi sát
sanh. Nay ngươi đã không vâng lời thầy dặn, tham giàu sang mà phạm tội sát sanh. Muốn đặng đại
danh, không gìn ngũ giới, tuy chưa hại tướng, song đã giết binh, dư muôn vàn thác oan, ngươi không
thương xót, chẳng nghĩ trời che đất chở, làm cho quỷ giận thần hờn. Sao ngươi dám phò Nam Đường
là nước hết thời mà đánh đại Tống là vua trở mặt, đến nay cùng đường hết nẻo mới là xuống nước
cầu hòa? Chúng ta đã có lệnh bắt ngươi, không lẽ vị tình tha được. Quyết đưa ngươi xuống Phong đô
mới đành tội nghịch!
Dư Hồng nghe bốn thần vừa nói, chắc là tánh mạng không còn. Nghĩ lại giận thầy sao sai mình phò
Đường làm chi cho bị đọa, rất uổng công tu luyện. Đang suy nghĩ vụt nhớ lời thầy dặn:
- Nếu gặp quỉ giận thần hờn, sẽ xổ cây cờ ấy ! Nay gặp hung thần, chắc nhờ cờ ấy giúp mình.
Nghĩ vậy Dư Hồng liền lấy cây ấy trương ra hào quang chiếu sáng. Bốn vị thần kinh hãi, đồng bay
thẳng về trời. Dư Hồng mừng dường như chết đi sống lại.
Trong cờ nhỏ đó là hình bà Đẩu Mẫu, quyền cai trị các thần, nên khi bốn vị thần thấy cờ đó thì thất
kinh bay đi hết. Dư Hồng khỏi nạn, liền độn thổ về dinh, bỏ hai vạn binh Đường tại trận.
Lưu Kim Đính kể chắc bắt được yêu đạo, không dè nó còn phép làm cho thần tướng phải lui. Ấy
cũng bởi Tống Thái Tổ chưa mãn hạn bị vây đó.
Khi ấy Lưu Kim Đính đánh đuổi binh Đường chạy tứ tán rồi thâu quân vào thành, Kim Đính đắc
thắng vào thành, liền tâu cho vua hay, và thưa cho cha chồng rõ. Tống Thái Tổ mừng rỡ, truyền dọn
tiệc thưởng công.
Mặc dầu thắng trận, song Lưu Kim Đính còn lo, vì sợ không bắt được Dư Hồng, thì chẳng biết ngày
nào hết giặc, tuy ngồi vào bàn tiệc chớ trong dạ không vui, Tống Thái Tổ biết ý, liền lấy lời an ủi,
ban rượu ngự tửu giải lao. Cao Quân Bảo thấy vua trọng đãi Kim Đính thì mừng thầm. Trong bà con
bên chồng đều phục tài Lưu Kim Đính.
Nói về Dư Hồng độn thổ về tới Nam Đường, vua Nam Đường nghe nói Dư Quân sư không đánh lại
nữ tướng thì hoảng kinh và phán, hỏi:
.
.

.
.
- Thật trẫm không dám ỷ phép nữa, tuy không tổn tướng chớ cũng hao binh, chi bằng dâng sớ chịu
làm tôi cũng không mất một phương bờ cõi. Lẽ nào yếu không nhường mạnh, châu chấu chống xe
sao nổi, mà làm cho cha thác bỏ con, chồng chết bỏ vợ, ấy là tội trọng mười phần ? Từ nay về sau,
xin quân sư đừng nói chi chiến thủ nữa. Nếu còn nói chiến thủ nữa, ấy là làm họa cho Nam Đường.
Dư Hồng bị vua Nam Đường nói nhục mấy điều thì hổ thẹn chịu không nổi, nghĩ:
- Cũng tại mình khi trước cậy phép thần thông, cản Nam Đường không cho đầu Tống, ban sơ ra binh
trận nào cũng thắng, nên vua Đường hậu đãi mười phần. Nay thua một người con gái mà lui về, thì
mặt mũi nào còn ngó thầy cho đặng?
Nghĩ rồi Dư Hồng gắng gượng tâu:
- Xin bệ hạ đừng phiền não! Bên Tống có một mình Lưu Kim Đính dám cự với tôi, song muốn giết
nó cũng không khó, ngặt thầy tôi dặn chẳng sát sanh, nếu giết mạng người thì sau không thành chánh
quả. Nay Lưu Kim Đính nó ỷ quá, tôi nhịn hoài. Nếu hại nó thì uổng công tu luyện của tôi. Còn nếu
giúp bệ hạ đặng thái bình mà đền ơn tri ngộ, tôi dẫu bỏ mình cũng đành thỏa dạ?
Lúc đó các tướng võ bên Đường nghe nói, đồng tâu:
- Quân sư đã tận tâm, vậy xin bệ hạ chớ ngã lòng đầu Tống.
Binh còn trăm vạn, tướng mạnh dư ngàn, dầu Lưu Kim Đính có phép mầu, thì cậy có Quân sư cự
địch. Lẽ nào bại một trận mà xếp giáp đầu hàng?
Vua Nam Đường thiệt tình không muốn đầu Tống, chẳng qua là mượn lời thối chí nói khích Dư
Hồng đó thôi, mà các tướng ngỡ thiệt nên nhiều người can gián. Vua Nam Đường nghe các tướng tâu
như vậy, liền nhận lời rồi ngự vào cung.
Rạng ngày, các tướng đến xin quân sư trừ Lưu Kim Đính.
Dư Hồng nghe nói than:
- Thôi thôi đã đành bỏ công tu luyện ngàn năm, không lẽ tiếc nữa !
Nói rồi truyền dọn bàn hương án, thắp bốn mươi chín ngọn đèn. Dư Hồng bổn thân cầu thần chiếm
quẻ, tra ra ngày sinh tháng đẻ của Lưu Kim Đính, biết tướng tinh nàng là Thiên Ma nữ đầu thai,
nhắm không dùng phép độc thì trừ không đặng. Chiếm quẻ xong Dư Hồng đọc thần chú truyền cho
Huỳnh Nguyên Tế rằng:
- Nay là ngày Quí Hợi. ngươi phải đem năm trăm binh đến núi Thanh Lưu là nơi kỵ với họ Kim
Đính, cứ theo họa đồ ta vẽ, mà cất một cái đài bằng cây, đến giờ Ngọ mai ta sẽ đến đó làm phép.
Huỳnh Nguyên Tế vâng lệnh đi liền, Dư Hồng lại sai Lý Huy Phụng lấy cỏ bện bù nhìn làm hình
Lưu Kim Đính, gắn tóc người thiệt, cho bận áo thiệt, trang điểm rỡ ràng cho kịp giờ Ngọ mai làm
phép. Lại sai Tống Kế Tụ sắm sửa cái chậu và kiếm gà ô chó mực, đợi trưa mai lấy huyết làm phù.
Các tướng nghe nói nửa tin nửa nghi, song không dám cãi lệnh, đồng lo sắm sửa các món cho kịp
giờ.
.
.

.
.
Rạng ngày, vua Nam Đường chúa tôi đồng đến coi Quân sư làm phép. Quân sư sắp đặt xong rồi, đợi
tới canh hai lên đài đốt bùa niệm chú, giây phút triệu một vị cầu hồn giả quỉ vương đến đứng trước
đài. Lúc ấy nhằm đêm rằm tháng bảy (Trung Nguyên) trăng tỏ như ban ngày.
Dư Hồng mới hét lớn:
- Vong quỉ nghe ta dặn: ngươi hãy vâng lệnh tới Thọ Châu ở một bên Lưu Kim Đính, đợi khi nào ta
bắn tên phép thì thâu hồn đem nạp tại đài.
Vong quỉ vâng lệnh đi lập tức!
Lúc Dư Hồng bỏ tóc xõa, cầm gươm làm phép trên đài một hồi sao Nữ Ma sa xuống, nghe rổn rảng
hào quang chiếu sáng.
Dư Hồng lấy sao ấy đựng vào một cái mái, đậy nắp thật kín mà để trên đài, xung quanh có bốn mươi
chín ngọn đèn, dùng máu chó mực, máu gà ô mà thắp. Trên nắp mái ấy, cũng niêm phong bằng giấy
vàng nhúng máu chó mực gà ô, lại đem bù nhìn lấy lòi tói cột cổ vào cây trụ, dưới chân đóng hai cây
đinh, rồi lấy cung tên bắn con mắt bên tả, làm phép đến canh năm mới thôi.
Làm như vậy bảy đêm, mỗi đêm bắn bảy mũi tên, nếu bắn đủ bốn mươi chín mũi thì dầu Lưu Kim
Đính da đồng xương sắt cũng phải chết. Dư Hồng lại chọn ba mươi sáu người đồng tử, làm thiên can
giữ gìn, đừng cho kẻ tục ngó vào, nếu trái lệnh thì xử trảm. Ba mươi sáu người đồng tử vâng lệnh ở
giữ đài.
Còn Lưu Kim Đính là học trò của Lê Sơn Thánh mẫu biết ngũ độn ngũ lôi, hô phong hoán võ, sái
đậu thành binh tàng hình đổi xác, phép nào cũng tinh thông, duy có một điều là không biết trước
được người làm trù mình. Thiệt là :
"Trước mặt còn dễ đỡ,
Sau lưng khó giữ gìn "
Đêm ấy, vợ chồng Cao Quân Bảo ngủ mê man, rạng ngày Lưu Kim Đính thức dậy sao bị trẹo cổ,
mình mẩy như dần, nhức và đau hai bàn chân, và con mắt bên tả xốn như kim chích, cổ đơ như bị
trói, con mắt tả không thấy người, không rõ vì cớ gì lạ vậy Kim Đính thất kinh thuật chuyện lại với
chồng.
Cao Quân Bảo sảng sốt bàn:
- Hay là mình chinh chiến nhiều nên đau mình? Khi tôi mới vào Thọ Châu cũng bệnh như vậy, ngặt
một điều đau con mắt không rõ cớ gì, để ta bẩm với mẹ cha sẽ tâu với Thiên tử, đặng cho thái y viện
điều trị thuốc thang, mình hãy dưỡng cho mạnh lành chẳng nên làm động dạng.
Nói rồi Cao Quân Bảo ra thưa tự sự cho cha mẹ tỏ tường. Vợ chồng Cao Hoài Đức nghe tấu trong
lòng không an, truyền đòi quan thái y đến chẩn mạch trừ bệnh.
Đêm sau, Cao Quân Bảo nằm không an giấc, qua canh năm Lưu Kim Đính vùng la lớn:
- Con mắt bên hữu cũng đau nữa ?
.
.

.
.
Thương hại cặp mắt mây che mù mịt chẳng thấy đường đi. Cao Quân Bảo ngồi đứng không yên, vào
ra than thở, rạng đông vào bẩm với cha mẹ rồi đồng vào tâu với vua.
Tống Thái Tổ thất kinh, truyền đòi mười lăm vị ngự y tới, hỏi thăm căn bệnh thế nào?
Các thái y đồng tâu rằng:
- Bệnh Lưu phu nhân rất kỳ lạ ! Vì mạch không phù, trầm, trì sát chẳng biết cớ nào mà có bệnh nơi
chân, cổ và con mắt, chúng tôi xem không phải là bệnh khí huyết, nên không dám đầu thang, xin bệ
hạ dung tình thứ tội!
Lời Bàn.
Tình người chứa trong mọi hành động, chẳng phải bằng nói.
Cao Quân Bảo chưa có sự thỏa thuận của vua, và mẹ cha, sớm thành hôn với Lưu Kim Đính đã tỏ
lòng trung thành của mình đối với cha chúa thì lỗi ấy đã tỏ rõ và lòng trung thành đã vượt qua mọi
tội lỗi khác bằng hành động của mình. Nếu Lưu Kim Đính không giải giá được Thọ Châu, thì cuộc
tình duyên với Cao Quân Bảo chưa chắc đã tác thành. Lòng người chỉ phát xuất từ hành động, chớ
không phải bằng lời nói. Đời nay, nhiều người chỉ đem lời nói suông để bảo vệ cho giá trị của mình,
thì đó là những lối phỉnh phờ, chỉ dùng đưa đẩy cho qua chuyện mà thôi, thực tình trong lòng họ,
chưa chắc đã như vậy. Cho nên, giá trị của lòng người phải bằng hành động, chứ không phải bằng lời
nói.
.
.
.
Hồi Thứ Mười Bốn
 Dư Hồng trừ Lưu Kim Đính,
Miêu Huấn viện tướng ngũ âm.
Tống Thái Tổ thấy các ngự y đều chạy bệnh Kim Đính thì càng kinh hãi bội phần. Vợ chồng Cao
Hoài Đức nghe tin cũng buồn rầu thảm thiết.
Tống Thái Tổ than:
- Trẫm tuy có hùng binh hai mươi vạn, và dõng tướng cũng đông mà trị không lại yêu đạo, nhờ có
.
.

.
.
cháu dâu nó đặng, nay rủi mắc phải bịnh kỳ, nếu chẳng thuyên giảm, thì Dư Hồng đắc thế?
Nói rồi lau nước mắt thở ra!
Hoàng Cô khóc và than rằng:
- Dâu tôi là đệ tử Thánh Mẫu, lẽ nào không biết chứng bệnh mình?
Tống Thái Tổ và Cao Hoài Đức nghe Hoàng Cô nói phải, liền hối Hoàng Cô vào hỏi Kim Đính coi
thế nào? Chẳng ngờ Kim Đính mê man bị Dư Hồng bắt vía, Hoàng Cô hỏi lắm mà Kim Đính nói ú ớ.
Tống Thái Tổ nghe Hoàng Cô tâu lại mọi điều càng thêm ủ dột.
Miêu Quân sư thấy vậy tâu:
- Phàm làm thầy phải biết căn bệnh người đau thì trị mới đặng. Nay thái y coi mạch không hiểu thì
biết làm sao mà trị? Vậy tôi xin bói một quẻ thử coi, xỉn bệ hạ đừng ưu phiền mà tổn hao long thể.
Tống Thái Tổ nghe quân sư nói, có ý mừng, liền xin quân sư bói thử.
Miêu Quân sư lập bàn xủ quẻ rồi tâu:
- Không trách chi Lưu phu nhân đau chứng bệnh lạ lùng nhu vậy? Ấy là bị người ta trù ẻo bắt hồn
mà cầm nơi phía Đông Bắc hơn mấy ngày nay, tôi chắc Dư Hồng sợ Lưu phu nhân nên bày kế ấy.
Cao Quân Bảo nghe nói bị trù thì nói phăng:
- Xin quân sư cứu mạng vợ tôi, không lẽ bó tay mà chờ chết?
Miêu Quân sư nói:
- Cứ theo quẻ này thì trong bảy ngày tuyệt mạng?
Cao Quân Bảo khóc nước mắt như mưa. Tống Thái Tổ thở dài than vắn, rồi phán hỏi Quân sư:
- Quân sư có phép chi mà giải cứu hay chăng?
Miêu Quân sư tâu:
- Nay đang bối rối, tôi chưa đoán được việc kiết hung. Xin để coi sao thì mới rõ đường họa phước.
Ấy là nghề sở trường của tôi.
Đêm ấy, Miêu quân sư lên lầu, xem coi các vị tinh tú. Từ giờ Tuất đến giờ Sửu mà kiếm không đặng
Thiên ma nữ tinh thì kinh hãi than:
- Chắc Lưu phu nhân phải khốn !
Vì Quân sư đánh tay coi rõ, biết Dư Hồng thâu đặng vì sao đó rồi, nên xuống lầu tâu với Thái Tổ:
- Dư Hồng đã thâu bổn mạng của Lưu Kim Đính phu nhân mà giam cầm, nếu vậy thì tôi chẳng biết
làm sao?
Thái Tổ và Quân Bảo đều chắt lưỡi.
Miêu quân sư mới tâu:
- Để tôi chiếm một quẻ nữa, coi nội trong bảy ngày có ai tới cứu chăng?
Hoàng Cô khóc và nói:
- Xin Quân sư chịu phiền coi giúp, tôi mang ơn muôn thuở.
.
.

.
Miêu Quân sư liền chiếm quẻ hóa lục hạp, coi rồi mừng rỡ:
.
- Không hại gì! Chỉ trong ba ngày sẽ có người đến cứu Lưu phu nhân, mà bệ hạ lại được thêm một
tướng nữa.
Tống Thái Tổ và vợ chồng Cao Hoài Đức nghe nói an tâm, chỉ có Cao Quân Bảo làm thinh ngồi ủ
rủ.
Hoàng Cô thấy vậy liền khuyên:
- Con chẳng nên buồn rầu, mẹ đã nửa đời người chỉ có một mình con nương cậy lúc trở về già, nếu
con buồn thảm rủi sanh bệnh thì không hay. Con hãy làm khuây cho vui lòng cha mẹ.
Cao Quân Bảo tuy ngoài mặt làm vui, nhưng trong lòng vẫn sầu khổ.
Tống Thái Tổ thấy Cao Quân Bảo khóc lóc, liền phán:
- Vậy Quân sư tìm cách giải cứu vì sao bổn mạng của tiểu thơ.
Miêu Quân sư tâu:
- Tôi từ thuở bé không học nghề trấn yếm, thì làm sao giải cứu được chỉ có thần tiên giáng hạ, sai
người lấy vía mà thả sao bổn mạng mới được. Song tôi chắc trong đôi ba ngày nữa sẽ có người đến
cứu, xin bệ hạ an lòng.
Lúc ấy Kim Đính vẫn mê man, bốn con tỳ nữ là Xuân Đào, Hạ Liên, Thu Cúc, Đông Mai bàn với
nhau:
- Mình không rõ tiểu thơ đau bệnh gì, nay Quân sư nói tiểu thơ bị cầm hồn tại hướng Đông Bắc, vậy
chúng ta đi coi thử xem sao. Nếu có gì sẽ cùng nhau giải cứu.
Bốn cô tỳ nữ đều khen phải, lấy bùa của Kim Đính đằng vân bay qua phía Đông Bắc, thấy có một cái
đài đèn đuốc sáng chói. Bốn nàng vội đến đó bị các thần giữ vía cản trở chẳng cho vào Bốn nàng tỳ
nữ pháp thuật không bao nhiêu, liệu cự không lại nên phải lui về.
Bấy giờ vua Nam Đường thấy luôn ba ngày mà quân Tống không khiêu chiến, thì biết Quân sư đã
yếm được rồi, chỉ còn trông đủ bảy ngày thì Kim Đính sẽ bỏ mạng, liền truyền dẫn quân đến khiêu
chiến, quyết phá thành báo oán. Dư Hồng cản ngăn không được.
Vua Nam Đường truyền cho Tần phụng, Tiết Lữ, La Anh, Trình Phi Hổ dẫn mười vạn binh đến
khiêu chiến dưới thành Thọ Châu.
Tống Thái Tổ có nghe báo binh Đường đến khiêu chiến, thì nghĩ thầm:
- Chắc Nam Đường thấy mấy bữa nay ta không ra quân, nên tìm cách khiêu chiến để biết thiệt hư.
Vậy ta phải mạnh dạn, kẻo chúng nó thừa cơ đoạt ải.
Nghĩ rồi truyền cho Đào phu nhân, Triệu Hoàng Cô, Lý phu nhân, Cao Quân Bảo, Cao Quân Bội dẫn
binh ra thành cự địch.
Khi binh Tống dẫn binh ra thành đánh với binh Đường, thì cả hai bên đều có hao binh, không ai chịu
thua ai.
.
.

.
Hai bên đang giao chiến đồng lực thì Dư Hồng đi đến cười và nói lớn:
.
- Các ngươi đừng ỷ mạnh, không mấy ngày nữa sẽ đến chầu Diêm Vương. Mạng Lưu Kim Đính chỉ
còn sợi chỉ treo chuông.
Cao Quân Bảo nghe nói nổi giận xông đến đâm Dư Hồng một giáo. Dư Hồng đỡ không kịp liền lui
lại, niệm chú, gió thổi ào ào, cát bay mù mịt, binh Tống bỏ chạy vào thành.
Cao Quân Bảo nhờ có lá bùa hộ mệnh nên gió thổi không bay, lướt tới hỗn chiến, giết binh Đường
vô số.
Cao Hoài Đức thấy phép yêu hại binh Tống quá nhiều liền đánh kiểng thu quân lại. Cao Quân Bảo
nghe lệnh kiểng cũng phải trở vào thành. Binh Đường đắc thắng, vây thành dày mịt hơn xưa, tướng
Tống không ai dám ra cự địch nữa.
Bấy giờ Miêu quân sư chiếm quẻ, biết ngày mai có người đến cứu Lưu Kim Đính, nên tâu với vua:
- Xin bệ hạ tạm giao ấn soái cho tôi để tôi sai tướng đi tìm cho đủ Ngũ âm thì trừ Dư Hồng mới
được.
Tống Thái Tổ hỏi:
- Khi trước Trần Đoàn lão tổ có tặng thơ, ý nói chờ năm tướng gái đến giải vây, nên trẫm đã dùng đủ
năm vị phu nhân. Nay còn tướng Ngũ âm nào mà tìm nữa.
Miêu Quân sư tâu:
- Ấy là Ngũ âm trẻ, không phải ngũ âm già. Ngặt thiên cơ không nên tiết lộ.
Tống Thái Tổ liền truyền Cao Hoài Đức giao ấn soái cho Quân sư.
Hôm sau, Miêu quân sư ra phòng khách liền phát một cây lệnh tiễn cho Cao Quân Bội và dặn:
- Hãy lén vào Song Long trấn, nửa đêm bắn tên lửa vào đốt lương thảo. Ấy là việc cần gấp. Cao
Quân Bội thưa:
- Nghe nói tướng giữ Song Long trấn tánh kỹ càng lắm, e tôi làm chẳng nên việc, vậy xin Quân sư
thay tướng khác tài năng hơn.
Miêu Quân sư nói:
- Tuổi nhỏ mà trí dày, đáng con giòng cháu giống. Song ta đã liệu trước rồi, ngươi hãy lãnh phong
thơ này chờ tiết trung thu gặp Trịnh Ấn sẽ xé ra coi theo đó mà làm, bề nào ngươi cũng thành công
mà lại gặp duyên cá nước nữa.
Sau đó, Miêu quân sư liền phát một cây lệnh tiễn nữa cho Trịnh Ấn và dặn:
- Ngươi mau qua Thạch Châu viện binh về trợ chiến.
Hai tướng tạ từ dời gót.
Miêu Quân sư bước xuống lầu, trả ấn lại cho Đông Bình vương.
Lúc này vua Nam Đường thắng trận, vây thành Thọ Châu như xưa, mà không thấy Lưu Kim Đính ra
quân, nên khen Dư Hồng là bậc thần thông quảng đại, sai Dư Hồng thường bữa đem quân đến khiêu
.
.

.
.
chiến làm cho Tống Thái Tổ nóng lòng như lửa đốt, sợ quân Nam Đường hãm thành nên buồn thở
than:
- Nay cháu trẫm mang bệnh, không ai trị nổi Dư Hồng, e khó bề giữ nổi giang sơn, xã tắc.
Miêu Quân sư quì tâu:
- Xin bệ hạ đừng lo, chờ người đến cứu Kim Đính rồi sẽ phá vòng vây.
Tống Thái Tổ nghe Quân sư khuyên giải cũng khuây khỏa, ra lệnh bế thành mà thủ. Còn quân Nam
Đường ngày đêm cứ việc công phá không lúc nào yên.
Lúc này bốn con tỳ nữ rủ nhau đi lấy vía không được bị thần tướng đuổi về, vào thuật lại chuyện cho
Cao Quân Bảo nghe, rồi đêm ngày sầu thảm.
Cao Quân Bảo nghĩ thầm:
- Nếu quả như lời bốn con tỳ nữ đã nói, thì mười phần Lưu Kim Đính khó bề cứu sống.
Bấy giờ, Lê Sơn Thánh Mẫu đã hay việc Lưu Kim Đính bị nạn tình thầy trò nghĩ càng chua xót, ý
muốn xuống cứu, song nghĩ lại ở núi Huỳnh Hoa có ông Huỳnh Thạch Công có tên học trò là phùng
Mậu, con của Phùng ích, theo học đã lâu, nay cho Phùng mậu xuống giúp Tống, sẵn việc này ta qua
đó bàn chuyện sai phùng Mậu xuống cứu Kim Đính thì tiện hơn.
Nghĩ rồi, Thánh Mẫu đằng vân qua núi Huỳnh Hoa.
Huỳnh Thạch Công là một vị tiên ông, hồi trước qua Hớn, có hóa ra một ông già, đi ngang qua cầu
Hạ Bì, giả đò làm rớt dép, thấy có đứa nhỏ chơi gần đó, mượn xuống lấy giùm. Đứa nhỏ vui lòng
xuống lấy đưa cho ông. Ông đi ít bước lại làm rớt nữa, đứa nhỏ ấy cũng lượm giùm cho ông. Ba lần
như vậy, Huỳnh Thạch Công khen:
- Thằng nhỏ này dễ biểu.
Sau ông hẹn với nó đến cầu ấy cho cuốn binh thơ, trong binh thơ có đủ thiên văn địa lý, đủ việc binh
cơ. Đứa nhỏ ấy là Trương Lương, tên chữ là Tử Phòng, sau nhờ sách này mà phò Hán Cao Tổ, dẹp
Tần đánh Sở, được vua phong đến chức Lưu công hầu.
Hôm đó, Thánh Mẫu đến cửa động, có đồng tử bước ra, hình tướng tuy lùn, mà tuổi vừa thành nhân.
Đó chính là Phùng Mậu.
Thánh Mẫu nói:
- Ta là Lê Sơn Thánh Mẫu đến ra. mắt Huỳnh tiên ông.
Phùng Mậu vội vàng trở vào báo tin. Huỳnh Thạch Công vội vã ra nghinh tiếp.
Lê Sơn Thánh Mẫu nói:
- Dư Hồng làm phép đinh đầu thất tiễn mà trù Lưu Kim Đính vậy xin đại nhân sai lệnh đồ kíp xuống
Thọ Châu, trước là cứu giùm học trò tôi, sau nữa dẹp Đường giúp Tống thì chẳng uổng công dạy dỗ
của đạo huynh.
Huỳnh Thạch Công nói:
.
.

.
.
- Dư Hồng cãi lời thầy, phải bị tội chết, còn học trò tôi rèn lập tám năm văn võ, nay cũng đã gần tới
kỳ vầy hiệp nhân duyên, cũng nên cho xuống Thọ Châu đặng quần thần phụ tử sum hiệp. Dầu Thánh
Mẫu không đến, tôi cũng sai đi. Vả lại lệnh đồ Kim Đính là đầu dọc của năm vị ngũ âm, không lẽ để
Dư Hồng hại chết? Xin Thánh Mẫu yên lòng về động, tôi sai nó đi!
Lê Sơn Thánh Mẫu nói:
- Việc ấy tôi cảm ơn đạo huynh nhiều lắm!
Nói rồi, từ giã đằng vân về động.
Sau đó, Huỳnh Thạch Công kêu Phùng Mậu mà dạy:
- Ngươi ở núi đã tám năm, tuổi ngươi năm nay đã hai mươi, vậy phải xuống Thọ Châu mà cứu chúa,
trước là cho gặp mặt cha, sau nữa là kết duyên Tần Tấn. Nhân dịp cứu Lưu Kim Đính mắc nạn. Song
đánh với Dư Hồng hễ nó bại trận khá chẳng đuổi theo, mà cũng không nên giết nó. Nếu chọc giận tới
thầy nó là Xích Mi lão tổ chắc là khó dễ tới ta !
Phùng Mậu lạy thầy và khóc:
- Tôi ở non tiên tám năm, nhờ thầy dạy dỗ, nay xuống phàm trần, biết chừng nào về núi cho gặp mặt
thầy nữa!
Huỳnh Thạch Công mỉm cười nói:
- Ngươi chẳng quên ơn, thiệt là người trung hậu. Song số người thành tiên không được, hưởng công
danh phú quí mà thôi. Vả lại còn nhân duyên dưới trần, phải lo việc hương lửa cho họ Phùng mới
tròn ngay thảo.
Phùng Mậu lau nước mắt cúi đầu lạy tạ. Huỳnh Thạch Công liền truyền cho các phép hộ thân, đặng
xuống cự với Dư Hồng.
Phùng Mậu thưa:
- Việc đằng vân là đi đường, còn đánh giặc lấy chi mà đỡ gót xin thầy chỉ biểu cho luôn.
Huỳnh Thạch Công nói:
- Sau non tiên chẳng thiếu chi cầm thú, mặc ý người chọn lựa mà dùng.
Nói rồi dắt Phùng Mậu ra sau vườn.
Phùng Mậu xem thấy lấy làm lạ, bèn nghĩ:
- Mình ở tám năm trên núi mà nay thầy mới dắt tới vườn này?
Đương nghĩ trong bụng xảy thấy trên cửa vườn có đề chữ: “Phi Cầm Động". Huỳnh Thạch Công
niệm chú, tự nhiên cửa động mở ra. Huỳnh Thạch Công dắt Phùng Mậu bước vào, Phùng Mậu ngó
thấy thần thú tiên cầm không biết bao nhiêu mà kể. Những cầm thú ấy đều cúi đầu hết thảy, dường
như làm lễ chào mừng.
Huỳnh Thạch Công kêu một thần nha là con quạ cao lớn hơn hết. Thần nha liền bay tới. Huỳnh
Thạch Công bèn dạy:
.
.

.
.
- Nay ta sai ngươi theo Phùng Mậu sư huynh xuống phò Tống, trừ xong yêu đạo thì trở về cũng đặng
thành tiên vậy.
Thần nha gật đầu bay theo Phùng Mậu. Huỳnh Thạch Công dặn Phùng Mậu:
- Ngươi hãy đi cho gấp! Đừng dần dà, nếu trễ việc binh thì tội rất nặng, hãy cứu Lưu Kim Đính kẻo
trễ ngày giờ.
Phùng Mậu tạ thầy, cỡi quạ bay vút lên mây .
Lời Bàn
Danh lợi làm tối mắt con người, nếu muốn giữ vững được giá trị lòng người cần phải coi thường
danh lợi.
Dư Hồng, một kẻ tu tiên, thế mà khi xông vào thế sự, cõi trần đã biến Dư Hồng trở thành người
phàm tục, mến chuộng giàu sang phú quí, đầy lòng tự ái, tham lam danh dự, trái lời thầy để bảo vệ
tham vọng của mình.
Trong cuộc sống loài người, danh lợi là miếng mồi đưa sinh vật vào cạm bẫy. Kẻ trọng danh dự, đạo
nghĩa làm người coi danh lợi như mây khói, kẻ đã trọng danh lợi thì coi danh dự con người không có
giá trị gì.
Nếu tham vọng trong cuộc sống có một định mức rõ ràng thì tham vọng con người không đến nỗi mê
hồn. Lòng tham con người không đáy, càng được càng muốn nhiều hơn, kẻ chưa có thì mong cho
được, kẻ đã có thì mong cho có nhiều hơn nữa. Đó là một thảm họa trong cõi sống loài người. Dù thụ
hưởng đến bực nào, khi nhắm mắt xuôi tay, chỉ là một cơn ảo mộng, thế mà con người trong lúc sống
vẫn tranh đua tìm cách thụ
hưởng để tranh đoạt lẫn nhau, gây rối trong xã hội.
.
.
.
Hồi Thứ Mười Lăm
 Phá chiêng phép, Dư Hồng bỏ chạy
Dẹp binh ma, Phùng mậu dọn đường.
.
.

.
.
Phùng Mậu cỡi quạ bay bổng lên không, gần hai giờ mới đến Thọ Châu, lòng nghĩ thầm:
- Mình mới đến chưa lập được công chi, nếu vào thành tướng sĩ không phục, chi bằng đánh một trận
rồi mới vào yết kiến vua Tống, cho mọi người biết tài.
Nghĩ rồi giục quạ bay đến dinh Đường, thấy binh mã như rừng.
Lúc này vua Nam Đường đang ăn cơm trưa, thấy một người lùn, hai tay cầm cây thước, cỡi quạ ngũ
sắc, mắt đỏ tròng vàng bay xuống trước thềm. Vua Đường định chắc binh Tống sai người đến thích
khách, nên thất kinh buông đũa đứng dậy, la lớn:
- Có thích khách vào điện. Bá quan cứu trẫm cho mau.
Các quan hộ giá đều rút gươm ra thềm đón lại. Phùng Mậu nói:
- Các ngươi là đồ bất tài, dám cả gan nạp mạng.
Nói rồi hai tay vung thước đánh chết quân ngự lâm rất nhiều, còn các quan hộ giá đều kiếm đường
tẩu thoát.
Lúc ấy vua Đường chạy ra sau trướng ẩn mình. Phùng Mậu xông vào bắt được, muốn đem về nạp
cho Tống Thái Tổ mà dâng công, nhưng lại nghĩ thầm:
- Người ta là vua một nước, bất quá nghe lời yêu đạo mà tranh hùng, nếu giết đi thì mang tội.
Nghĩ rồi buông lời hăm dọa:
- Tội ngươi nghịch mạng trời, dám cự với chơn chúa, tội đáng chết, song ta nghĩ chỗ này không phải
chiến trường, nếu giết người cũng không đúng cách. Ta cần đuổi Dư Hồng để chúa tôi hàng đầu Đại
Tống khỏi bị yêu đạo quấy rầy, làm hại lương dân.
Nói vừa dứt, bỗng thấy Dư Hồng cỡi cọp xông vào, đánh Phùng Mậu một gậy.
Phùng Mậu đưa xác vua Đường ra đỡ, làm cho Dư Hồng phải thối lui Phùng Mậu nhân cơ hội ném
vua Nam Đường xuống đất. Dư Hồng vội đỡ dậy, truyền tả hữu phò vào phòng, quay nhìn lại thấy
Phùng Mậu hình thù như đứa con nít mười hai tuổi, liền cười ngất nói:
- Đại Tống hết người rồi, mới sai đứa trẻ thơ ra trận. Thôi hãy quì lạy xin tội ta tha cho. bởi chưa
thành nhơn ta không nỡ giết.
Phùng Mậu nghe Dư Hồng chê mình là con nít, liền nói:
- Ngươi là đứa con bất hiếu. Ta là cha mày dạy hoài cũng không nghe, chắc ngày sau bị trời đánh, có
phải làm cho cha mang tiếng, tức mình nên phải đến đây.
Dư Hồng nổi giận, quyết đánh một gậy cho bỏ mạng, chẳng ngờ Phùng Mậu múa cặp thước như gió,
đánh trước đập sau, làm cho Dư Hồng đỡ không kịp, bị một thước nhằm bả vai bên tả té xuống lưng
cọp. Phùng Mậu muốn đập một thước cho rồi, song trực nhớ thầy có dặn đừng giết Dư Hồng nên
phải ngưng tay. Còn Dư Hồng bị té gãy răng cửa, máu chảy dầm dề, bò dậy thoát lên lưng cọp.
Phùng Mậu cười ngất nói:
.
.

.
.
- Đã bị gãy răng thì phải ăn năn lạy cha xin lỗi, nếu chọc cha giận nữa thì chẳng còn hồn. Ta cũng vị
tình thầy ngươi, mà dung tha cho một lần, mau về non tiên mà tu luyện, nếu mê mùi phú quí mà ở lại
đây, lần sau gặp cha ắt là bỏ mạng.
Dư Hồng giận quá, hét lớn:
- Thằng giặc lùn, ta nói cho mày biết, nếu bữa nay ta không giết ngươi thì chẳng phải kẻ thần thông.
Dứt lời liền đánh một gậy. Phùng Mậu vội vàng đỡ và cười lớn:
- Thằng con ngỗ nghịch! Chẳng những cha đánh con gãy răng mà còn phải giáo dục nữa.
Dư Hồng đau răng quá lại nghe Phùng Mậu nói khích, bụng muốn nuốt sống thằng giặc lùn cho đã
giận, ngặt Phùng Mậu cặp thước quá hay, đánh Bắc đỡ Nam, sợ rủi sa cơ quân tướng sẽ cười chê, chi
bằng dùng phép mà bắt sống cho xong.
Nghĩ như vậy liền nhảy trái sang một bên. Phùng Mậu rõ biết âm mưu của Dư Hồng, liền niệm chú
định hồn, rồi giục thần nha bay tới, Dư Hồng thấy Phùng Mậu mắc kế liền lấy lạc hồn chiêng đánh
lên mấy tiếng, nhưng Phùng Mậu vẫn đứng trơ trơ, cười nói lớn:
- Dư Hồng! Ngươi đánh chiêng không cách, để ta đánh thử cho mà xem.
Nói rồi ném một trái chùy trúng lạc hồn chiêng bể nát.
Dư Hồng thất sắc, không dè thằng con nít tài cao. Chiêng lạc hồn đã bể rồi, nhắm dùng phép khác
cũng vô ích, chi bằng chạy trước là xong.
Nghĩ rồi hẹn độn thổ đi mất.
Phùng Mậu thấy Dư Hồng trốn chạy, không nỡ giết quân sĩ vô tội nên vội vã đi cứu Lưu Kim Đính.
Phùng Mậu giục quạ bay thẳng vào thành Thọ Châu.
Đến nơi, thấy vua và các quan đang xúm xít lo buồn. Tống Thái Tổ xem thấy, nghĩ chắc là thần tiên
giáng hạ cứu cháu dâu mình, nhưng xem lại thì thấy đó là một đứa con nít chừng mười hai tuổi .
Tống Thái Tổ suy nghĩ:
- Con nít chừng đó sao lại có phép thần thông? Hay là Dư Hồng dùng tà thuật vào đây thích khách?
Phùng Mậu bước xuống lưng quạ, quì tâu:
- Tôi chẳng phải kẻ gian tế bên Nam Đường, tôi là Phùng Mậu con của Phùng ích, đệ tử ông Huỳnh
Thạch Công ở núi Huỳnh Hoa, nay vâng lệnh thầy xuống Thọ Châu cứu giá.
Tống Thái Tổ nghe nói nghĩ thầm:
- Phùng ích có một con trai tên Phùng Mậu, năm xưa đi săn bắn bị cọp tha mất, té ra là tiên rước về
động dạy phép thần thông, đến nay cũng gần hai mươi năm, tại sao như đứa con nít?
Nghĩ rồi Tống Thái Tổ phán hỏi:
- Phùng Mậu, ngươi ở non tiên đã tám năm, sao thể xác có bao lớn? Hay là ngươi tịch cốc nên không
lớn được chăng? Vì cớ nào ngươi chẳng đến Biện Lương thăm quê hương, lại đến Thọ Châu làm gì.
Thân hình ngươi bé bỏng, mà đánh giặc làm sao?
.
.

.
Phùng Mậu nói:
Tôi không dám khoe, nhưng thiệt tỉnh tôi không phải là đứa bất tài.
.
Phùng Mậu tâu chưa dứt lời thì Phùng ích đã bước ra mừng con. Phùng ích đã ngoài năm mươi tuổi,
có một chút trai, nay thấy mặt về đây rất mừng mà quân tướng con xấu xí. Còn Thái Tổ nhắm không
nên dũng tướng, lòng chẳng vui mừng, ngồi làm thinh không hỏi thăm chi nữa.
Phụng Mậu bèn tâu:
- Nay tôi vâng lệnh tiên ông xuống Thọ Châu trợ chiến, thuận đường vào bắt Lý Kiên, hăm nộ một
hồi, kế Dư Hồng ra bị tôi đập bể chiêng Lạc hồn, rồi độn thổ trốn mất!
Tống Thái Tổ nghe tấu nửa tin nửa ngại, đổi ghét làm yêu, liền phán hỏi:
- Khanh làm phép chi mà phá Lạc hồn la của yêu đạo đặng?
Phùng Mậu tâu:
- Tiên ông có dạy tôi phép Định hồn chú, lại cho một cái thần chùy, nên tôi liệng Lạc hồn bể nát.
Tống Thái Tổ nghe tâu rất đẹp và phán khen:
- Không dè khanh nhỏ mà có công to, sức đánh đặng Dư Hồng, dầu phong hầu cho cũng đáng!
Cha con Phùng Mậu đồng tạ ơn chúa rồi về phòng, truyền dọn yến ăn mừng cho đến tối, rồi nói
chuyện tới khuya.
Lúc Phùng Mậu gần đi ngủ, nghe cách vách có tiếng rên la, Phùng Mậu hỏi thăm:
- Thưa cha! Chẳng hay ai ở bên phòng và vì cớ nào mà khóc than rên xiết?
Phùng ích nghe hỏi, thở ra mà than:
- Bên phía tả là chỗ Đông Bình vương, còn người rên la ấy là Lưu phu nhân, vợ Cao Quân Bảo bị Dư
Hồng yêu đạo trù đã gần miền, nay đã đặng ba ngày, không phương chi giải cứu, nên cả nhà khóc
than thảm thương. Tội nghiệp Lưu Kim Đính tuổi còn xanh mà phép giỏi tài hay, bởi đánh đuổi Dư
Hồng nên bị báo oán, làm cho Lư Kim Đính lập công chưa đặng mà tánh mạng gần mòn ? Quân sư
có xủ quẻ đoán rằng nội ba ngày thì cao nhơn đến cứu, mà chưa thấy như lời, nếu để tới bảy ngày thì
không còn tánh mạng.
Phùng Mậu nghe cha nói thì thưa:
- Người đến cứu Kim Đính là con đây, song con chưa kịp tâu với bệ hạ. Thầy con thường nói: Lưu
Kim Đính là vị sao Nữ ma đầu thai, vâng sắc Thiên đình xuống phò Tống. Tuy Dư Hồng làm hại
song có người giải cứu Nữ tinh, thầy nàng là Lê Sơn Thánh Mẫu có đến bàn luận với sư phụ tôi, và
có dặn tôi phải lấy trộm cho được sách Thất bửu của Dư Hồng thì mới trừ được, và giải cứu cho
mười hai vị tướng bị mê hồn. Nhưng việc ăn trộm không phải dễ.
Phùng ích nghe con nói mừng rỡ, biết con đã học được phép thần thông.
Hôm sau, Phùng ích vào chầu Tống Thái Tổ, kể lại những điều con đã nói, và khen Miêu Quân sư
đoán quẻ không sai.
.
.

.
.
Lời Bàn.
Xưa nay trong cuộc sống có đủ bản chất: mừng, vui buồn, giận, mà khôi hài cũng là phương
pháp làm vui trong cuộc sống.
Trong lúc chiến trường đang sôi động, tài năng, trí tuệ, phép tắc trở thành luồng sát khí nóng rực,
thì tác giả lại đưa Phùng Mậu, một người học trò tiên, từ trên núi xuống, để chọc ghẹo, phá phách,
làm trò cười trong cuộc chiến. Ấy vậy tài năng không chỉ ở trong những thân hình cao to mạnh mẽ,
mà ngay trong con người bất bình thường, phải chứa đựng một tiềm năng mà kẻ khác không thể có
được.
Nếu ra trận, dùng pháp thuật, sức mạnh làm cho kẻ thù thất bại thì trong bóng tối một tên lùn như
Phùng Mậu cũng đủ tài làm cho những kẻ anh hùng át tiếng cũng phải sợ hãi. Nếu không thắng bằng
sức lực thì thắng bằng mưu trí vẫn là một yếu tố lợi hại trong cuộc chiến.
.
.
.
Hồi Thứ Mười Sáu
Phùng Mậu mưu trộm sách bí thơ,
 Kim Đính khỏi nạn trừ yêu đạo.
Cao Hoài Đức và các tướng nghe Phùng Mậu có phép cứu đặng mười hai vị tướng mừng rỡ vô cùng.
Cha con Cao Hoài Đức năn nĩ Phùng Mậu trong đêm phải đi trộm sách để kịp thời cứu Lưu tiểu thơ.
Tống Thái Tổ cũng kêu Phùng Mậu nói:
- Khanh lo cứu cháu trẫm cho mau kẻo Lưu Kim Đính bịnh tình quá nặng, nếu được thành công,
trẫm trọng thưởng.
Đêm ấy, Phùng Mậu đợi tới canh hai độn thổ thẳng qua dinh Đường. Đến nơi, vừa ló đầu lên thấy
giáo gươm tề chỉnh, đèn đuốc sáng lóa. Vua Nam Đường ngồi ngự trên ngai, còn Dư Hồng và các
quan đều chầu chực. Phùng Mậu thấy vậy sụp xuống đất lần lại chỗ vua ngồi để nghe ngóng mọi
việc.
Vua Đường phán:
.
.

.
.
- Ban ngày trẫm bị thích khách, thiếu chút nữa là mất mạng. Còn Quân sư bị đánh gãy răng, trẫm oán
hận thằng lùn đó mà không biết làm sao trừ được.
Dư Hồng tâu:
- Nếu bệ hạ gắn chí bền lòng, thì tôi cũng liều mình giúp nước. Tôi đã dùng phép trù yếm Lưu Kim
Đính cũng đã gần miền, mười hai tướng Tống cũng còn nằm đó dầu gỡ bùa mà đốt cũng còn dại dại
điên điên, trừ ra có sách Thất bửu coi trong đó mà cứu thì mới tỉnh. Nay tôi tuy thất trận, xong chẳng
nên phiền muộn.
Vua Đường tin Dư Hồng là bậc thần thông quảng đại, nên phán:
- Cái thằng lùn ban ngày đó coi như con nít thơ ngây, không dè nó lại tài cao phép trọng, đập nát Lạc
hồn chiêng, không phải là tướng tầm thường. Nếu ngày mai có giao phong Quân sư phải giữ gìn cho
lắm!
Dư Hồng tâu:
- Tuy Tống có nhiều tướng giỏi, mà bạn hữu tôi cũng nhiều vị thần thông, nếu một mình tôi làm
không xong, thì thỉnh anh em trợ chiến có lo chi không trừ được tướng Tống.
Phùng Mậu đang núp dưới đất nghe rõ mọi điều, nép mình đợi Dư Hồng ngủ mê đặng lén qua phía
Đông Bắc hành sự. Đến nơi, thấy đài rộng, dưới có ba mươi sáu đồng tử mặc đồ chế, cầm gậy tang,
dường như một đám trẻ đang đợi lệnh. Qua đến nửa canh ba thấy chúng nó ngủ gục, Phùng Mậu thừa
dịp thổi vào mặt chúng những luồng hơi mê rồi ló đầu lên thấy có bốn vị hung thần giữ trận, bèn
niệm thần chú, rồi cầm gươm chỉ bốn vị thần tướng:
- Các thần kia sao dám vâng lời yêu đạo mà hại nữ tướng của trời sai, không sợ mang tội hay sao?
Bốn vị thần đáp:
- Chúng tôi vâng lệnh Dư Đại nhân cũng chẳng qua vì pháp thuật, đâu dám nghịch lòng trời. Nay
pháp sư đã quở như vậy, chúng tôi xin dời gót.
Nói rồi bốn vị thần tướng bay thẳng lên mây. Phùng Mậu bước lên đàn, thấy hương khói mờ mịt,
chính giữa có một cái mái. Trên nắp đậy có niêm phong. Phùng Mậu không rõ yêu đạo làm phép gì
mà giở nắp không nổi. Bỗng thấy cây gươm phép để trên đài, liền lấy gươm chém vào chỗ niêm
phong, tức thì nắp mái văng ra, hào quang trong mái vụt bay trên mây, ấy là sao Nữ Ma, bổn mạng
của Lưu Kim Đính. Sau đó Phùng Mậu ngó thấy trên đầu cột có một con bù nhìn bằng cỏ, mặc y
giáp thật, hai mắt đều bị tên, dưới lư hương có để một cuốn sách, Phùng Mậu lấy ra xem, thấy đề
mấy chữ: "Thất Tiễn Đinh Đầu Thơ”. Mở ra xem thì đó là sách dạy trù yếm, và bày đồ cúng tế, có đủ
các câu thần chú thỉnh tướng sai ma, chứ không dạy phép chi giải cứu.
Phùng Mậu than:
- Sách dạy phép trù mà không dạy phép giải, thì làm sao cứu người?
Liền đưa tay nhổ bốn mũi tên cho con bù nhìn, cất sách và gươm xong xả, lấy bù nhìn đem đốt, bốn
.
.

.
.
mươi chín ngọn đèn đang cháy lan ra, Phùng Mậu thất kinh nhảy xuống đất đốt cháy luôn ba mươi
sáu đồng nhi.
Lúc ấy trống trở canh ba, Quân tuần trông thấy đều kinh hãi chạy vào báo Dư Hồng. Đêm ấy Dư
Hồng đang say rượu ngủ mê, kêu mãi mới tỉnh dậy, nghe quân báo bàn trù bị cháy thì giậm đất than:
- Không xong rồi ! Chúng nó không kỹ càng làm hư mọi việc.
Dư Hồng nhảy ra chữa lửa thì mười phần cháy hết tám, các thần tướng đi đâu mất và cuốn sách đã ra
tro.
Chẳng ngờ Phùng Mậu lấy sách và gươm còn đang ở dưới đất chờ nghe tin cho rõ, khi nghe Dư
Hồng nói Phùng Mậu nghĩ rằng:
- Chúng nó đang bối rối với nhau, mình thừa dịp này lấy sách cứu người luôn thể.
Nghĩ rồi độn vào phòng Dư Hồng, thấy đèn chong chưa tắt, có một cái gối sơn đen. Phùng Mậu đập
nát gối lấy được sách “Thất Bửa bí thư”, liền cất vào túi áo rồi ra sau tìm mười hai tướng, thấy tất cả
đều ngủ ngáy pho pho.
Phùng Mậu nghĩ rằng:
- Mười hai tướng mê man như vậy biết cứu làm sao?
Liền giở Thất bửu bí thư ra xem thấy có lời giải rằng: trước phải niệm chú như vầy... rồi đốt lá bùa
trên đầu tự nhiên tỉnh lại.
Phùng Mậu làm như vậy, tức thì mười hai tướng tỉnh liền.
Phùng Mậu kể chuyện cho các tướng nghe, ai nấy đều nổi giận, nguyền rủa Dư Hồng.
Phùng Mậu nói:
- Chúng ta cũng nên đồng tâm hiệp lực, giải phá mà về thành lại e mười hai ông mới mạnh cự không
lại tướng Đường, chắc khó ra.
Thái Thạch Hùng và Sử Khuê bàn:
- Vậy thì công tử hãy về trước mà cất sách và gươm, rồi dẫn binh qua ngoại công, trong chúng tôi
nội ứng, cứ nổi pháo làm hiệu lệnh, đồng một lượt kéo ra, như vậy thì mười phần vẹn cả !
Phùng Mậu khen phải, bèn nhào xuống đất biến đi, mười hai vị tướng quân đều trầm trồ phép lạ.
Phùng Mậu địa hành về dinh Tống thì chưa hết canh tư, liền tâu các việc Tống Thái Tổ và Cao Hoài
Đức mừng rỡ vô cùng.
Xảy thấy Cao Quân Bảo tâu:
- Vợ tôi hồi đầu canh tư đã tỉnh lại, con mắt sáng như thường, vai và chân cũng hết nhức, mười phần
mạnh khỏe như xưa.
Tống Thái Tổ nghe tâu, mừng rỡ khen rằng:
- Nhờ Ngự điệt cứu cháu dâu trẫm đặng lành, công lao đáng ghi nhất!
Sau đó, Cao Hoài Đức chọn năm vạn binh mã, truyền các tướng ra thành, có một mình Tống Thái Tổ
.
.

.
.
và Quân sư ở lại. Phùng Mậu dẫn lộ, kéo binh thần lén đến dinh Đường. Lúc ấy trăng nửa tỏ nửa mờ,
binh tợ rồng tợ cọp. Phùng Mậu địa hành như trước, liền mở cửa thành, binh tướng Tống kéo vào,
quân Đường chạy tản. Vì cớ nào vào thành dễ như vậy? Bởi các tướng lúc ấy đi chữa lửa, vua Nam
Đường cũng ra xem.
Dư Hồng than:
- Rủi có một giờ, uổng công khó bấy lâu làm phép! Tức vì cháy sách báu, hết thông dụng phép mầu?
Lời Bàn
Kẻ có tật có tài lời người xưa để lại không sai.
Dư Hồng là một tên đại tướng khét tiếng trong thiên hạ, thế mà khiếp sợ trước một anh chàng Phùng
Mậu lùn tịt như một đứa con nít chẳng những thua về tài năng lại thua về trí tuệ, mất cả gươm báu
mất cả sách binh thơ. Cái gì bất thường trong cuộc sống thì nó cũng hành động bất thường trong
cuộc đấu tranh giành quyền lợi. Phùng Mậu một tướng thân xác không bình thường đã dùng cái hình
xác không bình thường ấy làm những chuyện không bình thường, để mọi người không lường trước
được. Những cái gì bình thường trong cuộc sống đều không nguy hiểm lắm, vì mọi người đã biết đến
nó, còn những cái không bình thường, thì mọi người chưa ai biết đến, vì vậy muốn chiến thắng mọi
việc trong thiên hạ, nên đề phòng những cái bất thường có thể xảy ra.
.
.
.
Hồi Thứ Mười Bảy
Lập công cao, Phùng Mậu đặng Phong vương
  Mất báu vật, Dư Hồng dùnq quạt phép.
Chúa tôi đang buồn rầu, xảy nghe trong dinh pháo nổ, tiếng binh la ó vang đầy. Kế quân báo rằng:
- Binh tướng Tống đến cướp dinh, quân gia hao nhiều lắm.
Dư Hồng nghe báo kinh hãi, liền trở về dinh, ngó thấy mười hai tướng Tống đã tỉnh, đồng cầm khí
giới cưỡi ngựa bước ra. Dư Hồng không rõ vì cớ nào mà mười hai tướng tỉnh đặng! Còn binh Đường
kinh hãi, vỡ chạy như ong. Dư Hồng sãng sốt nghẹn ngào, tuy có phép cũng như người không phép.
.
.

.
Bên Tống thắng trận rồi kéo về, không ai ngăn trở.
.
Vua Nam Đường nghe báo ngỡ là bên Tống thấy lữa cháy mà thừa cơ đến cướp dinh Đường càng sợ
hãi. Lại nghe quân báo nữa:
- Mười hai tướng Tống đã tỉnh dậy trốn đi rồi ?
Vua Nam Đường hoảng kinh, bèn hỏi Quân sư:
- Vì cớ nào lạ vậy?
Dư Hồng cũng không biết tại đâu, xảy thấy tướng Đường đến tâu:
- Binh hao tính năm ngàn có lẻ!
Vua Nam Đường càng thêm buồn bực, phán:
- Thiệt mạng Tống chưa cùng, công việc gần xong mà hóa ra uổng công vô ích, ấy là thiên số định
như vậy, nghịch ý trời thì hao binh tổn tướng. Thà chịu thua đầu Tống cho xong!
Dư Hồng thấy vua Đường than trách thì hổ thẹn trăm bề, liền bói một quẻ vì cớ nào kẻo tức. Trang
quẻ xong xuôi. Dư Hồng mới vỗ ghế mà nói:
- Không xong rồi ! Té ra thằng lùn đốt bàn trù , ăn trộm gươm linh và sách báu, lại giải cho mười hai
tướng tỉnh hồn! Nếu Tống Thái Tổ có người giỏi như vậy, thiệt trời hại ta đó! Song mười hai tướng
bị phù mê lâu lắm, lẽ nào mau tỉnh như vậy? Thiệt nghĩ không ra cách ấy.
Nói rồi ngồi lơ láo suy nghĩ. Vua Nam Đường thì rầu rĩ không nói tới Quân sư.
Dư Hồng hổ ngươi đi vào phòng một nước, ngồi trong phòng mà nghĩ:
- Tướng lùn phép tắc tài năng như vậy, ta khó nổi phò Đường, chi bằng về núi mà tu luyện cho xong,
khỏi buộc điều phiền não.
Nghĩ như vậy bèn khoác màn vào ngủ cho khỏe tinh thần, vào phòng kiếm hoài không đặng cái gối,
ngó xuống dưới giường thấy gối rách tan một đống Dư Hồng lấy lên coi đã mất sách rồi, thất kinh
nổi giận hét:
- Chẳng biết đời trước ta thù oán chi với thằng lùn này mà nay nó hại ta đến thế! Nay nó xé gối mà
lấy sách nên mới giải bùa mê cho mười hai tướng. Nay ta quyết với nó một còn một mất, không chịu
nhịn tướng lùn.
Dư Quân sư ngồi buồn rầu, tức mình ngủ không đặng, chờ cho trời sáng lo mưu.
Sáng ra cơm nước xong xuôi, Dư Hồng dẫn binh đi khiêu chiến.
Lúc các tướng Tống kéo về Thọ Châu đồng ra mắt Thái Tổ.
Tống Thái Tổ mừng rỡ khen:
- Chúa tôi hiệp mặt, cháu dâu trẫm cũng đặng toàn sinh, thì đều nhờ công lao Phùng Mậu. Nay trẫm
phong cho một chức xứng đáng là Bình nam vương.
Phùng Mậu lạy tạ ơn, coi bộ vui mừng lắm. Cao Hoài Đức và Cao Quân Bảo cũng tạ ơn Phùng Mậu
vì đã cứu Lưu phu nhân.
.
.

.
.
Ngày ấy Thái Tổ truyền dọn yến thưởng công và ăn mừng thắng trận, sau bữa mừng cháu dâu nạn
khỏi tai qua, cho tới tam quân cũng nhờ ngự tửu. Quan binh đều chúc tụng muôn năm. Đến trưa có
quân vào báo:
- Có Dư Hồng đến khiêu chiến, quyết mời Bình nam vương ra trận mà thôi!
Phùng Mậu nghe báo, liền để chén rượu xuống, xin ra cự chiến với Dư Hồng.
Tống Thái Tổ phán:
- Dư Hồng bị ngự điệt lấy sách báu, nên nổi xung tới làm quỉ chắc là dụng phép màu kế độc, quyết
trả cho đặng thù. Sách binh thơ có nói rằng: Giặc giận cùng thì mình phải tránh. Chi bằng giả điếc
làm lơ, nó đương hăng chẳng nên cự địch, đợi ít ngày Lưu phu nhân thiệt mạnh sẽ hiệp công một
trận, cũng chẳng muộn gì.
Phùng Mậu vâng lời không dám nghịch chỉ, Tống Thái Tổ truyền đem thêm rượu, chúa tôi cứ việc
uống hoài.
Kế quân vào báo nữa:
- Dư Hồng phá thành gấp quá, một hai kêu cho đặng Bình Nam Vương.
Phùng Mậu tâu:
- Bệ hạ dạy đừng đánh với giặc giận cùng, thiệt là phải phép. Vả chăng Dư Hồng yêu đạo, bất quá sở
cậy ở Lạc hồn la và bửu kiếm mà thôi, chớ như hú gió kêu mưa, dời non trút biển, sái đậu thành
binh, chỉ có hóa hình, các phép ấy đạo tiên gọi là thường sự, dầu có phép báu chi lạ nữa, nhờ hồng
phước bệ hạ cho tôi ra trận một phen, đánh đuổi yêu đạo, họa may Lý Kiên vỡ mật mà chịu đầu
hàng, nếu để Dư Hồng ở chờ ngày, sợ bày thêm kế khác. Xin bệ hạ cho tôi giao chiến, kẻo nó dễ
ngươi!
Cao Quân Bảo cũng tâu xin theo, hiệp lực đánh đuổi yêu đạo. Tống Thái Tổ y lời tâu, Phùng Mậu
cùng Cao Quân Bảo nai nịt, dẫn một muôn binh mã ra thành.
Dư Hồng thấy Phùng Mậu bước ra trước, bèn nổi giận trợn con mắt và mắng:
- Thằng giặc lùn quen nghề cắp trộm, không ra trận cho phân minh, tập thói đào hầm, theo loài khoét
vách! Bởi Kim Đính chưa tới số nên người làm lén mà nên công. Ta cũng bỏ qua không bắt mày tội
gian giảo song hai cuốn sách và một cây gươm, là của thầy ta cho để làm kỷ niệm, phải mau mau trả
lại cho ta, nếu để trễ lâu thì nội dinh Tống thành đều chết chém?
Phùng Mậu cười nói:
- Ta cũng muốn vị thầy ngươi mà trả sách và gươm lại. Song ngươi nói năng vô lễ nên ta không trả
sách, lại quyết lấy đầu ngươi. Nếu dung nhà ngươi, thì ngươi xúi giục Nam Đường nghịch thiên cự
Tống!
Dư Hồng nghe nói nổi xung đánh Phùng Mậu một gậy. Phùng Mậu đưa thước ra đỡ. Hai người hỗn
chiến một hồi. Dư Hồng biết đánh không lại Phùng Mậu nên tính phải dùng quạt phép mới xong, liền
.
.

.
.
giục cọp trá bại. Phùng Mậu tưởng Dư Hồng hết phép, đánh không lại nên chạy dài. Quyết đánh đuổi
Dư Hồng cho vua Nam Đường thất kinh mà đầu Tống. Chẳng ngờ Dư Hồng còn phong hỏa phiến,
quạt núi thì núi ngã, quạt đất thì đất tan, còn người thì tiêu hóa ra tro bụi. Phùng Mậu ngỡ trộm hết
phép của Dư Hồng rồi nên giục thần nha theo đuổi. Dư Hồng quạt Phùng Mậu một quạt, lửa cháy rần
rần. Phùng Mậu thất kinh giục thần nha bay bổng. Dư Hồng quạt bồi ít quạt nữa, bỗng nổi gió đùng
đùng, phùng Mậu như diều bông, hay biệt mù hết thấy phần bị hơi lửa nên Phùng Mậu hôn mê.
Còn Cao Quân Bảo trước khi thấy Dư Hồng quạt Phùng Mậu bay cao bốn trượng, thì kéo binh tới
tiếp nhau, xảy thấy binh trước bị thiếu cả ngàn, kinh hãi thâu binh bại tẩu vào thành tâu các việc với
Thái Tổ. Tống Thái Tổ nghe báo thất kinh, còn Phùng ích nghe con bị gió thổi lửa thiêu, không rõ
mất còn, mười phần sầu thảm. Cao Hoài Đức điểm binh lại, hao hơn một ngàn.
Quạt phép của Dư Hồng quạt bay xa ngàn dặm. Bởi Phùng Mậu có thần nha là quạ lửa, tu luyện lâu
năm, nên không sợ lửa.
Nhờ có nó bay mau quá nên Phùng Mậu khỏi chết thiêu. Bay được mấy dặm rồi thần nha sa xuống
ngồi nơi vườn họ Ngại.
Rạng đông, gia nhân ngó thấy một thằng con nít chừng mười hai tuổi nằm chết trong vườn, chúng nó
bàn:
- Cửa vườn chưa mở, sao lại có thây ma ở đây, chắc là đồ yêu quái!
Bàn vậy rồi chúng thất kinh vào báo cho chủ hay.
Nguyên chủ vườn ấy họ Ngại, tên chữ Vạn Thanh, cũng là người nước Nam Đường, không có con
cái chi hết, khi trước cũng làm quan, vì không trai nên từ chức ở ẩn theo ruộng vườn, sau hạ sanh
một gái, tên là Ngân Bình. Tiểu thơ nay mười lăm tuổi mà chưa nơi kết tóc xe tơ. Ngại Vạn Thanh
cưng con lắm. Khi gia đình vào báo rằng có một vật quái gở chết tại sau vườn thì cha con lấy làm lạ
đồng bước ra xem thử, coi lại là đứa con nít chết hồi nào không biết, chớ không phải vật quái gở gì,
thấy thây nó nằm sải tay, mặt như trái táo. Ngại Vạn Thanh không rõ vì cớ nào, bèn lại gần mà coi
thử thì còn thở thoi thóp, liền truyền cho gia đinh đổ thuốc Giây phút, Phùng Mậu tỉnh lần, ngồi dậy
mở mắt ra, thấy có một già và một người con gái, nghe gia đinh nói rằng:
- Chết rồi nhờ người ta cứu sống lại mà không tạ ơn còn bỏ đi chớ?
Phùng Mậu đứng dậy thưa :
- Tôi bị mê man không rõ, chẳng biết ai đã làm phước cứu tôi.
Ngại Vạn Thanh thuật lại đầu đuôi câu chuyện, Phùng Mậu liền lạy tạ. Ngại Vạn Thanh hỏi thăm
nguyên nhân vì sao xiêu lạc đến đây?
Phùng Mậu nói:
- Tôi là tướng bên Tống, đánh với Dư Hồng bị quạt phép của nó nên bay đến đây, nhờ ơn ông cứa
mạng.
.
.

.
.
Phùng Mậu nói chưa dứt lời thì thấy có một người con gái chạy vào nhà trong, rồi nai nịt chỉnh tề,
cầm thương bước ra xốc tới đâm Phùng Mậu.
Phùng Mậu kinh hãi, tránh qua một bên hỏi:
- Ân nhân cứu tôi, sao lại muốn giết?
Cô gái đáp:
- Cha ta làm quan nước Đại Đường, vì triều đình nghe lời Quân sư nên bị nước Tống giết tướng, đoạt
thành. Vậy nay ngươi là cừu địch của ta, ta quyết bắt ngươi cho tận trung với chúa.
Phùng Mậu nghe rõ liền rút cặp thước đánh với cô gái hơn mười hiệp. Cô gái này tên là Ngại Ngân
Bình, không địch lại Phùng Mậu nên bỏ chạy. Phùng Mậu giục quạ đuổi theo, Ngại Ngân Bình liền
quăng Hồng sắc lên, hào quang chiếu sáng, trói chặt Phùng Mậu, làm cho Phùng Mậu sa xuống đất,
còn con quạ bay bổng lên không trung.
Ngại Vạn Thanh thấy con mình bắt được Phùng Mậu liền truyền gia đinh dẫn vào nhà trong. Phùng
Mậu tỉnh lại mới biết cô gái đó có phép thuật liền than:
- Mới khỏi nạn Dư Hồng, lại mắc vào tay nữ tướng, mười phần chắc chết mà thôi.
Ngại Vạn Thanh truyền đem Phùng Mậu ra chém. Phùng mậu mừng thầm:
- Ta biết phép độn thổ, đợi khi đem chém ta sẽ trốn đi.
Quả nhiên, bọn gia đinh vừa mới khai đao thì Phùng Mậu đã chui xuống đất. Cha con Ngại Vạn
Thanh lấy làm lạ nói:
- Mới thấy đó nó liền biến mất, chắc là học trò của thần tiên.
Còn Phùng Mậu độn thổ trốn đi rồi tính trở lại lấy cặp thước, nên cởi quạ lửa bay vào quyết đánh
một trận nữa.
Cha con Ngại Ngân Bình thấy tướng lùn biến đi rồi trở lại, lập tức bủa lưới bao vây.
Ngại Ngân Bình vừa xông ra thấy phùng Mậu thì cười lớn:
- Tướng bại trận còn dám ỷ mạnh, không sợ bị trói nữa hay sao.
Phùng Mậu hét lớn:
- Tiện tỳ! Phen này chắc người không còn tánh mạng.
Ngại Ngân Bình không thèm trả lời, đánh với Phùng Mậu ít hiệp, rồi giả thua chạy vào nhà khách.
Phùng Mậu nghi ngờ.
Chắc là trá bại đặng quăng dây Hồng sắc bắt mình, chớ không có gì lạ. Nếu nó dùng phép đó thì ta
độn thổ là xong.
Ngại ngân Bình nói khích:
- Tên tướng lùn. Ngươi có giỏi thì đến đây đánh chơi với ta ít hiệp nữa.
Phùng Mậu giục thần nha vào thềm, thì con quạ đã mắc lưới bay lên không nổi.
Phùng Mậu biết trúng kế liền giục quạ bay lên không, móng chân quạ sắc như gươm, giật đứt lưới
.
.

.
.
bay bổng, còn Phùng Mậu ngồi không vững, té xuống bị lưới quấn khắp mình. Thần nha bay lên mây
nhìn chủ có vẻ chờ đợi.
Lời Bàn
Không nên tin chắc vào cái gì mình đã dự liệu, thà nên đề phòng, những cái bất trắc xảy ra.
Dư Hồng dùng phép trấn yếm tướng tài của nước Tống, đinh ninh rằng số mạng những tướng ấy sẽ
bị mai một. Đó chỉ là lòng tin. Mọi việc đều có thể xảy ra bất ngờ. Chính lòng tin của Dư Hồng về
pháp thuật đã đề Dư Hồng đi vào con đường thất bại. Vua tôi nhà Đường cũng chính vì tin vào tài
năng của Dư Hồng mà đưa đến những thất vọng ê chề, không thể cứu vãn kịp.
Ngạc nhiên, hối hận, là hai trạng thái mà người đời thường gặp chính là lòng tin tưởng, bởi sự suy
đoán của mình, không chịu đề phòng, đến lúc xảy ra sự cố, thì mới chán nản, hối hận.
Nguyên nhân sự chán nản và hối hận con người chính là lòng tin tưởng thiếu suy xét và đề phòng
những biến cố có thể xảy ra.
.
.
.
Hồi Thứ Mười Tám
  Phùng Mậu bị treo vì ỷ thế
Ngân Bình gá nghĩa bị rượu say.
Khi Phùng Mậu mắc lưới, thì gia đinh áp tới trói bền.
Phùng Mậu nghĩ thầm:
- Nếu biết nàng có phép thuật, thì ta chẳng trở lại làm chi cho mắc lưới. Nay đã bị trói, ăn năn thì đã
lỡ, chỉ còn có một kế là tìm cách trốn thoát.
Ngại Vạn Thanh nói với Ngại Ngân Bình:
- Tướng lùn không chịu phép, con định xử làm sao?
Ngại Ngân Bình thưa:
- Con nhắm tướng ấy có nhiều phép tắc, không phải tầm thường, nếu giết cách nào nó trốn cũng
được, vậy để ngày mai giải nó đến nạp triều đình thì cha sẽ được trọng thưởng, bằng nóng giận để nó
.
.

.
trốn đi thì uổng lắm.
Ngại Vạn Thanh khen phải, truyền cho gia tướng giữ gìn.
.
Chiều hôm ấy, trong lúc đang ăn uống, cha con vì mừng rỡ nên đem rượu ra uống đến say mèm.
Ngại Vạn Thanh hỏi con rằng:
- Đêm nay con tính thế nào mà giữ gìn tên tướng lùn ấy.
Ngại Ngân Bình thưa:
- Xin cha đừng lo, con có cách giữ gìn chắc chắn lắm.
Phùng Mậu lắng tai nghe, không biết nàng ấy làm cách nào, nên trong lòng rất lo sợ.
Khi đã quá canh hai, tiểu thơ truyền a hoàn đem cái túi lớn ra. Phùng Mậu xem thấy nghĩ thầm:
Không lẽ nó bỏ mình vào cái túi ấy mà quăng xuống nước? Nếu quăng xuống nước thì độn thủy trốn
đi, chỉ sợ không ai mở trói.
Trong lúc đang lo lắng, nghe Ngại Ngân Bình truyền cắt dây bỏ vào túi rồi gút miệng lại, trên yếm
một lá bùa, và dặn:
- Tướng này không phải tầm thường, các ngươi không giữ được phải đem treo giữa buồng ta, để ta
coi chừng, đợi ngày mai sẽ giải đi.
Các con a hoàn vâng lệnh đem Phùng Mậu treo lủng lẳng giữa phòng, Phùng Mậu lấy làm đắc ý, vì
thân xác Phùng Mậu thì nhỏ mà cái túi thì lớn, không tù túng chút nào, ở trong dòm thấy bọn a hoàn
di tản hết, chỉ còn Ngại Ngân Bình cởi hết giày áo, mình mẩy mảnh mai, mặt hoa da tuyết, trông rất
dịu dàng. Ở trong dòm ra, Phùng Mậu rất đắc ý, kiếm cớ lên tiếng nói:
- Phùng Mậu này không ngờ chết vì tay con gái, như vậy thầy mình hại mình rồi.
Ngại Ngân Bình khi trước không rõ họ tên Phùng Mậu, chỉ biết Phùng Mậu bị Dư Hồng dùng quạt
phép, nên ngỡ là giặc, nay nghe xưng tên thì giật mình, nghĩ thầm:
- Ta nghe Phùng Mậu học đạo tại núi Huỳnh Hoa, lẽ nào đến Thọ Châu mà bị Dư Hồng đánh đuổi?
Phùng Mậu ở trong túi nói tiếp :
- Ta là Phùng Mậu, đệ tử của Huỳnh Thạch Công, bởi ta sơ ý nên bị nàng bắt được, chớ ta không
phải là kẻ bất tài.
Ngại Ngân Bình nghe nói sững sờ, hơi rượu thấm vào người, nên buồn ngủ nằm sải trên giường mà
ngủ say.
Phùng Mậu muốn mở túi mà ra, ngặt có lá bùa yếm chặt túng thế phải dùng phép chuột, dùng răng
cắn túi vải chui ra. Khi đã thoát ra.khỏi, Phùng Mậu lén mở cửa phòng mà chạy, nhưng nợ tình quấn
quít, đã đi khỏi cửa rồi, Phùng Mậu còn nghĩ thầm:
- Ban ngày nó bắt ta trói mèo, rất nên xấu hổ, vậy bây giờ ta phải trở vào phòng phá nó một hồi cho
bỏ ghét. Nếu nó chịu làm vợ mình, thì ta có phước biết chừng nào. Bởi vì nó có phép thần thông lại
thêm nhan sắc.
.
.

.
.
Nghĩ rồi liền trở lại, sẽ lén bước lên giường, nhờ Ngân Bình quá say, nên Phùng Mậu mặc tình làm
mưa làm gió.
Ngại Ngân Bình khi tỉnh rượu, giật mình khi biết hoa kia ong đã nếm nhụy, nhưng tay chân rũ liệt,
không cục cựa nổi, mới giả bộ hô hoán lên.
Phùng Mậu liềm bụm miệng cô gái và nói nhỏ:
- Tiểu tướng là học trò Huỳnh Thạch Công, vâng lệnh thầy đến đây ấy cũng là lương duyên do túc
đế, xin tiểu thơ xét lại, kẻ chân trời người góc biển mà được hiệp hội như vầy, không lẽ đổi dời
duyên khác, xin dung tha tội lỗ mãng, cho thỏa nợ ba sinh. Tôi thiệt lòng vàng đá, không phải loài
bướm hoa, xin tiểu thơ suy xét.
Ngại Ngân Bình mắc cỡ, làm mặt giận nói:
- Ngươi thiệt nhỏ mình mà lớn mật? Khen cho mặt dạn mày dày. Ngươi xưng là học trò của một vị
tiên, lẽ nào không biết lễ phép. Ôi dầu vì danh tiết mà bưng kín miệng mình, thì cha tôi lẽ nào dung
thứ. Tủi phận tôi mồ côi mẹ từ thuở bé, một cha dạy dỗ lễ nghi, nay rủi hư thân, còn mặt nào nhìn
cha sao đặng?
Ngân Bình nói rồi sụt sùi khóc. Phùng Mậu năn nỉ:
- Tôi là trai chưa vợ, lẽ nào thấy gái sắc không thương. Vả lại nước Nam Đường khí số đã tuyệt,
Tống Thái Tổ chánh vị hoàng đế ra đời, một tay thu hết giang san, bề tôi sau này được mão vàng đai
ngọc. Tôi với tiểu thơ vốn có duyên cầm sắc, không phải thói mây mưa, xin tiểu thơ xét lại.
Ngại Ngân Bình nghe nói, thở dài than:
- Tuy vậy cũng duyên trời, thầy ta đã cho biết trước. Nay đã rõ họ tên, việc đã lỡ rồi, thôi thì y lời
Thánh Mẫu. Song xin chàng trước sau một dạ, chớ có vong tình.
Phùng Mậu nghe nói như cởi mở tấc lòng, mừng rỡ đáp:
- Mong tiểu thơ không chê người tài sơ đức bạc, nỡ nào tôi đem dạ phũ phàng. Xin nàng đừng nghi
ngại.
Hai bên tâm sự đến đây thì trống đã trở canh tư Phùng Mậu mới hỏi nhỏ tiểu thơ:
- Vì cớ nào mà nàng có nhiều phép quá vậy?
Ngại Ngân Bình nói:
- Thiếp là học trò của Kim Quang Thánh Mẫu, các phép ấy đều là của thầy cho.
Phùng Mậu nghe nói mừng rỡ:
- Nay nàng đã cùng ta trời xui giai ngẫu, vậy phải đầu Tống lập công cho thuận lòng trời, cho tổ tông
nhờ tiếng.
Ngại Ngân Bình nói:
- Đã đành là vợ thì phải tùng phu, song phải giấu cho tôi mới đặng, vả chăng lúc ban ngày tôi có nói
mai đây giải công tử đến đơn trì. Bây giờ tư tình kết nghĩa với nhau, không biết cha thương hay ghét,
.
.

.
.
nếu hay mà quở phạt thì khó dễ nhiều bề, thà tôi giả đò đi giải rồi thẳng qua dinh Tống mới tiện hơn.
Khi cứu chúa xong rồi, sẽ lo kế rước cha mới tiện.
Phùng Mậu khen kế rất hay. Ngại Ngân Bình thấy trời gần sáng sợ a hoàn vào phòng ngó thấy nên
phải biểu chồng chui vô túi may lại rồi rút lên như cũ.
Rạng ngày a hoàn pha nước đem vào cho tiểu thơ rửa mặt,
Ngại Ngân Bình giả đau nói:
- Trong mình ta bữa nay có bịnh, hãy thưa lại với ông xin đình chỉ việc giải tướng giặc lại.
A hoàn ra thưa lại với Ngại Vạn Thanh. Ngại Vạn Thanh ngỡ là con mình vì đánh với Phùng Mậu
mà bải hoải tứ chi, liền bước vào phòng thăm viếng và than:
- Không dè con bệnh thình lình, chắc là trễ việc giải phạm nhân.
Ngại Ngân Bình bèn thưa:
- Nhắm thế nó có cánh cũng khó bay, cha lo làm chi cho mệt, đợi vài ngày con lành bệnh, sẽ giải đến
cho thiên nhan, nhắm chẳng trễ gì song phải cho nó ăn, giải tướng sống mới lớn công, chớ giải tướng
chết vô ích.
Ngại Vạn Thanh khen phải, rồi dặn a hoàn lo săn sóc tiểu thơ.
Đêm ấy tiểu thơ truyền cho a hoàn để mình nghỉ an, thiệt sáng sẽ vào phòng, kẻo xao động tiếng
người ngủ không an giấc.
A hoàn tưởng thiệt, chẳng dám cãi lời. Lúc ban ngày thì Ngại Ngân Bình nằm liệt, còn ban đêm đóng
cửa phòng lại, mở túi càn khôn thả Phùng Mậu ra ăn uống nghỉ ngơi. Phùng Mậu ban ngày tuy bị
treo song ban đêm thong thả vô cùng, phỉ tình phong nguyệt nặng tình non sông. Phùng Mậu nhớ sực
lại con thần nha, mới hỏi:
- Không biết con thần nha của tôi nó ở đâu?
Ngại Ngân Bình nói:
- Con quạ ấy vốn vật linh, khi chàng bị bắt thì nó bay liệng rên không mà ngó chừng hoài, đến khi
chúng ta gá nghĩa với nhau thì nó lại trà trộn ở chung với gà vịt.
Phùng Mậu mừng rỡ và nói:
Con quạ ấy của thầy cho mà đỡ chân, bởi nó thuộc hỏa mới chịu nổi quạt phép của Dư Hồng.
Từ ấy về sau, hai vợ chồng khi chén rượu khi cuộc cờ, khi xem hoa nở khi chờ trăng lên. Thật là ba
sinh đã phỉ lời nguyền.
Còn Phùng ích cha Phùng Mậu ở trong thành ngày đêm trông đợi con về, mà càng trông càng bặt tin
nên thảm sầu than khóc?
***
Nói về Nhữ Nam Vương Trịnh Ấn, từ khi vâng lệnh quân sư đi lên Thạch Châu (San Hậu) viện binh,
bởi tánh Trịnh Ấn cộc cằn lỗ mãng, hễ nghe sai thì đi liền, không hỏi lại cho rõ ràng, được lệnh thì
.
.

.
.
vụt ra đi như cơn gió xoáy, không đem tiền lộ phí tùy thân, cũng không biết đường biết nẻo, nên đi
lẩn quẩn trong đất Kim Lăng hoài. Ăn đã hết cơm khô mà đi chưa tới chỗ. Trịnh Ấn túng phải nhịn
đói, hỏi thăm đường sá, đi bất kể ngày đêm.
Ngày kia đến một chỗ nọ phồn hoa thị tứ, Trịnh Ấn thấy có tiệm cơm, quán rượu rất nhiều, muốn
vào đó ăn uống nhưng ngại vì túi rỗng, thật là tấn thối lưỡng nan, lại ngẫm nghĩ:
- Thiên hạ đều phải nạp lương đóng thuế nhà vua, vả lại mình cũng là một vị vương, quyền hành rất
lớn, dầu ăn không của bá tánh, rồi tha thuế mà trừ cũng xong? Huống chi mình vâng lệnh vua sai,
quan sở tại còn phải đãi đằng, huống chi là dân sự!
Nghĩ rồi Trịnh Ấn chăm chỉ vào quán cơm.
Lời Bàn.
Trong sự khôn ngoan thường khi bị những tình trạng lắt léo phản lại.
Lời xưa nói: Kẻ thông minh, tài trí thường hay bị những việc rất tầm thường phản ứng. Bởi vì kẻ
thông minh thường nghĩ đến chuyện quá sâu xa mà không đề phòng những việc tầm thường trước
mắt.
Ngại Ngân Bình bắt được Phùng Mậu, một thằng lùn tịt những tưởng dễ sửa trị, nhưng điều Ngại
Ngân Bình đề phòng Phùng Mậu là sợ Phùng Mậu trốn đi, nên bắt bỏ vào túi đem treo trên sà nhà,
nhưng còn sợ không ai đủ sức canh giữ nên truyền đem treo trong phòng ngủ của mình, để đến nỗi
Phùng Mậu thoát ra, làm những điều ô nhục. Ấy vậy Ngại Ngân Bình tuy là kẻ có tài trí tuyệt vời,
nhưng không nghĩ đến một chuyện rất bình thường, mà người bình thường mới đề phòng được.
Phùng Mậu là một tên hài hước, đã trốn được lại còn nghĩ đến hành động chọc phá thiên hạ, thật
đáng buồn cười nhưng buồn cười hơn cả là sự việc đã dĩ lỡ, khiến cho thân phận một cô gái tài sắc
tuyệt trần kết duyên với một thằng lùn xấu xí. Nếu đó là một tương duyên trời định thì cũng oái oăm
lắm!
.
.
.
Hồi Thứ Mười Chín
.
.

.
 Bởi Lơ Đễnh, Trịnh, Cao Bị Bắt
Biết máy thơ, Tiêu, Úc tùng quyền.
.
Nói về Trịnh Ấn tính xàm trong lòng, nên mang túi rỗng vào tiệm kêu tửu bảo biểu đem rượu ngọt và
đồ ngon. Tửu bảo coi bộ quan khách tác lớn lại cao, biết sức ăn uống như rồng như cọp, liền đem ra
ít bầu rượu và dọn đủ đồ ngon. Trịnh Ấn ăn uống trội hơn ngày thường, vì nhịn đói đã một ngày
rưỡi, ăn uống một hồi lại kêu thêm rượu, hối đồ ăn. Tửu bảo thấy khách y phục đoan trang, ngỡ tiền
lưng nhiều lắm, nên lựa toàn món ngon vật lạ, lại trông cho khách ăn ráng cho nhiều. Tuy nghe tiếng
Trịnh Ấn nói khác tiếng mình, song thấy mặc sắc phục nhà vua nên tửu bảo không dám tra hỏi.
Khi Trịnh Ấn ăn no say và trà nước xong thì sửa soạn xuống lầu không nói gì đến việc tiền bạc. Tửu
bảo thấy vậy liền nghĩ:
- Bộ người này tính ăn lường, nên cố thực quá, ăn rồi mà không nói đến việc bạc tiền, lại coi bộ
muốn lên lưng ngựa mà đi!
Nghĩ rồi, bèn đón lại đòi tiền.
Trịnh Ấn nói:
Nhữ Nam Vương có ăn uống bao nhiêu thì bổn địa phải chịu, ngươi còn đòi bạc gì? Thôi bao nhiêu
thì ngươi tính đi, tới ngày trừ bạc thuế, hay là muốn đến trình huyện mà lấy của công nho, hai lẽ
ngươi muốn lẽ nào?
Chủ quán nghe ra mới biết là một vị vương hầu bên Tống, cừu địch với nước mình, nên tính đi báo
quan mà lãnh bạc thưởng, liền nạt tửu bảo rồi làm bộ vui vẻ thưa:
- Khi nãy thằng bạn tôi con mắt mù quáng, không biết đại vương, nó thất lễ mười phần, tôi xin cam
chịu lỗi.
Nói rồi liền cúi lạy, Trịnh Ấn mừng rỡ khi thấy chủ quán tôn kính mình. Còn chủ quán thì hối các
tửu bảo đem trà thơm ra đãi, còn làm bộ giả lả đãi đằng chu đáo gấp đôi khi trước rồi nói:
- Tôi có mắt mà như mù, không biết đại vương, nay nhờ ơn bề trên cho tính tiền trừ thuế. Song
vương gia nói miệng, sợ quan thâu thuế không tin, vì chẳng có dấu chi làm cớ, vậy xin đại vương
phê cho ít chữ và đóng ấn vào, ngày sau có quan thâu thuế đến, tôi chiếu giấy mà trừ, thiệt ơn đại
vương sánh tựa non biển ?
Trịnh Ấn nghe nịnh êm tai thì khen rằng:
- Chủ quán thiệt là người có trí, ta khá khen cho đó !
Nói rồi biểu đem giấy mực ra.
Trịnh Ấn đề rằng:
“Phải chiếu theo giấy này trừ thuế cho thân tộc tiệm này mười năm" rồi ký tên đóng dấu kỹ lưỡng.
Chủ tiệm làm bộ mừng rỡ cúi lạy tạ ơn, rồi truyền cho tửu bảo đem rượu tốt và đồ ăn ngon no đủ mọi
.
.

.
món, nào thịt rừng nào cá biển.
Trịnh Ấn thấy đãi những món mỹ vị thì ráng ăn uống thêm.
.
Chủ quán thì càng ân cần khuyên ép, rồi bước vào nhà trong sai bạn đi mách với quan Tổng binh,
dặn rồi trở ra hầu rượu.
Tổng binh xứ nọ họ Tiêu tên chữ là Hóa Long, nghe gia tướng của chủ quán đến bẩm:
- Chủ tôi phục rượu cho một vị vương nước Tống, còn ngồi trong quán, coi bộ đã say, nên chủ tôi sai
đến bẩm với ông, xin đem binh đến bắt.
Tiêu Hóa Long nghe báo mừng rỡ vô cùng, dẫn năm ngàn binh mã ra đi. Đến quán thì Trịnh Ấn đang
uống rượu. Tiêu Hóa Long hét lớn:
- Khen cho Tống tặc cả gan còn ngồi uống rượu !
Trịnh Ấn nghe rõ mới hay mình còn ở trong địa phận đất Kiên Lăng, bị chủ quán làm mưu sai người
đi báo cáo. Muốn cầm roi lên ngựa, mà cự với tướng Đường, ngặt say quá nên tay chân rã rượi,
Trịnh Ấn túng thế thót lên ngựa mà chạy. Binh Nam Đường vây phủ quá đông. Trịnh Ấn ngồi không
vững vàng liền nhào xuống ngựa, quân Nam Đường áp lại bắt trói Trịnh Ấn.
Tiêu Hóa Long mừng rỡ mười phần, liền thường quán nhân năm trăm lạng bạc. Chủ quán mừng rỡ tạ
ơn. Tiêu Hóa Long truyền quân dẫn Tống tặc về ải.
Về đến ải, Tiêu Hóa Long truyền đem giam Tống tặc được ít ngày đêm giải mà lập công. Bởi qua
bữa sau là trung thu trăng tỏ, bạn đồng liêu thăm viếng chơi bời, tại nhà quan nên việc ăn chơi trọng
thể lắm!
Ngày ấy có người đồng liêu thiết nghĩa với Tiêu Hóa Long là Úc Thoại làm chức trấn quốc tướng
công, có người con gái là Úc Sanh Hương, tài cao phép lạ. Hai cha con họ Úc đi giải một tên tội
phạm, thuận đường ghé viếng Tiêu Hóa Long, tên phạm ấy cũng là tướng bên Tống.
Tiêu Hóa Long tiếp đãi Úc Thoại và hỏi thăm vì cớ nào mà bắt được Tống tướng. Úc Thoại nói:
- Tống tướng họ Cao tên Quân Bội, đêm hôm qua đơn thương độc mã đến bắn tên lửa vào thành
quyết đốt kho lương, may trời khiến tôi hay đặng đem binh ra vây nó. Không dè nó tướng nhỏ mà
sức mạnh như thần, đánh nhằm cánh tay tôi bị thương. Khi quân báo lại con gái tôi là Sanh Hương ra
đánh bắt nó đem về. Tôi tính giải nó đến vua, trước là lập công sau là báo thù roi sắt, e Tống tướng
đón đường cướp giựt, bởi khi trước khi có chiếu truyền rút binh các ải về thủ thành vua, nên binh tôi
mười phần nay còn có một. Nay mới giải Tống tướng, có năm trăm binh mà thôi, nên ghé lại Tổng
binh mượn thêm nhân mã ba ngàn đặng đi giải, chẳng hay Tổng binh có đành chăng?
Tiêu Hóa Long nghe nói:
- Không dè anh cũng như em, đồng bắt được tướng Tống.
Nói rồi thuật chuyện bắt Trịnh Ấn.
Úc Thoại nghe qua mừng vội. Tiêu Hóa Long nói:
.
.

.
.
- Tôi cũng định giải nó đi, may gặp anh đi giải cùng đường, song đêm nay là đêm Trung thu, mời
anh ở lại vui chơi, rồi ngày mai anh em ta cùng đi giải, cũng không trễ nải chi? Úc Thoại là con sâu
rượu, nghe bạn mời ăn tiệc liền bằng lòng.
Nói về Tiêu Dẫn Phụng là con gái Tiêu Hóa Long, lại là em bạn với Úc Sanh Hương tình chi lan như
keo sơn gắn chặt.
Tiêu Dẫn Phụng cũng là con một như Úc Sanh Hương, nghe tin chị em đến thì mừng rỡ, lại nghe cha
mời ở lại ăn tết Trung thu, Tiêu Dẫn Phụng lại mừng nhiều hơn nữa.
Đêm ấy chị em lên lầu, xem trăng uống rượu, nói chuyện đến khuya, lúc đó mọi người đều ngủ hết,
chỉ còn hai chị em còn thưởng nguyệt. Xảy nghe có tiếng than thở, hai chị em đều lén đi rình nghe
thì thấy hai người nói chuyện với nhau trong tù xa như vầy:
- Đại trượng phu chết giữa chiến trường thì rạng danh như nhật nguyệt, ngặt vì thương nỗi mẹ già cui
cút, ngày sau trăm tuổi già không ai thọ chế cư tang.
Kế nghe người khác nói:
- Phàm con người ở đời hễ đặng thảo mất ngay, đặng ngay mất thảo, mấy ai mà đặng trung hiếu
lưỡng toàn! Chúng ta không phải thường tình nhi nữ?
Người kia đáp lại:
- Anh Trịnh, anh nói cũng phải, song ta nghĩ lại giận Miêu Quân sư, không chịu sai tướng khác,
quyết ép tôi vào chốn hang cọp miệng hùm, chắc là không còn tính mạng. Quân sư có đưa cho tôi
một phong thư, dặn đêm trung thu gặp anh sẽ giở ra xem dầu bị tai nạn cũng khỏi. Song bị buộc tay
chân thì làm sao mà lấy được thơ trong túi mà xem thì chắc tai qua nạn khỏi.
Hai tướng nói chuyện thì hai chị em nghe rõ ràng, hai nàng bèn trở lại Bá Hoa Đình xem hoa thưởng
nguyệt.
Tiêu Dẫn Phụng nói với Úc Sanh Hương:
- Chị ôi? Lúc em ở núi về, Thánh Mẫu có dặn, sau hai chị em sẽ kết duyên cùng trai Tống. Nay nghe
hai tướng Tống nói chuyện: Miêu Quân sư có đưa bức thư chi, dặn coi thì khỏi nạn, chi bằng ta sai
con đòi thừa dịp này mà móc túi, lấy thư coi thử nói những chuyện gì. Chị xét lại thử coi có đáng hay
là không đáng?
Úc Sanh Hương khen phải, Tiêu Dẫn Phụng sai con đầy tớ tâm phúc đến lục túi lấy thơ. Trịnh Ấn
không cho, làm bộ quỉ thần nạt nộ.
Cao Quân Bội nói:
- Mình có thơ mà coi không được, cũng nên để cho người ta coi, hoặc tai qua nạn khỏi, nên đừng trở
ngại!
Trịnh Ấn giận làm thinh không thèm nói lại. Con đòi lục túi Cao Quân Bội, lấy được phong thơ
mừng rỡ lật đật đem về cho chủ.
.
.

.
Tiêu Dẫn Phụng thấy phong thơ điểm kỹ càng, khai ra thấy tám câu thơ như sau:
Nhân duyên ngàn dặm Tống hòa Đường,
Căn dặn gia nhân phải chủ trương.
Đẹp phận Trịnh vương cùng Dẫn Phụng,
Phỉ nguyền Quân Bội với Sanh Hương,
Tù xa khỏi nạn hương thêm đượm.
Vừng nguyệt làm mai lửa cháy hường,
Mới biết duyên trời đà định trước,
Phần ai nấy gặp bởi tơ vương.
Hai chị em xem thơ nghĩ giật mình. Tiêu Dẫn Phụng nói:
.
- Bài thơ này nói rõ tên họ đôi lứa của chúng ta, như lời Thánh Mẫu đã dạy. Nay đã gặp gỡ lẽ nào
dám trái lòng trời mà nỡ cãi lời thầy cho được! Chị tính thế nào bây giờ?
Úc Sanh Hương nói:
- Phải thuận sẽ trời, nghe lời thầy chớ, duyên lành dễ kiếm hay sao?
Tiêu Dẫn Phụng nói:
- Đã biết vậy mà bây giờ vâng lời thầy lại mang tiếng là bỏ cha phản chúa, tội bất trung bất hiếu, sao
mặt nào dám ngó cha già ?
Úc Sanh Hương nói:
- Người phải có kinh có quyền, không phải giữ hoài một mực, nay coi Tống hưng thạnh. Nay chị em
ta vâng lời thầy lén cha mà kết tóc cùng tướng Tống, cứ theo lẽ thì ta bất hiếu bất trung, song ngày
sau mình phò Tống cứu cha, cũng đã đem công mà trừ lội, lại đặng hưởng vinh hoa phú quý, không
uổng công ăn học thuở nay cho nên nay là bất hiếu sau đặng trọn thảo trọn ngay. Nếu phò Nam
Đường mà chết cả dòng, mới gọi là hiếu hay sao?
Tiêu Dẫn Phụng nghe nói khen:
- Lời luận tùng quyền của chị hay lắm!
Hai chị em bàn luận rồi cấm a hoàn chớ nên tiết lậu. Truyền đóng cửa vườn lại hối con đòi tâm phúc
ra tháo tù xa; thuật các việc cho hai tướng ấy nghe, rồi mở đây rước vào thương nghị, a hoàn vâng
lệnh, y theo lời dạy mà làm, mở tù xa và mở trói cho hai tướng rồi mời đi theo mình đến ra mắt nhị
tiểu thơ.
Hai nàng thấy mặt tướng Tống thì hổ thẹn, song gượng nói:
- Xin nhị vị công từ hãy xem thơ của Quân sư rồi sẽ tính lẽ nào cho chị em tôi biết với!
Nói rồi sai con đòi đưa thơ cho nhị vị công tử.
Cao Quân Bội liền xem thơ. Còn Trịnh Ấn chưa kịp coi nên làm dữ, mắng người sao vô lễ xem thơ
của mình. Cao Quân Bội lắc đầu rồi trao thơ cho Trịnh Ấn. Trịnh Ấn xem rồi khen thầm Quân sư
.
.

.
tuyên thánh, nhân duyên trước mặt, họ tên ngày tháng rành rành.
Lúc ấy, hai nàng cúi mặt xuống và nói:
.
- Tuy bài thơ ấy của Quân sư, nhị vị công tử đọc xong rất hiệp với lời dặn của thầy tôi là Kim Hoa
Thánh Mẫu nên không cãi lẽ trời cho đặng, vậy chẳng hay hai vị công tử chước lượng làm sao?
Cao Quân Bội thấy hai nàng hữu tình, cứu mình trong cơn hoạn nạn, nếu nghịch mà không chịu,
chắc là bị giải đến vua Nam Đường, thì tánh mạng mười phần còn một, mình chết không tiếc, riêng
thương nỗi mẹ không kẻ phụng thờ. Huống chi Quân sư đề tên họ rõ ràng, không phải tội nơi mình
làm mà sợ? Nghĩ rồi nói hơn thiệt cho Trịnh Ấn nghe, anh em cùng bằng lòng như một.
Tiêu Dẫn Phụng nói:
- Bây giờ đã thuận cả, mới nhất định đôi lứa làm sao?
Úc Sanh Hương sợ Tiêu Dẫn Phụng dành người trắng trẻo của mình, liền đáp:
- Lời xưa có nói: "Vợ chồng là căn nợ" và sách có câu: “Vô ân trái bất thành phu phụ, hễ tướng nào
của ai bắt đặng là duyên nấy, còn nghị luận làm chi!
Ban đầu Tiêu Dẫn Phụng chê Trịnh Ấn mặt mày như quỷ, sao bằng Cao Quân Bội tốt trai, nay nghe
Úc Sanh Hương cắt nghĩa cũng phải, vả lại trong thơ có đề vợ nào chồng nấy, nếu đổi chọn đặng
sao? Tuy Trịnh Ấn xấu tướng mặc lòng, mà quyền cao chức lớn, vợ cũng là một vị vương phi, bù đi
chế lại cũng vừa, nên thuận theo thơ ấy.
Bốn người cứ theo thơ mà làm chồng vợ, đồng thề thốt và giao của tin. Rồi hai nàng than:
- Đêm nay thề thốt giao ước như vậy mà không biết nhị công tử ngày sau giữ lời quân tử hay không?
Cao Quân Bội và Trịnh Ấn đồng nói:
- Đại trượng phu chẳng hề thất tín, hẹn việc nhỏ cũng không sai, huống chi việc vợ chồng là việc
trăm năm, lại cũng đứng vào hàng tam cang nữa, lẽ nào xuất hồ nhĩ phản hồ nhĩ sao? Xin tiểu thơ
chớ nghi ngại!
Hai nàng nghe nói đều tin bằng lời, liền truyền cho a hoàn dọn rượu cơm thết đãi. Hai người ăn uống
xong. Trịnh Ấn nói:
- Hai nàng gá nghĩa với hai ta, thì phải bỏ Đường đầu Tống, đặng ta về tâu lại với chúa và thưa với
cha mẹ. Ngặt lịnh tôn công đã nhất định giải hai ta tới vua Đường, vậy biết tính làm sao cho đặng?
Hai nàng ngồi ngẫm nghĩ một hồi rồi đáp:
- Ngày mai chúng ta làm như vầy, như vầy. . . thì lo chi công tử thoát thân không đặng?
Cao công tử nghe kế mừng rỡ, rồi cùng nhau uống rượu tới canh tư. Lúc ấy hai nàng nói với hai công
tử, xin chịu phiền vế chốn tù xa và cũng phải chịu trói kẻo lộ. Hai người y như lời dặn còn chị em
vào phòng nghỉ ngơi.
Nói về Tiêu Hoá Long với Úc Thoại mắc say mèm ngủ ngáy pho pho, nên chuyện của nhị tiểu thơ
không ai hay biết, ấy cũng là trời đất khiến xui, nên mới gặp cơ hội may như vầy.
.
.

.
.
Sáng sớm ai nấy đều thức dậy, có một mình Úc Thoại còn ngủ mê man vì bị Cao Quân Bội đánh một
roi, đau nhức chỗ vết rên siết nằm hoài. Úc Sanh Hương vào thăm cha mà Úc Thoại dậy không nổi.
Tiêu Hóa Long cũng lại xem trong mình nguyên tại chứng chi? Úc Thoại nằm mà đáp:
- Tôi sẵn bị thương, nay lại uống rượu nhiều nên phát bệnh, giờ phải uống thuốc một bữa thì mạnh,
nhắm chẳng hề chi, ngặt một điều, đi giải Tống tướng không đặng. . .
Tiêu Dẫn Phụng thừa dịp thưa:
- Xin bác đừng lo việc ấy, chị em tôi sức chẳng thua ai, xin lãnh phần giải tội cho, còn bác ở đây mà
dưỡng bệnh, cha tôi ở nhà mà lo thuốc rước thầy, chắc chị em tôi đi lo kham mọi việc.
Tiêu Hoá Long cũng khen phải và nói:
Anh hãy ở đây dưỡng bệnh chừng thuốc thang lành bệnh sẽ về.
Úc Thoại bằng lòng và dặn:
- Đi giải giặc chứ không phải tù thường phải cẩn thận cho lắm!
Úc Sanh Hương thưa:
- Xin cha an lòng dưỡng bệnh, việc này con biết đề phòng không sao.
Tiểu Dẫn Phụng thưa:
- Con gái lộn với con trai lấy làm khó lắm, tôi có hai trăm nữ binh, tập luyện nhuần nhã. Chị Sanh
Hương cũng có hai trăm nữ binh, võ nghệ tinh thông, sức một đứa cự nổi một trăm, ôi giải bấy nhiêu
cũng đủ. Bởi vì mình ở trong địa phận đất mình nhắm không đến nỗi nào.
Tiêu Hoá Long và Úc Thoại đều bằng lòng.
Hai nàng mừng rỡ đồng thay quần áo con trai, đội kim khôi, mang thiếp giáp, kéo nữ binh đi giải
Tống tướng.
Đi một hồi ra khỏi ải, cả bọn nhắm Thọ Châu thẳng tới. Khi đã đỏ đèn đã ghé vào quán, xảy thấy sau
lưng có một đội nhơn mã rượt theo, hai nàng kinh hãi:
- Có khi đã lộ việc rồi nên có binh gia theo bắt!
A Hoàn trở lại thám thính, giây phút về báo:
- Xin tiểu thơ đừng lo sợ, ấy là đạo binh của Ngại Ngân Bình.
Cao Quân Bội nghe báo hỏi thăm:
- Nữ tướng ấy là người ở đâu vậy?
Úc Sanh Hương nói:
- Nàng ấy là con gái Ngại Vạn Thanh, cũng là người bổn quốc, là học trò Kim Quan Thánh Mẫu,
nàng ấy tên Ngại Ngân Bình, tuy vẫn khác họ tình quá ruột rà, nay không biết đi chuyện chi mà cũng
kéo binh vào quán. Xin hai vị công tử ẩn mặt đằng sau, đặng tôi mời nàng ấy đến đây hỏi thăm cho
biết.
Hai anh em nghe nói, liền ẩn mặt phía sau. Úc Sanh Hương sai a hoàn mời Ngại tiểu thơ, Ngại Ngân
.
.

.
.
Bình nghe mời liền đi qua. Hai nàng chào mừng đàm đạo tỏ nỗi hàn huyên song giấu một điều là đầu
Tống, cứ nói đi giải tội mà thôi còn Ngại Ngân Bình cũng nói đi giải Phùng Mậu. Nói chuyện giây
lâu, Ngại Ngân Bình liền kiếu về phòng cơm nước.
Còn Cao Quân Bội và Trịnh Ấn lóng tai nghe rõ mọi điều, liền năn nỉ với hai nàng, cậy nói với Ngại
Ngân Bình xin tha phùng Mậu, vì người ấy là anh em với mình, sau thấy hai công tử cầu khẩn hết
lòng, vị tình phải chịu, song không dám kể chắc, chừng nào nói đặng sẽ hay.
Hai người ra sau ẩn mặt, Tiêu Dẫn Phụng sai thế nữ mời Ngại tiểu thơ trở qua nói chuyện.
Ngại Ngân Bình vừa mới ăn cơm tối, thấy a hoàn qua nói tiểu thơ mời thì Ngại Ngân Bình qua và
hỏi:
- Chẳng hay chị mời tôi qua đây có chuyện chi?
Tiêu Dẫn Phụng nói:
- Lâu nay gặp hiền muội, không ngờ tình cờ hội ngộ giữa đàng, nên mời qua nói chuyện cho phỉ tình,
kẻo chị Sanh Hương cũng ao ước, chớ thiệt tình không có chuyện chi.
Ngại Ngân Bình đáp:
- Tôi đội ơn hai chị có tình thương tưởng.
Rồi cùng nhau ngồi nói chuyện, uống rượu tới canh ba.
Tiêu Dẫn Phụng bưng chén rượu đầy, hai tay đưa cho Ngại Ngân Bình và nói:
Hiền muội hãy uống rượu mừng này cho cạn.
Ngại Ngân Bình cười chúm chím rồi hỏi:
- Tôi có chuyện chi mà mừng?
Tiêu Dẫn Phụng nói:
- Hiền muội bắt đặng Tống tướng, ngày mai dẫn đến trào Đường mà lãnh công thì chắc là lệnh tôn
công và hiền muội đặng trọng thưởng, cho nên tôi phải dâng chén rượu mừng.
Ngại Ngân Bình nói:
- Tôi nghe nói hai chị cũng bắt được hai Tống tướng, cũng đi giải như nhau, vậy thì ba chị em đều có
một công hết mà mừng một mình tôi sao phải?
Nói rồi cùng rót rượu dâng lại, cùng nhau chén tạc chén thù và đàm đạo cho tới canh tư.
Tiêu Dẫn Phụng nói:
- Mai ba chị em ta đi một lượt với nhau cho có bạn.
Ngại Ngân Bình sợ lậu tiếng, liền đáp lại:
- Tôi còn đợi cha tôi đi cùng, hai chị đi trước, nếu đợi tôi thì trễ ngày giờ, lúc về thì tôi sẽ ghé thăm
hai chị.
Tiêu Dẫn Phụng nghe nói nghĩ thầm:
- Ngại Ngân Bình bắt được tướng Tống, sao còn do dự đợi cha làm cho chắc là có ý gì đây.
.
.

.
Nghĩ rồi hỏi thử.
- Tôi muốn bày tỏ đôi lời, chỉ sợ hiền muội tiết lộ thì khó lòng.
Ngại Ngân bình nói:
.
- Ba chị em mình, đồng lòng kết nghĩa, lẽ nào dám tiết lộ những chuyện riêng, dù quan trọng đến đâu
chị cứ nói chẳng hề gì.
Tiêu Dẫn Phụng lấn cấn mãi không chịu nói. Ngại Ngân Bình hỏi:
- Chị nghi bụng tôi như vậy mà bấy lâu nay tôi lại tin lòng chị. Như vậy uổng biết chừng nào?
Úc Sanh Hương khuyên giải:
- Ngại hiền muội là người trung tín, chẳng phải như kẻ khác mà hồ nghi.
Tiêu Dẫn Phụng sai con đòi thân tín ra ngoài xem có ai nghe lén không, rồi mới dám nói:
- Tôi mời hiền muội qua đây, mục đích là bày tỏ việc này: Tôi nghe đồn Phùng Mậu là học trò giỏi
của Huỳnh Thạch Công, phò Tống được phong vương, nay lại về tay hiền muội, ấy là trời định lương
duyên, sao hiền muội chẳng giao kết làm vợ chồng, lại đi nạp làm chi vậy. Nhà Tống đang thịnh trị,
còn Nam Đường thì khí số mỏng manh, mình lánh nạn cứu cha là tốt, biết cơ trời thì mới hiển vinh,
chỉ sợ hiền muội được ngọc mà bỏ đi, đến sau ăn năn không kịp. Hiền muội hãy suy đi nghĩ lại cho
kỹ.
Ngại Ngân Bình nghe nói trúng ý, nên thẹn đỏ mặt, ngồi ngẫm nghĩ một lúc rồi đáp:
- Chị khuyên em cũng phải.Vậy hai chị bắt được hai tướng Tống sao lại không kết duyên?
Tiêu Dẫn Phụng không biết nói sao, ngồi cười chúm chím bị Ngại Ngân Bình hỏi thét, túng quá phải
nói:
- Ba chị em ta như thể ruột rà, lẽ nào dám giấu. Hai chị em tôi cũng tính việc đó mà tìm mưu đặng
theo về Tống.
Ngại Ngân Bình nghe Tiêu Dẫn Phụng nói thì biết ý, đáp:
- Tôi cũng có ý đó, song không dám cãi lệnh mẹ cha.
Úc Sanh Hương nói:
- Gặp biến phải tùng quyền, hễ là quân bất minh, thần đầu tha quốc.
Ngại Ngân Bình nói:
- Hai chị thật là người thấy xa hiểu rộng.
Tiêu Dẫn Phụng nói:
- Thật tình hai chị em tôi đã biển hẹn non thề, thuận lòng trút bỏ chỗ tối theo về chỗ sáng, cùng nhau
đầu Tống lập công, sau vinh hiển một nhà.
Ngại Ngân Bình nghe Tiêu Dẫn Phụng tỏ hết tâm tình, liền đáp:
- Cảm ơn hai chị, phần em cũng đã thề nguyền hôm trước rồi.
Mọi điều tâm sự đã được bày tỏ, song Ngại Ngân Bình chỉ giấu có một điều là Phùng Mậu đã làm
.
.

.
hỗn mà thôi. Úc Sanh Hương vỗ tay cười nói:
- Ý chúng ta đã một lòng, hễ là người trí thì sớm gặp nhau.
Nói rồi hai nàng lật đật vào thuật chuyện lại cho hai tướng hay:
.
- Hai chị em tôi nói với Ngại Ngân Bình và mọi việc đã xếp đặt xong, vậy xin hai chàng cùng ra
ngoài đặng thỉnh Phùng Mậu qua cho gặp mặt.
Hai anh em nghe nói công việc đã tính xong, cùng nhau mừng rỡ bước ra. Tiêu Dẫn Phụng nhờ Ngại
Ngân Bình về mời Phùng Mậu đến để gặp mặt nhau, kẻo hai chàng còn nghi ngại. ngại Ngân Bình về
thuật chuyện với Phùng Mậu rồi cùng Phùng Mậu đến gặp mặt.
Ba anh em gặp nhau mừng rỡ, thuật chuyện cho nhau nghe:
- Chẳng qua việc này là thiên số, lời Quân sư đã đoán trước chẳng sai.
Sau đó ba anh em mở tiệc chuyện trò, còn ba chị em cũng đàm đạo với nhau suốt đêm không ngủ.
***
Lời Bàn
Trong mọi sinh vật, cái gì bị tiêu diệt thì cũng có mầm sống vươn lên.
Chiến trận xảy ra liên miên, người chết ngã gục không kể hết, đó là một thảm họa. Nhưng trong mầm
họa ấy sẽ nảy ra những chồi xanh, những cặp hôn nhân cũng luôn luôn được nảy nở như các chàng
trai nước Tống, lại kết duyên với các cô gái nước Đường. Như vậy, trong hủy diệt có phát sinh. Đó là
lẽ tuần hoàn của tạo hóa cấu tạo quy luật sanh diệt trong con người. Ở đây tác giả đã đưa quan niệm
ấy để diễn tả luật sanh tồn của vũ trụ một cách tự nhiên, theo quan niệm triết học Đông phương, phải
giới thiệu cho người đời thấy luôn luôn trong cái buồn có cái vui, trong nước mắt có nụ cười, trong
hủy diệt có sự sống.
Cuộc sống con người sở dĩ tồn tại là do luật sanh tồn của thiên nhiên, mà quy luật ấy vẫn là muôn
thuở.
.
.
.
Hồi Thứ Hai Mươi
Cao, Phùng, Trịnh, vâng chỉ thành hôn,
Nghiệp, Duyên, Hoa cướp dinh phá giặc.
Sáng hôm sau, cơm nước xong ba người đồng đi một đường, bất luận ngày đêm trở về thành Thọ
.
.

.
Châu.
Khi đến nơi, ba tướng vào tâu tự sự cho Tống Thái Tổ hay, và thú tội rằng:
- Vì muốn hoàn thiện công việc nên phải quyền biến.
Tống Thái Tổ phán:
.
- Nhân duyên ba người chẳng khác với Cao Quân Bảo với Lưu Kim Đính trước đây, trẫm không làm
tội mà lại cho phụng chỉ kết hôn.
Nói rồi, truyền chỉ cho ba vị nữ anh hùng vào ra mắt.
Ba nàng được lệnh rất mừng, liền vào tung hô vạn tuế. Tống Thái Tổ phong cho ba nàng nhất phẩm
phu nhân, và bày tiệc đuốc hoa cho ba tướng thành hôn. Ba vợ chồng đồng bái lạy tạ ơn.
Tống Thái Tổ phán:
- Tướng ngũ âm nay đã đủ bốn, chỉ còn thiếu một nàng, song trận trước mình hao binh quá nhiều,
nay phải qua Sơn Hậu mượn thêm binh mới phá Nam Đường nổi.
Cao Quân Bội bước ra lãnh lệnh đi viện binh.
Tống Thái Tổ chấp thuận, vì biết rằng Cao Quân Bội tuy nhỏ tuổi song trí vẫn có thừa.
Cao Quân Bội đi tới Thạch Châu, liền kêu quân vào phi báo.
Dương Nghiệp nghe Tống Thái Tổ sai người tới trại, liền ra nghênh tiếp thấy Cao Quân Bội hỏi thăm
mọi việc.
Cao Quân Bội bày tỏ sự tình, Dương Nghiệp nói:
- Nay cháu đường xa đến đây chẳng hay có việc chi?
Cao Quân Bội thưa:
- Nay Thái Tổ bị vây tại Thọ Châu, sai cháu đến mượn năm vạn binh để phá Nam Đường, ngặt
đường sá xa xôi, nên khó đem theo lễ vật.
Dương Nghiệp nói:
- Xưa cha ngươi làm quan binh Tống, nay ngươi cũng phò Tống mà đặng hiển vinh, bởi Nam Đường
không chịu phục tùng nên tranh đua với Tống, lẽ thì sẽ sai người đến trợ chiến mà phá Nam Đường
cần gì phải có lễ vật mới giúp sức.
Cao Quân Bội thưa:
- Chúa tôi có dặn phải năn nỉ hết lời, để xin binh cầu cứu.
Dương Nghiệp dọn tiệc đãi đằng, cả nhà ăn uống. Đêm ấy Cao Quân Bội chuyện vãn rồi nghỉ ngơi.
Hôm sau, Dương Nghiệp và vợ là Dư Thái Hoa cùng cháu trai lớn là Diêm Bình đem năm vạn quân
qua Thọ Châu ứng tiếp.
Cao Quân Bội tạ ơn rồi đi trước dẫn lộ, ngày đi đêm nghỉ chẳng bao lâu đã tới Thọ Châu.
Tống Thái Tổ nghe tin liền truyền bá quan văn võ ra nghênh tiếp. Dương Nghiệp kéo binh vào thành
ra mắt Tống Thái Tổ và tâu:
.
.

.
.
- Tôi muốn về Biên Kinh mà phò chúa, gặp cha tôi tuổi tác đã già, không lẽ bỏ mà đi cho đành.
Tống Thái Tổ phán:
- Lệnh tôn xưa kia từng trải việc chiến binh nay còn sức khỏe, thật là phước tường, nay chốc đã
ngoài chín mươi.
Dương Nghiệp tâu:
- Cha tôi năm nay chín mươi tuổi, mà không bệnh chi cho lắm.
Tống Thải Tổ truyền lệnh dọn tiệc đãi đằng vợ chồng Dương Nghiệp rất long trọng.
Bấy giờ, tại Thọ Châu trước đã có Lưu Kim Đính, Trịnh Ấn, Phùng Mậu, là những tướng có phép
tiên, nay lại được thêm ba nàng thần thông quảng đại nữa là Ngại Ngân Bình, Tiêu Dẫn Phụng, và
Úc Sanh Hương mười phần thanh thế. Tống Thái Tổ thấy đã có thêm vây cánh, nhắm dẹp Nam
Đường chẳng khó, liền truyền lệnh dẫn binh đi khiêu chiến.
Bấy giờ về phía Nam Đường thấy binh Tống treo miễn chiến bài đã hơn mười bữa, nay lại thấy đem
binh khiêu chiến, liền thỉnh Quân sư luận bàn kế sách.
Dư Hồng tâu :
- Để tôi ra trận xem sao?
Nói rồi cưỡi cọp phát pháo khai thành, nhưng lại nghĩ thầm:
- Trước đây mình dùng phép gì cũng bị Kim Đính phá hết, sau đó dùng Phong hỏa phiến quạt Phùng
Mậu, té ra quạt ấy cũng hết linh.
Nghĩ chừng nào càng giận chừng ấy, nên vừa cưỡi cọp ra thấy Phùng Mậu liền thét lớn:
- Thằng lùn! Mày là tên trộm cắp, vua Tống dùng mày không biết xấu, vậy nay hãy trả gươm và sách
lại thì ta bỏ qua, nếu trái lời thì ta về thỉnh lão tổ xuống đây, bắt ngươi lóc từng miếng thịt.
Phùng Mậu cười lớn nói:
- Dư Hồng! Ngươi muốn ta trả gươm và sách cũng chẳng khó gì, hãy về bảo vua Nam Đường hàng
đầu thì ta trả lại, nếu không nghe lời thì ta lấy đầu ngươi, chẳng những là gươm sách mà thôi.
Dư Hồng nổi giận đập Phùng Mậu một gậy, Phùng Mậu dùng cặp thước đánh Dư Hồng đỡ không
kịp, nên Dư Hồng bị trúng một cây thước đau quá té xuống lưng cọp, tức thì binh Tống bắt trói.
Bởi đau quá nên Dư Hồng độn thổ không kịp. Lưu Kim Dính sợ Dư Hồng biến hoá liền bước tới đưa
cho Phùng Mậu một lá bùa bảo cài lên mão của Dư Hồng rồi truyền lệnh thâu quân trở về Các tướng
thấy bắt được Dư Hồng ai nấy đều vui mừng.
Phùng Mậu dẫn Dư Hồng yêu đạo vào thành, quan thấy yêu đạo trợn mắt nghiến răng đều ghê sợ.
Phùng Mậu biết ý tâu với vua Thái Tổ rằng?
Lúc xuống núi thầy tôi có dặn chẳng nên giết Dư Hồng, nếu giết nó thì thầy nó là Xích Mi lão tổ nổi
giận xuống đây, e bệ hạ không còn xã tắc. Xin bệ hạ hãy tha cho nó trở về, may ra nó biết ăn năn mà
khuyên vua Đường đầu hàng nước Tống.
.
.

.
.
Nếu nó còn cự địch thì lần sau bắt được sẽ giết đi, thì nó không còn chỗ nào oán trách.
Tống Thái Tổ nghe Phùng Mậu xin tha cho Dư Hồng thì nghĩ thầm:
- Ta cũng từng nghe danh ông Xích Mi lão tổ là thần thông quảng đại, kẻ nào dám giết học trò của
ông ấy mà gây thù oán.
Vả lại binh tướng Tống đã đông, lại nhiều người có tài phép, nhắm tha Dư Hồng cũng không nổi gì.
Nghĩ rồi truyền dẫn Dư Hồng đến.
Cao Hoài Đức nghe Thái Tổ muốn tha Dư Hồng, liền quỳ tâu:
- Vua Nam Đường cậy có Dư Hồng mới dám cự Tống. Nay đã bắt được nó, xin bệ hạ giết đi.
Tống Thái Tổ chỉ mặt Dư Hồng nói:
- Yêu đạo to gan? Dám nghịch mạng trời, hại binh tướng tử trận quá nhiều. Nay đã bị bắt rồi tội đáng
phanh thây xẻ thịt. Trẫm nay vị tình Xích Mi lão tổ dung cho ngươi đặng toàn thân, song phải mau
về bảo Lý Cảnh đầu hàng, kẻo muôn dân đồ thán. Nếu ngươi không y lời dặn, ta bắt được một lần
nữa, thì chặt đầu chẳng tha.
Phán rồi, Thái Tổ truyền mở trói cho Dư Hồng mà thả về.
Lúc này vua Nam Đường nghe tin Dư Hồng bị bắt thì chắc là không thể toàn mạng, nên lo bề bỏ khí
giới đầu hàng để cho nhân dân lạc nghiệp.
Bỗng thấy Dư Hồng về thành, nửa mừng nửa sợ, phán nói:
- Quân sư đã bị bắt, vì sao trở về được?
Dư Hồng thấy vua Đường trọng đãi mình, nên hổ thẹn, sợ nói thiệt thì mất thể diện, nên kiếm cớ nói:
- Tống triều làm chi tôi được, vừa bắt vào thành tôi độn thổ bỏ đi, làm cho chúng nó thất kinh.
Vua Nam Đường mở tiệc, giải lao, lo bề cố thủ.
Dư Hồng vốn có tánh háo thắng, lại có tài nói dối, nên vua Nam Đường không hay việc Tống Thái
Tổ rộng lượng thả về, nên đã không biết ơn, lại còn tìm mưu đánh Tống.
Cách mấy hôm, Tống Thái Tổ không thấy Nam Đường dâng hàng thơ liền sai Phùng Mậu đi vấn tội.
Phùng Mậu đem quân đến khiêu chiến. Dư Hồng túng phải ra trận.
Phùng Mậu trông thấy Dư Hồng cười lớn:
- Hôm trước ngươi bị ta đập một thước nhào xuống đất, ta bắt trói đem vào thành, thiếu chút nữa cái
đầu đã rụng. Nhờ ơn chúa ta rộng lượng tha cho về. Chẳng ngờ ngươi khỏi chết lại làm thinh, không
khuyên vua Đường dâng hàng biểu, nếu nay ta bắt được ngươi, thì không thể tha được nữa.
Dư Hồng bị Phùng Mậu mắng trước ba quân, hổ thẹn xông tới đánh cho đỡ xấu.
Vừa giao tranh được ít hiệp, Dư Hồng như chim bị ná, giật mình bỏ chạy. Phùng Mậu quyết bắt Dư
Hồng, không ngờ Dư Hồng đã chạy mất, cực chẳng đã phải thu quân về trại.
Dư Hồng chạy được một lúc, nghĩ thầm:
- Các phép hay đều bị Phùng Mậu lấy cắp, còn các phép khác thì trị không nổi thằng lùn. Ta cũng
.
.

.
.
muốn về non cho rảnh, ngặt vì oán cừu chưa trả, pháp thuật không còn. Thì ăn năn đã muộn.
Bỗng sực nhớ lại có bạn đồng song là Dư Triệu, nguyên trước là con quạ thành tinh, tu luyện ngàn
năm, thần thông quảng đại, chi bằng thỉnh Dư Triệu xuống giúp mình thì xong việc.
Nghĩ rồi, Dư Hồng đằng vân bay qua động Hoả Long.
Đến nơi được Dư Triệu ra nghênh tiếp. Hai người dắt tay vào động. Dư Triệu chê Dư Hồng vì ham
muốn công danh phú quý nên lận đận lao đao.
Dư Hồng nói:
- Nếu biết trước sự việc khó khăn này, tôi đã không vâng lời sư phụ .
Dư Triệu nói :
- Tôi nghe đạo huynh làm Quân sư cho Đường chúa,chắc là sung sướng lắm.
Dư Hồng bèn thuật hết mọi việc.
Dư Triệu nói:
- Nếu nước Tống có nhiều người tài phép như vậy, thì đạo hữu cũng nên lui về núi, ham mê làm chi
cõi hồng trần cho mang nhục, lại mất cả bửu bối. Vả lại, đạo hữu phạm tội sát sanh nhiều lắm, vì
hôm trước thầy có truyền lệnh cho tôi xuống bắt đạo huynh về, song vì tình nghĩa bạn bè cùng học
một trường, nên xin thầy hoãn lại ít hôm, chắc nay mai cũng có lệnh thúc tôi đi bắt đạo huynh nữa .
Dư Hồng nói:
- Như vậy thầy mình nói lôi thôi lắm. Trước đây thầy sai xuống phò Đường đánh Tống, không ngờ
bà Lê Sơn Thánh Mẫu sai học trò là Lưu Kim Đính xuống phá Đường. Trần Đoàn lão tổ ở núi Hoa
Sơn lại sai Trịnh Ấn xuống trợ Tống nữa. Còn Huỳnh Hoa Sơn, Huỳnh Thạch Công cũng sai Phùng
Mậu xuống đánh tôi. Bởi chúng nó đông quá, một mình tôi thiếu sức, không cự nổi. Nay thầy không
giận chúng nó lại bắt học trò về. Thật là chúng nó có thầy còn anh em mình không ai binh vực. Thôi,
tôi về núi cho thầy hành tội, dẫu kẻ có lòng thành cũng không dám theo thầy mà tu nữa.
Nói rồi, Dư Hồng làm bộ hờn tủi, đứng dậy giã từ.
Thực ra Xích Mi lão tổ không có sai Dư Triệu bắt Dư Hồng về chỉ vì Dư Triệu đặt điều mà hỏi Dư
Hồng cho rõ.
Bấy giờ Dư Triệu nắm tay Dư Hồng, nói:
- Đạo quân khoan đi đã ! Lẽ nào Phùng Mậu dám khi dễ chúng ta như vậy? Hay là đạo quân đã phán
đoán sai.
Dư Hồng trợn mắt nói lớn:
- Đừng có nói nhiều lời. Thầy đã chịu nhục thì chúng ta đành bỏ mạng. Không nghĩ lại bạn hữu là
bạn đồng song, nên nói cho hay trước mà giữ mình, nếu để nước dâng tới, nhảy sao cho kịp. Thôi tôi
về núi mà chịu tội.
Dư Triệu nghe Dư Hồng nói nổi giận:
.
.

.
- Quả chúng nó khinh chúng ta như vậy sao?
Dư Hồng nói:
- Tôi không hề nói dối. Đạo hữu không tin thì cứ dò hỏi ở nơi khác.
Dư Triệu nổi nóng hét:
- Nếu quả như vậy thì chúng nó là cừu địch với anh em mình.
.
Anh đừng về núi làm chi, để tôi xuống ra mắt vua Đường mà trừ chúng nó, kẻo ngày sau man khốn.
Dư Hồng biết ý Dư Triệu đã quyết, nên nói khích:
- Ta đã chịu ơn Đường chúa hậu đãi, phải có lệnh thầy sai khiến, dầu mệt nhọc hay sống chết cũng
không phiền. Còn sư đệ đã gần thành tiên lẽ nào xuống cõi hồng trần cho mang khổ. Huống chi
Phùng Mậu, Trịnh Ấn, Lưu Kim Đính, đều là những tên có pháp thuật cao cường, nếu xuống mà
không nên việc e chúng nó chê cười.
Dư Triệu nói:
- Thầy nó hay, thầy mình cũng không dở, chúng nó dù giỏi chúng ta cũng chẳng thua, lẽ nào chịu hổ
mặt. Em quyết trổ tài chúng nó được biết tài cao hay thấp; dù không thành chánh quả cũng được.
Dư Hồng nghe nói mừng thầm. Còn Dư Triệu thu nhặt các bửu pháp đem theo, rồi dặn học trò giữ
động. Hai anh em đồng đằng vân xuống Thọ Châu.
Đến nơi, Dư Hồng vào trước, tâu với vua Đường:
- Bần đạo một mình khó cự với số đông, nay bần đạo đã thỉnh được một đạo hữu đồng song, người
ấy tài phép vô cùng, chắc là dẹp nổi binh Tống, xin bệ hạ truyền cho bá quan ra nghênh tiếp, cho rõ ý
cầu hiền.
Vua Nam Đường mừng rỡ, truyền các quan ra ngoài thành.
Dư Triệu vào bái yết, vua Nam Đường bước xuống ngai phán:
- Xin thượng tiên ngồi cùng trẫm thương nghị việc đánh Tống.
***
Lời Bàn.
Khích tướng là kế sách của xưa dùng làm cho lòng tự ái của người khác phải tùng phục chủ
trương của mình.
Dư Triệu là bạn của Dư Hồng, đã biết Dư Hồng làm trái ý trời phạm tội sát sinh, lại không thắng nổi
kẻ địch, có ý khuyên Dư Hồng về núi để tránh tai nạn, thế mà Dư Hồng khích lệ, làm cho Dư Triệu
quên hết những gian nan nguy hiểm có thể xảy đến cho bản thân, tình nguyện dấn thân vào con
đường nguy hiểm. Như vậy, trước khi nghe lời khích lệ của Dư Hồng thì Dư Triệu bình tỉnh và sáng
suốt, còn sau lời khích lệ của Dư Hồng, thì Dư Triệu đã bị mù quáng, không còn biết suy tính lợi hại.
Bởi vậy lời khích lệ là một liều thuốc độc, làm cho con người vì tự cao tự phụ mất cả lương tri.
.
.

.
.
Trong con người, tính tự cao tự phụ là nguồn gốc giúp cho kẻ lợi dụng sai khiến mình, mà mình
không biết cho đó là chuyện tình nguyện đảm đương.
.
.
.
Hồi Thứ Hai Mươi Mốt
 Dư Hồng bại trận cầu đạo hữu
Dư Triệu nghe lầm quyết hạ sơn
Vua Nam Đường thấy Dư Triệu mới đến, chưa biết tài năng ra sao, nên bàn với Dư Hồng nên để Dư
Triệu đem binh đánh một trận cho biết thấp cao.
Dư Triệu cũng muốn trổ tài một trận cho ba quân thấy mặt nên vội vàng kéo binh ra trại, kéo đến
thành Thọ Châu khiêu chiến.
Quân thám thính vào báo lại với Lưu Kim Đính, nhưng lúc này nàng còn đang chưa khỏe.
Phùng Mậu xin ra trận. Vua Thái Tổ nói:
- Đã bảy hôm nay, binh Đường không ra trận, nay lại khiêu chiến, chắc là yêu đạo có lập kế chi đây.
Nếu Phùng Mậu ra quân một mình e bất lợi.
Ngại Ngân Bình thấy chồng mình xin ra trận, liền quì tâu:
- Thiếp xin theo trợ chiến.
Tống Thái Tổ y lời. Hai vợ chồng Phùng Mậu lập tức kéo binh ra.
Dư Triệu đang khiêu chiến, xảy thấy một viên nữ tướng dung nhan như ngọc, cưỡi ngựa mặc áo giáp
vàng, ngỡ là Lưu Kim Đính nên quyết báo cừu, liền hét lớn:
- Con tiện tỳ kia có phải là Lưu Kim Đính đó không?
Ngại Ngân Bình chưa kịp trả lời thì Phùng Mậu đã lướt đến thấy không phải Dư Hồng, liền nói:
- Cần gì phải Lưu Kim Đính mới trừ nổi bọn yêu đạo hay sao, nội hai vợ chồng ta cũng đủ lấy thủ
cấp của các ngươi mà.
Dư Triệu nghe nói ngó lên thấy một thằng con nít lùn tịt cỡi con quạ thì tức cười, nói lớn:
- Vợ chồng bay thật xứng đôi. Liền chi lời tục nói: Không nên chồng cũng thành chị em. Lấy đó mà
suy nghĩ thì biết Tống triều không làm nên đại sự. Nhắm sức các ngươi gãi không đã ngứa, thì còn
trông gì đến việc chiến tranh.
Phùng Mậu nghe nói nổi giận, mắng:
.
.

.
.
- Ngươi bất quá là một con súc vật hóa hình người, dù có tu luyện đến đâu thì cũng chỉ là một con
thú vật mà thôi, sao dám khi dễ chúng ta?
Nói rồi vung thước đánh liền. Dư Triệu vung kiếm đánh lại.
Hai người đánh với nhau cầm chừng. Ngại Ngân Bình xông vào đánh quân Đường rối loạn. Dư Triệu
thấy vậy, niệm chú rồi cầm gương chỉ về phương Nam, tức thì lửa cháy rần rần, binh Tống bị lửa
đốt, khói bay khét lẹt. Phùng Mậu thất kinh đang thắng lại bị lửa phải lui về. Xảy thấy Dư Triệu cầm
gươm chỉ vào mình, làm cho lửa áp vào tận mặt, Phùng Mậu vội vã giục quạ bay luôn.
Còn Ngại Ngân Bình thấy lửa cháy tưởng là chồng mình bị cháy thiêu, liền quăng dây Khốn tiên lên
mà trói Dư Triệu, chẳng ngờ Dư Triệu cầm gươm chỉ vào Khổn tiên sách làm cho dây Khổn tiên bị
cháy rụi.
Ngại Ngân Bình kinh hãi, thâu quân vào thành tâu lại với vua Thái Tổ:
- Chúng tôi đang thắng trận, bị yêu đạo hóa lửa đốt binh không biết chồng tôi sống chết thế nào, cả
dây Khổn tiên cũng bị lửa đốt, nên phải chịu thua.
Tống Thái Tổ nghe nói buồn bực. Nhưng chỉ chốc lát đã thấy Phùng Mậu cưỡi quạ trở về, nhìn thấy
mặt vợ bị cháy nám thì nổi giận xin vua ra đánh nữa.
Vua Thái Tổ chẳng dám y tấu, truyền các tướng giữ bốn cửa thành cho nghiêm ngặt, chờ cho Lưu
Kim Đính lành bệnh sẽ hay.
Bấy giờ Dư Triệu đắc thắng trở về hết lời khoe khoang, chúa tôi vua Đường dọn tiệc đãi đằng rất nên
trọng hậu.
Dư Hồng khen: :
- Phùng Mậu là thằng ăn trộm, làm cho tôi mất hết bửu bối, may nhờ có sư đệ đến đây, đốt cho một
trận phỏng mình, thật đáng đời tên xảo quyệt đó.
Hôm sau Dư Hồng cậy có Dư Triệu, đồng dẫn quân đến thành khiêu chiến, mắng nhiếc bao nhiêu
bên Tống cũng bế thành, không ra đối địch.
Liền mấy hôm, trong thành đều treo miễn chiến bài. Hai anh em Dư Hồng đốc quân phá thành nhưng
vẫn không làm gì nổi.
Ngày kia, hai anh em đang khiêu chiến thì Trịnh Ấn nổi xung, tâu với vua xin ra ứng chiến.
Vua Thái Tổ phán:
- Vợ chồng Phùng Mậu pháp thuật cao cường, không thua gì ngự điệt, mà còn bại trận cả hai. Vì yêu
đạo có phép hóa lửa, ngự điệt không nên ỷ mình mà hy sinh.
Tiêu Dẫn Phụng tâu:
- Trị lửa ấy không khó, chỉ cần lấy máu chó và máu ngựa ném vào thì phép ấy không còn linh
nghiệm.
Tống Thái Tổ nghe nói có lý liền phán:
.
.

.
- Như vậy thì hai vợ chồng khanh ra trận thử một phen.
.
Tiêu Dẫn Phụng truyền quân lấy máu chó, máu ngựa bôi vào tên, chờ lửa cháy thì bắn ra, rồi ném vật
ô uế vào.
Dặn xong, hai vợ chồng kéo binh ra trận, thấy Dư Triệu đang khiêu chíến còn Dư Hồng lượt trận
theo sau. Dư Triệu thấy mặt Trịnh Ấn thì nổi giận mắng:
- Trịnh Ấn! Ngươi là người hay thú vật mà chẳng biết ơn nghĩa vậy? Anh em ta vì việc cha ngươi bị
giết oan, không nài gian khổ đến đây rửa hận cho cha ngươi phạt Tống. Tại sao ngươi không lấy đó
làm ơn, lại phò Tống đánh lại chúng ta? Vả lại sức ngươi là con nít, hãy vào kêu Phùng Mậu và Lưu
Kim Đính ra đây đặng ta trừ luôn một thể, rồi ta trở về núi tu hành.
Trịnh Ấn nói:
- Cha Trịnh Ấn tuy thác oan, nhưng làm tôi không thể thù vua. Tại các ngươi muốn đánh Tống giúp
Đường bày trò nói khích. Ngươi đã làm điều trái nghịch, tàn sát quân binh, nghĩ nên trở về tu hành
mới mong thành chánh quả, nếu còn nấn ná ở đây e uổng công tu luyện.
Dư Triệu nghe nói nổi giận vung kiếm chém liền. Hai bên đánh nhau ít hiệp, Dư Triệu cầm gươm chỉ
về hướng Nam thì lửa cháy rần rần. Tiêu Dẫn Phụng truyền quan bắn tên máu vào, và lấy máu chó,
máu ngựa tạt tới thì lửa bỗng tắt hết. Trịnh Ấn lập tức rút Đả thần tiên ném lên, đánh nhằm Dư Triệu
té xuống Trịnh Ấn vội nhảy tới muốn chém Dư Triệu, không ngờ Dư Triệu độn thổ đi mất.
Giây lát, Dư Triệu lại từ dưới đất chui lên nạt lớn:
- Ngươi đánh ta một roi đau quá, không lẽ nhịn thua.
Nói rồi phun lửa tam muội ra đốt binh Tống chết thiêu vô số Tiêu Dẫn Phụng truyền bắn tên máu
vào, lửa vẫn không tắt.
Vợ chồng Trịnh Ấn kinh hãi, thâu binh vào thành bại tẩu.
Tống Thái Tổ nghe tin càng hối hận, không dám cho tướng nào ra trận nữa .
Còn Lưu Kim Đính từ ngày ra trận đánh với Dư Hồng cho đến nay vẫn chưa thật mạnh. Cao Quân
Bảo thấy vợ chưa bình phục, còn Dư Hồng thì viện thêm Dư Triệu đến, ngày nào cũng khiêu chiến
mãi, nên Cao Quân Bảo lo lắng, buồn bã không nguôi.
Lưu Kim Đính hiểu ý, nói:
- Hay là chàng buồn việc binh, xin cho thiếp ra trận để trừ bọn yêu đạo.
Cao Quân Bảo nói:
- Hiện nay Dư Hồng rủ được người bạn đồng song là Dư Triệu đến giúp sức. Dư Triệu thần thông
quảng đại, dùng phép đốt cháy vợ chồng Phùng Mậu và vợ chồng Trịnh Ấn, rồi ngày nào chúng nó
cũng đem binh khiêu chiến. Phần nàng chưa lành bệnh nên ta rất lo buồn.
Kim Đính nghe chồng nói, nổi giận xô gối ngồi dậy, quyết ra trận hơn thua. Cao Quân Bảo ngăn cản
vẫn không được.
.
.

.
.
Tống Thái Tổ hay tin cũng tỏ ý ngăn cản, nhưng thấy Lưu Kim Đính đã quyết lòng liền truyền các
nữ tướng đồng đi theo trợ chiến.
Khi ấy Dư phu nhân, Đào Tam Xuân, La phu nhân, Ngại Ngân Bình, Tiêu Dẫn Phụng, Úc Sanh
Hương đồng theo Kim Đính ra trận.
Hai bên chưa kịp xưng tên đã xông vào đánh nhau, Lưu Kim Đính được các nữ tướng trợ lực nên thế
mạnh vô cùng. Dư Triệu liền niệm thần chú hóa lửa rần rần. Lưu Kim Đính rút gươm chỉ một cái,
lửa tắt hết làm cho Dư Triệu thất kinh nghĩ thầm:
- Con nhỏ này thật là thần thông, phép tắc cao cường, hèn chi sư huynh ta bại trận nhiều phen cũng
phải.
Nghĩ rồi liền hét lớn:
- Ngươi phá được lửa tam muội của ta, vậy hãy xem gươm báu của ta đây.
Nói rồi Dư Triệu quăng bửu kiếm lên hóa ra muôn ngàn bửu kiếm bay xuống chém Kim Đính, ai nấy
trông thấy đều thất kinh.
Lời Bàn.
Lòng tự ái con người sinh ra mọi tật xấu, kể cả việc dối gạt, lừa phỉnh kẻ khác, cốt làm cho
thỏa mãn lòng mình.
Dư Hồng được Xích Mi lão tổ sai xuống núi để phạt vua Tống về tội giết trung thần, như vậy, nhiệm
vụ là chỉ làm cho vua Tống khổ cực mà hối cải, thế mà Dư Hồng ỷ tài tranh đua với tướng Tống, để
rồi thất bại mang nhiều tự ái.
Vì tự ái mà Dư Hồng dối gạt lừa phỉnh Dư Triệu, Dư Triệu vì tình cảm bạn bè mà sa vào tai họa.
Một lỗi lầm rất lớn, khi con người nặng lòng tự ái đã không kể đến tình nghĩa bạn bè. Trong cuộc
sống loài người cũng thế tình người chỉ được tôn trọng khi nó không bị lợi dụng để làm lợi cho kẻ
khác.
Dư Hồng biết việc Dư Triệu giúp mình là vào chỗ nguy khốn, nhưng vì lòng tự ái thắng cả tình bạn
bè, nên Dư Hồng đã hại mạng Dư Triệu.
.
.
.
Hồi Thứ Hai Mươi Hai
.
.

.
Đua phép báu, Kim Đính thắng Dư triệu.
Phá binh Đường Thái Tổ lấy Huy Châu.
.
Lưu Kim Đính lấy roi kim tiên quăng lên, cũng hoá ra muôn ngàn mà cự với bửu kiếm. Giây phút roi
kim tiên đánh bửu kiếm sa xuống. Dư Triệu kinh hãi thâu gươm, sợ kim tiên đánh mình, liền thiềm
thừ độn thổ. Lưu Kim Đính thấy binh Đường chạy vỡ, không nỡ đuổi theo, liền thâu binh trở lại.
Lưu Kim Đính thắng trận vào thành tâu hết các việc, Tống Thái Tổ khen:
- Cháu đương bệnh mà vì vua ra trận, đuổi yêu đạo bại tẩu, thiệt đáng phong Nhất phẩm phu nhơn.
Lưu Kim Đính tạ ơn, Cao Hoài Đức liền tâu:
- Phép binh thơ chẳng nên huởn giặc, phải thừa thắng mà phá dinh Đường: thì lấy thành Huy Châu
như nháy mắt.
Tống Thái Tổ bị vây đã lâu nên cũng rủn chí, muốn mau ban sư về viếng thăm Thái hậu nên y lời
Cao Hoài Đức, truyền lệnh cho binh tướng đồng hay.
Còn Dư Triệu bại tẩu về dinh thì trời đã gần tối. Vua Nam Đường hỏi Dư Triệu thắng bại thế nào?
Dư Triệu nói:
- Việc ấy rất dài, để vắng người sẽ thuật chuyện lại cho bệ hạ rõ.
Vua Nam Đường hồ nghi, song không lẽ hạch quá, bèn truyền dọn tiệc đãi đằng. Chẳng ngờ bên
Tống đợi trời tối lén kéo binh qua, xuất kỳ bất ý cướp dinh, bên Đường đang ăn tiệc nên trở tay
không kịp, người chưa kịp mặc áo giáp, buông đũa chạy rần rần đạp nhau mà chết, bị binh Tống giết
rất nhiều.
Vua Nam Đường đang uống rượu với Dư Hồng, Dư Triệu, xảy nghe quan báo rằng binh Tống cướp
trại thì vua nam Đường kinh hãi hết say, buông chén rượu rớt xuống đất, còn Dư Hồng Dư Triệu độn
thổ trốn êm. Vua Nam Đường cứ kêu cứu giá, nhờ có Huỳnh Phủ Huy cõng vua chạy trước, Tiết Lữ
cản hậu đỡ thương, Tần Phụng, La Anh đồng hộ giá.
Khi binh Tống vào dinh kiếm không đặng Dư Hồng, Dư Triệu, bèn giết binh Đường và tướng canh
rất nhiều. Tướng giữ ải Thanh Lưu là Giao Phụng, đêm ấy nghe tin quân báo tin nên vội vàng ra
thành tiếp giá. Bên Tống thừa thắng đuổi theo, đoạt khí giới và ngựa xe nhiều lắm. Bởi ải Thanh Lưu
canh tuần nghiêm ngặt, nên Cao Hoài Đức liệu bề phá thành không nổi phải kéo binh trở lại.
Còn vua Nam Đường ngự trong ải, xảy thấy hai vị Quân sư độn thổ chạy tới, vua Nam- Đường
không đẹp ý, liền phán:
- Bởi trẫm không biết cơ yếu mạnh, nên mới gây cừu với đại Tống. Còn các tướng võ cũng khoe tài,
khuyên trẫm cự địch.
Nào hay trận bại tướng vong, mỗi ngày tốn hao không biết bao nhiêu nay đã hết trông cậy ! Bình
thường ai cũng khoe trung nghĩa, đến trận rồi ai cũng đều bỏ trẫm mà lánh nạn! Nếu không có
.
.

.
.
Huỳnh Phủ Huy, Tiết Lữ, Tần Phụng, La Anh liều mình cứu giá, thì trẫm đã bị giặc giết rồi, còn đâu
mà gặp mặt nhị vị! Như vậy thì bề nào nước Nam Đường cũng phải mất nay mai, nên trẫm tính đầu
Tống trước cho xong. Vậy xin hai vị về núi tu hành cho thành chánh quả, họa may ngày sau nước
trẫm có nhờ phước đức cùng chăng?
Dư Triệu, Dư Hồng thấy vua Nam Đường nói mắc nghẹn họng hồi lâu rồi đồng tâu:
- Bệ hạ nói chơi, chúng tôi hổ thẹn hơn là mắng nhiếc. Tuy nay bại trận mặc lòng, song cũng chưa
nỗi mất nước. Bởi chúng tôi vâng lệnh thầy, cấm sát sanh, nên chẳng hề giết một tướng bên Tống.
Nay chúng nó làm thói tiểu nhơn, rình bữa ăn mà cướp trại xuất kỳ bất ý, giết hơn trăm tướng và
mười vạn tinh binh. Ấy là nó bất nhơn, chớ trách mình thất đức. Nay biến lắm thì phải quyền, chắc là
khó cữ sự sát sanh. Xin bệ hạ đừng than thở mà quân sĩ ngã lòng, anh em chúng tôi quyết dẹp yên
giặc Tống.
Tiết Lữ, Huỳnh Phủ Huy đồng tâu:
- Ban sơ mười ba tướng Tống bị Quân sư bắt đặng lại tha, nay hai vị bằng lòng sát sanh thì lo chi
không thắng trận! Vả lại trong nước ta binh còn hơn ba mươi muôn, tướng trận cũng đông lắm, xin
bệ hạ đừng thấy bại một trận mà ngã lòng, lẽ nào giao mạng cho giặc? Nếu đầu hàng chắc là Thái Tổ
không cho, dầu có là một chức nhỏ cũng không được nữa, mà còn hại đến thân.
Vua Nam Đường nghe nói có lý, đổi giận làm vui. Còn Dư Hồng Dư Triệu thấy vua không có ý đầu
hàng thì sẵn sàng báo cừu cho đã giận.
Dư Triệu nói với Dư Hồng:
- Tôi liều phạm tội sát sanh chỉ dùng phép năm chục ngày là mấy vạn binh Tống không còn một đứa.
Dư Hồng nói:
- Xin sư đệ trổ tài cho sớm mà về núi tu luyện. Ta đến đây là vâng lệnh thầy, đâu phải tự chuyên mà
lo.
Tống Thái Tổ cướp trại xong, lấy được thành Huy Châu, ghi công lao cho các tướng, rồi phán:
- Trẫm mừng lấy được Huy Châu, và Lưu Kim Đính đã khỏi bệnh chỉ lo một nỗi lương thảo không
còn bao nhiêu. Chẳng biết làm sao viện lương đủ để dùng. Vậy thì trẫm sai Phùng Mậu trước về
thăm mẹ, sau vận thêm ba chục hộc lương, như vậy mới an toàn.
Ngại Ngân Bình cũng xin theo Phùng Mậu về ra mắt mẹ chồng và thuận đường ghé thăm cho luôn
thể.
Tống Thái Tổ y tấu, phán:
- Như vậy là phải lẽ! Hễ con người biết trọng thảo với mẹ cha, thì làm tôi mới trung quân. Song đi
đường phải cho cẩn thận.
Hai vợ chồng vâng chỉ ra đi.
Cách ít lâu, đến ngày lễ vạn thọ của Tống Thái Tổ. Cao Hoài Đức và các quan đồng dâng rượu chúc
.
.

.
mừng.
.
Đêm ấy, Dư Triệu quyết làm hại binh tướng Tống nên lúc canh hai lấy cỏ ẩn thân bỏ vào túi, lén qua
thành Huy Châu.
Vì có cỏ ẩn thân, nên Dư Triệu vào dinh Tống mà không ai thấy. Coi lại quân tướng trong phòng lớp
thì say quá ngủ vùi, người còn thức cũng gật gù không biết gì nữa. Dư Triệu biết chúa tôi đều bị men
say, không ai còn tỉnh táo, nên thừa cơ hội làm phép lấy bốn cây cờ đen trong túi áo, niệm chú thâu
thổ địa và truyền rằng:
- Ngươi đem bốn cây cờ này cấm trên cửa thành, ngày đêm canh giữ, không cho ai nhổ đi.
Thổ địa vâng lệnh làm y lời dặn. Dư Triệu lại đọc thần chú thấy ma quỉ hiện hình tới, liền trao phép
cho các hồn và dặn:
- Đây là ôn hoàng sa, các ngươi đem bỏ xuống giếng và những nơi có nước, đợi thành công chúng
bay sẽ được đầu thai vào chỗ tử tế. Âm hồn vâng lệnh, lãnh ôn hoàng sa đem bỏ xuống các giếng
nước và ao hồ xung quanh thành.
Xong việc, Dư Triệu đằng vân về thuật chuyện cho Dư Hồng nghe.
Dư Hồng mừng rỡ nói:
- Sư đệ có phép thần thông, lo chi quân tống nữa: Để ta vào tâu lại với vua.
Bấy giờ nước Nam Đường tuy ruộng nương tốt, thuế vụ nhiều, song từ khi chiến tranh tới nay lương
phạn mỗi ngày cũng hao hụt lại thêm hai tên yêu đạo cầm binh tốn hao không kể xiết.
Đang lo tính xảy thấy Dư Hồng. Dư Triệu vào tâu:
- Chúng tôi đã rải ôn hoàng sa xuống giếng và các ao hồ, hễ binh Tống uống nhằm nước độc ấy thì
chỉ trong bốn mươi chín ngày lớn bụng mà chết.
Vua Nam Đường lo việc thiếu lương, nên chỉ nghe qua mà không để ý đến.
Dư Triệu nói:
- Tôi đã qua tới dinh Tống để dò xét thấy phép mầu rất linh nghiệm.
Lâu nay vua Nam Đường nghe Dư Hồng khoe khoang đã nhiều lần mà lần nào cũng chẳng thành
công, nên nay nói chi cũng không tin nữa. Bởi vậy vua Đường phán:
- Nếu đợi bốn mươi chín ngày thì binh tướng trẫm đã chết đói, còn ai mà thấy binh Tống sống thác ra
sao?
Dư Triệu thấy vua nghi ngờ, liền tâu:
- Nếu bệ hạ nôn nóng thì nội hai mươi ngày trở lại, tôi sẽ dâng thủ cấp vua tôi nước Tống để bệ hạ
xem.
Vua Nam Đường chỉ tin độ hai phần, ngồi gục đầu không nói.
Trong lúc ấy bên dinh Tống uống nhằm nước độc, nên mấy mươi vạn binh Tống bụng quặn đau, sau
đó nấy đều lớn bụng như có nghén, trừ ra Đào Tam Xuân, Dư phu nhân, Lưu Kim Đính, Úc Sanh
.
.

.
.
Hương, Tiêu Dẫn Phụng vì có phép tiên nên không cùng một bệnh như nhau, song cũng ngầy ngật
khó chịu. Thấy binh tướng cùng một bệnh như nhau, năm người biết là trúng độc, nhưng không rõ
Dư Triệu làm ra, mỗi ngày bệnh một thêm nặng, tất cả đều khoanh tay chờ chết.
Phùng Mậu mắc vận lương độn thổ đi hơn nửa tháng mới về, thấy binh tướng trong thành Huy Châu
đau bệnh mười hai ngày rồi, vì Phùng Mậu đi vắng nên không dự lễ chúc thọ.
Khi lương thực giải đến thì trời đã hoàng hôn, kêu mãi cửa thành vẫn không chịu mở, Phùng Mậu lấy
làm lạ, dặn vợ coi sóc lương thực còn mình cỡi quạ bay vào thành. Vào đến nơi, thấy Tống Thái Tổ
và bá quan văn võ đều nằm ngủ như say, hỏi mãi không nói, người nào bụng cũng phình lên to
tướng. Phùng Mậu kinh hãi mở cửa thành chuyển lương vào trong rồi thuật chuyện cho vợ nghe,
không biết cách nào cứu giải.
Ngại Ngân Bình nói:
- Binh tướng đồng một bệnh như nhau, tôi chắc là bị trúng độc để tôi vào thành thăm mấy chị em coi
thử?
Nói rồi Ngân Bình vào thành ra mắt và hỏi thăm năm vị phu nhơn.
Lưu Kim Đính nói:
- Kể từ ngày chúc thọ sau đó binh tướng đều bị yếu đuối và lớn bụng, chắc là yêu đạo dùng thuốc
độc để hại ba quân. Ba chị em ta mấy ngày vẫn nhắc hoài trông đợi vợ chồng nàng, xin nàng ra sức
lo việc cứu chữa. Chẳng nên dùng nước ao, nước giếng trên bốn cửa thành.
Ngại Ngân Bình đem câu chuyện thuật lại với Phùng Mậu. Phùng Mậu bực tức ra cửa thành thấy trên
chót cửa thành có cắm bốn cây cờ đen, có thổ địa canh giữ.
Phùng Mậu hét lớn:
- Thổ tiên! Dám cắm cờ yêu mà hại chơn chúa, sao không sợ tội chết.
Thổ địa nói:
- Tôi thật vô can! Tạỉ Dư tiên sư có lệnh sai nên tôi phải giữ cho phải phép.
Phùng Mậu nói:
- Hãy nhổ cờ cho mau !
Thổ địa vâng lời nhổ cờ rồi đi mất.
Xảy thấy cả lũ âm hồn đang coi giếng nước, kéo đến. Phùng Mậu hỏi:
- Chúng bay ở đó làm chi?
Âm hồn nói:
- Chúng tối vâng lệnh Dư Tiên sư bỏ phép xuống giếng nước và ao hồ để hại binh Tống. Đợi thành
công tiên sư sẽ lo cho chúng tôi được đầu thai làm con kẻ giàu sang.
Phùng Mậu nạt:
- Âm hồn chớ nghe yêu đạo. Hễ hại mạng người ta thì phải đoạ xuống âm ty, làm sao đầu thai được.
.
.

.
Đừng nghe lời phỉnh phờ, hãy di tản cho mau.
Âm hồn nghe nói đều khóc lóc rồi đi mất hết.
Phùng Mậu vào thuật chuyện cho vợ nghe, Ngại Ngân Bình nói:
.
- Thiếp có nghe Thánh Mẫu dạy rằng: ôn hoàng sa là một thứ cát độc nếu bỏ vào giếng nước, ao hồ
ai uống cũng bị lớn bụng mà chết. Trừ ra Huỳnh tôn sư mới biết phép cứu chữa mà thôi. Vậy chàng
phải lên nhờ thầy xin thuốc cứu chữa.
Phùng Mậu y lời, lên lưng quạ, xảy nghe gươm báu sau lưng kêu veo véo. Phùng Mậu liền nói:
- Ta phải ở nán lại đây, đêm nay có giặc hãm thành.
Ngại Ngân Bình hỏi:
- Vì cớ gì mà chàng biết được?
Phùng Mậu nói:
- Thầy ta có cho cây gươm Long A và dạy rằng: Gươm ấy rèn đã một trăm năm, phơi hốc nắng mưa
nên đặt tên là Long A, biết việc xảy đến. Nếu có reo thì chém giặc, hoặc có kẻ cướp dinh. Bởi vậy ta
đoán chắc yêu đạo đêm nay sẽ kéo binh đến thừa cơ hãm thành.
Ngại Ngân Bình nghe nói than thầm:
- Như vậy chàng chẳng nên đi, phải ở lại thủ thành với thiếp.
Phùng Mậu y lời, chia nhau mai phục cửa thành phía Nam, và phía Đông, nhờ có một số binh mới
giải lương về chưa bệnh hoạn, nên dùng sai khiến.
Dư triệu biết lúc này trong thành binh tướng đều to bụng nằm ngay, dầu dậy cũng không được, bèn
sai Trình Phi Hổ, Lâm Văn Báo dẫn ba ngàn binh xông vào thành.
Trình Phi Hổ và Lâm Văn Báo lắc đầu nói:
- Bấy lâu nay chúng ta đánh ban ngày còn không lại Tống, bởi trong thành binh hùng tướng mạnh
rất đông. Hôm nay Quân sư sai hai chúng tôi đi làm công việc nguy hiểm, thật chúng tôi không dám
tuân hành.
Dư Triệu cười nói:
- Hai vị tướng quân không biết rõ sự tình. Hiện nay trong thành đã bị thuốc độc không còn một
người, nên ta mới sai hai ngươi vào thành chặt đầu chúng nó. Vả lại hôm trước ta có đi thám thính,
thấy chúng nó nằm liệt cả lũ, chỉ còn đợi ta đến chặt đầu mà thôi.
Trình Phi Hổ và Lâm Văn Báo vẫn lắc đầu nói:
- Hai tôi dẫu chết cũng chẳng tiếc chi chỉ sợ bên Tống cười Quân sư là người nông cạn, không thấy
được tài năng của kẻ khác.
Dư Triệu thấy hai tướng không đi ý cũng không muốn ép, liền nói:
- Hai vị tướng quân nếu không tin ta thì ta xin đánh cuộc cho mà coi.
Trình phi Hổ và Lâm Văn Báo nói:
.
.

.
- Quân sư muốn đánh cuộc thế nào?
Dư Triệu nói:
.
- Nếu hai ngươi vào thành có một kẻ nào cản trở thì ta thua cuộc và bồi thường mấy trăm lạng bạc.
Vua Nam Đường nghe nói liền phán:
- Việc này chưa biết ai thắng, bề nào cũng kẻ được người thua, chi bằng cứ thử xem một trận.
Hai tướng nghe lời vua nói, viết tờ cam đoan đánh cuộc xong, đợi cho đến canh hai, Trình Phi Hổ và
Lâm Văn Báo mỗi người dẫn ba ngàn binh, lặng lẽ ra đi.
Lúc đến cửa thành trống trở canh ba, Trình Phi Hổ bàn với Lâm Văn Báo rằng:
- Quân sư dặn chúng ta lên thành một lượt, nhưng nếu trúng kế thì biết ai tiếp cứu chi bằng để ta
nhảy lên trước xem thử thế nào. Nếu Quân sư nói không sai, ta sẽ mở cửa thành cho quân ào vào.
Chẳng ngờ hai tướng đang bàn luận, Phùng Mậu ở trên thành nghe rất rõ, vì đêm vắng và thuận gió.
Bấy giờ Trình Phi Hổ, xách búa nhảy lên trước, nhưng vừa đứng trên mặt thành thì bị Phùng Mậu
đánh cho một thước, nhào xuống bể đầu.
Còn Lâm Văn Báo ngỡ là Trình Phi Hổ nhảy trượt chân bị té, nên chuẩn bị nhảy theo. Chẳng ngờ
trên thành bắn xuống như mưa, quân sĩ chết phân nửa, làm cho Lâm Văn Báo kinh sợ thu quân, trở
về.
Lúc này Dư Triệu đang ngồi xem sách, đinh ninh hai tướng sẽ đem các thủ cấp của vua tướng binh
Đường về nạp, xảy thấy Lâm Văn Báo hớt hải chạy về.
Vừa thấy mặt Dư Triệu, Lâm Văn Báo nổi giận hét to:
- Báo hại Trình lão tướng đã bị chết về tay Phùng Mậu rồi.
Dư Triệu nghe nói ngỡ là Lâm Văn Báo sợ chết kiếm lời nói gạt nên hỏi quân sĩ. Quân sĩ thuật lại
làm cho Dư Triệu thất kinh nhào xuống đất chết giấc.
Dư Triệu vừa tỉnh giấc, vội vào triều tâu rõ mọi việc. Vua Đường bỏ qua không nói, truyền chỉ truy
tặng công lao Trình Phi Hổ và nuôi dưỡng vợ con.
Còn Dư Triệu thì hồ nghi, không biết tại sao rải ôn hoàng sa mà còn có kẻ không bệnh hoạn, lại còn
thừa dịp gạt mình, làm cho hư danh xấu tiếng, hổ thẹn với văn võ bá quan. Từ nay về sau chưa dám
nói sự việc chưa đến.
Phùng Mậu thắng trận, vào nói với vợ:
- Nam Đường bị một trận kinh hãi, chắc là không dám tới nữa. Vậy phu nhân thủ thành, để ta xin
thuốc giải độc.
Nói rồi cỡi quạ bay đến động Huỳnh Hoa, vào lạy ra mắt thầy và thưa:
- Đệ tử đi vận lương về, thấy chúa tôi và binh tướng điều lớn bụng nằm dài, không ai ngồi dạy nổi.
Xin thầy ra ơn giải cứu giùm mấy mươi vạn binh tình.
Huỳnh Thạch Công nói:
.
.

.
.
- Ấy là Dư Triệu bỏ ôn hoàng sa xuống giếng nước, binh tướng uống phải nước độc mới sanh chứng
ấy. Bệnh này có thể giải cứu được, nhưng làm sao có đủ thuốc mà uống tới mấy muôn người. Ngươi
hãy qua Nam Hải, mượn cành dương liễu của Phật Quan âm, đem về rửa nhành dương liễu ấy vào
máng nước, rồi rảy cho mọi người tức thì hết nhiễm độc.
Phùng Mậu tạ ơn thầy, bay qua Nam Hải, mượn cành dương liễu Của Phật bà Quan âm.
Phùng Mậu lãnh nhành dương liễu lên lưng quạ bay đi.
Khi về đến thành, Phùng Mậu làm y theo lời thầy dạy. Chỉ chốc lát, mọi người đều ngồi dậy, và lành
mạnh như xưa, chỉ trừ Thạch Thủ Tín, Sử Khuê, vì tuổi quá cao nên còn mệt mỏi, nên không dậy
được. Sau đó từ trần.
Tống Thái Tổ thấy hai người. vì công trận mà bỏ mình nên thương hại truyền chỉ tẩm liệm chờ ban
sư sẽ đem linh cửu về kinh chôn cất.Các tướng đã lành bệnh, lại tỏ ý trách Phùng Mậu rằng:
- Ngày trước bắt được Dư Hồng, bởi Phùng Mậu xin tha, nên ngày nay mới bị nó đầu độc.
Phùng Mậu nghe các tướng nói, tâu với vua Thái Tổ, rằng:
- Tôi chẳng phải thương gì Dư Hồng, song sợ thầy nó là Xích Mi lão tổ nghe giết đệ tử, nóng lòng
xuống báo cừu, thì rất khó cho thiên tử.
Tống Thái Tổ nói:
- Trẫm đã rộng dung tha thứ cho Dư Hồng một lần, mà nó không biết ăn năn, nếu các tướng bắt được
hai yêu đạo ấy thì phải giết lập tức.
Sáng hôm sau, Lưu Kim Đính dẫn binh đến ải Thanh Lưu khiêu chiến. Dư Hồng Dư Triệu đồng nói:
- Nay nữ tướng khiêu chiến, chúng ta làm sao ngồi yên được, chúng tôi tu luyện đến ngàn năm, lẽ
nào thua một đứa con gái.
Nói rồi dẫn một muôn binh ra trận, đồng thời bàn với nhau:
- Nếu phen này bị thua nữa thì về núi thỉnh thầy đến đây, thế nào cũng bị chết.
Lưu Kim Đính thấy Dư Hồng, Dư Triệu dẫn binh ra, liền chỉ mặt hét lớn:
- Các ngươi là tướng bại trận, không biết hổ thẹn lại còn bỏ ôn hoàng sa xuống giếng nước, mưu hại
quân binh nhà Tống. Hôm trước thầy các ngươi là Xích Mi lão tổ giận các ngươi không vâng lời, làm
chuyện sát sinh, nên ông đã đến hòa giải với vua Tống, và nói ít bữa sẽ sai người bắt các ngươi về trị
tội, chẳng cho các ngươi đầu thai. Ta nhắm không bao lâu nữa, các ngươi không còn được ra trận.
Nay thầy ngươi đã hòa giải, nên ta không đánh với các ngươi làm chi, đợi ít ngày thầy các ngươi
xuống bắt các ngươi về núi mà thôi.
Ấy là lời Lưu Kim Đính nói, nghĩ cũng hiệp với lời Dư Triệu trước kia nên nghĩ thầm:
- Hôm trước Dư Triệu rải ôn hoàng sa, chuyện này không ai biết, sao Lưu Kim Đính lại rõ ngọn
ngành, chắc là thầy mình đã xuống giải hòa và cứu chúng nó khỏi trúng độc.
Nghĩ như vậy lòng càng ngơ ngẩn như say như tỉnh.
.
.

.
.
Thấy Lưu Kim Đính dẫn quân vào thành thì Dư Hồng cũng thâu quân vào ải tâu với vua Nam
Đường:
- Kim Đính ra trận thấy tôi liền kéo binh về, tôi nhắm bên Tống gần hết lương, ít hôm nữa cũng tính
ban sư, xin bệ hạ đừng lo làm chi Lưu Kim Đính không khó.
Vua Nam Đường nghe nói, không tin vì Dư Hồng đã nhiều phen nói không thiệt.
Dư Hồng từ giã vua Nam Đường vào sau ải về thuật chuyện lại với Dư Triệu.
Dư Triệu giật mình, than thầm:
- Ta biết rõ tánh Dư Hồng, tánh Dư Hồng háo thắng, nên có ý khuyên can, kẻo uổng công tu luyện.
Không ngờ mình cũng lại nóng giận xuống giúp Dư Hồng. Nay tới lui đều khó khăn. Chắc nay mai
thầy ta cũng xuống không sai. Nếu ta bắt Dư Hồng về trị tội thì ta cũng mắc tội liên can, vì không có
lệnh sai đi mà dám xuống trợ lực cho kẻ sai phạm.
Lời Bàn
Mọi kế sách đối phó với địch thủ, đều tốt nhất là không cho địch thủ biết ý định của mình.
Lưu Kim Đính muốn gạt Dư Hồng thì phải làm cho Dư Hồng không rõ ý định của mình, chẳng phải
chỉ bằng lời nói, mà phải nghiên cứu kỹ tình hình và tâm trạng của đối phương.
Lưu Kim Đính gạt Dư Hồng là Xích Mi lão tổ sẽ xuống núi bắt Dư Hồng về trị tội, mà Dư Hồng ngỡ
thật, chỉ vì tâm trạng Dư Hồng lúc này đang lo lắng về việc đã làm trái ý thầy, sát sanh hại nhiều
mạng người. Tâm trạng ấy giúp cho mưu Lưu Kim Đính thành công, mà cũng có nghĩa là Dư Hồng
đã thua trí Lưu Kim Đính.
.
.
.
Hồi Thứ Hai Mươi Ba
Dư Hồng bị gạt vong thân.
Dư Triệu rước yêu báo oán.
Lưu Kim Đính thâu binh vào thành, các tướng lấy làm lạ hỏi:
- Dư Hồng không dám đánh nên lui binh, sao chẳng đuổi theo mà bắt nó?
Lưu Kim Đính nói:
- Dư Hồng có phép biến hóa vô cùng, làm sao bắt được nó? Chi bằng lập kế gạt nó, ngày mai bắt
.
.

.
cũng chẳng muộn.
.
Các tướng không hiểu Lưu Kim Đính sẽ lập kế cách nào, nhưng không dám tìm hiểu.
Tối hôm đó, Lưu Kim Đính vẽ một lá bùa giao cho tỳ nữ Xuân Đào cất giữ, đợi bắt được Dư Hồng
sẽ giắt lên đầu nó, để nó không biến hóa được. Lại làm phép cho Xuân Đào hóa hình Xích Mi lão tổ.
Còn Hạ Liên, Thu Cúc, Đông Mai thì hóa làm ba tiên đồng và dặn phải làm y kế thì bắt Dư Hồng
mới được.
Hôm sau, Xích Mi giả lãnh dây khốn tiên đi với ba tiên đồng giả đến ải Thanh Lưu. Xích Mi giả
đứng ngoài cửa ải, còn ba tiên đồng giả thì tới trước kêu lớn:
- Đệ tử của Xích Mi lão tổ xin vào đàm đạo với Dư Hồng.
Quân vào báo lại, Dư Hồng truyền mở cửa mời vào. Tiên đồng giả nói:
- Hôm trước Huỳnh Thạch Công, Trần Đoàn lão tổ, Lê Sơn Thánh mẫu đồng đến động thầy mà trách
rằng: Dư Hồng khi trước mới xuống núi còn giữ lời thầy, bắt mười ba tướng Tống chẳng hề làm hại.
Sau lại ngả mặt mà sát sánh hại mạng rất nhiều, ấy là làm nhục cho thầy đó. Bởi vậy thầy sai chúng
tôi vào trước kêu sư huynh ra trình diện bây giờ, vì có thầy ở ngoài cửa ải mà đợi.
Dư Hồng nghĩ thầm:
- Hèn chi hôm qua Kim Đính nói chẳng sai. Nếu ta không ra mắt chào thầy thì tội kia gia bội, thà ra
đó mà kêu nài một đôi tiếng, tình thầy trò không lẽ chẳng dung. Nếu cãi lẫy tại đây thì hổ thẹn cùng
quân sĩ. Nghĩ rồi riu ríu theo tiên đồng đi ra. Xích Mi lão tổ giả thấy mặt Dư Hồng thì làm bộ giận vả
quở vang. Dư Hồng sợ quá nên cúi mặt xuống đánh chữ làm thinh.
Giây lâu Dư Hồng chậm rãi thưa nhỏ:
- Đệ tử vâng lệnh thầy sai nên cùng chẳng đã phải xuống đây, chẳng phải lòng tôi tham muốn công
danh phú quí. Xin thầy từ bi xét lại nếu đệ tử tham mê trần tục, thì còn tu luyện làm chi?
Nói rồi cúi đầu chịu lỗi.
Xích Mi giả quở rằng:
Ta sai ngươi xuống vây Tống mà thôi, chớ cấm việc sát sánh tửu nhục. Nay ngươi bỏ phép tu hành,
ăn thịt uống rượu, sát nhơn hại mạng rất nhiều, chẳng vâng lời ta dặn, làm cho phạm tội ngũ nghịch,
ta không lẽ vị tình dung ngươi cho đặng?
Dư Hồng thưa :
- Bạch qua sư phụ, đệ tử cũng vâng lời thầy, nên bắt mười ba tướng mà không giết. Chẳng ngờ sau
có Lưu Kim Đính, Trịnh ấn và phùng Mậu, đồng trợ Tống đánh Đường, đệ tử cự không lại bị chúng
nó phá báu pháp của thầy cho nên phải trổ tài với chúng nó. Vua Nam Đường rất trách tôi sao không
giết mười ba tướng để làm chi, dương hổ di họa mà nay sanh sự rất nhiều, bởi cớ ấy nên tôi phạm tội
sát sanh, xin thầy xét lại. Còn việc tửu nhục là tại vua Nam Đường ép nhiều lần, tôi không lẽ từ chối
trong lòng nóng nảy trông thành công đặng về núi mà tu. Song bởi bị mất bửu phép nên khó nổi tới
.
.

.
lui.
Xích Mi giả quở rằng:
.
- Nếu ngươi cự không lại chúng nó, thì về thưa lại cho ta hay sao lại có ý sát sanh cho mất hết bửu
bối? Ấy là người chẳng nhìn ta là thầy nữa, thì lẽ nào ta nhìn ngươi là đệ tử!
Nói rồi liền sai tiên đồng:
- Ba ngươi lấy dây khốn tiên mà trói Dư Hồng lại.
Ba tiên đồng giả vâng lời, Dư Hồng sợ thầy nên không dám cứ cứ năn nỉ rằng:
- Đệ tử mới phạm tội một phen, xin thầy thương nghĩa sư sanh, rộng mở lưới thang làm phước.
Xích Mi giả thấy Dư Hồng trúng kế mừng thầm trong lòng, ngoài tuy làm mặt giận mà trong lòng
hớn hở biết bao, lấy lá phù của Lê Sơn Thánh Mẫu đem giắt trên đầu Dư Hồng vì sợ nó xuất hồn
biến mất. Lá bùa ấy là kiểu của Lê Sơn Thánh Mẫu dạy, nên Lưu Kim Đính y phép họa theo, đã trao
Xuân Đào khi ban đêm và dặn các việc.
Dư Hồng năn nỉ hết sức mà thầy chẳng trả lời, lại đem phù giắt trên đầu mình không biết cớ chi đó,
nếu không trốn trước ắt là họa đến khó toan. Dư Hồng hèn niệm chú độn thổ, chẳng ngờ độn không
được, mới biết bùa ấy là bùa ếm mình.
Còn Xích Mi giả sợ trì hoãn thì binh tướng Đường ra tiếp Dư Hồng, nên truyền lệnh dẫn đi lập tức.
Ba tiên đồng giả biết ý, dắt Dư Hồng thẳng về thành Huy Châu. Dư Hồng vừa đi vừa nghĩ:
- Dầu mình mắc tội thì thầy bắt về núi mà gia hình? Lẽ nào đem qua dinh Tống? Hay là lão già này
dâng mình cho Tống Thái Tổ mà tấn ích chăng?
Càng nghi càng tức mình, không biến hóa đặng. Dư Hồng nổi giận, hét lớn:
- Đệ tử dầu phạm tội nặng thì thầy bắt về động lóc thịt cũng ưng, lẽ nào thầy dẫn qua nạp cho kẽ cừu
nhân, dường ấy tôi chết sao cho nhắm mắt? Thiệt thầy không biết xét, công tôi làm đệ tử hơn nửa
đời, ví chẳng khác Trương Lương dưng dép. Nay thầy hẹp lượng không dung thì thôi, sao lại nạp học
trò cho Tống gia hình mà không sợ mất thể diện?
Dư Hồng giận hỏi mãi mà Xích Mi cứ làm thinh đi hoài.
Dư Hồng thấy vậy nghĩ:
- Vả chăng thầy mình lượng rộng như biển lại bấy lâu yêu thương mình, nay vì cớ nào mà thay lòng
đổi dạ như vậy? Không lẽ thấy mình sợ Tống chắc là tấn ích mà thôi. Ta dầu thác cũng báo oán việc
này cho đặng? .
Khi về thành, Xích Mi giả hiện ra Xuân Đào, ba tiên đồng hiện nguyên hình thế nữ.
Khi ấy Dư Hồng xem thấy mới hay mình trúng kế. Ăn năn thì sự đã rồi, bèn nổi giận hét lớn:
- Lũ bây thật lớn mật, dám giả mạo thầy ta nếu thầy ta hay cớ sự chúng bay gạt mà giết ta, thì chúa
tôi bây không còn một mạng, chẳng những loài dâm tỷ mà thôi!
Lưu Kiến Đính thấy bốn con tỳ nữ đem nạp Dư Hồng thì nghĩ:
.
.

.
- Nếu giết Dư Hồng chọc thầy nó xuống đây thì khó chịu.
.
Bằng tha nó một phen nữa, lại sợ gì? Bởi khi trước Phùng Mậu bắt nó, có tha một lần, mới sanh sự
rãi độc chết hai tướng, nhiều người trách và oán Phùng Mậu thả Dư Hồng. Đến nay Thiên tử đã có
chỉ cấm nghiêm, nếu bắt đặng thì gia hình lập tức. Chi bằng tuân chỉ giết nó mà trừ họa nhãn tiền.
Sau Xích Mi lão tổ xuống đây, thì lấy lời phải quấy mà cãi lẽ cũng đặng. Vì khi trước có thấy mặt
ngài một lần, thiệt lão tổ là người nhân đức nên dễ nói.
Nghĩ rồi, Kim Đính dẫn Dư Hồng vào nộp. Tống Thái Tổ nghĩ:
- Lý Cảnh cậy có Dư Hồng phép nhiệm, nên không chịu hàng đầu. Nay mà giết Dư Hồng, chẳng
khác nào chặt tay Lý Cảnh.
Nghĩ rồi lại phán:
- Dư Hồng đã đáng tội chết mười phần, vì khi trước trẫm tha về, mà không khuyên Lý Cảnh qui
thuận, lại không chịu về non tiên tu luyện, lại còn ra trận hành hung, nay giết là đáng tội!
Thái Tổ truyền tả đao dẫn Dư Hồng ra ngoài mà xử trảm lập tức.
Giây phút, tả đao vào tâu:
- Chúng tôi chém Dư Hồng đổ lửa sáng nhòa, mẻ gươm mà mình không đứt. Thay tay mười mấy
người cũng vậy.
Tống Thái Tổ lấy làm lạ, kinh hãi phán:
- Như vậy biết làm sao mà trừ nó?
Cao Hoài Đức và các tướng bị bắt khi trước đồng tâu:
- Nếu trừ không đặng Dư Hồng thì e họa chưa dứt. Vì hồi mới dẫn nó vào, nó chẳng bái quì, lại thêm
buông lời vô lễ. Nếu thả nó ra một lần nữa, chắc là nó báo oán chẳng không!
Lưu Kim Đính thấy vua và cha chồng với các tướng muốn giết Dư Hồng, vì cố oán va khi trước, nên
không dám nghịch ý, phải tâu thiệt rằng:
- Dư Hồng luyện phép cổ đã thành gang, nên xương thịt cứng hơn sắt. Để tôi dùng gươm phép mà
chém mới đặng.
Lưu Kim Đính lấy phép ra niệm chú, rồi giở hồ lô hào quang bay lên sáng rực, một lưỡi kẻo hiện ra,
bay liệng trên không, mà bên dưới Dư Hồng đã rụng đầu, máu tuôn lai láng.
Thương hại cho Dư Hồng là con hồng nhạn, tu luyện mấy trăm năm, sau nhờ Xích Mi lão tổ truyền
đạo, chẳng bao lâu cũng thành tiên, bởi cãi lại thầy, sát sanh lại hại mạng nên phép trời báo ứng.
Còn Dư Triệu thấy tiên đồng nói có thầy xuống bắt Dư Hồng thì sợ mắc tội nên trốn trong ải, không
dám ló ra. Nay nghe Dư Hồng bị bắt, đem ra pháp trường xử trảm, thì động lòng thương bạn, lấy cỏ
ẩn thân bỏ vào túi, rồi đến nơi ôm thân Dư Hồng khóc kể:
- Đạo huynh ơi! Uổng công tu luyện trăm năm, tình anh em biết làm sao mà cứu được.
Dư Triệu càng kể càng đau lòng, chẳng ngờ bị máu Dư Hồng thấm dính vào người, nên cỏ ẩn thân
.
.

.
không còn hiệu nghiệm, phải lộ rõ hình dạng.
Sỡ dĩ Dư Triệu không biến hóa được là vì bị nhiễm uế khí.
Tống Thái Tổ thấy Dư Triệu thì nổi giận mắng:
.
- Hai ngươi xúi Lý Cảnh nghịch với Tống triều, nên binh tướng hai nước hao tổn không biết bao
nhiêu. Đáng lẽ thấy Dư Hồng chết thì ngươi lo lánh mặt, tại sao còn dám đến khóc than.
Dư Triệu sợ Tống Thái Tổ giết mình, nên kiếm lời nịnh giặc:
- Ta khen cho chúa tôi nhà Đường chi còn lại ải Thanh Lưu mà đám chống cự với nước Tống. Ta
thấy Dư Hồng bị giết, nên động lòng than khóc ngoài đồng, chớ có tội gì mà muốn giết ta nữa? Ta e
lúc thầy ta hay được, xuống núi trả thù, thì các ngươi chẳng đặng toàn thân.
Lưu Kim Đính nghe nói nghĩ thầm:
- Xích Mi lão tổ là bậc đại tiên, mình đã giả Xích Mi lão tổ gạt Dư Hồng, thật là tội vô lễ. Nếu nay
giết Dư Triệu nữa, chắc Xích Mi lão tổ không dung.
Nghĩ rồi Lưu Kim Đính tâu với vua:
- Dư Triệu tuy giúp Dư Hồng, nhưng vị tình Xích Mi lão tổ mà tha chết cho nó, khuyên nó về núi tu
hành, nếu trợ Đường đánh Tống, sau này bắt được không dung tha.
Tống Thái rổ nghe nói, liền y tấu, hèn mở trói tha Dư Triệu về Dư Triệu được tha ra, hèn trốn mất.
Tống Thái Tổ nổi giận truyền quân đuổi theo bắt lại, nhưng Dư Triệu đã đi xa.
Dư Triệu trở về tắm rửa, thay đổi y phục, rồi nghĩ đến Dư Hồng không lẽ bỏ qua về núi, nhưng sức
một mình không làm gì được.
Nghĩ vậy Dư Triệu sầu thảm, thao thức suốt đêm.
Đêm ấy vào đầu canh năm, bỗng Dư Triệu nghĩ ra một kế, tính qua phía Bắc rước năm vị yêu tiên về
giúp sức với mình thì báo cừu cho Dư Hồng mới được.
Lúc này ở phía Bắc núi Thanh Phong có năm vị yêu tiên.
Thứ nhất là Bạch Hạc, xưng hiệu Tử Hà Tiên, thứ nhì là Thanh Ngưu Tiên xưng hiệu Bất Dạt Tiên,
thứ ba là Huyền Hồ (chồn đen) xưng hiệu Huệ Tiên, thứ tư là Huỳnh Điệp (bướm vàng) xưng hiệu là
Trưởng Hoa Tiên, thứ năm là Tinh Tinh (khỉ đột) xưng hiệu là Linh Tiên. Năm vị yêu tiên này cũng
là loài cầm thú thành hình, như Dư Hồng, Dư Triệu.
Còn Thanh Phong động vốn là của Huệ Tiên, bởi vợ nó là Hồ Ly, mắc đi xuống Kim Lăng giả hình
trà trộn với trai phàm, đặng bổ cho xung sức. Bởi cớ ấy nên Huệ Tiên ở trong động một mình với Tử
Hà Tiên, Bất Dạt Tiên, Trưởng Hoa Tiên và Linh Tiên, đồng tới động ở chung với nhau cho vui.
Khi Dư Triệu đến động Thanh Phong, thì Hà Tử Tiên ra nghênh tiếp, năm vị yêu tiên đồng chào hỏi.
Tử Hà Tiên nói:
- Tôi nghe anh giúp Nam Đường mà không mấy thành công, ý tôi muốn xuống giúp sức, ngặt bốn
anh em kia không bằng lòng gánh vác chuyện thiên hạ. Hôm nay anh đến đây có việc gì?
.
.

.
Dư Triệu nói:
.
- Lưu Kim Đính là gái thần nông, Phùng Mậu tuy lùn nhưng tài trí rất nhiều, chúng nó đã giết Dư
Hồng nên tôi đến đây cầu mấy anh em giúp sức tôi báo cừu.
Năm vị yêu tiên thấy Dư Triệu cầu khẩn, ai cũng quyết ý xuống giúp nhà Đường.
Dư Triệu nói:
- Như anh em có lòng giúp tôi báo cừu cho Dư Hồng thì phải đi cho kịp, kẻo trễ quân Tống thừa
thắng phá thành, thì không tiện đối phó .
Năm vị yêu tiên xưa nay tu luyện phép làu thông mà chưa có dịp thử tài, nay cũng muốn ra oai giúp
Đường đánh Tống để lấy tiếng.
Tức thì năm vị yêu tiên thu góp bửu bối đi theo Dư Triệu.
Vua Nam Đường đang ngồi đợi quốc sư, xảy thấy Dư Triệu bước vào tâu:
- Tôi đã viện đặng năm vị tiên ông đến giúp, xin bệ hạ sai các quan ra thành nghênh tiếp.
Vua Nam Đường hèn sai mở cửa thành. Giây phút thấy một vị tiên ông vào trước, trán gồ, trên mặt
có lông dài, cặp mắt tròn vo, mỏ nhọn, mặc đồ trắng xưng là Tử Hà Tiên.
Người kế đó, mặt nhỏ râu hai hàng, con mắt lòi, mặc áo rộn rực xưng là Trưởng Hoa Tiên.
Người thứ ba, mặc áo đỏ, bộ tướng hung hăng, hai tay rất dài, hai chân cao lêu nghêu, mình đầu lông
lá xưng là tinh Tiên.
Người thứ tư mập ú, đầu lớn mặt dài, trên đầu có ngạnh, tiếng nói rổn rảng như chuông ngân. Tuy
tướng mạo mạnh mẽ, mà cử chỉ lại chậm lụt, xưng là Bất Dạt Tiên.
Còn người thứ năm, đẹp trai cặp mắt xanh lẽo, nhìn ngó dáo dác, liếng nói ngọt ngào, có vẻ lanh lợi,
xưng hiệu là Huệ Tiên.
Năm vị yêu tiên bước vào đồng bái vua Nam Đường.
Vua Nam Đường truyền dọn tiệc thết đãi, rồi phán:
- Trẫm nhờ có Dư quốc sư tiến cử nên mới đặng biết năm vị tiên ông, lòng rất ái mộ, nhờ có năm vị
đến giúp, cứu nạn cho nước Nam Đường.
Năm vị tiên đồng nói:
- Chúng tôi đã vị tình Dư sư huynh mới đến đây, quyết ra sức phò Đường phá Tống.
Yến tiệc xong, Dư Triệu tâu với vua Nam Đường lập đàn tôn Tử Hà Tiên làm nguyên soái. Vua
Đường y lời lập đàn bái tướng.
Tử Hà Tiên cầm gươm và ấn soái ngồi giữa, rút lệnh tiễn sai Lâm Văn Báo ra khỏi ải Thanh Lưu
năm chục dặm, lập một cái đài cao ba mươi thước, xung quanh rộng một trăm chín mươi bộ. Hai bên
đài đào hai cái hầm sâu mười tám thước, công việc không được chậm trễ.
Tiếp đó lại rút một cây lệnh tiễn nữa giao cho Tần Phụng, truyền bắt hai mươi người đàn bà chửa và
hai chục thằng câm đem về tại đài để có việc cần dùng.
.
.

.
Hai người vâng lệnh ai lo phần nấy.
.
Đến khi hai tướng trở về bẩm lại các việc đã xong thì Tử Hà Tiên dẫn bốn anh em Dư Triệu lên đài,
xem xét một lúc, rồi truyền dẫn hai mươi người đàn bà chửa và hai chục thằng câm đến. Dư Triệu
bảo tả đao mổ bụng, song không cho phạm lấy ngũ tạng.
Hai mươi người đàn bà chửa nghe nói khóc rống lên:
- Chúng tôi có tội chi mà phả i chết thảm thiết như vậy?
Tử Hà Tiên nói:
- Ta cậy thân thể các ngươi để lập trận mà đánh giặc Tống, lúc thành công sẽ tâu với vua làm siêu độ
cho các người khỏi sa vào địa ngục.
Các người đàn bà chửa nổi giận mắng:
- Xưa nay tướng giỏi cầm binh không bao giờ giết người lập trận, nay yêu đạo bày việc dị đoan mà
hại dân, sao gọi là đại tướng. các người đàn bà chửa mắng nhiếc nhiều điều thậm tệ, còn thấy thằng
câm không nói ra tiếng, cũng trợn mắt múa tay, ý nói yêu đạo bất nhân, nguyền rủa bất nghĩa.
Sáu yêu đạo nổi giận nạt lớn:
- Nếu không làm phép mà trừ giặc Tống, ải Thanh Lưu bị phá thì binh tướng đều bị chết hết, chẳng
những bốn mươi đứa bay chịu chết mà thôi.
Nói rồi truyền tả đao trói bốn mươi người ấy lại.
Lời Bàn
Người chân chính và kẻ tà đạo khác nhau ở hành động. Căn cứ vào hành động để xét phẩm
chất con người.
Lời xưa nói: Lòng lang dạ thú là để chỉ cho những kẻ có tâm địa tàn ác. Con người khác với nhau là
ở chỗ nhân tính và ác tính. Dư Hồng, Dư Triệu là loài cầm thú thành người do công tu luyện, cho
nên dù đã thành người, tính tình vẫn gần với loài cầm thú. Khi thất trận lại đi cầu viện những loại
cầm thú khác. Như vậy làm sao thành công được.
Đã là cầm thú thì dẫu tài phép đến đâu, hành động vẫn dã man, việc bắt đàn bà chửa mổ ruột, giết
hại người dân để lập trận đồ thì chính là hành động dã man, xa rời nhân tính. Ở đây, tác giả muốn
cho chúng ta thấy lương tâm giữa con người và cầm thú rất khác biệt. Sự chia cách ác tâm và thiện
tâm là phẩm chất của kẻ lương thiện và dã man.
.
.
.
.

.
.
Hồi Thứ Hai Mươi Bốn
 Hà Tiên lập trận âm dương
Tôn Tẩn cầm binh khiển tướng
.
Tử Hà Tiên truyền trói mười người ấy lại, rồi nói:
- Từ khi có giặc đến nay, các anh hùng hào kiệt vì vua bỏ mạng không biết bao nhiêu, còn các người
chỉ là vợ dân, người tàn tật thì sinh mạng đáng giá bao nhiêu. Vả lại, sau này vua ban ơn trọng
thưởng, còn ức hiếp điều gì.
Nói rồi truyền tả đao mổ bụng, song có hai người đàn bà chửa còn tiếp tục chửi rủa mà thôi.
Sau đó, thấy thân quyến các người ấy xông vào than khóc, vua Nam Đường đem bốn ngàn lượng bạc
thế mạng cho bốn mươi người, nhưng chỉ cỏ hai mươi người tham của chịu lãnh, còn hai mươi người
kia không chịu lãnh bạc, bỏ ra về, vừa khóc vừa mắng:
- Đồ yêu tinh! Làm việc bất nhân. Bệ hạ nỡ nào nghe lời mà hại kẻ vô tội.
Tử Hà Tiên truyền cắt hai mươi bộ đồ lòng của hai mươi người câm rồi đem lên đài cầm gươm phun
nước làm phép. Giây lâu thấy trên mây bay xuống một vị thần là Nhị Lan Hiển Thánh, ba con mắt
sáng lòa, mặc áo hồng bào, tay cầm gươm báu, dẫn Hạo Thiên Khuyển bay tới hỏi:
- Pháp sư mời ta có chuyện chi?
Tử Hà Tiên nói:
- Ta lập trận mà đánh Tống, mời Nhị Lan tôn thần xuống trấn phía Đông nếu tướng Tống vào đánh
trận thì đừng cho ra.
Nhị Lan Hiển Thánh vâng lệnh đi liền.
Tử Hà Tiên đốt bùa niệm chú nữa, từ phía Tây có một vị thần giáng hạ, đầu đội mũ vua, mình mặc
giáp, cầm cây hoá kích, ấy là Tháp Thiên Vương Lý Tịnh.
Lý Tịnh đáp xuống hỏi:
- Pháp sư triệu ta có việc chi?
Tử Hà Tiên nói:
Nay tôi lập trận âm dương chống lại nhà Tống. Xin nhờ tôn thần trấn thủ hướng Nam.
Lý Thiên Vương vâng lệnh.
Tử Hà Tiên lại đất bùa niệm chú thì trên mây có một vị thần cưởi xe xuống, hỏi:
- Chẳng hay pháp sư đòi Na Tra tôi xuống có chuyện chi?
Tử Hà Tiên nói:
- Tôi lấy làm phục tài phép của Tam Thái Tử, khi trước trợ Châu phạt Trụ, nay cũng rất mừng được
.
.

.
nhờ Tam Thái Tử trấn cửa âm dương phía Bắc.
Na Tra lãnh lệnh ra đi.
.
Tử Hà Tiên lại niệm chú, đốt bùa thì có một vị thần cưởi ngựa hồng sa xuống, mặc áo giáp đỏ, chân
mày dựng ngược, râu mọc ngạnh trê. Ông này là thần Ngữ Đạo, đến hỏi:
- Pháp sư cần tôi có chuyện gì vậy?
Tử Hà Tiên nói:
- Nay có Lưu Kim Đính và Phùng Mậu pháp lực cao cường, nên tôi thỉnh Tôn thần xuống trấn cửa
âm Dương phía Tây, đừng cho nó thoát ra khỏi trận.
Thần Ngũ Đạo vâng lệnh đi liền.
Tử Hà Tiên sắp xếp đâu đó an bài, nói với Dư Triệu:
- Có bốn vị đạo thần giúp ta, lo chi Kim Đính và Phùng Mậu chạy thoát.
Dư Triệu nói:
- Còn giữa trận tính cho vị thần nào trấn thủ?
Tử Hà Tiên nói:
- Việc này tôi đã tính rồi.
Liền đất bùa niệm chú, thỉnh Độc Hỏa Quỉ Vương giáng hạ.
Độc Hỏa Quỉ vương đầu đội kim cô râu tóc đỏ hoe, quần áo da cọp, miệng có bốn cái nanh, lướt tới
hỏi:
- Có chuyện chi quan trọng lắm mà pháp sư mời ta?
Tử Hà Tiên nói:
- Tôi lập trận âm dương đánh với Phùng Mậu và Lưu Kim Đính, hai người này tài phép vô cùng, nên
tôi đã thỉnh bốn vị tiên trưởng, trấn xong bốn cửa trận. Còn nơi trung ương, nhắm có tôn thần mới
xứng đáng. Xin tôn thần ra sức trấn giữ, đừng để tướng Tống trốn khỏi.
Độc Hỏa Quỉ Vương gầm lên một tiếng, nhảy vào đứng giữa trung ương.
Dư Triệu hỏi Tử Hà Tiên:
- Còn hai cái hầm này tính nhờ ai trấn thủ?
Tử Hà Tiên nói:
- Để tôi triệu mấy vị hung thần là: Châu Tước, Quyền Vũ, Tán Môn và Điếu Khách trấn thủ nơi đây.
Nói rồi truyền sắp hai mươi tử thi đàn bà chửa dựa theo hầm, rồi sắp hai mươi tử thi người câm dựa
theo hầm bên kia, và truyền giết thêm thú vật bỏ vào hai hầm ấy, để cho có đông âm hồn.
Sau đó Tử Hà Tiên niệm chú, ngậm nước phun vào bốn mươi cái thây ấy làm cho các thây ấy đứng
dậy như người sống, xong hai con mắt nhắm kín. Tử Hà Tiên liền khai nhãn cho hai mươi thằng căm
cầm gậy tang, còn hai mươi đàn bà chửa thì mặc áo chế cùng đứng ngay hiệu lệnh.
Tử Hà Tiên truyền rằng:
.
.

.
.
- Bốn mươi đứa bay hễ thấy binh Tống phá trận thì các ngươi chạy theo kêu oan, khóc mà đòi mạng.
Các thây ma đều vâng lệnh.
Hôm sau Tử Hà Tiên truyền lệnh cho Dư Triệu đem ba trăm sáu mươi bốn tên quân, mình mặc áo
trắng, tay cầm Bạch kỳ trấn thủ cửa trận chỗ có dựng cờ phướn. Dưới gốc cây có bốn cái thây người
câm và bốn cái thây đàn bà chửa. Đợi binh Tống vào trận thì cứ theo lời dặn mà làm.
Lại sai Linh Tiên dẫn ba trăm sáu mươi bốn tên quân, mặc đồ đỏ cầm Hồng kỳ, trấn thủ cửa trận phía
Nam, cũng dựng cờ phướn chiêu hồn, có tám thây ma giữ phướn.
Lại dùng tám tên phó tướng trấn thủ ngoài trận bốn cửa Hứa, Sánh, Thương, Đỗ, Kiến, Tử, Kính,
Khai, mỗi cửa đều có một tướng cạnh tùy tùng.
Trận được bố trí xong, hào quang chiếu sáng rực, ai ngó thấy cũng rùng mình.
Tử Hà Tiên cầm phướn ngũ sắc, truyền quân sĩ treo chuông Lạc hồn và dây âm hồn trước trận.
Lại sai Bất dật Tiên dẫn ba trăm sáu mươi bốn tên quân, mặc đồ xanh, cầm cờ đen trấn thủ cửa phía
Tây, cũng có tám thây ma đứng hầu dưới cột phướn.
Lại sai Huệ Tiên dẫn ba trăm sáu mươi bốn tên quân mặc đồ đen, cầm cờ đen trấn thủ cửa phía Tây,
cũng có tám thây ma giữ phướn.
Giữa trận có tám thây ma canh giữ. Như vậy mỗi cây phướn có tám thây ma, năm cây cờ bốn chục tử
thi.
Công việc xong xuôi, Tử Hà Tiên tâu với vua Đường:
- Tôi lập trận bát quái âm dương vừa rồi, xin bệ hạ cho một tướng đi khiêu chiến.
Vua Nam Đường y lời.
Lúc này Lưu Kim Đính nghe quân về báo:
- Có một tướng đến khiêu chiến nói nhiều lời ngạo mạn, tôi không dám thưa lại.
Lưu Kim Đính hỏi:
- Tướng ấy bộ tịch ra sao, và nói những gì?
Quân báo thưa:
Nó nói vâng lệnh Tử Hà Tiên kêu nguyên soái Lưu Kim Đính và tên tướng lùn đến xem trận cho
mau. Nếu biết mình không đủ tài phép thì trốn đi, đừng đến đây mà oan mạng.
Lưu Kim Đính nghĩ thầm:
- Nếu mình không đi e chúng khi dễ. Chi bằng đến đó xem sao?
Nghĩ rồi, truyền các tướng đồng kéo binh ra trận. Đến nơi ngó thấy hào quang sáng giới, sát khí mịt
mù, biết là trận dữ, Lưu Kim Đính truyền các tướng lui ra sau, không cho đến gần trận e nhiễm khí,
rồi bảo ba người có phép đi theo mình là Tiêu dẫn Phụng, Úc sanh Hương, Ngại Ngân Bình.
Tử Hà Tiên bước ra ngoài trận nói:
- Các ngươi là đệ tử của Thánh mẫu, tự xưng pháp lực cao cường, vậy có dám phá trận này hay
.
.

.
không? Ta sẽ giết các ngươi cho tuyệt mạng để báo cừu cho Dư Hồng.
Lưu Kim Đính nói:
- Đã có phép lập ra, lẽ nào không phép giải hóa?
Tử Hà Tiên cười lớn rồi vào trận.
Lưu Kim Đính nghĩ thầm:
.
- Chắc là trận âm dương, song rất khó phá, tuy vậy cũng nên vào trong xem thử thế nào.
Kim Đính bảo ba chị em đồng họa phù giữ mình rồi xông vào cửa trận thấy có mấy vị hung thần
xông tới, bốn chị em đều đánh ấn thối lui. Còn các tử thi không dám xông tới, Tử Hà Tiên đọc thần
chú giục các hung thần áp tới.
Lưu Kim Đính nói:
- Chị em tôi chỉ đi xem trận ra thế nào, chớ chưa phá trận. Vậy xin nán đợi bữa khác.
Tử Hà Tiên biết Lưu Kim Đính chưa học phép phá trận âm dương nên dẫu có hẹn lại cũng không
sao.
Bốn chị em Kim Đính ra khỏi trận lui về tâu với vua Thái Tổ rằng:
- Nam Đường rước yêu tiên xuống lập trận rất độc.
Tống Thái Tổ hỏi:
- Trận ấy tên chi? Và phải dùng bao nhiêu binh tướng mới phá được?
Lưu Kim Đính tâu:
- Yêu tiên lập trận bát quái âm dương, song phép tôi còn non nên không phá nổi.
Tống Thái Tổ hỏi:
- Trận ấy lợi hại thế nào mà cháu không phá nổi.
Lưu Kim Đính tâu:
- Trận âm dương có nhiều vị chánh thần canh giữ, bởi tôi pháp lực không bao nhiêu, nên chẳng dám
khoe tài phá trận.
Tống Thái tổ nghe tâu kinh hãi, nói:
- Cháu phải tính phương cách nào mà phá trận ấy mới xong.
Lưu Kim Đính nói:
- Tôi nhắm Phùng Mậu có thần nha bay rất nhanh, xin bệ hạ truyền cho Phùng Mậu đi thỉnh thầy là
Huỳnh tiên sư, vì chỉ có một mình Huỳnh Thạch Công mới phá được trận này mà thôi.
Vua Thái Tổ y tấu.
Phùng Mậu cỡi thần nha bay về động Huỳnh Hoa, vào ra mắt thầy, rồi bẩm:
- Nay Dư Triệu viện yêu tiên lập trận âm dương, sức chúng tôi còn non nên phá trận ấy không nổi.
Nay vâng lệnh Thiên tử về động thỉnh thầy, xin xuống phàm ra oai phá trận.
Huỳnh Thạch Công nói:
.
.

.
.
- Trận âm dương có nhiều vị hung thần, một mình ta cũng phá không nổi. Vậy ngươi phải thỉnh cho
được Trần Đoàn lão tổ và Tôn Tẩn chân nhân cùng giúp sức với ta thì phá trận âm dương mới được.
Phùng Mậu vâng lệnh đi thỉnh Tôn Tẩn và Trần Đoàn.
Giây phút Huỳnh Thạch Công thấy Tôn Tẩn tới trước. Hai người mừng rỡ cùng nhau đàm đạo.
Không bao lâu, Trần Đoàn lão tổ cũng tới, Huỳnh Thạch Công và Tôn Tẩn ra nghênh tiếp.
Vào động trò chuyện được một lúc, Huỳnh Thạch Công truyền Phùng Mậu về báo tin cho Tống Thái
tổ biết sẽ cứu giúp.
Phùng Mậu trở về ra mắt Tống Thái Tổ tâu rằng:
- Thầy tôi đã viện thêm Tôn Tẩn chân nhân và Trần Đoàn lão tổ hiệp lực phá trận âm dương.
Tống Thái Tổ mừng rỡ truyền dọn bàn hương án, nghinh tiếp ba vị tiên ông.
Chẳng bao lâu, ba vị tiên ông đã đằng vân bay đến. Tống Thái Tổ và triều thần nghinh tiếp xong thì
đã nghe quân vào báo:
- Có ba vị Thánh mẫu xin vào ra mắt.
Tống Thái Tổ mừng rỡ truyền bá quan tiếp tục nghinh đón.
I ê Sơn Thánh Mẫu, Kim Quan Thánh Mẫu, Kim Hoa Thánh Mẫu đồng vào đến. Tống Thái Tổ và
các vị tiên ông đều chào mừng.
Tống Thái Tổ nói:
- Ba vị tiên ông và ba vị Thánh mẫu vì giang san đại Tống mà chịu khó đến đây, trẫm không biết lấy
chi đền ơn cho xứng đáng.
Sáu vị tiên đồng nói:
- Bệ hạ chánh vì thiên tử, trời cho gồm thâu một mối giang sơn. Còn Nam Đường khí số đã hết rồi,
còn lẽ đâu dám nghịch, chẳng qua nghe lời yêu đạo, gây việc đua tranh. Nay nó lập ác trận, bọn đệ tử
chúng tôi tài phép còn non nên không phá đặng. Bởi cớ ấy chúng tôi phải đến giúp bệ hạ, ấy là vâng
mệnh trời, chớ có công khó chi mà đền đáp.
Sau đó, các đệ tử ra làm lễ mừng thầy. Trong lúc Tống Thái tổ truyền lập đài bái tướng thì sáu vị đại
tiên đi xem trận âm dương, chỉ giây phút đã trở lại.
Huỳnh Thạch Công nói với Trần Đoàn lão tổ:
- So về việc trận đồ thì Tôn chân nhân tinh thông hơn hết, vậy xin phong cho Tôn Tẩn làm nguyên
soái mà điều binh.
Khi đăng đàn bái tướng, Cao Hoài Đức đem ấn soái giao cho Tôn Tẩn.
Tôn Tẩn nói:
- Bần đạo tài phép bao nhiêu mà dám lãnh ấn soái? Song vì yêu đạo lập trận âm dương rất lợi hại.
Trước đây thầy tôi là Quỉ Cốc Tiên sư có chỉ phép phá trận ấy, nên anh em mới ép tôi từ chối không
được nên tôi phải vâng lời.
.
.

.
Tôn Tẩn lên đài lãnh ấn, rồi đòi Phùng Mậu đến nói:
.
- Ngươi hãy lãnh phong thơ này qua động Túy Châu, núi Thanh phong dâng cho Tô Châu thánh mẫu
mà mượn trái châu định phong, phá trận xong sẽ trả lập tức.
Phùng Mậu vâng lệnh đi liền.
Tôn Tẩn lại đòi Trịnh Ấn bảo:
- Ngươi đi kiếm cho được một mớ cỏ cao đường đem về đây cho ta.
Trịnh Ấn lãnh mạng ra đi.
Tôn Tẩn lại đòi Cao Quân Bảo tới nói:
- Ngươi dẫn hai ngàn binh cung ná sẵn đến nó Tụ thú lấy cho được đầu con chim độc đem về.
Nguyên cách thành hơn ba trăm dặm có núi Tụ thú, trong núi có một con chim ôn hoàng, lớn như
chim đại bàng, mỗi ngày cứ đến giờ mùi thì bay ra, gặp người thì mổ người, gặp thú thì ăn thú.
Bởi bấy lâu nó hại nhiều mạng lắm, nên nay đã tới số rồi, nên Tôn Tẩn sai Cao Quân Bảo đem binh
đến đó mai phục, đợi đến giờ mùi thấy có gió lớn tức là con chưa ấy quạt cánh bay ra thì truyền quân
bắn cho được con chim ẩy, chặt đầu đem về, đặng dùng phá trận.
Cao Quân Bảo vâng lệnh ra đi.
Tôn Tẫn lại đòi Cao Quân Bội đến bảo:
- Ngươi hãy dẫn hai mươi tên quân đi lấy đầu Thập linh về nạp.
Cao Quân Bảo thấy nguyên soái sai mình đi sau, sợ trễ nải nên phụng mệnh đi liền chưa kịp hỏi lại.
Tôn Tẩn thấy vậy mỉm cười làm thinh, rồi đòi Dương Diên Bình đến nói:
- Ngươi dẫn hai mươi tên quân đi lấy cho được huyết của Đỗ Nữ.
Dương Diễn Bình vốn cẩn thận, liền hỏi lại:
- Bẩm nguyên soái! Chẳng hay Đỗ Nữ là người chi, ở đâu và làm cách nào để lấy được huyết nó.
Tôn Tẩn nổi:
- Ngươi hãy đến tại Hoa Chi, hỏi Hoa Giải Ngữ thì biết.
Dương Diễn Bình lại hỏi:
- Tôi thuở nay không quen với Hoa Giải Ngữ, biết làm sao mà hỏi thăm?
Tôn Tẩn nói:
- Ngươi hãy đến tại Hoa Chi thì biết chẳng cần phải cậy nó làm gì, tự nhiên nó sẽ giúp, đã đặng việc
nước lại nên việc nhà, đã xong việc công lại được việc tư, sau mới biết ơn ta chỉ vẽ .
Dương Diễn Bình nghe nói chưa rõ nguồn cơn, nhưng không dám hỏi nhiều vội vã ra đi.
Tôn Tẩn truyền lệnh xong bước xuống soái đường. Tống Thái Tổ truyền mở tiệc chạy đãi chư tiên và
nói:
- Năm xưa trẫm có đánh cờ với Trần tiên sư, nay xin hầu thêm một bàn cho toàn sau trước.
Nói rồi Thái Tổ truyền quân bày cờ ra đánh với Trần Đoàn một hồi.
.
.

.
Trần Đoàn giả thua đứng dậy nói:
.
- Tôi mừng cho bệ hạ phước lớn tâm linh, không phải như năm trước. Coi điềm này đủ biết bệ hạ sẽ
thâu được giang sơn, Nam Đường cự sao cho lại.
Giây phút, Trần Đoàn lão tổ chép lại bài luận về cờ tướng trao cho Tống Thái Tổ.
Tống Thái Tổ xem xong, biết Trần Đoàn lão tổ can sự mê cờ, để lo việc nước, nên từ đó không ham
đánh cờ nữa.
Lúc này Trịnh Ấn lãnh mạng đi lấy cỏ cao đường, nhưng đi được một lúc lại than thầm:
- Khổ thay! Mình không biết cỏ cao đường ra làm sao, và mọc ở đâu mà kiếm? Bây giờ đi đã xa rồi
không lẽ trở về hỏi lại, chi bằng hỏi thăm mọi người thì cũng có kẻ biết.
Nghĩ rồi lầm lũi đi mãi.
Giây phút đi đến chỗ non cao rừng rậm, gặp ai cũng hỏi thăm, nhưng không ai biết mà chỉ.
Trịnh Ấn nghĩ thầm:
- Chữ đường là giếng, là ao, chắc cỏ ấy mọc trên ao cao thì phải, song ở chân núi làm gì có ao cao.
Trịnh Ấn liền truyền quân ở dưới mà đợi, còn mình lên núi tìm ao.
Khi lên đến đầu non, thấy người ta nhỏ như con kiến, nhìn bốn phía có một cái ao, Trịnh Ấn lần đến
thấy nước trong veo, cỏ mọc xanh dờn, nên mừng thầm, nói:
- Không ngờ đi kiếm bơ vơ mà cũng gặp. Vậy thì ta cắt một mớ đem về nạp trước mà lập công.
Nói rồi rút gươm cắt cỏ, lấy dây nịt cột thành một bó, xách xuống núi rồi truyền quân trở về thành.
Chẳng ngờ đi được nửa đường thấy một người hình dung giống vợ mình như đúc, Trịnh Ấn lấy làm
lạ, khi đến gần thì đúng là Tiêu Dẫn Phụng.
Tiêu Dẫn Phụng hỏi:
- Chẳng hay chàng đi kiếm cỏ ấy được chưa?
Trịnh Ấn cười, nói:
Tôn nguyên soái sai chuyện rất khó. May ta đoán ra mới lên chót núi mà kiếm được mớ cỏ này. Nó
vốn là cỏ mọc trên mấy ao cao nên cắt đem về nạp cho nguyên soái.
Tiêu Dẫn Phụng nghe nói xem lại rồi cười lớn:
- Không xong rồi! Chàng không chịu hỏi lại cho rõ cứ cắm đầu mà chạy, nên thiếp mới cải trang đi
theo, nếu chàng đem cỏ này nạp thì chỉ để nuôi ngựa mà thôi.
Trịnh Ấn nghe nói rầu rĩ tiếc công khó nhọc, liền ném bó cỏ xuống đất và hỏi:
- Vậy chớ cỏ cao đường là cỏ gì ?
Tiêu Dẫn Phụng nói:
- Đàn bà có thai khi sinh đẻ thì lót cỏ ấy mà ngồi. Bởi xưa có người đầy tớ tên là Cao Đường chủ sai
đi bỏ cỏ ấy nên gọi là cỏ cao đường. Tôn tiên sinh là thần tiên không chịu nói tục nên mượn tên ấy
mà nói cho thanh. Chàng đem cỏ này về không có uế trược thì phá trận yêu sao đặng?
.
.

.
Trịnh ân nghe vợ nói, thở dài than:
.
- Khéo đặt tên gì lạ tai, ai biết đâu mà kiếm. Nếu không có hiền thê cắt nghĩa thì ta lầm rồi.
Tiêu Dẫn Phụng nói:
- Vậy chàng phải lần vào xóm, hỏi thăm xem có ai mới sanh đẻ thì chắc là có cỏ ấy. Nếu gặp phải
năn nỉ xin cho được.
Tiêu Dẫn Phụng dặn rồi từ giã ra về.
Trịnh Ấn nghĩ thầm:
- Tôn nguyên soái thật là kỳ lạ, hết chuyện sai ta hay sao, mà bắt ta phải đi tìm loại cỏ nhơ uế này.
Phải như vật gì thì dễ kiếm dễ mua, còn loại cỏ này không phải lúc nào cũng có sẵn. Ngặt vì việc
nước không lẽ từ chối.
Nghĩ rồi giục ngựa xông vào xóm, chẳng ngờ dân ở đây trốn chạy sạch trơn, nhà cửa bỏ trống. Trịnh
Ấn đi hồi lâu mới gặp được một ngôi nhà có khói, thấy bà già xách giỏ đi ra, trong giỏ có váy tro và
huyết. Trịnh án xem thấy mừng rỡ, chắc là vật ấy chẳng sai liền xuống ngựa gọi bà lão và hỏi:
- Cỏ ấy có phải là đồ sanh sản hay không?
Bà lão nói phải. Trịnh Ấn nói:
- Xin bà bán cho tôi giá bao nhiêu cũng được.
Bà lão nghe nói lấy làm lạ, nghĩ thầm:
- Mình không có tôi tớ để sai, nên phải xách đồ dơ đi bỏ, ai ngờ gặp thằng điên này quyết mua cho
đặng, bất kỳ giá bao nhiêu. Nhưng xem không phải thằng khùng, sao nói tiếng quê mùa như vậy.
Trịnh Ấn thấy bà lão đứng ngẫm nghĩ thì tưởng bà lão không bằng lòng, nên năn nỉ.
Bà lão nghĩ thầm:
- Có khi họ mua nhau, tục gọi là tử hà sa mà làm thuốc chi đây. Vả lại dâu mình mới sinh thai, không
có tiền mua gừng và rượu, nay thời nay bán được bao nhiêu tiền cũng đủ gỡ ngặt.
Nghĩ rồi bà lão chịu bán.
Trịnh Ấn mừng rỡ lấy năm lượng bạc trả cho bà lão rồi lấy giỏ cỏ xách đi rất vội vàng. Đi được nửa
đường bỗng gặp Cao Quân Bội chạy tới hỏi:
- Anh đi lo việc ấy xong chưa?
Trịnh Ấn nói:
- Đi tình cờ mà thành công, đã gặp vật đó rồi.
Cao Quân Bội nói:
- Anh em ta thật là hên, không hỏi lại cho dứt tiếng lại bôn ba đi liền. Nay phận anh lại gặp được tình
cờ, còn phần tôi biết chừng nào mới xong việc?
Trịnh Ấn nói:
- Người lành thì trời giúp, có lý nào đi không lại trở về không. Hiền đệ hãy gắng công, thế nào cũng
.
.

.
nên việc.
Cao Quân Bội liền cười từ giã Trịnh Ấn rồi đi quẩn đi quơ.
.
Đi gần ba đậm đường, bỗng thấy thiên hạ tụ tập rất đông, vội hỏi một ông lão đi đường:
- Chẳng hay chuyện gì mà thiên hạ đi coi đông như vậy?
Ông lão nói:
- Chẳng phải hội hè, nơi đây gần núi Phượng Dương có xóm Trương gia dân cư rất trù mật. Mới đây
có một ông thầy bói tên là Trương Thập Linh về cất nhà ở xóm ấy, bởi vậy thiên hạ tìm đến hỏi quẻ.
Cao Quân Bội nghe tên Thập Linh là thầy bói hay, thì nghĩ chắc chân nhân sai lấy đầu người ấy, nên
vội vã tiến đến. Khi đến nơi, nghe thiên hạ nói:
- Thầy Trương Thập Linh vì cớ nào mà bữa nay không coi quẻ? Hay là mấy bữa rày bị đông người
coi quá nên mệt mỏi, bữa nay đóng cửa mà nghỉ chăng?
Mấy người trong xóm trả lời:
- Bởi các người không rõ, hôm kia người đoán trước rằng: còn hai ngày nữa thời ta tới số, nên đóng
cửa lo việc mai sau. Song còn đợi một người nào đó mới chịu theo tiên bỏ xác. Ngặt không biết
người ấy là ai.
Thiên hạ nghe nói than rằng:
- Như vậy rủi tại chúng ta tới trễ, nên bói không được một quẻ nào rất uổng !
Than rồi họ rùng rùng kéo nhau đi về.
Còn Cao Quân Bội nghe rõ chừng nào thì hãi kinh chừng ấy. Bèn nghĩ thầm: .
- Như vậy thì Tôn tiên sư đã biết trước, mới sai lấy đầu Thập Linh.
Nghĩ rồi giục ngựa đến đó, thấy lều tranh xích xác ba căn.
Có một người bước ra nghinh bếp và hỏi:
- Ông cưỡi ngựa đó có phải là Cao tướng quân chăng?
Cao Quân Bội lấy làm lạ nghĩ thầm:
- Người này không quen với mình, vì cớ nào mà biết tên họ! Có khi thầy Trương Thập Linh đó
chăng?
Quân Bội xuống ngựa, người ấy mời vào nhà, Cao Quân Bội hỏi thăm người ấy họ chỉ?
Người ấy nói:
- Tôi là Lý Phương, đệ tử của thầy Trương Thập Linh. Thầy tôi có nói rằng: Tướng quân vâng lệnh
Tiên ông đi kiếm thầy tôi cho được. Song thầy tôi sợ tướng quân còn lạ, nên sai tôi đón rước vào
nhà.
Cao Quân Bội hỏi:
- Vậy chớ Tôn sư bây giờ ở đâu?
Lý Phương nói:
.
.

.
- Thầy tôi ngồi nghĩ ở nhà trong.
Cao Quân Bội xin vào ra mắt.
.
Khi bước vào nhà trong thì Cao Quân Bội thấy một thầy đạo sĩ, ngồi xếp bằng trên nệm mà chờ. Ngó
thấy Cao Quân Bội bước tới đạo sĩ liền mời ngồi và nói:
- Tôi biết Cao tướng quân bữa nay vâng lệnh đến lấy đầu bần đạo về đặng phá trận âm dương. Nếu
không có đầu bần đạo thì phá trung ương chẳng được. Nay Cao tướng quân đã đến, xin xử trảm cho
rồi.
Cao Quân Bội nói:
- Vua thánh chẳng giết kẻ vô can, gươm bén nỡ chém người vô tội sao đành? Tuy tiên sư có truyền
lệnh mặc lòng, mà tôi cầm gươm chém người lành không nỡ. Thà về không mà chịu tội cho xong.
Trương Thập Linh nói:
- Bởi tướng quân không rõ cội rễ, để tôi cắt nghĩa cho mà nghe. Nguyên tôi đây kiếp trước là Ngụy
Trưng, vâng lệnh chém đầu rồng dữ. Sau Lão Long đã kiện chúa ta rằng: đã hứa cứu khỏi sau còn bị
chém đầu? Bởi cớ ấy nó làm hại bá tánh lắm! Tôi thấy vậy mới hứa trước đền vua Diêm Vương
rằng: Tôi tình nguyện đền đầu cho Lão Long, đặng chịu tội thế cho chúa. Đến đời nay tôi đầu thai
kiếp này tu hành đã gần thành, không bao lâu cũng bỏ xác, nên tiên sư sai đến giết ta mà trả quả cho
rồi. Sau dùng đầu ta mà phá trận âm dương, thì là một công mà hai chuyện. Có phải làm hại ta đâu
mà ngươi ái ngại! Bởi tướng quân là người phàm tục, không rõ cơ trời, nên phải cắt nghĩa cho mà
tường. Nếu không có cớ ấy, lẽ nào ta liều mạng mà chi?
Cao Quân Bội thấy Trương Thập Linh nói chuyện thinh không, chẳng có bằng cớ, trả lời rằng:
- Tôi không cừu oán chi với ông, nỡ nào giết ông là người vô tội.
Trương Lập Linh nài nỉ mãi mà Cao Quân Bội làm lảng kiếu về. Trương Thập Linh nói thế rằng:
- Tướng quân nán lại cho tôi nói một lời: nay tưởng quân nhân từ, chẳng nỡ giết người vô cớ, tôi đội
ơn rất nặng, không biết lấy chi đền bồi. Vậy xin tướng quân ngồi đợi đây giây lát đặng tôi vào lấy
sách binh thơ dâng cho tướng quân lấy thảo.
Cao Quân Bội ngỡ thiệt nên y lời, ngồi nói chuyện với Lý Phương cả buổi.
Hồi lâu không thấy Thập Linh đem sách ra Cao Quân Bội lấy làm lạ, hỏi Lý Phương:
- Tôn sư vì cớ nào không thấy trở ra đàm đạo?
Lý Phương khóc và nói:
- Chắc thầy tôi đã xuất hồn khỏi xác. Bởi tướng quân không nỡ giết, nên thầy tôi sợ trễ giờ theo chư
tiên, mới dụng trí đặng vào phòng mà thoát kiếp cho tướng quân lấy thủ cấp đem về.
Cao Quân Bội nghe nói kinh hãi, cậy Lý Phương dắt mình vào đến nơi, thấy Trương Thập Linh đã tự
vẫn. Lý Phương mới đem thây xuống vuốt ve khóc kể một hồi.
Giây phút, Lý Phương nói với Quân Bội rằng: .
.
.

.
.
- Đạo thầy như cha mẹ, tôi lẽ nào dám nói thất lễ. Song thầy tôi đã tỏ việc báo ứng, nếu không trả
quả, e kiếp khác phải đầu thai. Vậy nay thầy tôi đã thị giải rồi, xin tướng quân hãy xuống một đao,
lấy thủ cấp đem về, cho dứt quả báo.
Cao Quân Bội cũng mủi lòng rơi lụy, song nghĩ lại:
- Người tiên tri như vậy, chắc sau cũng thành thần, chẳng nên cãi di chúc. Vả lại người đã thác chẳng
lẽ hoàn hồn cũng nên chém thây cho tuyệt quả báo.
Nghĩ rồi Quân Bội cầm đao ngó lảng mà chặt thủ cấp Thập Linh không thấy máu chảy. Cao Quân
Bội lấy làm lạ, lấy thủ cấp gói lại rồi trao bạc vàng cho Lý Phương dùng làm lễ tống táng, lại nói với
Lý Phương rằng:
- Chẳng phải bấy nhiêu bạc ấy là đền đáp đủ ơn kia miễn là phá trận mà thành công, ta sẽ tâu vua
phong tặng tôn sư, đền ơn cứu nước.
Lý Phương tạ ơn lãnh bạc, lo quan quách mai táng xác thầy.
Còn Cao Quân Bội thì đem quân và thủ cấp về phục lịnh.
Nói về Dương Diên Bình vâng lệnh Tôn chân nhân đi lấy huyết Đỗ Nữ cũng y lời trước tìm tới trại
Hoa Chi, hỏi thăm nhiều người, họ chỉ mới đi gần tới trại ấy. Dương Diên Bình gặp kẻ nông đinh
liền hỏi thăm:
- Chẳng hay xóm này gần trại Hoa Chi chăng?
Nông đinh nghe nói, nhìn sững, rồi trả lời:
- Đây là trại Hoa Chi, song xỉn tướng quân xuống ngựa, đợi tôi về trại báo tin đã.
Nói rồi lật đật chạy về phi báo.
Nói về chủ trại Hoa Chi là nàng Hoa Giải Ngữ.
Hoa Giải Ngữ nghe gia tướng vào báo:
- Có một vị tướng quân nhỏ tuổi tốt trai, không biết có bà con với cô chăng mà hỏi thăm Hoa chủ
trại.
Hoa Giải Ngữ liền cầm đao lên ngựa, đến nơi thấy một người cầm giáo bạc, cỡi ngựa kim, đội ngân
khôi, mang bạch giáp, nhan sắc như Tống Ngọc, Phan Anh là trai lịch sự đời trước, Hoa Giải Ngữ
khen thầm và hỏi:
- Chẳng hay quí khách danh hiệu chi, vô cớ nào mà tìm đến trại thiếp?
Dương Diễn Bình trước kia ngỡ chủ trại là trai, hoặc trẻ nào hay là một vị nữ tướng quân mắt phụng
mày ngài, nhan sắc hoa nhường, nguyệt thẹn! Dương Diễn Bình nghĩ thầm:
- Mình thuở nay thấy gái tốt cũng nhiều song chưa lịch sự như dung nhan nàng này !
Nghĩ rồi liền đáp:
- Tôi là Dưỡng Diên Bình, vâng lệnh quân sư đến trai Hoa Chi mà kiếm tên Đỗ Nữ. Chẳng hay trong
trại có Đỗ Nữ hay chăng?
.
.

.
Hoa Giải Ngữ nghe hỏi thì đã hiểu liền đáp:
.
- Thiệt đây có nàng Đỗ Nữ song công tử hãy tỉ thí cùng tôi nếu quả thật công tử đại tài, tôi dâng nàng
ấy lập tức, cần gì hỏi thăm làm chi.
Dương Diễn Bình ngẫm nghĩ:
- Tài tránh đánh đại tướng cũng lui sá gì một đứa con gái mà thắng nó không nổi.
Nghĩ rồi Diễn Bình liền đáp:
- Ta xin vâng! Song nàng phải nhớ lời, nếu nàng thua ta thì phải giao Đỗ Nữ lập tức.
Hoa Giải Ngữ bằng lòng. Hai người giao chiến có hai giờ mà không phân thắng bại. Hoa Giải Ngữ
nghĩ thầm:
- Thiệt con dòng họ Dương cây thương ròng lắm!
Hoa Giải Ngữ đánh ráng ít hiệp nữa rồi trá bại chạy dài.
Dương Diên Bình thừa thắng đuổi theo, không dè mắc kế, giây phút người ngựa đều sụp té xuống
hầm.
Khi Dương Diên Bình té xuống thì binh của Hoa Giải Ngữ lấy câu móc kéo lên, trói tay dẫn về trại.
Dương Diễn Bình ngó thấy một bà già ngồi trên giường, chừng năm mươi tuổi, mà diện mạo oai
nghi. Hoa Giải Ngữ thưa:
- Có một tướng Tống Dương Diễn Bình bị con dụng kế bắt đem vào dâng cho mẹ phân xử.
Nói rồi tiếc Dương Diễn Bình cười chúm chím, đi thẳng vào phòng. Dương Diên Bình ngẫm nghĩ,
không biết cớ gì, nàng ấy bắt mình mà không hành phạt lại giao cho một bà già?
Lát sau, Dương Diễn Bình thấy nàng ấy thay áo trở ra, hình dung tươi tốt, thật là lịch sự vô hồi, kế
nghe bà già ấy hỏi:
- Anh hùng đã bị bắt có úy tử hay không?
Dương Diễn Bình nổi giận nói lại rằng:
- Con a đầu đánh không lại ta, bất quá dùng kế mà gạt ta sa hầm. Đại trượng phu coi sự chết như
lông hồng, lẽ nào tham sánh úy tử! Ai ai lại chẳng biết danh cha ta là Dương lịnh công San Hậu, nếu
chúa ta và cha ta hay được, e cho các ngươi bị tru di tam tộc, mà trại Hoa Chi cây cờ cũng không
còn.
Bà già cười, nói:
- Ấy là già nói chơi với công tử, chớ lòng thiệt muốn dùng công tử làm rể đông sàng hầu nhờ thân
sau, lẽ nào lại làm hại!
Dương Diễn Bình ngỡ là mắng giặc mà chết, không dè bà này lại có ý gả con nên liền nói:
- Việc hôn nhân đứng thứ ba trong ngũ luân, phải có lệnh cha mẹ, lẽ nào làm con dám tự chuyên.
Bà ấy nói:
- Nhỏ mà nói như vậy, thiệt đáng con dòng không phải bậc tầm thường, già càng kính phục mười
.
.

.
.
phần. Song già sớm góa chồng may sanh được một con này là Hoa Giải Ngữ, khi trước nó đi học với
bà Tố Châu Thánh Mẫu, tài phép xảo thông, Thánh Mẫu có dạy rằng: sau có duyên nợ với trai lớn
Dương lịnh công nên phải đầu Tống triều mà hưởng vinh hoa phú quí. Nay tình cờ tướng quân tới
đây rõ ràng là duyên ngàn dặm, phải nợ ba sinh, nên già mở miệng làm mai, thì già không biết tam
càng ngũ thường hay sao? Đã hay rằng không xứng đáng với công tử, bất quá như buộc đứng tranh
dựa cây ngọc, dây sắt quấn nhành tùng, già cũng biết công tử không màng đó! Song già vâng lệnh
Thánh Mẫu nên phải nói cho cạn lời, cho như công tử muốn lấy huyết Đỗ Nữ, không có con Hoa
Giải Ngữ giúp sức thì chẳng khi nào thành công. Xin hãy xét suy mà dung tội nó phạm oai công tử.
Dương Diễn Bình nghe nói nghĩ thầm:
- Mình thiệt không biết Đỗ Nữ ở đâu, làm sao lấy huyết nó cho đặng? Vả lại Tôn chân nhân có dặn,
nhờ có Hoa Giải Ngữ giúp sức lấy mới được huyết Đỗ Nữ, lại có nói công tư lưỡng vẹn, chắc là ta có
lương duyên với Hoa Giải Ngữ. Lại thêm Tố Châu Thánh Mẫu cũng có nói tiên tri nữa. Nàng ấy có
sắc có tính, đủ tài đủ phép, lại học trò của Thánh Mẫu cũng chẳng kém chi. Vậy thì mình hứa cho
xuôi việc đặng lấy huyết Đỗ Nữ đem về tâu thiệt với vua nhằm cũng vô tội!.
Nghĩ rồi liền thưa:
- Tôi mà muốn hứa việc nhân duyên cũng đặng, song trước phải giúp tôi lấy cho được huyết Đỗ Nữ,
rồi tôi vào tâu với vua chúa tôi, sau tâu lại với gia nghiêm gia từ, khi ấy sẽ làm lễ cưới, thì mới trọn
thảo trọn ngay, vẹn ơn vẹn nghĩa.
Bà ấy khen:
- Công tử dùng nghĩa cử như vậy vẹn cả đôi bề.
Khen rồi truyền mở trói cho Dương Diên Bình.
Dương Diễn Bình liền đứng dậy làm lễ . Hoa Giải Ngữ thấy Dương Diên Bình giữ theo đạo rể con,
mắc cỡ bỏ vào phòng.
Tối hôm đó , hai mẹ con dọn tiệc đãi Dương Diên Bình. Trong lúc ăn uống Dương Diên Bình nói:
- Khi Tôn chân nhân cầm quyền nguyên soái có sai tôi đi lấy huyết Đỗ Nữ, tôi vội vã ra đi quên hỏi
Đỗ Nữ là ai, ở đâu, nhưng Tôn nguyên soái không cắt nghĩa cứ bảo tôi đến Hoa Chi thì rõ, nên tôi
tìm đến đây.
Hoa mẫu nghe Diễn Bình nói thì mỉm cười đáp:
- Bởi con ta có vâng lệnh thầy truyền nên mới biết cội rễ.
Nói rồi bèn kêu con bảo phải cắt nghĩa cho công tử để hiểu rõ.
Hoa Giải Ngữ nói:
- Công tử làm sao biết được chân tướng của nó. Đỗ Nữ vốn là một con hồ ly cái, vợ của Huyền Hồ,
nay Huyền Hồ đã theo Dư Hông xuống lập trận tại Nam Đường tự xưng là Huệ Tiên. Còn Đỗ Nữ
mấy năm nay đã trà trộn vào các cửa lều xanh, hút tinh của trai tơ luyện phép riêng, nó quyến rũ và
.
.

.
.
sát hại cho được một trăm người thì lên bậc trên các yêu hồ, nay nó giết cũng gần đủ số người, nên
phép thần thông cao lắm. Song nó sát nhiều mạng nên trời đất không dung. Tôi phải thừa dịp này mà
bắt nó, ngặt một điều là đàn bà khó trị đàn bà, cần phải có người dũng tướng ra oai thì giết nó mới
chết. Vậy công tử hãy làm y theo kế của tôi thì giết nó mới được.
Dương Diên Bình nghe nói nghĩ thầm:
- Nếu mình không gặp Hoa Giải Ngữ thì khó bắt Đỗ Nữ lắm. Ấy cũng nhờ hồng phúc của thiên tử,
nên khiến Hoa Giải Ngữ chiu phò Tống diệt Đường.
Hoa mẫu nói:
- Nếu hiền tế không chê cơm khô rượu lạt xin ăn uống cho say.
Dương Diễn Bình nói:
- Con đội ơn nhạc mẫu mà gã tiểu thơ cho con. Phận rể con đâu dám làm khách.
Hoa mẫu nghe nói rất vui lòng, còn Dương Diên Bình mừng gặp kỳ duyên Hoa Giải Ngữ cũng phỉ
tình mơ ước.
Lúc này Đỗ Nữ từ khi trà trộn vào nhà chứa điếm, xưng tên là Đỗ Ngọc Lan, khách làng trai thấy
nàng có nhan sắc quí như vàng ngọc. Vả lại tánh Hồ Mỵ hay làm màu mè, nên nhiều người mê mẩn,
tặng nàng danh hiệu là Tiền Thọ. Từ khi Đỗ Nữ vào lầu xanh thì lũ son phấn cũ ế độ hết lại thêm đất
Hoài Dương là xứ ăn chơi, kẻ giàu sang thường tìm đến đó, các vương tôn công tử đều quăng tiền để
hưởng lạc, bởi vậy xe ngựa dập dìu, đêm nào cũng đông như hội.
Bấy giờ có công tử Trần Lý vốn con quan lớn đời trước, nhà giàu lắm bạc, một mình hào phú ở gần
trại Hoa Chi. Trần Lý tuy chẳng làm quan cũng được ăn bổng lộc. Bởi cớ ấy Trần Lý ở với Đỗ Nữ
như vợ chồng, còn khi nào Trần Lý vắng tới thì Đỗ Nữ ngồi kiệu đến thăm, mỗi lần ở chơi năm ba
bữa, rồi đem bạc vàng về cho mụ trùm.
Trần Lý đắm mê nàng ấy, lâu ngày nhiễm khí yêu nên bị bại liệt.
Đêm ấy Hoa Giải Ngữ định giết Đỗ Nữ song nghĩ lại nó ở tại lầu xanh thì khó mà sát hại. Chi bằng
thừa dịp Trần Lý bị bệnh lập kế mà giết mới xong.
Hôm sau Dương Diên Bình làm theo kế, dẫn hai gia tướng mai phục giữa đường phòng khi tiếp ứng.
Còn Hoa Giải Ngữ làm phép biến ra Trần Lý, có gia đinh khiêng kiệu đến lầu xanh, tìm Đỗ Nữ.
Nàng vội vàng bước ra chàohỏi .
Trần Lý giả nói :
- Hôm nay có bệnh trong mình, tuy mới khá mặc lòng, mà hễ có hơi trong người thì mệt lắm. Nhắm
ở đây ăn tiệc bất tiện chi bằng rước nàng về nhà cùng nhau chuyện vãn thì hay hơn.
Đỗ Nữ nghe nói mừng thầm:
- Nó mới mạnh mà muốn gần mình, chắc là mau chết lắm.
Nghĩ rồi nói:
.
.

.
.
- Mấy bữa rày thiếp vắng thăm, không phải phụ tình bạc nghĩa, có ý để cho chàng tịnh dưỡng mới
mau mạnh. Nay đã khá, lý nào thiếp chẳng sang chơi.
Trần Lý giả cố làm bộ vuốt ve, lén dắt lá bùa trên đầu Đỗ Nữ mà nó không hay.
Giây phút Đỗ Nữ bảo đem kiệu ra rồi cùng đi theo kiệu Trần Lý giả. Đi được vài dặm bỗng có
Dương Diên Bình kéo quân ra đoạt kiệu Đỗ Nữ. Hai tên khiêng kiệu kinh hãi bỏ chạy Dương Diễn
Bình bắt được Đỗ Nữ. Đỗ Nữ kinh hồn toan rùng mình biến đi không ngờ bị lá bùa nên nhảy vọt lên
không nổi, mà đến thổ cũng không xong, túng phải qui xuống ăn nỉ xin tha.
Dương Diên Bình hét lớn:
- Yêu hồ đã hại người vô số, phạm tội rất trọng nay lẽ nào dung tha.
Nói rồi liền chém đầu mổ bụng lấy huyết Đỗ Nữ rồi bỏ thây ngoài đồng.
Giết Đỗ Nữ xong Dương Diễn Bình lấy huyết trở lại trại Hoa Chi cảm ơn Hoa tiểu thơ và từ tạ nhạc
mẫu trở về thành.
Mạnh thị nói:
- Ta mừng cho hiền tế thành công, tiệc đã dọn vậy ở nán lại chuyện vãn đôi lời, bữa sau cũng chẳng
muộn.
Dương Diễn Bình không dám cãi lời, ở lại ăn tiệc no say.
Trong bữa tiệc, Mạnh thị nói:
Tiệc này là tiệc thành hôn, bởi con ta vâng lời Thánh mẫu nên bỏ Đường về Tống lập công. Nay ta
tính cho nó theo hiền tế luôn thể. Vậy khi hiền tế về thành dâng huyết Đỗ Nữ thì phải tâu rõ trước
sau, nói rằng Hoa Giải Ngữ qua đầu Tống mà lập công, thì chắc Thiên tử sẽ thu dụng. Dương Diễn
Bình thưa:
- Nếu tiểu thơ giúp sức với tôi chắc là đẹp lòng Thiên Tử. Sau đó tôi sẽ về Sơn Hậu thưa lại cha mẹ
tôi hay để giúp gia đình đoàn viên.
Mạnh thị nói:
- Được như vậy ta rất phỉ tình, ấy là phước nhà khiến xui như vậy.
Hôm sau hai vợ chồng lạy tạ Mạnh thị mà đi, mẹ con sụt sùi chia tay.
Dương Diên Bình về đến thành Thọ Châu vào trước phục chỉ dâng huyết Đỗ Nữ, thì Tôn Tẩn cười
hỏi:
- Ta sai các tướng đi cũng nhiều, song có một mình công tử là may hơn cả.
Dương Diên Bình biết Tôn Tẩn đã biết mọi việc nên phải thưa qua việc hôn nhân.
Tôn Tẩn nói:
- Ta đã coi tay biết bữa nay có Hoa Giải Ngữ đến đầu Tống. Nếu không có nàng thì không đủ năm vị
Ngũ âm làm sao phá trận được. Cũng nhờ hồng phước của thiên tử nên khiến nàng đến bảo giá.
Nói rồi liền truyền lệnh cho đòi Hoa Giải Ngữ vào.
.
.

.
.
Hoa Giải Ngữ là học trò của Tô Châu Thánh Mẫu, tài phép tinh thông lại có công giúp Diên Bình lấy
huyết Đỗ Nữ, nên triều thần rất trọng dụng.
Tống Thái Tổ thấy Hoa Giải Ngữ nhan sắc không nhường bốn nàng nữ tướng trước lại nghĩ Dương
Diễn Bình chưa vợ, nên thuận cho đôi lứa kết duyên.
Vợ chồng Dương Diên Nghiệp nghe nói cũng mừng rỡ lạy tạ ơn vua. Hoa Giải Ngữ tuy được kết
duyên song có vẻ e thẹn vì đã cùng Dương Diên Bình ân ái trước rồi.
Tống Thái Tổ thấy các tướng sai đi đều đem đồ về nộp đủ thì hỏi Tôn Tẩn định ngày phá trận.
Tôn Tẩn đã chọn được ngày chuyên giải, nên tâu với Thái Tổ hay và truyền lệnh các tướng đầu canh
năm điểm binh tụ đến trước đài nghe lệnh.
Lời bàn
Lẽ trời là quy luật thiên nhiên bắt mọi vật phải phục tùng.
Thiên thần là thế giới tu hành, nhưng vẫn không ra ngoài định mệnh của vũ trụ mà phục vụ cho định
mệnh của thiên nhiên giúp cho thiên nhiên biến chuyển đúng theo quy luật.
Định mệnh của vua nước Tống gồm thâu thiên hạ, nước Đường đến hồi diệt vong sự biến chuyển ấy
tác động vào giới thần tiên, các vị tiên ông đả căn cứ vào định mệnh ấy của vũ trụ mà giúp Tống. Dư
Hồng, Dư Triệu được Xích Mi lão tổ sai xuống, mục đích cũng chỉ để trừng phạt Tống Thái Tổ bất
nghĩa giết cả trung thần mà thôi, không có ý cãi lại mệnh trời.
Ấy vậy, những kẻ không thông hiểu mệnh trời thì hay làm trái qui luật thiên nhiên, gây đau khổ cho
xã hội loài người.
Lời xưa có nói: Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong, đó là quan niệm tùng thiên lý. Theo triết
học Đông Phương mệnh trời tức là sự biến chuyển trong vũ trụ là bao trùm tất cả lẽ sống, đạo nghĩa
làm người cũng không thoát ra khỏi quan niệm ấy.
.
.
.
Hồi Thứ Hai Mươi Lăm
 Thần tiên hạ san phá trận
Yêu đạo sút thế mạng vong
.
.

.
.
Rạng ngày, Tôn chân nhân đến tướng đài nói:
- Tôi tài phép không bao nhiêu, bởi các vị đạo hữu ép hoài nên không lẽ từ chối. Nay đến ngày phá
trận, xin các vị giúp sức giùm tôi cho tận tình.
Nói rồi bước lên tướng đài cầm một cây lệnh tiễn kêu lớn:
- Xin mời Trần đạo hữu đem Cao Hoài Đức, Phan Nhân Mỹ, Tào Bàn, Trương Quang Viễn, La Ngạn
Oai lên đài lãnh lịnh.
Trần Đoàn và năm tướng già đồng vâng lệnh lên đài, Tôn chân nhân mới nói:
- Đạo hữu lãnh năm điệu phù này, đưa cho ngũ lão tướng gắt trong đầu tóc, kẻo vào trận bị yêu khí
nó hớp hồn, rồi dẫn một ngàn năm trăm binh đều dùng cờ vàng, còn năm tướng thì đội kim khôi,
mặc giáp vàng, cỡi ngựa đạm vào phá cửa phía Bắc, bởi màu vàng thuộc thổ, khắc màu đen thuộc
thủy gọi là thổ khắc thủy. Năm tướng xông vô cửa phải chặt cây phướn của nó giết chết các thây ma
chửa và thây ma câm, còn chủ tướng cửa ấy là lão Huyền Hổ, bởi nó là hồ ly thành tiên, nên phép tắc
cao lắm phải đổ huyết vợ nó vào mình nó, ấy là dụng tà trừ tà thì giết nó mới được.
Huỳnh Thạch Công và năm tướng vâng lệnh xuống đàn.
Tôn chân nhân mời Lê Sơn Thánh Mẫu và Đào Tam Xuân, Triệu Hoàng Cô, Lý Thái Huê (Lý phu
nhân), Dư Thoại Hoa (Dư Phu nhân), La phu nhân đều lên đài truyền rằng:
- Thánh mẫu lãnh năm điệu phù này đưa cho ngũ lão âm tướng, giắt vào tóc, kẻo vào trận bị yêu khí
nó hớp hồn, rồi dẫn một ngàn năm trăm binh đều dùng cờ đen vào phá cửa phía Nam và năm tướng
phải đội mũ sắt, mặc giáp đen, cỡi ngựa ô, bởi màu đen thuộc thủy khắc màu đỏ thuộc hỏa, gọi là
thủy khắc hỏa. Năm tướng xông vô cửa phải chặt cây phướn của nó và giết chết các thây ma, còn chủ
tướng trận ấy là con giả nhân thành tinh phải dùng óc chim ôn hoàng mà rải vào mình nó, thì nó biến
hóa không đặng, vật ấy gọi là ôn hoàng sa, vì óc chim ôn hồn mạnh lắm, vấy nhằm mình yêu thú tức
thì hiện nguyên hình, thời giết nó mới đặng.
Lê Sơn Thánh mẫu và năm tướng vâng lệnh xuống đài.
Tôn chân nhân lại mời kim Quang Thánh mẫu và Lưu Kim Đính, Tiêu Dẫn Phụng, Ngại Ngân Bình,
Úc Sanh Hương, Hoa Giải Ngữ lên đài mà truyền rằng:
- Thánh mẫu lãnh năm điệu phù này, phát cho ngũ thiếu âm tướng giắt trên đầu tóc mà trị khí yêu rồi
dẫn một ngàn năm trăm binh đều dùng cờ đỏ còn năm nàng ấy phải mặc áo điều, cưỡi ngựa hồng,
vào phá cửa phía Tây, bởi màu đỏ thuộc hỏa, khắc màu trắng thuộc kim, gọi là hỏa khắc kim. Năm
tướng xông vào cửa phải chặt cây phướn của nó, và giết chết các thây ma. Còn chủ tướng trận ấy là
tinh bươm bướm, thần thông quảng đại chẳng phải tầm thường, phải rải Cao Đường thảo cho nó bị
uế nhơ thì biến hóa không đặng, tức thì hiện nguyên hình rồi dùng trảm yêu kiểm mà chém nó.
Kim quang thánh mẫu và năm tướng đồng vâng lệnh xuống đài.
.
.

.
Lúc ấy, Tôn chân nhân mới nói:
.
- Còn cửa trung ương, Tử Hà Tiên trấn thủ, nguyên Tử Hà Tiên là Tiên hạc, tu ngàn năm hóa đặng
hình người, nếu nó tu đôi ba năm nữa cũng thành chánh quả, nên phép tắc cao hơn các yêu tinh kia.
Ta phải đem đầu Thập Linh và Định Phong Châu, dẫn một ngàn rưỡi binh mặc áo xanh cầm cờ xanh
vào phá cửa trung ương mới đặng. Vì màu xanh thuộc mộc, khắc màu vàng thuộc thổ gọi là mộc
khắc thổ. Năm đạo binh đồng phá một lượt, trận âm dương mới tan.
Tống Thái Tổ thấy Tôn chân nhân sửa soạn xuống đài thì bước tới nói:
- Chân nhân điểm các tướng hết thảy rồi, sao không đến quả nhân?
Tôn. chân nhân nói:
- Bệ hạ là Thiên tử, lẽ nào đến chốn hiểm nghèo làm chi?
Tống Thái Tổ nói:
- Khi trước trẫm cũng chinh chiến, từng ra trận giao công, nay giặc ở trước mặt, ấy là việc lợi hại cho
tổ tông đến như các vị thần tiên còn đình việc thanh nhàn mà giúp trẫm thay, huống chi trẫm dám
cậy đặng áo vàng mà không ra sức?
Tôn chân nhân nói:
- Bệ hạ có lòng lo việc nước như vậy song chẳng nên đem mình rồng vào trận nguy hiểm. Như bệ hạ
muốn chia sự mệt nhọc với chúng tôi, xin nai nịt lên lầu, cầm dùi đánh trống; một là lợi oai chúng
tướng, hai là mình rồng chấp lệnh mà ếm tế tà tinh, như vậy có ích lợi hơn cầm đao ra trận.
Tống Thái tổ mừng rỡ khen phải, liền nai nịt lên mặt thành thị sự.
Khi ấy năm vị tiên ông dẫn binh tướng vào phá trận âm dương một lượt. Vô đến trận thấy tối tăm mù
mịt nghe những tiếng quỉ khóc thầm rên! Còn những vị chánh thần như Lý thiên vương, Na tra Nhị
Lan hiển thánh là bậc thần thông quảng đại lẽ nào phò yêu mà diệt Tống, bởi Tử Hà Tiên dùng bùa
chú theo phép mà triệu, cùng chẳng đã phải giáng hạ đó thôi. Nay thấy mấy vị đại tiên vào phá trận,
thì các thần đều bỏ trận mà thăng thiên. Còn át sát hung thần cũng trốn hết. Trừ ra thây ma câm, thây
ma chửa còn ở giữ trận mà thôi?
Dư Triệu biết thế không xong, liền độn thổ trốn trước. Còn năm vị yêu tiên bị vật ký biến hóa không
đặng, đều chết hết cả năm .
Tôn chân nhân truyền cho các tướng giết thây ma chửa, thây ma câm và đánh giết binh Đường chết
thôi không biết bao nhiêu mà kể.
Khi phá trận rồi, vua Nam Đường thấy binh chết rất nhiều, nên truyền quân đào hầm dập lại.
Còn Tống Thái Tổ thấy trận âm dương bị phá tan nát, trong lòng mừng rỡ vô cùng truyền quân khai
cửa thành nghinh tiếp binh tướng. Lại truyền dọn tiệc chạy đãi các vị thần tiên.
Tống Thái Tổ giã ơn nói:
- Các vị giúp trẫm tận lực, thật chẳng biết dùng vật chi mà đền đáp cho xứng công.
.
.

.
Các tiên nói:
.
- Trời đã định cho bệ hạ ra đời, tiếp tục Ngũ đại lẽ nào Nam Đường giữ đặng Kim Lăng. Bởi yêu tinh
nghịch thiên nên phải bỏ mạng, ấy là hồng phước của bệ hạ, chúng tôi có công chi mà bệ hạ tạ ơn?
Khi mãn tiệc, các vị tiên kêu các đệ tử mà bảo rằng:
- Các con hãy trả bùa pháp lại, đặng thầy đem về động, vì từ đây đã hết việc chiến chinh bửu pháp
không còn dụng nữa.
Các đệ tử đều trả bửu giáp lại cho thầy.
Lưu Kim Đính thưa:
- Khi phá trận rồi, tôi không thấy Dư Triệu, chắc nó chạy thoắt sau chắc báo cừu.
Tôn chân nhân nói:
Ta cũng nghĩ tới việc ấy, nên có vẽ họa đồ trận Ngũ lôi, e vậy ta cho ngươi hãy xem đó mà lập trận.
Nếu Dư Triệu không đến thì thôi bằng nó cự địch nữa, thì lập trận Ngũ lơi trừ nó.
Lưu Kim Đính lạy tạ và lãnh trận đồ.
Các tiên từ giã Thái Tổ. Tống Thái Tổ nói:
- Xin các vị thượng tiên ở lại với trẫm một đôi ngày, trẫm rót hầu tiệc ít lần, kẻo lòng chưa thỏa.
Trần Đoàn nói:
- Bệ hạ nói bấy lời cũng đủ thấy có tính hậu đãi. Chúng tôi đều cảm ơn. Song chúng tôi không muốn
ở lâu giữa chốn chiến chinh. Từ nay sắp sau bệ hạ vô sự, xin đừng lo mà mệt lòng rồng. Nay tuy
chúng tôi lui về, song cũng còn ngày gặp gỡ nữa.
Tống Thái Tổ thấy cầm lòng không đặng, liền theo đưa khỏi cửa thành. Các đệ tử cũng theo lạy đưa.
Năm tiên đằng vân bay về động. Đoạn Tống Thái Tổ phán:
- Mới phá trận, tướng binh còn mệt, trẫm cho nghỉ ba ngày, rồi sẽ kéo tới vây thành bắt Lý Cảnh,
ráng tận tâm một phen rồi khải tấu ban sư .
Bữa sau, quân vào báo với Tống Thái Tổ:
- Chúng tôi thấy Dư Triệu vào ải Thanh Lưu.
Tống Thái Tổ phán:
- Nay Dư Triệu đã trở lại, chắc nó đi viện yêu đạo nữa, bận này khó nỗi cầu các tiên xuống đây mà
bắt nó, biết tính làm sao?
Lưu Kim Đmh tâu:
- Khi Tôn chân nhân gần về có cho tôi họa đồ trận Ngũ lôi nếu Dư Triệu đến đây thì lập trận ấy mà
bắt nó. Nay nó còn trở lại chắc chạy không khỏi số trời.
Tống Thái Tổ phán:
- Tà lẽ nào thắng chánh, đốn cây cũng nên bứng rễ mới khỏi hậu hoạn về sau!
Lưu Kim Đính vâng chỉ.
.
.

.
.
Về bên Nam Đường trận bị phá, binh chết hơn mười muôn, năm vị yêu tiên đều chết tuyệt. Vua Nam
Đường thấy còn ít vạn binh và quân sĩ lão nhược, cả ngàn tướng cạnh chết hết phân nửa, tính bề cự
không lại Tống thì ăn năn than:
- Phải chi đầu hàng trước thì bây giờ đã an. Nay lỡ quá rồi, sợ đầu hàng Tống không chịu. Chi bằng
lạy tông miếu, giết hết vợ con, rồi mình cũng tự vận cho xong, kẻo bị Tống bắt về làm nhục.
Bá quan thấy vua tính như vậy đồng can hết lời, song vua Nam Đường không chịu nghe.
Vua Nam Đường tính liều mình kế Dư Triệu về ải, nghe việc ấy liền can rằng:
- Bệ hạ không sợ chết, thì đánh liều một trận họa may, lẽ nào liều mình mà giao nước cho giặc! Vả
lại bị trận này là bị năm thầy nó xuống giúp Tống đánh Đường. Chúng nó có thầy trợ lực tôi lại
không thầy hay sao? Bấy lâu tôi không về núi mà thỉnh thầy là sợ thầy tôi quở sao chẳng bảo Dư
Hồng sư huynh về núi. Nay bại trận này, đạo hữu chết nhiều lắm, cừu này trả không đặng thì khó
ngủ khó ăn. Tôi phen này quyết đánh liều về lạy thầy xuống, dầu bị quở phạt cũng an tâm. Nếu thầy
tôi xuống giúp Đường, chẳng những Kim Đính, Phùng Mậu chết hết mà thôi, dầu Tôn Tẩn, Trần
Đoàn, Huỳnh Thạch Công, Lê Sơn Thánh mẫu, Kim Quang Thánh mẫu cũng chịu phục và xin lỗi
nữa!
Vua Nam Đường lúc cùng trí nghe Dư Triệu nói mạnh mẽ như vậy cũng muốn cầu may, nên y lời lo
đánh nữa. Còn Dư Triệu lén qua thám thính, rõ các việc bên Tống nên tâu:
- Năm vị đại tiên đã thâu phép các học trò về động, như vậy là Kim Đính với Phùng Mậu đã hết
phép, sá chi binh tướng Tống là phàm phu, chẳng đi thỉnh thầy tôi làm chi, một mình tôi báo cừu
cũng đặng!
Chúa tôi nam Đường nghe rõ, hết khóc liền cười. Vua Nam Đường phán:
- Tiêu Dẫn Phụng, Ngại Ngân Bình và Úc Sanh Hương, cha mẹ chúng nó là người nước Nam
Đường, chẳng biết tại sao chúng nó lấy tướng Tống mà làm phản triều đình. Bấy lâu trẫm muốn giết
cha mẹ chúng nó cho rõ tội phản thần, song ngại một điều ba đứa ấy là học trò của Thánh mẫu phép
lực cao cường nếu giết cha mẹ nó, ắt là nó báo cừu cho đã giận. Nay chúng nó đã bị thầy thâu phép,
khỏi lo việc báo thù vậy trẫm truyền chỉ đòi Tiêu Thăng, Úc Thoại về triều, giả thương nghị việc
nước, tôi sẽ phục binh mà giết phứt đi, mặt khác lại sai một ngàn binh đến Ngại gia trang giết cho
tuyệt tộc họ Ngại.
Các quan đồng nói phải, rồi y theo kế mà làm.
Tiêu Thăng, Úc Thoại thật tình vâng chỉ mà về trìều bị ba trăm đạo quân mai phục áp ta giết chết.
Còn nội nhà cha Ngại Ngân Bình bị tướng bình tỏi vây giết không còn một mạng rồi nổi lửa đất nhà,
lửa cháy hai ngày mới tắc. Thảm thay!
Đoạn vua Nam Đường cho triệu binh các ải về, cộng hơn mười vạn, đều giao cho Dư Triệu cầm
quyền Còn vua Nam Đường cứ uống rượu giải buồn.
.
.

.
.
Ngày kia, Dư Triệu dẫn hai vạn binh đi khiêu chiến. Quân về báo lại thì năm tướng nhỏ quyết ra cự
chiến.
Lúa Kim Đính can:
- Chẳng nên nóng nãy mà hư việc, hãy nán đợi trong ba ngày, như nó hồi tâm thời thôi, bằng khiêu
chiến luôn luôn sẽ tính
Các tướng cũng y lời.
Dư Triệu khiêu chiến hơn nửa ngày không thấy tướng nào ra trận, bữa sau khiêu chiến một ngày nữa
cũng không ai ra, bữa thứ ba mắng nhiếc cũng trơ trơ. Dư Triệu nổi giận cho phá thành, bị đổ nước
sôi và lăn đá. Binh Nam Đường bị bệnh cũng nhiều, lại thêm cung ná bắn xuống nữa. Dư Triệu túng
phải lui binh, nín một ngày không khiêu chiến nữa.
Khi ấy Lưu Kim Đính liền ngẫm nghĩ:
- Có lẽ nào Dư Triệu biết ăn năn mà không đánh nữa? Bất quá phá thành không nổi nên về đỡ đó
thôi. Chắc ngày khác cũng khiêu chiến, lẽ nào mình bế thành hoài? Ấy là nó tới số, chừng nào chết
mới thôi khiêu chiến.
Nghĩ rồi Kìm Đính lấy họa đồ Ngũ lôi trận ra xem, lời dặn bảo rõ ràng. Tức thì Kìm Đính sai Phùng
Mậu đem binh qua phía Đông Nam gần kẹt núi, chọn chỗ đất bằng phẳng, đào một cái hầm vuông
vức ba trượng, sau năm thước đổ thuốc súng cho đầy, để lá bùa dằn trên mặt rồi lấp đất lại trên mặt
đất trồng cây tre như chữ thập, gọi là trận Ngũ lôi. Phùng Mậu vâng lệnh đi lập tức.
Lưu Kim Đính sai Trịnh Ấn đem năm ngàn binh mai phục ngoài trận sau núi, bắn xuống trận Ngũ
lôi. Trịnh Ấn vâng lệnh đi nữa.
Lưu Kim Đính lại sai Cao Quân Bảo chọn năm tên lính già yếu tàn tật, đội kim khôi, mặc thiết giáp,
giả làm dũng tướng đi du lịch. Cao Quân Bảo y lời.
Khi Lưu Kim Đính sai cắt xong rồi liền tám gội thay áo mới lấy năm lá phù của Tôn chân nhân để lại
đến trận Ngũ lôi, dán phù treo ngọn tre rồi niệm chú thâu lôi, tức thì sấm nổ vang tai. Lưu Kim Đính
trở về sai Cao Quân Bảo đi khiêu chiến, và dặn phải lời nói khích luôn luôn. Lại truyền cho năm
tương già yếu tàn tật, dẫn hai mươi tên lính chưa rõ ốm o, vây chung quanh trận ấy. Rồi truyền cho
năm ngàn binh mai phục ngoài thành, đợi Dư Triệu vào trận rồi sẽ áp tới vây phủ.
Còn Cao Quân Bảo đơn thân độc mã đến ải Thanh Lưu khiêu chiến: Dư Triệu cỡi ngựa ra trận, Cao
Quân Bảo nói:
- Nay ta chẳng đấu lực, nên chẳng đem binh. Bởi trước ngươi lập trận đã bị năm vị tiên sư phá rồi,
giết chết hết, Nam Đường hao binh tướng cũng nhiều, đáng lẽ ngươi biết hổ thẹn, mình trốn về non
bên tu luyện cũng phải. Sao còn đem binh khiêu chiến, quyết việc đua tranh, nay nữ tướng lập trận
lạ, ngươi đến xem mà cắt nghĩa phép phá trận ấy ra thể nào. Nếu ngươi cắt nghĩa được ta sẽ không
đánh Nam Đường nữa. Bằng ngươi biết mình phá không nổi thì lui về cho mau.
.
.

.
Dư Triệu nói:
- Ngươi đã lập thì phá đặng, lẽ nào không dám đi coi?
Cao Quân Bảo thấy Dư Triệu đi, liền chạy về báo tin với Lưu Kim Đính.
.
Lưu Kim Đính nghe nói, liền giục ngựa ra trận. Kế Dư Triệu cỡi ngựa đến. Lưu Kim Đình chỉ trận
mà nói rằng:
- Nếu người dám vào trận ba lần, thì ta về tâu xin vua bãi binh, nhượng đất Nam Đường cho Lý
Cảnh. Bằng ngươi không dám thì lui về cho mau, dưng gánh việc trần, mà báo đời thiên hạ.
Dư Triệu ngó thấy trận xơ bơ, có năm tướng già và hai mươi người lính tật nguyền thủ trận coi
không thấy hào quang và thần tướng chỉ có trên ngọn tre nhẹ nhàng hơi lửa, bèn nghĩ:
- Chắc là Kim Đính dùng lửa đốt binh mình, mà mình chẳng đem binh, nó đốt minh sao đặng? Bề gì
độn ra cũng khỏi, nhắm chẳng hề cho. Chắc là Lưu kim Đính hết phép rồi nên lập trận hồ nghi mà
gạt cho mình về núi, cũng như Khổng Minh dụng trí đờn cầm, ấy là làm túng mà gạt Tư Mã ý. Ta
cũng nên vào trận cho chúng hết hồn, rọi phun lửa đốt cả bầy cho bỏ ghét?
Nghĩ rồi Dư Triệu nói lớn rằng:
- Kim Đính, ngươi lập cái trận lôi thôi như vậy, chẳng những ta vào ba lần, dầu vô ra ba chục thứ
cũng chẳng khó gì?
Lưu Kim Đính làm bộ thất sắc nói cách yếu ớt:
- Xin hãy suy xét rồi sẽ vào, kẻo thất đanh và uổng mạng!
Dư Triệu nghe nói càng mạnh mẽ mười phần.
Dư Triệu cầm song kiếm giục ngựa vào trận. Năm tướng già và hai mươi người lính tàn tật vây phủ
đánh liền. Dư Triệu đánh chúng nó ngã lăn, liền xông vào trận giữa. Lưu Kim đính phát pháo, năm
ngàn phục binh áp tới vây phủ ngoài xa, còn Cao Quân Bảo ở ngoài tuần vãng. Trịnh Ấn nghe hiệu
lệnh dẫn binh pháo thủ lên núi, bắn xuống như mưa, tên bay tơi bời.
Lưu Kim Dính niệm chú và đánh lôi quyết năm vị lôi công nổi sét ầm ầm. Dư Triệu thất kinh đằng
vân bay lên thì bị lôi công đánh ngã xuống. Dư Triệu tính bề độn thổ, ngặt đất đã cứng như đồng,
túng phải nhảy vào trung ương mà độn hỏa, chẳng ngờ tứ bề có thiên la địa võng, không ngõ thoát
thân, bị ngũ lôi đánh chết bay hơi tanh khét vô cùng. Năm tướng già và hai mươi người lính tàn tật
cũng bị thuốc súng mà chết.
Lời Bàn.
Nếu kẻ phô trương tài năng để đe dọa thiên hạ thì cũng có kẻ làm ra cách không hiểu biết để
chiến thắng kẻ tự cao tự phụ.
Dư Triệu lập trận âm dương, vận dụng hết khả năng của mình để làm cho tướng Tống sợ hãi, các vị
tiên phục tùng, thì trái lại Tôn Tẫn chỉ lập một trận sơ sài, tưởng như kẻ không biết gì về trận pháp.
.
.

.
.
Như Dư Triệu phải bỏ mình vì vào cái trận sơ sài ấy, chứng tỏ Dư Triệu là người tự cao tự đại không
lường được tài năng của kẻ khác và không rõ sự dốt nát của mình.
Trong cuộc sống đời người, kẻ nào không hiểu được cái dốt nát của mình, thường khinh bỉ việc làm
của kẻ khác, cuối cùng, họ đã bị kẻ khác lợi dụng cái dốt nát của kẻ tự cao tự phụ để chiến thắng.
Ấy vậy cái khôn không phải đem sự hiểu biết của mình khoe khoang, mà chính là làm cho họ không
thấy sự hiểu biết của mình.
.
.
.
Hồi Thứ Hai Mươi Sáu
  Nam Đường sa cơ đầu Tống
Thái Tổ thương tướng phong thần
Khi Dư Triệu bị thiên lôi đánh chết, hiện nguyên hình là con quạ lửa cháy thành than? Lưu Kim
Đính niệm chú thâu lôi, mấy vị Lôi thần lui hết.
Lưu Kim Đính sợ vua Nam Đường hay tin, trốn qua ải khác, mất công truy nã lâu ngày, chi bằng
xuất kỳ bất ý mà phá thành thì khỏi lo hậu hoạn. Tức thì Kim Dính về điểm binh tướng, nổi đèn đuốc
đì ban đêm, đến vậy phủ ải Thanh Lưu, hãm thành một lượt Năm tướng già nhảy lên thành, chém
binh giữ cửa rồi mở cửa ải cho binh tướng Tống kéo vào.
Trong lúc ấy vua Nam Đường đang uống rượu với các thê thiếp không hay giặc đã vào thành. Cao
Quân Bảo và Lưu Kim Đính xông vào bắt vua Nam Đường trói lại. Hoàng hậu và bốn mươi quí phi
đều quì lạy xin dung cho họ toàn tánh mạng. Lưu Kim Đính y lời, truyền đóng cửa cung không cho
binh vào phá hại rồi đem vua Nam Đường vào thành về đến nơi thì trời đã sáng.
Rạng ngày Kim Đính cho vua Nam Đường đến trình Thái Tổ. Tống Thái Tổ liền xá tội truyền quân
mở trói.
Vua Nam Đường lạy tạ ơn khóc và tâu:
- Tôi bị các tướng võ đốc vô, và yêu đạo khoe tài ép trí, nên mắc tội với bệ hạ đã nhiều. Nay tôi đã
ăn năn chừa lỗi, xin bệ hạ mở lượng trời đất mà rộng dung ơn tôi giữ theo đạo thần tử đời đời chẳng
hề dám quên ơn mà làm phản.
Ban đầu Tống Thái Tổ còn nóng giận chẳng chịu cho đầu hàng, sau thấy vua Nam Đường năn nỉ hết
lời, khóc lạy đủ lễ, nên động lòng thương, phong vua Nam Đường là Thuận nam vương, trấn thủ đất
.
.

.
.
Kim Lăng như cũ, và cho tướng quân bảo hộ nhiều người, phòng ngày sau có sự biến cải!
Từ ấy sắp sau, thiên hạ đều về Tống. Nam Đường không dám trả lòng phản phúc nữa.
Tống Thái Tổ hồi tâm, rất thương các tướng, vì bị vây đã ba năm dư, nay mới đặng Nam Đường gom
về một mối, nên truyền dọn tiệc khao binh thưởng tướng rồi sẽ ban sư đặng các tướng thăm nhà thăm
cửa.
Đoạn Miêu quân sư liền xin vua trao bảng an dân kẻo thiên hạ sanh sự. Tống Thái Tổ y tấu.
Miêu quân sư đặt bảng tịnh dân yết khắp nơi, dân nước Nam Đường đều kính phục, không có ý báo
oán trả cừu.
Khi ấy Tiêu Dẫn Phụng, Úc Sanh Hương, Ngại Ngân Bình, ba nàng vào ải Thanh Lưu, có ý tìm cha
mà không gặp, tìm về nhà thấy nhà cửa tan hoang! Ba nàng than khóc một lúc thì có người gia tướng
cũ chạy đến thuật lại chuyện trước sau. Ba nàng mới rõ vì mình mà gia quyến bị tru di.
Ba nàng trở về Thọ Châu tâu với vua Thái Tổ, kẻ rõ nỗi thảm khổ cho chồng hay. Tống Thái Tổ nghĩ
công lao ba nàng vì đầu Tống mà cả nhà bị hại nên truyền dán cáo thị khắp nơi, nếu ai tìm được hài
cốt cha của ba nàng thì được thưởng ngàn lượng bạc.
Chỉ ba bữa sau, có ba người đến lãnh bảng, và kể nguyên do:
- Thây Tiêu Thang nhờ người bạn học chôn lén. Thây Úc Thoại nhờ vị quan già chôn lén Thây Ngại
lão gia nhờ người giữ vườn chôn lén. - Bởi ba người ấy chết rất thảm thiết nên những kẻ chôn lén xót
thương mà không sợ tội.
Ba nàng đồng lạy tạ ơn và đi tìm ân nhân để trả nghĩa, rồi chọn ngày dời đến chỗ đất tốt để mai táng .
Đến ngày đi táng, Tống Thái Tổ dẫn các quan văn võ đến điếu tế. Thiên hạ đến coi rất đông ai cũng
khen:
- Cũng thời cái chết, mà ba ông này có phước lớn mới được Thiên tử và bá quan đi điếu.
Vua Thái Tổ còn xuất bạc vàng cất ngôi mộ cao lớn, cấp cho họ Ngại, họ Úc, họ Tiêu một số làm
hương hỏa phụng sự ba vị tướng quân.
Lưu Kim Đính tâu:
- Tôi lập trận Ngũ Lôi, hao hết hai mươi tám người già bệnh, ấy cũng vì việc nước mà bỏ mình, vậy
xin bệ hạ rước pháp sư cầu siêu cho hồn đặng tiêu diêu mới khỏi mang tội.
Tống Thái Tổ y tấu, sai Phùng Mậu đi rước pháp sư.
Pháp sư đến lập đàn cầu hồn chín ngày đêm, rồi từ tạ Tống Thái Tổ về núi.
Lời Bàn
Không vì những lỗi nhỏ nhặt mà trả thù bằng những lỗi lầm lẫn.
.
.

.
.
Tống Thái Tổ chỉ giết lầm một trung thần trung tín, mà Xích Mi lão tổ sai Dư Hồng, Dư Triệu xuống
giúp Đường phạt Tống trong một thời gian. Thời gian ấy việc chiến tranh xảy ra hao tốn biết bao
nhiêu. Xét về lẽ công bằng thì sự trừng phạt ấy không gọi là xứng đáng. Vua Tống chỉ giết một ngườì
còn Xích Mi lão tổ giết cả hàng vạn người thì ai phạt Xích Mi lão tổ. Đây là một câu chuyện thần
thoại trong lịch sử mà người xưa đặt ra để cấu tạo thành cốt truyện, mà người đời sau nên để ý một
câu chuyện huyền hoặc ấy không có gì là công bằng.
Có phải vua Tống là người phàm tục, nên bị tội giết người còn Xích Mi lão tổ là bậc thần tiên, không
phạm tội ấy chăng?
.
.
.
Hồi Thứ Hai Mươi Bảy
Bởi nằm mộng. Kim Đính bâng khuâng,
    Nghe đệ tử, Xích Mi giáng hạ
Tống Thái Tổ chọn ngày ban sư, Lưu Kim đính đứng chầu, bỗng rùng mình, nhớ lại điềm mộng đêm
qua, không biết cha già mạnh yếu ra sao, lòng thấy bồi hồi, liền thưa với Miêu quân sư:
- Đêm hôm qua tôi nằm mộng, không biết điều hung kiết thế nào, xin quân sư làm ơn bói cho một
quẻ.
Miêu quân sư đặt bàn hương án, xử quẻ, rồi đoán:
- Cứ theo quẻ này, thì hão phụ mẫu vẫn bình yên, duy có việc bản thân hình không sáng sủa mà thôi.
Song tôi xét lại phu nhân thuận lẽ trời, giết kẻ nghịch, lẽ nào ma quỷ dám hại mình? Trong quẻ nay
có quí nhân phò hộ, không đến tai hại mà lo.
Lưu Kim Đính nghĩ thầm:
- Trước đây mình giết Dư Hồng, sau trừ Dư Triệu, chắc là Xích Mi lão tổ xuống báo cừu cho học trò.
Nay quân sư đoán quẻ như vậy e ta bị lâm nạn chăng?
Miêu quân sư thấy Lưu Kim Đính nghĩ ngợi, liền nói:
- Ba ngày nữa thì có họa, song có năm vị sao giải cứu, phu nhân gặp dữ cũng hóa lành.
Lưu Kim Đính thây quân sư thuở nay đoán vẻ linh nghiệm nên cũng bớt lo đánh liều tới đâu hay tới
.
.

.
đó.
Bấy giờ Dư Triệu bị trận Ngũ Lôi xuất hồn bay về núi. Thể Vân đồng tử hỏi:
.
- Có phải Dư Triệu sư huynh đó không? Sao tôi coi sắc diện khác thường, không phải như xưa.
Hồn Dư Triệu nói:
- Nay ta hiện hình về thăm thầy và thưa một chuyện.
Thể Vân đồng tử vào báo lại. Xích Mi lão tổ cho đòi vào. Dư Triệu bước tới quì trước mặt thầy vừa
lạy vừa khóc kể lể mọi việc.
Xích Mi lão tổ nửa thương nửa giận:
- Ngươi đã chẳng kêu Dư Hồng về thì thôi, sao lại giúp nó làm điều trái lẽ? Hai đứa bay chết về
nghiệp đao binh là tự định hại lấy mình, còn than khóc nỗi gì?
Nay tôi vè đây có ý xin thầy răn chúng nó một phen, nếu không thì sau chúng nó còn làm những việc
khinh dễ đến thầy nữa.
Xích Mi lão tổ nghe Dư Triệu nói nổi giận mắng:
- Lũ trẻ này dám khi dễ ta quá lẽ. Mấy vị thầy nó lại binh đệ tử không vị tình ta. Dư Triệu, hãy theo
ta xuống Thọ Châu một chuyến.
Nói xong Xích Mi lão tổ dẫn hồn Dư Triệu xuống Thọ Châu, rũ tay áo một cái thì trời đất tối tăm.
Tống Thái Tổ đang chọn ngày ban sư không hiểu vì sao mà trời ban ngày lại tối như ban đêm, giây
phút giông tố ầm ầm, thành Thọ Châu rung rinh như chiếc ghe dậy sóng.
Ai nấy đều kinh hãi, Miêu quân sư đánh tay rồi tâu:
- Ấy là Xích Mi lão tổ giáng hạ, có ý quở trách chúa tôi, xin bệ hạ dẫn võ ra thành thấp hương bái
lạy.
Tống Thái Tổ y tấu, lập bàn hương án vái rằng:
- Tôi là Đại Tống có tội xin cao tiên dạy bảo và làm tội một mình tôi, kẻo nội thành liên lụy.
Xích Mi lão tổ thấy vậy liền vén tay áo, tức thì thành vách hết xao động nắng trở lại như thường
Xích Mi lão tổ tiên hiện hình, vòng tay bái Thái Tổ và nói:
- Bởi các con a hoàn ấy nhục mạ ta, nên nay ta xuống xem pháp thuật chúng nó ra thế nào?
Tống Thái Tổ nói:
- Điều ấy là Dư Triệu nói gian, thiệt tình không có ai dám khinh dễ cao tiên.
Năm nàng nữ tướng cũng quì lạy Xích Mi lão tổ và thưa:
- Xin sư bá xét lại, kẻo oan chúng tôi lắm.
Xích Mi lão tổ nổi giận mắng:
- Chúng bay là những đứa bất hiếu, vì tình duyên chồng vợ mà sát hại mẹ cha, chẳng bằng loài cầm
thú. Đã vậy còn dám cả gan giết hại đệ tử của ta. Hãy mau trả gươm linh và sách báu lại đây, rồi tự
cắt đầu mà đền mạng. Nếu không vâng lời, ta sẽ làm thành Thọ Châu nát như tro bụi.
.
.

.
Tống Thái Tổ lạy lục xin tha. Xích Mi lão tổ nói:
.
- Lưu Kim Đính giết học trò ta, vì học trò ta kình địch với nó, thì tội ấy cũng rộng dung, song cái tội
giả danh ta mà gạt Dư Hồng thì sỉ nhục ta lắm, không thể tha thứ. Ta phải trị tội phạm thượng cho
năm đứa ấy phải chết mà thôi.
Lời Bàn
Lời nói của kẻ có quyền thế bao giờ cũng nguy hiểm hơn một kẻ bình thường.
Xích Mi lão tổ sai Dư Hồng, Dư Triệu xuống giúp Đường phạt Tống, thì trong chiến tranh ai cao
mưu túc trí thì đoạt thắng lợi. Trong chiến đấu, không ai cấm dùng mưu kế nào, miễn mưu kế ấy có
thể thắng được kẻ địch.
Xích Mi lão tổ bắt tội Lưu Kim Đính giả hình mình, phạt Dư Hồng, thì đó chẳng qua là Dư Hông
thua trí Lưu Kim Đính mà thôi, đâu phải hành động phạm thượng, khinh Xích Mi lão tổ.
Lời khiển trách của Xích Mi lão tổ, chẳng qua la lời nói của kẻ trưởng thượng với kẻ nhỏ hơn mình.
Dù vậy, kẻ có quyền lực khi nói ra một lời làm cho người khác yếu thế hơn phải sợ hãi.
Trong xã hội loài người cũng thế, lời nói của kẻ có chức quyền bao giờ cũng quan trọng. Lời xưa có
nói: Lời nói của kẻ mạnh bao giờ cũng là lẽ phải.
.
.
.
Hồi Thứ Hai Mươi Tám
Xích Mi xuống núi phạt Ngũ âm Tinh,
Trần Đoàn viện tiên nữ cứu nữ tướng.
Lưu Kiến Đính thấy Thái Tổ năn nỉ hết tiếng mà Xích Mi lão tổ cũng không nghe. Lưu Kim Đính lấy
làm lạ, vì một mình làm tội mà liên lụy đến mấy chị em, muốn cãi lẽ một đôi lời, song sư bá nổi sùng
thì chắc cả thành chết hết. Nghĩ rồi kim Đính quì lạy nói:
- Xin sư bá rộng dung cho các đệ tử ba ngày về từ gia quyến thuộc rồi sẽ đem nạp sách và gươm, và
.
.

.
.
uống độc dược mà chết. Xin sư bá mở lòng từ bi cho sống thừa ba bữa, chúng tôi sau dầu thác cũng
đội ơn.
Nói rồi đồng lạy.
Tống Thái Tồ cũng lau nước mắt mà nói giùm. Xích Mi lão tổ chưa nguôi, chịu cho ba ngày chớ
không đặng quá hạn, rồi liền đằng vân về động.
Dư Triệu mừng sẽ giết đặng Kim Đính, trả chút tư cừu, song còn tức một điều vì giết Phùng Mậu
không đặng.
Khi ấy Cao Quân Bảo, Cao Quân Bội, Trịnh Ấn, Phùng Mậu, Dương Diên Bình thấy vợ bị mắng
nhiếc đều tức mình, song biết đánh chẳng lại Xích Mi nên không dám cự. Sau khi Lưu Kim Đính hẹn
ba ngày uống thuốc độc tự vận thì Xích Mi lão tổ mới chịu về, năm tướng đều ôm vợ mà khóc. Tống
Thái Tổ với bá quan vãn võ cũng mủi lòng rơi lụy oán Xích Mi lão tổ vô cùng.
Còn Lưu Kim Đính khóc mà nói:
- Bởi tôi quyết dẹp cho đặng Nam Đường, cùng chẳng đã mới giết Dư Hồng và Dư Triệu, nay sư bá
xuống làm tội như vậy cầu khẩn cũng không đặng, chắc nội ba ngày tôi phải chết. Xin tướng quân
nghĩ tình phu phụ, một ngày cũng tiếng vợ chồng, nuôi dưỡng giùm cha thiếp, hoạ may thiếp khỏi tội
bất hiếu. Sau lang quân có chọn đặng người hiền đức cũng tốt, bằng không xin dùng đỡ bốn con tỷ
tất ấy làm hầu, chẳng nên sầu thảm vì tôi mà sanh bệnh hoạn.
Cao Quân Bảo nghe trối, gục mặt khóc hoài.
Bốn vợ chồng kia cũng ôm nhau mà khóc, đều than rằng vô tội mà thác oan. Lưu Kim Đính thấy vậy
can rằng:
- Một mình tôi làm, thì một mình tôi chịu tội, lẽ nào liên lụy tới chị em! Để ba ngày tôi trả sách trả
gươm, sẽ thưa như vậy bề nào cũng chết, nói cho rành mà chết cũng rạng danh, lẽ nào sư bá vì Dư
Triệu, Dư Hồng mà giết tới năm mạng?
Nói về Trần Đoàn lão tổ đánh tay biết ngũ âm tướng mắc nạn, bởi Dư Triệu nói khích nên Xích Mi
xuống Thọ Châu, e các nữ tướng nói lỡ lời bị Xích Mi giết chết hết, chi bằng hội chư tiên đi khuyên
giải mới xong. Nghĩ rồi Trần Đoàn mới ra khỏi núi Hoa Sơn thì gặp Huỳnh Thạch Công và Tôn Tẩn,
cũng thương nghị đi hoà giải. Chẳng ngờ đi nửa đường lại gặp Lê Sơn Thánh mẫu, các tiên ông gặp
nhau mới hỏi rằng:
- Mấy vị Thánh mẫu đi đâu đó vậy?
Các Thánh mẫu nói:
- Đệ tử chúng tôi mắc nạn dưới thành Thọ Châu, nên chúng tôi xuống cứu.
Các tiên ông nói:
- Chúng tôi cũng vì các vị hiền đồ hàm oan, nên xuống Thọ Châu nói giúp.
Các vị Thánh mẫu cám ơn rồi đằng vân bay xuống.
.
.

.
.
Nói về năm nàng thấy hào quang chiếu sáng trời, đồng bước ra xem thử, thấy chư tiên và các thánh
mẫu giáng hạ, trong lòng mừng rỡ mười phần, đồng làm lễ rước vào thành Thọ Châu. Chúa tôi mừng
rỡ nghinh tiếp.
Năm nàng ấy lạy các thánh mẫu, khóc và thưa :
- Sư bá tin lời Dư Triệu thưa dối nên xuống đòi giết chị em tôi. Chúng tôi xin lại ba ngày sẽ uống
thuốc độc mà tự vận. Nay thầy xuống xin nhờ cứu đệ tử một phen!
Các thánh mẫu khuyên:
- Có thầy và mấy vị tiên ông đến đây, không can chi mà sợ. Bề nào có các thánh mẫu cũng bình an.
Các đệ tử đồng lạy tạ ơn. Năm người chồng cũng mừng rỡ.
Khi ấy Tống Thái Tổ phán hỏi:
- Chẳng hay các vị tiên sư, thánh mẫu sẽ lấy lời khuyên giải Xích Mi lão tổ cho hết giận hay là phải
đụng đao binh?
Trần Đoàn tâu:
- Lý Cảnh đã đầu hàng, thì hết việc chinh chiến. Còn chuyện này lấy lời phải quấy khuyên giải mà
thôi. Để mai chúng tôi đến khuyên giải một đôi lời, đặng bệ hạ ban sư về nước.
Tống Thái Tổ mừng rỡ phán:
- Chư tiên và thánh mẫu gián can, chắc lão tổ cũng vị tình dung thứ.
Các đệ tử cầu mấy vị ra sức nói giùm. Huỳnh Thạch Công nói với Tôn Chân Nhân:
Đạo hửu phải đến thiên cung, nói với Tống Sánh Tư Mã rằng các nữ tướng vâng chỉ đầu thaí thánh
Đường phò Tống, nay Xích Mi ép phải tử vận mà thường mạng cho học trò, xin Tư Mã khuyên giùm
thì xong việc.
Tôn chân nhân y lời đằng vân đến dinh Tống sanh Tư Mã.
Tống sanh Tư Mã mừng rỡ hỏi thăm có chuyện chỉ? Tôn chân nhân thuật hết các việc.
Tống sánh Tư Mã nói:
- Ngũ âm tinh vâng lệnh đầu thai, phò Tống đoạt Đường gom về một mối, còn các yêu đạo nghịch
trời thì chết ấy lẽ thường! Xích Mi là một vị đại tiên, lẽ nào không rành sự ấy? Sao lại binh học trò
quyết làm cho cạn nước thấy cá, chẳng để chút ơn riêng? Thôi, chuyện này tôi chẳng tâu trình làm gì,
bây giờ tôi đi với các ông đến khuyên giải Xích Mi lão tổ, chừng nào nói không linh, sẽ tâu với
Thượng Đế xử phân, coi Xích Mi cải lẽ làm sao cho biết!
Tôn chân nhân nói phải, rồi đằng vân đến thành Thọ Châu.
Các vị tiên ông và các vị thánh mẫu thấy Tống sanh Tư mã giáng hạ thì mừng rỡ vô cùng đồng
thương nghị qua kim ngao đảo. Phùng Mậu, Lưu Kim Đính cũng đem gươm ôm sách theo sau, còn
Xích Mi lão tổ thấy chư viên và các thánh mẫu đến biết là xin tội cho học trò, nên trong lòng chẳng
đẹp song vị tình chào hỏi gọi là.
.
.

.
Xlch Mi mời Tống Sanh Tư Mã ngồi trước và hỏi:
- Chẳng hay tôn thần và chư tiên đến tôi có dạy chuyện chi?
Trần Đoàn thưa:
- Chúng tôi vì sự các học trò phạm tội với đại tiên nên đến cầu xin ân xá.
Xích Mi lão tổ tỏ sắc buồn và đáp:
.
- Tôi chẳng phải kiếm cớ mà quở phạt hiền đồ. Bởi nó làm lộng quá dám giả mạo hình tôi, gạt bắt
Dư Hồng mà giết, nên tôi phạt tội ấy mà thôi!
Tôn chân vân nói:
- Luận tội Kim Đính dám giả hình sư bá thì xử tử đã đành song còn chỗ này có lẽ chết đặng, vì khi
trước khi bắt đặng Dư Hồng tức thì tha về, chẳng hề làm hại. Sau Dư Hồng không chịu về núi cứ phò
Đường đánh Tống lại viện thêm Dư triệu xuống rải độc mà hại cả thành. Bấy nhiêu cớ ấy Tống Thái
Tổ quở Lưu Kim Đính vì tha tội Dư Hồng mới mọc thêm Dư Triệu. Kim Đính tính bề khó bắt, túng
phải mạo hình, là tại thế bất đắc dĩ. Còn Dư Triệu bắt rồi tha về sau cũng viện yêu tiên lập trận, đến
nỗi chúng tôi phải xuống phá trận, nó trốn rồi cũng trở về. Đường cứ đem binh khiêu chiến mãi .Nếu
kim Đính không giết Dư Triệu, làm sao lấy đặng Nam Đường? Xin đại tiên xét suy thứ tội.
Tống sanh Tư Mã thấy Xích Mi còn hơi giận mới lấy bức Thánh thế hồng đồ trong tay áo rộng trải ra
giữa ghế đá mà nói:
- Xin lão tiên xem bức đồ này, vẽ có thứ lớp. Từ khi Ngũ âm tinh đầu thai cho đến lớp vần duyên
giúp Tống có lớp giết tướng nghịch, có lớp trừ yêu đạo rõ ràng. Ấy là trời định trước khi đầu thai,
chẳng phải tại người sinh sự.
Không phải Xích Mi lão tổ chưa hiểu việc Ngũ âm tướng phụng chỉ đầu thai, bởi nghe lời Dư Triệu
khai gian nóng giận đứa hậu học vô lễ không biết kính người trên, dám nhục mạ sư bá, nên nạt nộ chị
em Kim Đính mà đòi sách gươm, làm cho mấy nàng ấy hãi kinh, lạy lục cho bỏ ghét đó thôi!
Xích Mi lão tổ xem Thánh thế hồng đồ rồi nói:
- Tuy các lệnh đồ phụng chỉ xuống phò Tống đánh Đường, xong các lệnh đồ vô lễ lắm. Dầu giết Dư
Hồng, Dư Triệu, sơn nhân chẳng chấp, bởi chúng nó cãi lời thầy mà sát sanh thì phải bị tử trận. Các
lệnh đồ rõ biết sơn nhân là bạn bè với các đạo hữu, đã kêu bằng sư bá rõ ràng, sao vì chuyện Dư
Triệu, Dư Hồng mà sỉ mạ sơn nhân tới nước? Như không phục sơn nhân cũng phải trọng thầy một
chút, lẽ nào dám nhục mạ người bạn thân thiết của thầy mình, ấy là tội phạm thượng rõ ràng không lẽ
bỏ qua cho kẻ hậu sanh bắt chước?
Chư tiên và các thánh mẫu nghe nói kinh hãi, cùng lấy làm lạ?
Các thánh mẫu thưa rằng:
- Các học trò tôi tuy chưa tu hành theo phép đạo mặc lòng, chớ nết na phép đà thuần lắm. Lẽ nào
dám phạm thượng như vậy?
.
.

.
Chắc là Dư Triệu cố oán mà nói thêm. Xin đạo huynh xét lại.
Mấy vị tiên sư cũng nói:
.
- Không phải đạo huynh xuống phò Đường đánh Tống, lẽ nào chúng nó dám nói động đến người
trên? Chắc là Dư Triệu muốn cho đạo huynh xuống đánh báo cừu nên mới đặt điều nói khích như
vậy.
Trong lúc Lưu Kim Đính và Phùng Mậu đứng ngoài nghe rõ mọi điều như vậy, liền đánh điều vào
lạy rồi nói:
- Xin sư bá xét lại, mấy lời ấy là Dư Triệu cố oán đặt điều chớ chúng tôi còn biết kính thầy, lẽ nào
dám nói động đến sư bá?
Xích Mi lão tổ bèn kêu Dư Triệu vào mà hỏi:
- Mi nói Phùng Mậu và Kim Đính mắng ta làm sao?
Dư Triệu thấy mặt hai người ấy, lấy làm ngỡ ngàng, vì hai người không nói giáp mặt mình, nên khai
nói bợ ngợ lắm, nên Dư Triệu cứ thiệt khai ngay rằng:
- Tuy hai người không nói trước mặt tôi mà nói với Dư Hồng rằng: Xích Mi lão tổ là yêu tiên dạy đệ
tử những loài cầm thú, sai ra khuấy chúng phá đời. Không bao lâu mấy thầy ta sẽ xuống trừ cho tuyệt
loài tà đạo, bởi tôi nghe tiếng nói ấy, giận Phùng Mậu và Kim Đính nên mới xuống giúp Dư Hồng.
Nay chúng sợ thầy nên chối đó thôi.
Xích Mi .lão tổ nổi giận mắng:
- Mày là đồ súc sinh, bị Dư Hồng nó khích, sao hôm trước mày về nói quả quyết rằng chúng nó
mắng ta tại trận? Mày có thể chẳng hề nói gian, nay có mặt Phùng Mậu, Kim Đính thì mày lại nói
khác, rằng chuyện ấy, Dư Hồng thuật lại!
May có các sư thúc phân giải, nếu không thì Ngũ âm tướng đã thác oan! Thiếu chút nữa thì ta với các
sư thúc giận hờn ra việc tuyệt ngãi. Ta thề từ rày sắp sau chẳng truyền phép cho các đệ tử nữa thì
khỏi sanh sự báo đời?
Các tiên và các thánh mẫu cũng nói theo như vậy.
Đoạn Kim Đính và Phùng Mậu trả sách dâng gươm. Xích Mi đều thâu cất. Các tiên và Thánh Mẫu
cùng Tống sanh Tư Mã đồng từ giã lui về. Phùng Mậu và Kim Đính cũng tạ ơn rồi trở lại.
Xích Mi lão tổ đưa các tiên ra động và dặn:
- Các đạo hữu có về Thọ Châu thì nói lại vơi Tống Thái Tổ rằng: Bởi sơn nhân nghe lầm ác đồ là Dư
Triệu nên xuống quở phạt dưới Thọ châu, nay đã rõ rồi, xin Tống quân miễn chấp.
Các tiên y lời, lui về thành Thọ Châu.
Nói về Tống Thái Tổ từ hồi các tiên đem Kim Đính vừa Phùng Mậu qua Kim Ngao đảo trả gươm và
sách, xong không biết họa phước ra thế nào nên chúa tôi đều lo sợ. Nay thấy các tiên và Thánh Mẫu
trở về thành, Tống Thái Tổ dẫn bá quan ra nghênh tiếp.
.
.

.
Khi các tiên và Thánh mẫu vào thành,Tống Thái Tổ hỏi:
- Chẳng hay ông thần Tống sanh đâu vắng?
Các tiên tâu rằng:
- Tống sanh Tư Mã đã từ giã về trời rồi.
.
Tống Thái Tổ hỏi thăm việc giải hoà ra thế nào? Chư tiên thuật lại hết các việc Tống Thái tỏ và gia
quyến năm nàng ấy đều vui mừng như được ngọc vàng, chúa tôi đồng tạ ơn cứu giúp, rồi dọn tiệc
chay đãi các tiên và ăn mừng cho Ngũ âm tướng.
Tiệc xong rồỉ Tống Thái Tổ phán rằng:
- Xin chư tiên và các Thánh Mẫu bằng lòng cho trẫm rước về Biện Lương, đợi trừ đặng U Châu,
Khiết Đơn và phủ Thái Nguyên gom về một khối, khi ấy sẽ chia nước mà tạ ơn.
Các tiên và Thánh mẫu đồng từ giã và nói:
- Chúng tôi là kẻ tu hành không tham phú quí. Bởi tính quen thung dung nên đã thành tật làm biếng!
Nay vì việc bệ hạ gom thâu một mối nên phải xuống trần. Trông mau xong việc mà về non, lẽ nào
dám đắm say quyền tước xin bệ hạ đừng lo việc đền ơn.
Tống Thái Tổ phán:
- Ngày trước trẫm bị Dư Triệu rãi độc, nếu không có Huỳnh tiên sư cứu giá thì chúa tôi đâu còn sống
đến nay ! Vả lại bây giờ nhiều chỗ chưa đầu hàng, nếu có người như Dư Triệu, Dư Hồng khuấy đời
trẫm biết làm sao mà thỉnh các tiên sư Thánh Mẫu nữa cho đặng.
Trần Đoàn tâu:
- Xích Mi lão tổ đã thề rồi, chẳng truyền phép cho đệ tử nữa sau không có người như Dư Hồng, Dư
Triệu mà lo! Tuy U Châu, Thái Nguyên chưa hề mặc lòng, song còn vương gia là Khuông Nghĩa sẽ
thế việc thân chinh cho bệ hạ. Lại thêm cha con họ Cao và Tào Ban quốc cựu, văn, võ đủ giúp nước,
bệ hạ còn lo lắng làm chi! Từ nay về sau bệ hạ phải nhớ câu: "Đối tửu dương ca, nhân sanh kỳ hà"
bấy nhiêu đó cũng đủ.
Tống Thái Tổ hỏi thăm việc nước, và số mạng mình như thế nào?
Trần Đoàn tâu:
- Việc nước hễ có đức thì thịnh, không có đức thì suy, còn người có nhân thì sống lâu, bất nhân thì
chết yểu. Ấy gọi là nhân định thắng thiên, nghĩa là dù trời định số mạng nhưng con người có thể cải
biến được. Mọi việc đều tại nơi bệ hạ.
Thái Tổ nói:
- Ta vốn chẳng có nhân đức chi, bất quá chinh phạt được cầu may mà được làm Hoàng Đế, chắc là
trời cho không lâu dài, nên Trần Đoàn mới nói như vậy.
Thấy vua còn lưỡng lự, Trần Đoàn viết ra bốn câu thơ:
Mười tám năm xưa đạn chiến tràng,
.
.

.
Khác nữa Châu Võ với Thành Thang
Lúc này ngọn đuốc lòa đêm tối,
Qua khỏi luồng đông, tuổi quá ngàn.
Bài thơ ý nói vua Thái Tổ gần băng hà, Triệu Khuông Nghĩa nối ngôi.
.
Tống Thái Tổ biết ý Trần Đoàn không dám nói rõ nên làm thinh phú cho số trời định mệnh.
Huỳnh Thạch Công nói :
- Tuy số trời định vậy song bệ hạ cầm cân họa phước, suy nghĩ chi cho nhọc lòng. Bệ hạ bị vây ba
năm, lại thêm Dư Triệu đầu độc tuy là có uống thuốc giải, song ngũ tạng vẫn tổn thương phát ra
chứng không ngờ. Vậy xin bệ hạ từ nay phải bỏ tửu sắc, họa may mới tránh được độc chứng.
Vua Thái Tổ phán:
- Huỳnh tiên sư thương trẫm, mới dặn lời này .
Bởi tửu sắc là chứng bệnh của Tống Thái Tổ, nay Huỳnh Thạch Công chỉ bảo, nên Tống Thái Tổ
kính phục, truyền dọn tiệc thiết đãi chư tiên. Chư Tiên và các thánh mẫu đòi các học trò đến, bảo:
- Nay các con ở lại phò chúa vẹn ngay, chớ khá ỷ tài sanh sự.
Dặn rồi tất cả đều từ giã Tống Thái Tổ và các đệ tử đồng tiễn đưa.
Lúc này Dương Nghiệp sai dâu con đi rước bà sui, đồng về thành Thọ Châu cùng nhau đàm đạo.
Dương Nghiệp tâu:
- Nay các việc đã xong, xin từ giã bệ hạ trở về San Hậu.
Tống Thái Tổ nói:
- Trẫm muốn mời các khanh về Biện Lương phong tước gọi là báo đáp công lao.
Dương Nghiệp tâu:
- Tôi cũng muốn vâng chỉ về kinh, song cha tôi yếu quá, chẳng khác ngọn đèn trước gió, nên chẳng
dám đi xa. Vậy xin bệ hạ cho tôi về San Hậu vẹn chữ thần hôn.
Vua Thái Tổ nhận lời. Dương Nghiệp liền dắt hết gia quyến tư giã ra đi. Bốn nữ tướng đều rót rượu
đưa Hoa Giải Ngữ lên đường. Chúa tôi tống biệt hơn mười dặm mới trở về.
Hôm sau, Lý Cảnh dẫn bá quan đem bốn xe vàng bạc châu báu đến đưa Tống Thái Tổ về kinh.
Tống Thái Tổ phán:
- Trẫm đến đây đã ba năm, nay mới thu giang sơn về một mối vậy thì Thuận Nam vương ở lại chăn
dân cùng lo việc nước, trẫm sẽ về sai sứ trọng thưởng khao binh.
Thuận Nam Vương tâu:
- Bệ hạ xá tội cho tôi, ơn vạn trời biển, nay tôi xin đưa ra khỏi nước, gọi chút lòng thành.
Tống Thái Tổ thấy Lý Cảnh thiệt tình, truyền kéo binh đi, đến đâu cũng thấy dân chúng đặt bàn
hương án tiễn đưa.
Khi ra đến địa giới, Thuận Nam Vương bái tạ Tống Thái Tổ rồi lui về
.
.

.
Tống Thái Tổ đi chẳng bao lâu đã về tới Biện Kinh.
Lời Bàn
.
Thế mạnh là nguồn lực cao quí, nhưng xen vào cuộc sống của kẻ khác thì sức mạnh ấy biến
thành tai hại.
Xích Mi lão tổ là một đại tiên, tu hành ở một thế giới khác, thế mà sai đệ tử can thiệp vào trần gian,
làm xáo trộn thiên hạ, rồi lại vì đệ tử mà oán thù kẻ đồng nghiệp của mình hành động của Xích ià
lão tổ là nguồn gốc lôi kéo tiên gia ở bên kia thế giới loài người xông vào tranh tài nhau trong cõi
thế gian. Ấy vậy thế gian là nơi khổ, nơi để cho mọi thế lực làm chỗ tranh tài với nhau, mà chốn trần
tục gánh cho mọi cái khổ đau của kẻ khác gieo vào.
Tại sao các thần tiên không đua tài nhau ngoài vòng thế sự, chỉ vì câu chuyện thần thoại mà tác giả
muốn đem quan niệm mình gắn vào thế giới thần tiên để diễn tả bản chất của con người. Sống trong
xã hội, dù là thần tiên cũng không thoát khỏi bản chất ấy.
.
.
.
Hồi Thứ Hai Mươi Chín
Trừ Nam Đường, Thái Tổ ban sư,
Phong tướng sĩ, nhị vương sợ tội.
Lúc ấy, quân vào báo lại, Giám Quốc Triệu Khuông Nghĩa và Tả thừa tướng Triệu Phổ Đồng dẫn bá
quan ra cách mười dặm trường đình mà tiếp giá.
Tống Thái Tổ về đền ngồi ngự. Triệu Khuông nghĩa và bá quan văn võ đồng lạy và vấn an. Tống
Thái Tổ thuật sơ việc đánh Nam Đường lao khổ.
Còn Cao Hoài Đức dâng ấn nguyên soái cho Thái Tổ và giao quân lại cho quan Hộ bộ đâu đó xong
xuôi, đoạn Tống Thái Tổ phán:
- Trẫm cho các tướng sĩ về nhà thăm gia quyến, ngày mai sẽ đến chầu.
Phán rồi lại vào cung ra mắt Đỗ Thái hậu. Mẹ con mừng rỡ chuyện vãn hồi lâu. Hoàng hậu và các
cung phi đồng vào kiến giá.
.
.

.
.
Còn các tướng cũng về thăm bà con, ai nấy đều mừng vui, duy chỉ có hai nhà không vui là nhà Sử
Khuê và Thạch Thủ Tín thấy quân khiêng hai linh cữu tới đều than khóc và lo việc ma chay.
Hôm sau, Tống Thái Tổ lâm triều, các quan chầu chực đủ mặt, Tống Thái Tổ nghĩ thầm:
- Cao Hoài Đức công lao cả nhà, song phong đến chức vương đã là tột bực rồi còn Miêu quân sư và
các tướng khác cũng nên gia phong cho xứng đáng công lao.
Nghĩ như vậy liền phán:
- Miêu quân sư giúp việc thiên văn và bói toán rất linh nghiệm, giúp trẫm thành công không nhỏ.
Nay phong tước vương và chức trụ quốc, cho ăn lộc muôn nóc gia. Còn Đông Bình vương công lao
cả nhà, tuy hết bậc gia phong, song cũng được hưởng trọng thể. Lưu Kim Đính, Ngại Ngân Bình,
Tiêu Dẫn Phụng, Úc Sanh Hương và Hoa Giải Ngữ năm nữ tướng trước trẫm đã phong làm phu
nhân, nay phong làm Ngũ công chúa Nhất phẩm phu nhân. Còn Cao Quân Bảo, Cao Quân Bội, Trịnh
Ấn, Phùng Mậu, Dương Diên Bình trẫm phong làm Ngũ thiếu vương nhất phẩm, sau con cháu đều
nối chức như vậy. Còn Thạch Thủ Tín, Sử Khuê vì nước chết tại Thọ Châu, nay phong vương chôn
theo lễ vua.
Tất cả mọi người đều lạy tạ ơn.
Cao Quân Bảo quì tâu:
- Xin bệ hạ ban ơn cho tôi rước nhạc phụ là Lưu Nãi đem về nuôi dưỡng cho trọn đạo rể con.
Tống Thái Tổ y tấu, ban xe ngựa cho vợ chồng đi rước Lưu Nãi về và phong cho Lưu Nãi làm chức
lễ bộ Thương thư.
Sau đó, Tống Thái tổ truyền chỉ cho Cao Quân Bội đem vàng bạc qua Thạch Châu, Sơn Hậu ban
thưởng cho cha con Dương Nghiệp và binh tướng.
Tính ra Tống Thái Tổ ban thưởng và phong tặng không sót một người chỉ trừ Giám quốc là Triệu
Khuông Nghĩa không thấy được ban khen.
Không bao lâu, đến ngày lễ bát tuần cua Đỗ Thái Hậu, Tống Thái Tổ và Triệu Khuông Nghĩa và
Triệu Khuông Mỹ, anh em đồng đến chúc thọ. Tống Thái Tổ nhớ lời cũ, truyền chỉ giảm thuế tha tù.
Một hôm, Đỗ Thái Hậu nói với Tống Thái Tổ rằng:
- Vương nhi! Mười tám năm chính chiến mớiđươc ngôi trời. Triệu Khuông Nghĩa, Triệu Khuông Mỹ
cũng đồng là con cả. Nếu ngày sau vương nhỉ băng hà mẹ muốn vương nhi nhường ngôi cho Khuông
Nghĩa, như vậy là anh em đồng hưởng giàu sang, không hình không trọng. Lòng mẹ như vậy không
biết vương nhi thế nào?
Tống Thái Tổ nghe mẹ hơi, nghĩ thầm:
- Mình may mắn mà đặng ngôi Thiên tử là cũng tại khi đến Trần Kiều, các tướng sanh lòng bất phục
Hậu Châu, đem long bào mà mặc cho mình, tôn lên Hoàng đế. Ấy là tại lòng trời xui khiến. Nay mẹ
ta muốn nhường ngôi cho em ruột, nối nghiệp mã trời rồi sau giao cho các em khác, thay đổi mà lo
.
.

.
việc giữ nước. Chi bằng vâng lời cho vừa ý mẹ.
Nghĩ rồi Tống Thái Tổ nói:
- Mẹ tính như vậy cũng phải, con xin vâng theo.
Đỗ Thái Hậu khen:
- Mẹ nói một lời mà con không cãi, thật và con chí hiếu trên đời.
Lời Bàn.
.
Trong lúc khốn đốn, ai cũng muốn kẻ khác giúp mình, nhưng đến lúc thành công ít người nghĩ
đến công lao của kẻ khác. Đó cũng chỉ vì tham vọng.
Tống Thái Tổ chinh phục Nam Đường công lao rất lớn, những tướng có công lực được Tống Thái tổ
đền ơn bằng chức quyền. Đó là lòng tri ân của những bậc vua chúa có đức độ.
Thói thường, các bậc vua thiếu lòng nghĩa nhân, lúc thành công chẳng những chỉ biết có mình,
hưởng thụ một mình, mà còn tìm cách làm hại những kẻ đã giúp mình, vì sợ kẻ ấy can ngăn, không
cho mình thụ hưởng.
Cai trị con người không phải ở chức vị, mà ở chỗ biết đạo nghĩa làm người, không vì quyền lợi riêng
mình mà bỏ điều nhân nghĩa, làm cho dân chúng không phục tùng. Chỉ có nhân nghĩa mới giữ được
địa vị của một ông vua.
.
.
.
Hồi Thứ Ba Mươi
Nhường ngôi vua cho em Thái Tổ nghe lời me,
 Nối nghiệp trị đời, Thái Tôn vâng lệnh anh .
Không bao lâu, Đỗ Thái hậu phát bệnh các thái y điều trị không lành và từ trần trong trạng thái an
vui.
Từ ấy về sau, Tống Thái Tổ hưởng phước thái bình, không lo việc chinh chiến, vì ỷ có Triệu Khuông
Nghĩa kế vị sẽ lo chinh phục các nơi hiểm trở .
Vì rảnh rang, Tống Thái Tổ quên lời dặn của Huỳnh Thạch Công, đêm ngày vui chơi với cung nga
mỹ nữ, nên sức khỏe yếu dần, việc triều chính phó mặc cho thừa tướng, còn Tống Thái Tổ vui chơi
tửu sắc không ngớt.
Ngày kia, Tống Thái Tổ thấy trong mình nóng như lửa đốt, biết chắc bị bệnh nên đòi thái y đến coi
.
.

.
mạch.
Thái y coi mạch rồi tâu:
- Mạch bệ hạ đi phù sát, e mắc phải độc chứng.
Miêu quân sư vào thăm viếng và can:
.
- Bệ hạ mê tửu sắc quá nên phát nóng, rất khó trị! Nếu bệ hạ muốn mau lành thì phải bỏ tửu sắc.
Tống Thái Tổ khen phải, nhưng không sao bỏ được tật cũ. Vì vậy bệnh càng ngày càng nặng thêm.
Đến khỉ Tống Thái Tổ quá yếu, biết không thể sống được nữa liền triệu Tân Vương đến nói:
- Nay bệnh trẫm càng ngày càng trầm trọng, chắc là trẫm không còn ở đời được. Nay trẫm nhường
ngôi cho ngự đệ trị vì phải ráng sức lo cho an nhà lợi nước.
Tân Vương khóc và than:
- Bệ hạ hãy an lòng dưỡng bệnh chẳng nên lo nhiều việc mà lao tâm. Còn việc nối ngôi đã có Đức
Chiêu, tôi hết lòng phò chúa, lẽ nào làm em dám bỏ lễ, anh có con mà lại cướp quyền, e thiên hạ chê
cười.
Tống Thái Tổ phán:
- Đức Chiêu mới mười một tuổi, kế vị sao xong? Vả lại Thái Hậu khi trước đó có truyền chỉ ngày sau
phải nhường ngôi cho em, nên trẫm nghe lời mẹ. Em hãy vâng chỉ trẫm mà nối ngôi lo trị nước an
dân. Thứ nhất, phải lo đánh Hà Đông kẻo sau này Bắc Hớn tranh hùng. Thứ nhì, cha con Dương
Nghiệp ở San Hậu trí dũng song toàn, em phải lập dinh mà rước cho đặng cha con họ Dương về nhờ
cậy tài năng. Thứ ba, khi trẫm đến Nam Đường có gặp Trương Tề Hiền là một văn tài ẩn đặt, người
ấy đáng phong làm Thừa tướng mà trẫm chưa rước về là có ý để dành cho em. Vậy em phải sai sứ
đem trọng lễ mà rước Trương Tề Hiền về thì rất có lợi ích cho quốc gia. Thứ tư, tại núi Thái Hằng có
một người võ nghệ cao cường tên là Hô Giêng Tán em dùng người ấy làm đại tướng, thì văn võ đủ
người. Em nhớ bốn việc này mà làm y như vậy, thì tuy nhắm mắt cũng an lòng.
Triệu Khuông Nghĩa lạy tạ ơn.
Khi ấy có Tống Hoàng Hậu và Thái Tử Dục Chiêu có mặt ở đó, Tống Hoàng Hậu tâu:
- Nay bệ hạ truyền ngôi cho Nhị vương thúc, thì mẹ con tôi biết có an thân chăng?
Tống Thái Tổ phán:
- Nay ngự đệ lên ngôi cũng chẳng khác chi Trẫm, ấy là cốt nhục đồng hưởng vinh hoa phú quí, lo gì
không được an thân.
Phán rồi liền gọi con lại.
Đức Chiêu qui lạy khóc ròng, khóc cho cha gần miền, chứ không phải khóc mất ngôi thiên tử, bởi
Đức Chiêu là người có đức hạnh, nên sau gọi là Bát vương.
Đêm ấy Tống Thái Tổ nằm mê rồi băng hà.
Hoàng hậu, Thái tử, các ngự đệ và bá quan khóc vang lên rồi cứ theo lễ mai táng.
.
.

.
.
Triệu Khuông Nghĩa lên ngôi, cải niên hiệu là Tống Thái Tông các quan văn võ đều được thăng ba
cấp, rồi bang chiếu cất phủ Vô Nịnh sai Phùng Mậu đem lễ vật qua Nam Đường rước Trương Tề
Hiền về ở, lại sai Cao Quân Bội đem chiếu rước cả nhà Dương Nghiệp về kinh.
Tống Thái tông lại sai sứ đi tìm Hô Giêng Tán nơi núi Thái Hằng, truyền Cao Hoài Đức tập binh
tướng đặng sửa sang đi đánh Lưu Quân tại Hà Đông.
Khi dẹp Hà Đông xong sẽ phạt U Châu là Bắc Phiên Tiêu Hậu
Lời Bàn
Không tham lam quyền lợi thì không sợ tác hại về sau.
Tống Thái Tổ nghe lời mẹ, truyền ngôi lại cho em là Triệu Khuông Nghĩa, đó là nhượng quyền lợi lại
cho kẻ xứng đáng, không vì con mình giữ lấy tham vọng.
Khi đã không có tham vọng thì hành động rất chính đáng, đã hành động chính đáng thì không sợ ai
thù ghét mình. Hoàng Hậu và Thái Tử lo cho số phận mình, thì đó chỉ là đề phòng kẻ không có lòng
nhân nghĩa. Sở dĩ nhà Tống thâu phục được thiên hạ chính là do xử sự về tình người, đã lấy tình
người tiêu biểu cho sự cao cả trong lẽ sống, làm cho thiên thần và dân chúng mến phục, nước non
được an bình thạnh trị và thu thập được nhân tâm.
Đây la một tấm gương sáng cho các bậc vua chúa, vì triều thần có kẻ nịnh người trung, không phải
ai cũng sáng suốt. Kẻ nịnh thì kiếm lời bợ đỡ nói cho vừa lòng, bất kể phải trái, kẻ trung thì can gián
những điều trái làm phật ý vua, nếu nhà vua ham hưởng thụ bản thân thì không thể nào sáng suốt
phân biệt được nhân nghĩa trong lẽ sống .
.
.
.
Hồi Thứ Ba Mươi Mốt
Bắc Hớn Vương đuổi trung nghĩa,
Hô Diên Táng giết đứa gian manh.
Bấy giờ vua Bắc Hớn là Lưu Quân nghe tướng nước Tống dẹp yên các trấn rồi, bèn hội quần thần
mà thương nghị:
- Vả Tiên Quân của ta là cùng vua Thế Tôn nhà Hậu Châu với Tống Thái Tổ đều có đại chí trong
thiên hạ, nay cõi bờ đã thuộc về nước Tống rồi, lẽ đâu ta chiếm cứ một chỗ này mà thôi sao?
.
.

.
Quan Gián Nghị là Hô Diễn Đình quì tâu:
.
- Tôi nghe nói vua Tống là chúa thông minh, lại mạnh mẽ, các nước đều qui hàng, chúa công có một
góc đất mà binh tướng chẳng bao nhiêu, chống cự với nước Tống sao nổi? Chi bằng đầu phục để
khỏi dấy binh can cự lập nghiệp.
Lưu Quân nghe tâu còn đang do dư, thì có quân Khu mật phó sử là Âu Dương Phương quì tâu:
- Hô Diên Đình âm mưu với Tống, nên khiến chúa công như vậy. Vả đất Hà Đông địa thế hiểm trở,
các vị đế vương trước cũng nhờ địa thế mà dựng nên cơ nghiệp. Nay nếu không tranh chấp thi bờ cõi
ai nấy giữ, lẽ nào lại chịu đầu hàng kẻ khác? Xin chúa công chiếu theo luật nước mà chém Hô diên
Đình đi, để răn chúng. Nếu nước Tống có đem binh đến tôi xin ra sức cự địch cho.
Lưu Quân nghe theo dạy đem Diên Đình ra chém.
Quốc cựu là triệu Toại tâu:
- Mấy lời của Diên Đình tâu đó là lời trung, chẳng phải âm mưu với Tống, nếu chúa công nghe lời
đem chém thì Tống trào sẽ đem binh đến đánh nước ta. Nếu chúa công không muốn dùng Diên Đình
nữa thì cắt chức mà đuổi về dân gia, như vậy phải trọn nghĩa vua tôi.
Lưu Quân nghe lời tâu, bèn khiến lột chức Hô Diễn Đình đuổi ra khỏi trào.
Diễn Đình tạ ơn lui ra, nội ngày ấy đem vợ con về Phong Châu. Âu Dương Phương chưa bằng lòng
còn muốn lập mưu mà giết Diên Đình, bèn đòi bộ hạ mình là Trương Thanh, và Lý Đắc bảo:
- Hai ngươi hãy đem ít trăm quân lén theo Hô Diên Đình thừa dịp mà giết nó, sau này ta sẽ trọng
thưởng.
Hai tên ấy lãnh mạng dẫn vài trăm quân theo sau.
Bấy giờ Hô Diễn Đình đi cùng gia quyến đến trạm Thạch Sơn thì trời đã gần tối bèn vào đó tạm
nghỉ.
Đêm ấy hai vợ chồng buồn rầu, mới dạy quân đem rượu ra uống cho giải khuây. Qua canh hai, nghe
ngoài quán có tiếng la om sòm và lửa cháy tưng bừng.
Có ngư vào báo:
- Có ăn cướp đến!
Diễn Đình đang say vội hối gia quyến chạy cho mau để lánh nạn, nhưng chưa kịp ra đã bị Trương
Thanh và Lý Đắc xốc vào bắt cả gia quyến mà giết hại, lại lấy sạch của cải mà đi. Lúc ấy vợ Hô Diên
Đình là Lưu thị bồng một đứa con nít chạy vào một nhà xí nên trốn khỏi. Đến lúc canh tư, Lưu thị
mới tỉnh hồn than:
- Dè đầu bọn ta bị ăn cướp sát nhân như vậy, làm cho mẹ con không có nơi nương tựa.
Than rồi khóc lớn. Xảy nghe sau lưng có tiếngngườỉ hỏi:
- Người đàn bà kia, có việc gì đến chỗ này than khóc như vậy.
Lưu thị nghe hỏi quay đầu lại thì thấy đó là người lạ mặt.
.
.

.
Người ấy hỏi tiếp:
- Nàng là ai mà đến đây chỉ có một mình?
Lưu thị nói:
.
- Tôi là người ở xứ này, vợ của quan Gián Nghị Hô Diên Đình mới đây cách chức đuổi về xứ sở, đi
đến nơi đây rủi bị ăn cướp giết hết, may còn một mình tôi và đứa bé này trốn khỏi mà thôi. Nay tôi
không biết dựa vào đâu để sống đỡ.
Người ấy nghe nói cũng than dài:
- Ta đây cũng ở Hà Đông làm chức Lương Viên tên là Ngô Trang, bọn giết chồng nàng khi nãy là gia
tướng của Âu Dương Phương tên là Trương Thanh và Lý Đắc. Nàng phải bồng con mà trốn đi chỗ
khác nếu ở đây ắt không toàn mạng.
Nói rồi bỏ đi ra. Lưu thị đang lúc sợ sệt, lại nghe ngoài quán có tiếng la ó um nữa. Té ra là lũ lâu la
khác tràn vào bắt Lưu Thị đem nộp cho chủ trại mình là Mã Trung.
Mã Trung thấy nàng liền hỏi:
- Nàng ở đâu? Bồng con tới đây có việc gì?
Lưu thị thuật lại hết các việc. Mã Trung nói:
- Có người báo rằng: Trong quán này có một vị quan lớn bị ăn cướp, nên ta muốn đến mà khiến
chúng nó phải chia cho ta, nay lại gặp việc khốn của nàng như vầy, thôi nàng hãy chịu theo ta về nhà
nương náu mà nuôi con, đặng ngày sau có báo cừu cho chồng nàng như vậy ước đặng chăng?
Lưu thị nói:
- Tôi bị oan lớn này, còn là thân, tôi xin vâng lời đại vương dạy .
Mã Trung dẫn Lưu Thị về nhà thì trời đã gần tối, mới kêu gia quyến, mà bảo dọn dẹp chỗ cho mẹ
con Lưu thị ở, rồi Mã Trung trở ra sơn trại.
Lưu thị ở an rồi, bèn mướn người lén tới quán kiếm thây chồng mình mà chôn, xong xuôi trở về
chăm chỉ nuôi con, chờ ngày báo oán.
Lưu Thị ở đó bảy năm thì con đã lớn, Mã Trung đặt tên là Phước Lang. Mã Trung lại đem đến thầy
mà cho học. Phước Lang tập việc binh pháp, đến khi mười lăm tuổi thì bắn hay và võ nghệ cũng giỏi,
thường hay cầm cây hồn thiết thương, không ai cự lại, Mã Trung thấy vậy mừng thầm, bèn đặt tên lại
là Mã Táng.
Ngày kia Mã Táng đi với Mã Trung dạo chơi ngoài đường, thấy một tốp đang khiêng một tấm bia
lớn có đề sáu chữ. "Thượng Thụ Quốc Âu Dương Phương", Mã Trung ấy thấy tấm bia ấy thì có sắc
giận.
Mã Táng hỏi:
- Cớ gì cha thấy tấm bia đá đó mà nổi giận như vậy?
Mã Trung nói:
.
.

.
.
- Vì thấy bia để tên của Âu Dương Phương thì cha nhớ lại cách đây mười lăm năm nay tên ấy giết
Hô Diên Đình và cả gia quyến người, chớ chi cha biết đặng con cái của Hô Diên Đình còn sót lại ở
đâu thì cha sẽ bảo hộ đặng mà trả thù cho người.
Mã Táng nghe nói, cũng đem lòng giận và nói:
- Nếu tôi là con của Hô Diên Đình thì tôi nguyện hết sức mà trả thù ấy.
Mã Trung nói:
- Ý cha tưởng mẹ rõ biết việc ấy lắm, ngươi hãy về mà hỏi lại.
Khi Mã Táng về tới nhà mới than hỏi mẹ có tích làm sao mà Âu Dương Phương giết Hô Diên Đình
và gia quyến của người.
Lưu Thị nghe con hỏi đến sự tích ấy, bèn khóc òa mà thuật lại hết các việc đầu đuôi rồi nói:
- Con thiệt là con của Hô Diên Đình, còn cha con bây giờ đây là kế phụ.
Mã Táng nghe rồi liền té xuống bất tỉnh nhân sự, Mã Trung hay đặng chạy đến mà cứu tỉnh.
Mã Táng khóc rằng:
- Nay con nguyện đi trả thù ấy cho đặng.
Mã Trung nói:
- Vả Âu Dương Phương ở Hà Đông làm quan lớn, quyền thế to có quân sĩ cũng đông, phải chờ dịp
làm mới đặng. Vậy từ nay kêu ta bằng chú mà thôi, và cứ theo họ gốc của người kêu là Hô Diên
Táng.
Táng lạy thưa và nói:
- Nếu chú có mưu kế chi báo thù đặng thì xin giúp tôi với, ơn ấy dầu sống thác ngàn năm cũng ghi
vào lòng.
Mã Trung đương lúc tìm mưu kia kế nọ, xảy có người vào báo nói:
- Có Kiến Trung tới thăm.
Mã Trung lật đật ra rước vào, bèn khiến Diên Táng ra mắt.
Kiến Trung hỏi:
- Cháu trai này là ai vậy?
Mã Trung nói:
- Con nuôi của ta, tên là Hô Diên Táng đó.
Nói rồi bèn hỏi Kiến trung tới thăm hay có việc chi?
Kiến Trung nói:
-- Tôi mới đoạt của bọn cường nhân đặng một con ngựa tốt lắm, tên là Ô long mã, tôi muốn đem tới
Hà Đông mà bán cho Âu Thừa tưởng, nhân dịp đi ngang qua đây ghé thăm anh.
Mã Trung nói:
- Nếu em có ngựa tốt, xin nhường lại cho cháu, vì nó đương cần kiếm một con như vậy.
.
.

.
.
Kiến Trung nghe nói liền chịu cho. Mã Trung lòng mừng, bèn hối trong nhà dọn tiệc mà đãi Kiến
Trung. Đang khi ăn uổng, Mã Trung bèn thuật hết các việc của Hô Diên Đình cho Kiến Trung nghe.
Kiến Trung nghe nói rất giận và nói:
- Anh chớ, tôi có một kế giết Âu Dương Phương đặng!
Mã trưng hỏi:
Em có kế xin cho anh biết.
Kiến Trung kêu Diên Táng lại gần mà dặn: Nay ngươi muốn quyết ý trả thù cho cha ngươi, vậy
ngươi hãy đem con ngựa này dâng cho âu Thừa Tưởng mà làm lễ ra mắt. Hễ va đặng con ngựa này
chắc sao cũng hỏi người muốn làm quan hay không, thì ngươi đừng vội đi, cứ xin ở hầu hạ mà thôi,
như vậy chắc va mừng mà cho ngươi vào ở trong nhà thì ngươi hãy thừa cơ mà giết va.
Táng cúi lạy lãnh kế.
Khi tiệc xong rồi, Kiến Trung từ giã mà về sơn trại, còn Hô Diên sáng qua ngày sau từ giã cha mẹ,
rồi lên ngựa đi.
Nói về Hô Diễn Táng đi tới Hà Đông hỏi thăm dinh của Âu Dương Phương mà đến, kẻ giữ cửa vào
thưa rằng:
- Kẻ tiểu nhân có một con ngựa tốt lắm, đến dâng cho Thừa tướng làm lễ ra mắt.
Dương Phương nói:
- Ngươi quê quán xứ nào, tên họ chi?
Vô Diễn Táng thưa:
- Tôi họ Mã tên Táng ở Phong Châu:
Phương hỏi:
- Con ngựa của ngươi giá đáng bao nhiêu?
Táng thưa:
- Nó thật vô giá!
Dương Phương nghe vậy mới nghĩ thầm:
- Thằng này chắc muốn việc chi đây chớ chẳng không?
Liền kêu vào nhà để dò hỏi, thì Diên Táng nói không tham tiền, chẳng muốn quan chức, chỉ xin hầu
hạ Thừa tướng, để sống cho thỏa ý mà thôi.
Dương Phương thấy Diên Táng diện mạo khôi ngô, ra dáng con nhà, lại xin ở làm tôi tớ, liền chấp
nhận làm gia tướng.
Một đêm kia, nhằm tiết trung thu, Dương Phương cùng phu nhân dọn tiệc ở vườn hoa để thưởng
nguyệt.
Khi Âu Dương Phương uống rượu đã say. Diên Táng nghĩ thầm:
- Lúc này còn chưa ra tay thì biết chừng nào mới xong được.
.
.

.
.
Diễn Táng nghĩ vậy liền rút dao ra, xảy thấy ở ngoài có người xách lồng đèn bước vào mời du
Dương Phương đi ngủ. Diên Táng lật đật cất con dao than thầm:
- Thằng này chưa tới số! Vậy phải chờ dịp khác sẽ ra tay.
Bấy giờ Triệu Toại sợ để Âu Dương Phương làm thừa tưởng lâu ngày thì sanh rối rắm trong nước,
bèn vào chầu tâu với Lưu Quân:
- Âu Dương Phương có tội giết kẻ tướng sĩ, âm mưu hại người trung lương, nếu chúa công không trừ
khử, tôi e trong nước sẽ loạn lạc.
Lưu Quân nghe tâu liền hội quần thần, và giao cho Đinh Quới tra xét mọi việc, rồi giáng cấp Âu
Dương Phương xuống là Đoàn huyện xứ. Âu Dương Phương mắc cỡ nên dâng biểu từ chức mà về
quê quán.
Lưu Quân nhậm lời, truyền cấp xe cộ chở gia tài Âu Dương Phương về Hồn Châu.
Khi về tới nhà bà con quyến thuộc đến thăm viếng chật trong ngoài.
Bấy giờ vào tháng chín, nhân ngày sanh của Âu Dương Phương, gia đình dọn tiệc đãi bà con, Tối
đến vợ chồng Âu Dương Phương vui say cho đến gần canh hai. Diên Táng ở ngoài hiên một mình,
than thầm:
- Bấy lâu nay ta muốn trả phụ thù mà chưa được, hay trời không chịu giúp mình chăng.
Nói rồi lau nước mắt, trở vào phòng ngủ, trong giấc mộng thấy ngoài cửa có một số người mình máu
tươi, chạy đến trước cửa kêu lớn:
- Cha mẹ ngươi bị Âu Dương Phương sát hại, mà nay ngươi chưa báo thù còn đợi chừng nào?
Diễn Táng nghe nói giật mình thức dậy, lại nghe có tiếng quân kêu:
- Bớ Mã Táng! Tướng công cho đòi ngươi, phải đến mau.
Diên Táng lật đật cấp theo một cây đao, chạy vào phòng, thì Âu Dương Phương nói:
- Ta bữa nay uống rượu đã say rồi, vậy ngươi hãy hết lòng canh giữ cho ta ngủ.
Diễn Táng nghĩ:
- Thằng này tới số rồi, ta phải ra tay mới được.
Lúc ấy đã gần canh tư, Diễn Táng nhìn thấy mọi người đều ngủ hết bèn rút dao trở vào phòng, chụp
đầu Âu Dương Phương hỏi lớn:
- Ngươi có biết ta là con của Hô Diên Đình hay không?
Âu Dương Phương nghe nói thất kinh, năn nỉ:
- Xin tha cho ta thì nhà cửa, châu báu, tài sản này ta sẽ cho ngươi hết.
Diễn Táng không nghe, rút dao đâm vào bụng Âu Dương Phương rồi bỏ chạy. Gia quyến Âu Dương
Phương đang xôn xao, Diên Táng chạy ra nhà trước thấy một bà già quì gối xin tha mạng.
Diễn Táng nói:
- Bà không can chi. Hãy vào nhà lấy tiền bạc và châu báu với tôi.
.
.

.
.
Bà già theo Diên Táng vào dọn một xe tiền bạc và châu báu rồi chở đi, còn Hô Diễn Táng lấy máu
của Âu Dương Phương đề bốn câu thơ trước cửa,rồi lên ngựa đi thẳng về nhà thưa với mẹ:
- Nay con đã giết được Âu Dương Phương, lại được vàng bạc châu báu đem về đây nữa.
Lưu Thị nghe nói rất hài lòng.
Qua ngày sau, Diên Táng đến thăm Mã Trung.
Mã Trung hỏi:
- Ngươi đã trả được phụ thù chưa?
Diên Táng nói:
- Nhờ uy đức của chú nên cháu đã giết được Âu Dương Phương rồi, lại đề bốn câu thơ trước cửa để
làm dấu tích.
Mã Trung thất kinh nói:
- Nếu Hớn vương biết được, thì bọn ta ắt bị tru di. Vậy ngươi hãy mau mau sửa soạn trốn qua núi Hạ
Lan, ở cùng hai chú ngươi là kiến Trung và Kiến Lượng mà ty nạn.
Hô Diên Táng vâng lời từ giã ra đi.
Lời Bàn
Tham vọng con người là nguồn gốc của lòng ganh tỵ. Đã ganh tỵ thì không còn biết trọng nhân
tính.
Những kẻ ganh tị lợi dụng sơ hở của kẻ khác để củng cố địa bị của mình. Hành động của kẻ ganh tỵ
bao giờ cũng muốn hại người khác, chính vì vậy mà sanh ra mọi oán thù trong cuộc sống.
Lưu Quân một lãnh chúa nghe lời kẻ ganh tỵ, đuổi người trung nghĩa, không hiểu được lòng của kẻ
can gián mình, thì đó là một vị vua không sáng suốt.
Phụ thù là một trách nhiệm đối với con cái. Làm con không thể sống chung những kẻ giết cha mình
thì đó cũng là lẽ thưởng tình đốt với những người con có hiếu. Những đứa con có hiếu không thể
dung tha kẻ đã làm hại cha mẹ mình, dù phải hy sinh tất cả cuộc đời, Diên Táng giết Âu Dương
Phương, tuy là tàn ác nhưng đứng về đạo hiếu lại rất thỏa đáng.
.
.
.
Hồi Thứ Ba Mươi Hai
.
.

.
Diên Táng chiêm bao học thần võ.
 Kiến Trung ra sức cứu ân nhân.
.
Hô Diên Táng từ giã ra đi, trong lúc mùa đông lạnh lẽo cây cối xác xơ. Đi gần một tháng mới đến
cụm núi rậm rạp, chim chóc tung bay nên nghĩ thầm:
- Trong núi này chắc có bọn cường khấu trú ẩn.
Vừa nghĩ như vậy thì sau núi có ba tiếng pháo nổ vang, bọn lâu la ào tới đón đường bảo nạp tiền mãi
lộ.
Diên Táng nói:
- Đường thiên hạ đi, sao chúng bay lại đòi tiền? Hãy đánh với ta một trận, nếu thắng thì ta nạp tiền,
còn thua thì ta giết hết.
Lâu la nổi giặn xốc tới bị Diên Táng giết rất nhiều. Có người chạy lên núi báo với chủ trại là Kiến
Trung.
Kiến Trung nghe báo lật đật lên ngựa xuống núi, nhìn thấy biết là Hô Diên táng, liền kêu lớn:
- Cháu ơn Thôi đừng đánh nữa.
Diên Táng thấy Kiến Trung, lật đật xuống ngựa quì lạy.
Kiến Trung dắt Diên Táng về trại, hỏi:
- Ngươi đến đây có việc chi?
Diên Táng thuật lại việc báo cừu cho Kiến Trung nghe, rồi nói:
- Chú tôi dạy đến đây ở với chú mà tị nạn. Lúc nãy cháu lỡ giết mấy tên lâu la, xin chú tha tội cho
cháu.
Kiến Trung nói:
- Ấy là cháu giết lầm, chú không trách đâu.
Bèn dạy bọn lâu la dọn tiệc đãi Diên Táng.
Trong lúc ăn uống, Kiến Trung nói với Diên Táng:
- Bọn ta mà tụ nơi đây là có ý đợi thời để lập công danh nay cháu mới đến thì lãnh chức chủ trại thứ
ba.
Diên Táng nghe nói mừng rỡ, thưa:
- Mấy quận Hà Đông ở gần đây lương tiền nhiều lắm, xin chú cho cháu lãnh ba ngàn lâu la đến quận
Phong Châu cướp lương tiền về tích trữ.
Kiến Trung nói:
- Người trấn thủ Phong Châu là Trương Công Cẩn, võ nghệ cao cường, chú e cháu đến đó chỉ mang
họa.
HÔ Diễn Táng nói:
.
.

.
- Nếu cháu bất lực để chúng giết một tên lâu la thì xin thường mạng.
.
Kiến Trung thấy Diên Táng nói hết lời liền phát cho ba ngàn lâu la. Diên Táng kẻo quân ra đi, dựng
một cây cờ lớn, đề mấy chữ “Hà Đông Thiết Xỉ" rồi kẻo đến Phong Châu vây hãm.
Quân vào báo với Trương Công Cẩn.
Trương Công Cẩn nghĩ thầm:
- Nghe người ta đồn đại ở núi Hạ Lang có tên cường khấu là Hô Diên Táng, nay nó lại kéo quân đến
đây thật là hung bạo.
Nghĩ rồi liền sai một trăm quân cung tên phục sẵn trên cửa thành rồi bổn thân đem năm trăm quân ra
giáp chiến.
Diên Táng giục ngựa đến nói lớn:
- Ngươi phải nạp cho ta ba ngàn lạng vàng, nếu không ta phá tan thành trí, không còn một vật chi.
Công Cẩn nổi giận mắng :
- Ngươi là bọn cường đạo ta chưa rảnh đem quân đến diệt trừ. Hãy kéo binh về đợi ta đến trị tội, nếu
còn hung hăng ta băm thây ra muôn mảnh đó.
Diên Táng xông tới đánh. Hai bên giáp chiến độ ba mươi hiệp chưa phân thắng bại. Công cẩn giả
thua trá bại vào thành.
Diễn Táng đuổi theo bị phục quân bắn, Diên Táng thất kinh chạy dài. Công Cẩn không rượt theo,
thâu binh về ải.
Hô Diên Táng bị thua không dám trở về trại, cho ngựa theo đường núi mà trốn. Lúc ấy đã vào canh
một, lũ lâu la ở trại Thái Hành Sơn bắt trói đem về nạp cho chủ trại là Mã Khôn:
Mã Khôn hỏi Diễn Táng:
- Ngươi là ai?
Diên Táng nói:
- Tôi là con của Tướng quốc Hô Diên Đình, nhân đi lạc đường bị bộ hạ của Đại vương bắt được, xin
Đại vương dung tha.
Mã Khôn nổi giận mắng:
- Ta nghe nói ngươi mới vây thành phong Châu bị thất trận chạy lại đến đây, sao dám dối trá như
vậy?
Nói rồi truyền lâu la bỏ Diên Táng vào tù xa đặng giải về Phong Châu mà lãnh thưởng. .
Trong lúc giải Diên Táng đi đường, bọn lâu la bàn với nhau:
- Vã chủ trại mình thù khích với chủ trại thứ tám, nếu cứ ngang nhiên mà đi e gặp lâu la trại ấy nó
cướp mất Diên Táng thì ắt mang khốn. Chi bằng ghé nơi mé rừng mà nghỉ, rạng ngày sẽ đi cho thong
thả.
Bỗng có lâu la thám thính bắt gặp, hỏi:
.
.

.
Người trong tù xa ấy là ai?
Lâu la nói:
- Đó là Hô Diên Táng.
.
Bấy giờ trong đám lâu la có một tên cường đạo là Lý Kiến Trung, lúc trước đi chơi ở Biện Lương bị
phạm luật nên bị xử tù sau đó vượt ngục trốn về, nhập vào đám lâu la.
Lý Kiến Trung biết được Hô Diên Táng bị giải về Phong Châu liền nghĩ thầm:
- Lúc mình ở trong ngục, có nghe thiên hạ đồn Hô Diên Táng là một dũng sĩ, sao nay lại bị bắt. Thôi
để mình cứu nó ra.
Nghĩ rồi liền xách dao đến bên tù xa, nói:
- Hãy thả diên Táng ra.
Lâu la thấy vậy thất kinh bỏ chạy. Kiến Trung phá tù xa thả Diên Táng ra.
Diên Táng hỏi :
- Ai cứu tôi, ơn ấy rất trọng.
Lý Kiến Trung nói:
- Ta là Lý Kiến Trung, chủ trại đây.
Nói rồi hai người thuật lại sự tình. Lý Kiên Trung dắt Diên Táng về yết kiến đại chủ. Chủ trại là Liễu
Hùng Ngọc mừng rỡ tiếp đón.
Liễu Hùng Ngọc hỏi:
- Ngươi đi với anh là ai vậy?
Kiến Trung nói:
- Con của tướng quốc, tên là Hô Diên Táng đó.
Liễu Hùng Ngọc nói:
- Tôi nghe tiếng đã lâu, nay lại gặp mặt, rất thay mắn.
Liền hối lâu la dọn tiệc ăn mừng.
Trong lúc ăn uống có quân vào báo:
- La Thanh đem sáu trăm lâu la đến, bảo phải nạp tiền đất.
Diên Táng thấy vậy liền nói với Kiến Trung:
- Xin cho tôi đem lâu la bắt sống La Thanh
Lý Kiến Trung nói:
- Ta biết hiền đệ có sức bắt nó.
Liền cho hai ngàn lâu la theo Diên Táng xuống múi.
La Thanh nói:
- Ta đến đây mục đích bảo Liễu Hùng Ngọc nạp tiền đất nửa năm.
Diên Táng nổi giận nói:
.
.

.
- Ở đây đâu phải đất của ngươi, phải trở về mau, nếu không ta giết chết.
La Thanh nói:
- Ngươi là đứa thất phu, sao can thiệp vào việc này.
.
Nói rồi giục ngựa tới đánh với Diên Táng. Đánh được năm hiệp, bị Diên Táng bắt sống đem nạp cho
Lý Kiến Trung.
Lý Kiến Trung bảo:
- Hãy trói treo nó lên cây trụ rồi sau sẽ giết.
Bấy giờ lâu la chạy qua Thái Hành Sơn thuật lại cho cha con Mã Khôn biết việc La Thanh đã bị Hô
Diên Táng bắt giết.
Mã Khôn nghe nói kinh hãi, liền khiến con lớn là Mã Huê đem năm trăm lâu la đến bắt Diên Táng.
Diên Táng nói với Lý Kiến Trung:
- Bọn Mã Khôn bắt tôi, xin để mai tôi sẽ lập kế bắt nó cho đã giận.
Đêm ấy Hô Diên Táng chiêm bao thấy một đốm sáng bay vào sân trướng, vía của Diên Táng chạy
theo sau, lần lần đến một chỗ xinh tốt. Diên Táng bước vào gặp một người ra rước và nói:
- Chủ tôi chờ tướng quân đã lâu lắm.
Diên Táng hỏi:
- Chủ ngươi là ai?
Người ấy đáp:
- Hãy vào rồi sẽ biết.
Nói rồi Diên Táng vào trong. Diên Táng thấy có một viên đại tướng nhìn thấy liền nói:
- Ngươi hãy ra nơi giáo trường cho ta dạy bảo.
Nói rồi liền khiến tả hữu đem ngựa và binh khí cho Diên táng, bảo Diên Táng trồ hết tài năng luyện
võ.
Diên Táng nghĩ thầm:
- Có lẽ nào người này lại gạt ta đến đây để dạy võ nghệ.
Một lúc sau, Diên Táng giật mình thức dậy mới biết chiêm bao đem câu chuyện thuật lại cho Lý
Kiến Trung.
Lý Kiên Trung nói:
- Ấy là hiền đệ có phần linh hiển, nên thần giúp sức đó.
Hai người đang nói chuyện có lâu la vào báo:
- Mã Trung đem quân khiêu chiến.
Hô Diên Táng liền lên ngựa dẫn lâu la xuống giáp chiến.
Mã Huệ giục ngựa tới mắng lớn:
- Ngươi mau thả La Thanh ra, nếu không ta phân thây muôn mảnh.
.
.

.
Diên Táng nói:
- Ta sẽ cho ngươi chết cùng La Thanh một chỗ cho vui.
.
Hai người vừa đánh nhau được vài hiệp, Diên Táng đã bắt sống Mã Huệ đem về nạp cho Lý Kiến
Trung. Lâu la của Mã Huệ chạy về báo với Mã Khôn:
Tiểu tướng đã bị Hô Diên Táng bắt sống rồi.
Mã Khôn thất kinh nói:
- Hô tặc! Quả thật anh hùng.
Nói rồi liền sai con thứ là Mã Vinh ra trận. Mã Vinh đánh được vài hiệp bị Diên Táng đánh hộc máu
chạy tuốt về báo với cha.
Hô Diên Táng tài năng xuất chúng, con đánh không lại, bị một roi hộc máu.
Mã Khôn nghe nói thất kinh, than:
- Nếu ta trừ Diên Táng không được, ắt sanh họa lớn.
Con gái Mã Khôn là Kim Đầu thấy cha kinh sợ bước ra hỏi:
- Vì sao mà cha buồn bã như vậy? .
Mã Khôn nói:
- Nay hai anh của ngươi đánh không lại Hô Diên Táng, đứa thì bị bắt sống, đứa bị đánh hộc máu, nên
cha lo lắng.
Mã Kim Đẩu nổi giận nói:
- Xin cha cho con ra bắt sống Diên Táng, báo cừu cho anh con.
Mã Khôn nói:
- Hai anh của con võ nghệ cao cường mà còn thua, huống chi con là gái mà đánh sao lại?
Mã Kim Đẩu nói :
- Để con dụng kỵ binh mai phục thì bắt nó như chơi.
Mã Khôn nghe con nói liền phát một ngàn lâu la, sai Mã Kim Đẩu đi đánh.
Hô Diên Táng nghe nói có binh khiêu chiến liền lên ngựa ra trận đánh với Kim Đẩu hơn ba mươi
hiệp. Kim Đẩu giả thua, quầy ngựa chạy, dụ Diên Táng đuổi theo đến chỗ phục binh. chẳng ngờ
Diên Táng biết được âm mưu quày ngựa trở lại, rồi hai bên ai về trại nấy.
Kim Đẩu về thưa với cha:
- Hô Diên Táng đáng bậc anh hùng, thông hiểu binh pháp, nên con đánh không lại.
Mã Khôn nghe nói lại càng buồn bã hơn. Xảy có quân vào báo:
- Có một đạo binh đang kéo tới, không rõ là binh nào.
Mã khôn bèn sai người đi dọ thám, mới biết là binh của Mã trung. Mã Khôn mừng rỡ vội ra rước vợ
chồng Mã Trung vào rồi hỏi?
- Vợ chồng em đến đây chơi hay có chuyện chi?
.
.

.
Mã Trung đáp:
- Vì nhớ anh nên vợ chồng em đến thăm.
.
Mã Khôn liền hối lâu la dọn tiệc thết đãi. Đang ăn uống Mã Trung thấy Mã Khôn nét mặt lo âu, liền
hỏi:
- Anh có việc cái mà lo buồn như vậy?
Mã Khôn thở ra, nói:
- Vì con lớn của ta là Mã Huê bị Hô Diên Táng bắt sống, chẳng biết hung dữ thế nào?
Mã Trung nói :
- Thôi để tôi ra sức cứu cho chắc không hề chi đâu.
Mã Khôn nói:
- Em đừngcoithường nó mà thất bại.
Mã Trung nói:
- Em sẽ làm cho người ấy kính phục
Ăn uống xong, hai vợ chồng Mã Trung từ tạ Mã Khôn, đem lâu la qua đánh Diên Táng.
Lời Bàn
Mọi sinh vật đều đi tìm môi trường thích nghi của nó để sống. Xã hội loài người khi đã không
thích hợp với cuộc sống chung thì sanh ra trạng thái tan rã.
Xã hội nào cũng phải đáp ứng sinh hoạt của con người. Thời phong kiến, cộng đồng xã hội là phải
trung quân, ái quốc, con người cần một đấng minh quân để trị vì thiên hạ. Bởi vậy khi nào thiếu một
minh quân là khi ấy xã hội ly loạn.
Đã ly loạn thì không tránh khỏi sanh ra thảo khấu. Thảo khấu là trạng thái chia rẽ một cộng đồng xã
hội, con người sống không cùng chung một lý tưởng, họ phải tự tách rời ra để thực hiện ý muốn của
mình trong lẽ sống. Bởi vậy chốn rừng núi vẫn thấy có đạo nghĩa làm người, vẫn thấy có tình đất
nước dân tộc, chỉ khác có điều là họ không phục tùng chế độ cai trị đương thời mà thôi.
.
.
.
Hồi Thứ Ba Mươi Ba
  Mã thị đấu tài nơi Trấn Thượng
Diên Táng hàm oan tại Biện Lương.
.
.

.
.
Lúc vợ chồng Mã Trung đem binh qua trại Tân Kiến thì thấy Hô Diên Táng xông ra mắng :
- Ta chưa giết hết chúng bay nên cứ đến chọc giận ta hoài.
Lưu Thị nghe nói lướt tới nhìn thấy la lớn:
- Phước Lang không nên vô lễ như vậy.
Hô Diên Táng nghe biết tiếng mẹ mình, liền ném thương xuống đất, quỳ gối bên đường mà chịu tội.
Lưu Thị nói:
- Con hãy mau mau đứng dậy mà ra mắt chú con.
Diên Táng đứng dậy bước đến chào Mã Trung.
Mã Trung hỏi:
- Sao ngươi không ở với chú ngươi là Kiến Trung, Kiến Lượng, lại đến đây mà gây chiến với bọn mã
Khôn.
Diên Táng thuật lại mọi việc. Mã Trung nói:
- Mã Khôn cùng ta kết nghĩa anh em nay ngươi không biết mà lầm. Thôi, ngươi phải chịu tội cùng
bác ngươi.
Diên Táng thưa :
- Con của bác một người bị tôi bắt, một người bị tôi đánh trọng thương, bác có oán hận tôi chăng?
Mã Trung nói:
- Bề nào cũng có ta đây, không sao mà sợ.
Diên Táng liền theo Mã Trung đến Thái Hành Sơn ra mắt mã Khôn và xin lỗi:
- Cháu không biết nhơn huynh nên lầm, xin nhơn huynh thứ tội .
Mã Khôn ngạc nhiên nói:
- Nguyên nhân tại sao mà cháu hành động như vậy?
Mã Trung thuật lại đầu đuôi chuyện của Duyên Táng cho Mã Khôn nghe. Mã Khôn than:
- Không dè tướng quốc còn di lưu ân oán như vậy.
Sau khi bày tỏ tâm sự, Mã Khôn hối quân dọn tiệc thết đãi.
Qua hôm sau, Mã Khôn nói với Mã Trung:
- Ta có một chuyện muốn nói cùng hiền đệ .
Mã Trung hỏi:
- Có việc gì xin hiền huynh cứ nói.
Mã Khôn nói:
- Ta có một gái tên là Mã Thị tự Kim Đẩu, diện mạo tuy xấu mà võ nghệ cao cường, ta muốn gả cho
Hô Diên Táng để kết tóc trăm năm chẳng biết có nên chăng?
Mã Trung đứng đậy nói:
.
.

.
- Nếu hiền huynh có lòng đoái tưởng đến cháu thì thật là đội ơn.
Mã Khôn mừng, liền sai ngươi tỏ chuyện ấy cho Mã Thị hay, Mã Thị cười nói:
.
- Cha mẹ định đâu thì tôi hay đó, song không biết Hô Diên Táng võ nghệ thế nào vì ngày trước giáp
trận thì chưa biết ai thắng bại, xin cho tôi tỉ thí cùng Hô Diên Táng, nếu thắng được tôi thì tôi mới
đành kết duyên.
Người ấy liền trở ra nói với Mã Khôn như vậy. Mã Khôn nhìn Mã Trung nói:
- Phải ? Con ta võ nghệ tinh thông, lâu nay chưa gặp tay đối thủ, nay muốn thử sức Hô Diên Táng thì
cũng chẳng hại gì.
Vợ chồng Mã Trung ra đến giáo trường xem Diên Táng đấu võ với Kim Đẩu. Hai người đấu nhau
hơn hai mươi hiệp chưa định hơn thua Kim Đẩu nghĩ thầm:
- Đấu về thương kiếm thì mình không lại đối phương thôi thì đấu nhau bằng cung tên.
Nghĩ như vậy Kim Đẩu giục ngựa chạy vòng theo giáo trường, Diên Táng hiểu ý rượt theo Kim Đẩu
lắp ba mũi tên bắn Diên Táng một lần. Diên Táng bắt đặng hết, rồi cười lớn nói:
- Nàng tưởng ta vụng về lắm sao.
Kim Đẩu quay ngựa bắn Diên Táng một mũi, trúng nơi chóp mão, cả giáo trường đều vỗ tay khen.
Mã Trung bước ra nói:
- Hai người đừng đấu nữa, giỏi dở mọi người đã biết rồi.
Tiếp đó, ai nấy kẻo nhau về trại .
Mã Khôn gọi con nói:
- Hô Diên Táng tài năng có xứng với con không?
Kim Đẩu nhìn xuống đất làm thinh Mã Khôn biết ý truyền tả hữu bày lễ giao bôi gả Kim Đẩu cho
Diên Táng.
Sáng hôm sau Hô Diên Táng vào thưa với Mã Khôn:
- Tôi xin về Tân Kiến trại để xin Lý Kiến Trung thả anh tôi ra.
Mã Khôn nhận lời, liền đưa tiễn Diên Táng lên đường.
Diên Táng về trại thuật lại hết các chuyện bên Thái Hành Sơn cho Lý kiến Trung và Liễu Hùng
Ngọc nghe. Mã Huê rất mừng mời Lý Kiến Trung và đồng bọn qua chơi Thái Hành Sơn.
Lý Kiến Trung nói:
- Tướng quân về trước, chúng tôi sẽ đến sau.
Mã Huê liền từ giã ra về. Lý Kiến Trung nói:
- Xưa kia chúng ta là thù địch, nay là thân quyến, tình cảm sẽ được giao lưu .
Bỗng thấy Hàng Diên Thọ kéo lâu la tới, biết là binh U Châu. Mã Khôn giục ngựa tới khiêm nhượng
hỏi:
- Tướng quân đến đây có việc chi?
.
.

.
Hàng Diên Thọ nói:
.
- Nay U Châu Gia Lục Hoàng đã từ trần, quần thần lập Tiêu Thái hậu lên ngôi, ban chỉ cho ta qua
đây mời tướng quân về giúp nước.
Mã Khôn nghe có chỉ triệu, liền dọn tiệc đãi đằng. Trong lúc ăn uống, Mã Khôn nói với Hô Diên
Táng:
- Ta vốn là tướng của Đại Liêu. vì gặp hôn quân nên từ chức qua đây lánh nạn, nay đã mười lăm
năm, Tiêu Thái hậu lên nối trị, còn tưởng đến ta mà đòi về. Vậy ta phải tuân chỉ hồi trào cùng anh
con là Mã Huê và Mã Vinh. Còn vợ chồng con thì ở lại đây mà trấn thủ chỗ này, ngày sau có cờ ta
đến thì phải vâng theo.
Hô Diên Táng và Kim Đẩu đều vâng lời.
Tiệc xong, cha con Mã Khôn sắp đặt các việc trong trại giao cho vợ chồng Diên Táng, rồi từ giã theo
sứ về U Châu.
***
Bấy giờ triều Tống, sau khi Triệu Quang Nghĩa lên ngôi, xưng hiệu là Thái Tôn Hoàng đế, ngày
ngày chăm lo việc nước, lại sai sứ đi rước Hô Diên Táng tại núi Thái Hành Sơn về thăng chức, và dụ
cha con Dương Nghiệp về đầu.
Cao Quỳnh lảnh mạng ra đi đến Thái Hành Sơn được Diên Táng và Lý Kiến Trung tiếp rước rất tử
tế. Cao Quỳnh đọc chiếu xong Lý Kiến Trung nói với Vương sứ:
- Xin để một mình Hô Diên Táng về trào, còn tôi xin ở lại đây mà giữ Thái Hành Sơn, về chỗ này
gần Hà Đông lắm, nếu bỏ trống để kẻ địch chiếm thì rất uổng, ngày nào chúa thượng cử binh đánh
Hà Đông thì tôi đem binh hộ giá.
Cao Quỳnh nhận lời.
Ngày hôm sau vợ chồng Hô Diên Táng từ giã Lý Kiến Trung đem hai ngàn binh sứ về trào yết kiến
Tống Thái Tôn.
Tống Thái Tôn khen thầm:
- Hô Diên Táng diện mạo khôi ngô, đúng là một trang võ tướng.
Cao Quỳnh tâu với vua Thái Tôn.
- Hô Diên Táng mới về trào, xin bệ hạ truyền cất dinh cho tướng ấy ở, để tỏ lòng chuộng nghĩa.
Tống Thái Tôn liền hỏi quần thần:
- Vậy ngoài thành có chỗ nào tốt lập dinh cho Hô Diên Táng ở chăng?
Phan Nhơn Mỹ tâu:
- Tôi có hỏi rồi, bên phía cửa Đông môn có một cái dinh Hoàng phủ, chỗ ấy cho Diên Táng ở thì
phải lắm.
Thái Tôn liền hạ chỉ cho Diên Táng ra nơi dinh ấy.
.
.

.
.
Hô Diên Táng lãnh mạng đem gia quyến đi cùng binh mã đến đó mà ở, đến nơi thì thấy một cái nhà
dơ dáy, gần sập, ngoài sân cỏ mọc gần tới cửa. Diên Táng thấy vậy thì buồn, vợ là Mã Thị khuyên và
nói:
- Xin phu quân hãy an lòng, vì ở đỡ mà thôi, chờ chừng nào chúa thượng cử binh đi đánh Hà Đông
thì ta có ở đây đâu mà lo!
Diên Táng nghe lời, khiến quân dọn quét sạch sẽ yên ổn rồi cứ mỗi ngày chuyên tập việc binh mã.
Nói về Phan Nhơn Mỹ thấy Diên Táng thì sanh lòng ganh ghét, vì có tích Diên Táng giết con mình là
Phan Chiêu Lượng khi ở Thái Hành Sơn. Ngày kia Nhơn Mĩ lén sai người đến dòm hành việc cử chỉ
của Diên Táng, người ấy về thuật lại rằng:
- Hô Diên Táng từ về ở đó tới nay, coi ý chẳng cần chi việc nhà cửa hư rách, cứ thường ngày đến
giáo trường tập luyện binh mã hoài.
Nhơn Mĩ nghĩ thầm:
- Coi thế Hô Diên Táng nghiêm chỉnh lắm, ngày sau ắt đặng quyền cao lộc cả chớ chẳng không !
Nghĩ như vậy, liền cho đòi người tâm phúc là Lưu Nhâm đến thương nghị mưu kế đuổi Diên Táng đi
cho rảnh.
Lưu Nhâm nói:
- Diên Táng mới nhập trào thì chưa có phẩm chi lớn, chừng ba ngày nữa Diên Táng cũng đến mà ra
mắt tướng công chớ chẳng không. Chờ khi Diên Táng đến thì kiếm thế làm nhục Diên Táng thì tự ý
phải trốn đi chớ cần gì lo kế mà đuổi cho nhọc !
Nhơn Mĩ nghe theo, liền sai quân sắm đồ khảo để dành đó cho sẵn mà đánh Diên Táng.
Quả thiệt, ngày thứ tư có Diện Táng đến ra mắt Nhơn Mĩ. Mới bước tới thềm, Diên Táng liền cúi lạy
mà nói:
- Tôi đặng vào chốn này thì tôi chí nguyện tận tâm báo quốc mà đền ơn tri ngộ cho Tiên đế, là nhờ
ơn của tướng công.
Phan Nhơn Mà làm thinh một lát, rồi nói:
- Ngươi có hiểu luật lệ của Tiên đế chăng? .
Diên Táng trả lời:
- Tôi mới đến nên chưa rõ luật pháp thế nào?
Nhơn Mĩ nói:
- Luật của Tiên đế trừng trị như vầy: Hễ cường nhơn nào ở núi mới xuống thà hàng phục triều đình,
thì phải xử một trăm trượng mới đặng làm quan nay ngươi trúng luật đó rồi!
Diên Táng nghe nói sửng sót, tháo mồ hôi dầm mình mà không dám nói chi hết. Nhơn Mĩ liền sai kẻ
tả hữu cứ phép mà thi hành. Quân kéo Diên Táng ra trước thềm đánh một trăm trượng lở đít, máu
chảy dầm dề, dậy đi không nổi ai nấy cũng thương. Nhơn Mĩ lại sai quân đuổi Diên Táng đi. Diên
.
.

.
.
Táng về tới cửa, vợ là Mã Thị thấy bộ đi hình như có thương tlch chi, mới chạy ra hỏi Diên Táng
thuật công cuộc mình bị xử trượng, Mã Thị nói:
- Thiệt như Tiên đế có để luật ấy lại thì phải cam tâm mà chịu.
Nói rồi Mã Thị lật đật đi hâm rượu đem ra rót mời chồng uống và khuyên giải xin hãy nhẫn nhục.
Hô Diên Táng rầu không nói chi hết, phần đói bụng lại thèm rượu mới uống chén rượu vào cổ thì la
lên một tiếng té xỉu và bất tỉnh. Mã Thị thấy vậy thất kinh, lật đật chạy lại đỡ, thấy Diên Táng không
cựa quậy chi hết, bèn khóc kể lể xảy thấy một tên quân già chạy lại nói:
- Xin phu nhân chớ khóc, tôi có phương cứu tỉnh cho.
Ma Thị nói:
- Như vậy thì ơn của ngươi sánh bằng tái tạo chớ chẳng vừa.
Tên quân già tiền móc lưng lấy nột hoàn thuốc hoà mà đổ cho Diên Táng rồi nói:
- Bệnh này là tại bị đánh bằng trượng có tẩm thuốc, cho nên thấm vào thịt, hể uống rượu vô thì khắc,
nên làm như vậy.
Giây phút Diên Táng tỉnh lại, cả nhà đều mừng. Diên Táng hỏi tên quân già ấy:
- Thuốc này ở đâu mà ngươi có hay như vậy?
Tên quân già nói:
- Vì khi trước tôi bị đánh bằng trượng có tẩm thuốc độc, cũng chết giấc như vậy may nhờ một ông
đạo nhơn cứu, người lại truyền bài thuốc ấy cho tôi.
Diên Táng liền hối vợ lấy vàng bạc mà thưởng, thì tên quân già ấy từ chối, và nói:
- Tôi e tướng quân ở đây chắc không đặng toàn thân, phải kiếm lánh chỗ nào mới đặng, vì Phan
Nhơn Mĩ cố oán tướng quân lắm, nên lập thế mà đánh như vậy, chớ không phải lễ luật gì của Tiên đế
đâu.
Diên Táng nghe nói nổi giận và nói:
- Nếu trong nước có gian thần như vậy, thì bọn ta ắt lập công đanh không đặng rồi!
Nói rồi liền hối Mã Thị dọn đồ hành lý nội đêm ấy đem nhau về núi Thái Hành Sơn.
Khi cả bọn về tới, Lý Kiến Trung chạy ra mừng và hỏi:
- Vì cớ làm sao mà trở về?
Diên Táng thuật các việc tranh bị xử trượng cho Lý Kiến Trung rõ.
Kiến Trung nghe nổi giận và nói:
- Chúng ta hãy chờ ngày nào thánh giá cử binh tái phạt Hà Đông, đi ngang qua đây, chúng ta ra sức
đón bắt cho đặng Phan Nhơn Mĩ mà ăn gan nó mới đã giận.
Nói vừa dứt lời, lâu la vào báo rằng có một đao binh đang kéo tới.
Lý Kiến Trung lật đật lên ngựa ra xem, thì thấy Kiến Trung và Kiến Lượng vừa đến. Kiến Trung
thấy Diên Táng thì hỏi:
.
.

.
- Nghe cháu đặng chỉ triệu về trào rồi, sao nay còn ở đây?
Lý Kiến Trung vội vã trả lời:
.
- Việc ấy nói sao xiết! Em tôi từ vưng chỉ theo sứ mạng nhập trào thì toan bề tận trung mà báo quốc,
không ngờ bị gian thần là Phan Nhơn Mĩ thiết độc kế mà mong hại, cho nên ở không đặng phải trở
về.
Kiến Trung nghe nổi giận liền nói:
- Hiền đệ có đặng bao nhiêu binh mã? .
Lý Kiến Trung nói:
- Ước đặng tám ngàn.
Kiến Trung nói:
- Thôi em hãy cho ta mượn binh ấy đặng đi cùng Hô Diên Táng thẳng đến vây Hoài Châu mà ép
tướng thành ấy phải dưng biểu về trào, đặng minh sự oan ấy cho cháu ta .
Lý Kiến Trung mừng, liền điểm hai ngàn người ngựa giao cho Kiến Trung và Hô Diên Táng, thẳng
tới vây Hoài Châu.
Lời Bàn
Pháp luật là khuôn khổ để bảo vệ cộng đồng, chủ trương của một chế độ, nhưng khi cộng đồng
không còn thấy giá trị của chế độ nữa thì pháp luật sẽ bị đổ vỡ.
Tình trạng loạn lạc sau chiến tranh, đã làm cho cuộc sống xã hội mất công bằng, rạn nứt. Các tướng
lãnh trong triều đình phải ly tán, bỏ ra ngoài rừng núi, để mưu đồ sự nghiệp của mình, ấy là luật
pháp triều đình không còn thích nghi trong cuộc sống đương thời. Đó có thể gọi là loạn lạc. Nhưng
loạn lạc ở đây không bằng pháp thuật và tài năng, mà bằng ý thức con người không thỏa mãn một
chính sách cai trị, hay một sự đối xử không hoàn toàn trong lẽ sống con người.
.
.
.
Hồi Thứ Ba Mươi Bốn
Nhơn Mĩ Phụng chỉ triệu Diên Táng
Hoài An giả dạng rượt Bác Vương.
.
.

.
.
Chúa tướng thành ấy là Trương Đình Thần hay đặng rất kinh, bèn ra xem thì thấy Kiến Trung và Hô
Diên Táng có vẻ oai phong lắm. Đình Thần hỏi:
- Vì cớ nào bọn ngươi đem binh đến mà vây thành ta thình lình như vậy?
Kiến Trung nói:
- Bọn ta chẳng vây thành mà cướp phá chi, song muốn rửa điều hổ thẹn cho cháu ta mà thôi.
Trương Đình Thần nghe nói không biết sự hổ thẹn gì, liền hỏi lại:
- Việc chi thì ngươi hãy nói cho ta biết.
Kiến Trung nói:
- Ngày trước Hô Diên Táng ở Thái Hành Sơn vâng chỉ triệu về trào bị gian thần là Phan Nhơn Mỹ
giả lịnh của Tiên đế mà đánh một trăm trượng, lại toan mưa kế mà hại nữa. May Diên Táng trốn
đặng mà về, triều đình không rõ mà gia tội bôn đào, nếu vậy tức lắm nên xin tướng quân dâng biểu
về trào, tâu việc ấy cho chúa thượng rõ, đặng giết tôi gian ấy, thì bọn tôi cũng nguyện trung mà báo
quốc.
Trương Đình Thần nói:
- Thôi ngươi hãy rút binh, kẻo kinh động bá tánh, để cho ta thảo biểu sai người về triều minh oan
việc ấy cho.
Kiến Trung và Hô Diên Táng nghe lời, lui binh xa thành hai mươi dặm, chờ tin của triều đình.
Trương Đình Thần vào dinh thảo biểu rồi sai người lập tức về trào dâng cho Thái Tôn.
Thái Tôn xem rồi nổi giận nói:
- Phan Nhơn Mỹ sao đặng phép tự chuyên mà đuổi kẻ trung lương như vậy?
Liền hạ chỉ sai Hữu khu mật sứ là Dương Quang Mỹ tra xét cho minh. Quang Mỹ lãnh chỉ về dinh,
sai người mời Phan Nhơn Mĩ đến hỏi:
- Chúa thượng muốn tra việc ông đuổi Hô Diên Táng, ông có hay chăng ?
Nhơn Mỹ trả lời:
- Việc ấy thiệt tôi có làm song xin ngài đoái tưởng.
Dương Quang Mỹ nói:
- Mạng vua khiến như vậy, tôi sao dám tuân vị? Thôi, ông hãy vào chầu cùng tôi mà tâu cho chúa
thượng rõ, thì tôi sẽ có thế mà cứu ông.
Nhơn Mỹ liền tạ ơn rồi theo quang Mỹ vào chầu.
Thái Tôn hỏi Quang Mỹ:
- Khanh tra xét việc Phan Nhơn Mỹ quả có như vậy chăng?
Quang Mỹ nói:
Tôi tra xét việc ấy, thì phần Nhơn Mỹ không có lỗi chi cho lắm Nay Nhơn Mỹ cũng biết lỗi mình,
.
.

.
nên theo tôi vào chầu bệ hạ mà chịu tội xin bệ hạ rộng lượng dung cho.
Thái Tôn nghe tâu rồi cho đòi Phan Nhơn Mỹ vào trước điện mà trách:
.
- Hô Diên Táng là người Tiên đế mến lắm, trẫm vâng lời di mạng mà triệu vào trào, ngươi có phép
nào đánh đuổi người ấy đi?
Phan Nhơn Mỹ tâu:
- Từ khi Hô Diên Táng nhập trào, thì tôi coi Diên Táng không có ý đẹp muốn trở về núi mà thôi, chớ
chẳng phải tôi dám làm nhục và đuổi, xin bệ hạ cho tôi vâng chỉ ra Thái Hành Sơn triệu Hô Diên
Táng về đối chứng cùng tôi. Như thiệt vậy, tôi xin dâng đầu.
Thái Tôn ngẫm nghĩ chưa phán điều chi, kế Bác Vương tâu:
- Xin bệ hạ nhận lời Dương Quang Mỹ mà sai Phan Nhơn Mĩ tái triệu Hô Diên Táng, như Diên Táng
sẵn lòng vâng chỉ nhập trào thì tội ấy xin tha cho.
Thái Tôn nhận lời, liền dạy thảo chiếu cho Phan Nhơn Mỹ ra Thái Hành Sơn.
Phan Nhơn Mỹ lãnh mạng tới sơn trại, sai quân vào báo cùng Hô Diên Táng, Diên Táng nghe thì
hăm rằng:
- Đã bị nó một chút nữa thì vong mạng, nay nó đã đến đây, để ta giết nó cho rảnh!
Lý Kiến Trung nói:
- Vả bọn mình muốn lập công với triều đình, đừng kể lể việc nhỏ mà thất việc to, chi bằng em vâng
lệnh triều đình cho khỏi tội bôn đào.
Diên Táng nghe lời, hẹn đi cùng Lý Kiến Trung, ra tiếp rước Phan Nhơn Mỹ vào trại, lập bàn hương
án, mà đọc lời chiếu.
Khi lãnh chiếu mạng rồi, Lý Kiến Trung và Hô Diên Táng thỉnh Phan Nhơn Mỹ vào giữa quần quân
và nói:
- Thượng quan có công lao khổ đem chiếu mạng đến đây mà anh em chúng tôi tiếp đón thất lễ, xin
thứ tội.
Phan Nhơn Mỹ thấy Hô Diên Táng có vẻ thẹn thùng, nhưng cũng phải gượng cười, nói:
- Tôi lỡ xúc phạm tướng quân, nay có chiếu mạng đến triệu, vậy xin tướng quân theo tôi về triều kẻo
Hoàng thượng trông đợi.
Hô Diên Táng và Lý Kiến Trung hối quân dọn tiệc đãi Phan Nhơn Mỹ rồi mời ở lại một đêm.
Hôm sau, Phan Nhơn Mỹ hối thúc Hô Diên Táng lên đường.
Kiến Trung nói với Hô Diên Táng:
Tuy vậy, Nhơn Mỹ đã biết lỗi, hiền đệ phải an tâm mà vâng chỉ trước là ngay vua, sau là làm cho
nguôi ngoai cừu hận.
Hô Diên Táng nghe lời, cùng đi với Mã Kim Đẩu đem bộ binh về trào cùng với Phan Nhơn Mỹ.
Nhân dịp ấy, Thái Tôn nói với Hô Diên Táng:
.
.

.
.
- Ngày trước trẫm thấy khanh mới về, chưa có công lao chi với triều đình nên trẫm để khanh ở nơi
hoàng phủ mà đợi ngày nào trẫm cử binh tái phạt Hà Đông thì trọng dụng, chứ chẳng phải ý trẫm
muốn sơ dụng tương quân đâu.
Diên Táng tạ ơn lui ra .
Thái Tôn cho triệu Bác Vương mà thương nghị rằng:
- Diên Táng mới về, trẫm chưa biết tài năng thế nào, nay muốn Diên Táng thí võ mà xem, ý khanh
tưởng có đặng chăng?
Bác Vương tâu:
- Bệ hạ muốn như vậy cũng chẳng khó gì. Ngày mai truyền các tướng tựu đến giáo trường mở cuộc
thi đấu thì thấy rõ.
Hôm sau, các tướng tuân lệnh tề tựu đủ mặt. Cuộc thi tài rất sôi nổi, nhưng không ai thắng nổi Hô
Diên Táng cả.
Vua Thái Tôn rất đẹp lòng, nói:
- Tiên đế di chúc không lầm, nay trẫm mới biết tài Hô Diên Táng, đáng phong chức tướng quân lắm.
Nói rồi liền thưởng cho Diên Táng một trăm lượng vàng, một con ngựa hay, lại cho ở nơi Thiên
Quốc Tự.
Hô Diên Táng tạ ơn lui ra, còn các quan ai về dinh nấy.
Lúc ấy nhằm ngày mùng một tháng hai, ngày tế các Tiên vương, vua Thái Tôn truyền các quan tề tựu
đến nhà Thái Miếu để dự lễ.
Các quan tuân lệnh dọn dẹp đường sá sạch sẽ để cho vua ngự. Hô Diên Táng không hay, vì hôm ấy
không đi chầu.
Phan Nhơn Mỹ thấy Hô Diên Táng không tuân lệnh liền cho quân đòi tới quở trách:
- Việc chúa thượng truyền như vậy, sao tướng quân dám vi lệnh.
Nói rồi hẹn khiến quân dẫn Hô Diên Táng ra pháp trường mà chém, may gặp Bác vương đi ngang
qua trông thấy kêu quân hỏi:
- Hôm nay là ngày Hoàng Thượng tế Thái Miếu, sao lại giết người?
Quân sĩ thưa:
- Vì Hô Diên Táng cãi phép triều đình nên quan Chiêu Thảo Sứ dạy đem chém.
Bác vương nghe nói thất kinh, hét lên:
- Ấy là lỗi nhỏ, tại sao lại giết tôi lương đống?
Bèn khiến quân mở trối cho Hô Diên Táng, rồi dắt về dinh hỏi rõ sự tình.
Diên Táng vừa khóc vừa nói:
- Vì tôi mới đến, chưa hiểu việc triều đình, nên bị tội như vậy. May gặp Bác vương, nếu không tôi đã
chết rồi.
.
.

.
Bác vương nổi giận nói:
.
- Lỗi thì nhỏ mà Phan Nhơn Mỹ làm ra tội lớn, không chừng muốn hãm hại trung thần đó.
Hôm sau, Bác vương vào chầu tâu lại tự sự cho Thái Tôn hay.
Vua Thái Tôn nói:
- Việc ấy trẫm không hay, thôi để trẫm hạ chiếu tha tội cho Hô Diên Táng .
Nói rồi hạ chiếu giao cho Bác vương để làm chấp chiếu.
Lời Bàn
Kẻ mưu chiếm thế lực bao giờ cũng có lòng ganh ghét.
Phan Nhơn Mỹ cùng Hô Diên Táng là tôi một triều đình, lẽ ra phải bảo vệ lẫn nhau để làm trụ cột
phò vua giúp nước. Thế mà Phan Nhơn Mỹ chỉ vì lòng ganh ghét những kẻ có tài sợ kẻ ấy chiếm
quyền lợi của mình.
Từ xưa đến nay, trong triều đình phong kiến đã xảy ra không biết bao nhiêu tấm gương thù oán lẫn
nhau, làm cho triều đình suy yếu, nước mất nhà tan. Kẻ yêu nước thương dân, bao giờ cũng lấy
quyền lợi của đất nước làm trọng, còn quyền lợi của bản thân mình phải xây dựng trên công đức của
mình, chớ không phải xây dựng trong lòng ganh tỵ mưu hại kẻ này, mưu giết kẻ khác.
.
.
.
Hồi Thứ Ba Mươi Lăm
Diên Táng xuất trận cầm Triệu Toại
Lưu Quân thương nghị giữ Hà Đông
Bác vương lãnh chiếu về dinh, nói với Hô Diên Táng rằng:
- Nay ta tâu cùng chúa thượng xin ban cho tướng quân một chiếu chỉ tha tội cho tướng quân. Vậy từ
nay về sau cứ phép mà làm không hề chi nữa.
Hô Diên Táng tạ ơn, lui về Thiên Quốc Tự, thì không thấy vợ đâu cả nên lấy làm lạ hỏi quân sĩ mới
biết là Mã kiên Đầu khi nghe mình bị dẫn ra pháp trường, sợ tội trốn về Thái Hành Sơn rồi
Hô Diên Táng buồn bã than thở một hồi rồi nằm yên ở đó.
Bấy giờ Lưu Quân ở Hà Đông nghe Tống Thái Tôn đã triệu Hô Diên Táng phong làm tướng, bèn hội
.
.

.
quần thần thương nghị:
.
- Lúc Tống Thái Tổ còn trị vì đã có chinh chiến cùng ta nhưng bị bất lợi, phải rút quân về. Nay Thái
Tôn lên nối ngôi, chắc thế nào cũng đem binh chinh phạt chớ chẳng không?
Đinh Quới tâu:
- Từ lúc Dương lịch công chịu giảng hòa mà về Sơn Hậu cho đến nay thì binh ta luyện tập rất tinh
nhuệ bệ hạ còn lo chi nữa? Vả trước kia bởi ta thờ ơ không đề phòng nên mới chịu thua. Vậy nay
chúa công phải thủ thế, dầu binh Tống có kéo đến cũng chẳng sợ chi.
Lưu Quân khen phải, liền hạ lệnh cho các quan ải phải chỉnh tề binh mã, binh tướng luyện tập cho
nhuần.
Tin ấy đồn đến Biện Kinh, vua Thái Tôn hội quần thần thương nghị việc đem quân chinh phạt Hà
Đông.
Dương Quang Mỹ tâu:
- Hà Đông thế lực mạnh lắm, tôi e đánh gấp bây giờ chưa được. Xin bệ hạ chờ lúc nào chúng nó
chểnh mảng thì ta sẽ đem quân sang đánh.
Vua Thái Tôn chưa quyết thì có Tào Bân quì tâu:
- Binh tướng của ta đang mạnh mẽ, nay đến Hà Đông chẳng khác bẻ một cành khô, còn sợ chi nữa.
Vua Thái Tôn y tấu, liền phong Phan Nhơn Mỹ làm Bắc lộ đồ, Cao Hoài Đức làm tiên phong, Bác
vương làm giám quân, Hô Diên Táng làm phó tiên phong, lãnh một muôn binh đi đánh Hà Đông .
Vua Thái Tôn truyền chỉ ngự giá thân chinh, Phan Nhơn Mỹ lãnh mạng, hợp các tướng nơi giáo
trường mà phân binh, nhưng còn giận Hô Diên Táng, nên sai Diên Táng kéo binh đi trước toàn là
những người già yếu, đi không muốn nổi.
Cao Hoài Đức thấy vậy than rằng:
- Tướng tiên phong chẳng phải là việc chơi, nay ngài giao cho Hồ diên Táng quân số bạc nhược như
vậy, nếu có hư việc triều đình, chẳng biết ngài đổ tội cho ai?
Phan Nhơn Mỹ làm thinh một lúc rồi mới nói:
- Quân lính có kẻ mạnh người yếu, nếu chỉ lãnh những kẻ mạnh mẽ, còn những người già yếu kia thì
giao cho ai?
Cao Hoài Đức nói:
- Những binh sĩ già yếu chỉ nên để lại làm công việc ở hậu phương, còn bắt chúng nó ra giao tranh
thật là chuyện bất lợi.
Phan Nhơn Mỹ cực chẳng đã phải lựa một số binh sĩ tráng kiện trao cho Hô Diên Táng.
Hôm sau, Phan Nhơn Mỹ ra lệnh xuất binh, vua Thái Tôn bèn giao việc triều chính cho Thái tử là
Triệu Phổ ở nhà chăm sóc rồi sai Quách Tấn đi trấn nơi Thái Nguyên ngăn chặn binh Liêu. Dặn bảo
xong,vua Thái Tôn hạ chiếu thẳng đến Hà Đông.
.
.

.
Ngày kia, binh đến Hoài Châu, có quân vào báo:
- Có một đạo binh kéo ra cản đường.
.
Hô Diên Táng liền lên ngựa xông tới trước, thấy đó là Lý Kiến Trung, Lý Kiến Lượng, Liễu Hùng
Ngọc, Mã Kim Đẩu giục ngựa thẳng tới.
Hô Diên Táng hỏi Lý Kiến Trung:
- Sao đại ca không để ai ở lại mà giữ sơn trại?
Lý Kiến Trung nói:
- Vì Kim Đẩu về nói lại em bị phạm tội, và bị xử tử nơi pháp trường rồi, nên nay ta nghe binh trào đi
đến Hà Đông, quyết đón bắt cho được người nào hãm hại hiền đệ, để giết mà báo thù.
Hô Diên Táng cảm ơn, rồi thuật lại mọi việc cho mọi người nghe. Kế có Cao Hoài Đức tới biết là
bọn anh em của Hô Diên Táng, nên nói:
- Sao tướng không tâu cùng chúa thượng, cho mấy người này nhập bọn cùng đi đánh Hà Đông để lập
công với triều tình.
Lý Kiến Trung nói:
- Nếu được như vậy thì anh em tôi rất thỏa chỉ, nguyện sống thác mà đền ơn nước.
Cao Hoài Đức liền trở lại Hậu quân, tâu với vua Thái Tôn, cho họ sát nhập vào quân triều đình, cùng
đi đánh Hà Đông.
Vua Thái Tôn mừng rỡ phong cho bọn Lý Kiến Trung tám người làm Đoàn Luyện sứ, cùng đi chinh
phạt.
Hôm sau, binh Tống đi qua tới Thiên Tỉnh Quan thì hạ trại. Chúa tướng ải Thiên Tỉnh là Triệu Toại,
sức mạnh muôn người, nghe binh Tống đến liền sai phó tướng là Vương Văn ra đối địch.
Vương Văn nói:
- Binh Tống thế mạnh lắm, tôi e không lại, xin tướng quân thủ thành rồi sai người về Tấn Dương mà
viện binh họa may mới thắng nổi.
Triệu Toại nói:
- Binh tống đi đường xa đến đây, ta nên thừa cơ đánh một trận trong lúc chúng còn mỏi mệt chớ cần
gì phải viện.
Nói rồi Triệu Toại truyền mở cửa ải, dẫn ba nghìn quân ra giáp chiến.
Tướng tiên phong nước Tống là Hô Diên Táng ra ngựa xông tới hỏi:
- Bắc tướng sao không đầu phục cho rồi để nhọc sức ta chém giết.
Triệu Toại nói:
- Các ngươi ỷ mạnh, xâm phạm lãnh thổ ta. Nếu không lui binh ta sẽ giết hết.
Hô Diên Táng nổi giận giáp chiến hơn ba mươi hiệp chưa định hơn thua, thì Triệu Toại giả thua quay
ngựa váo thành chẳng ngờ Cao Hoài Đức kịp đuổi đến bắt sống Triệu Toại trên lưng ngựa. Binh
.
.

.
Tống kéo thẳng vào lấy Thiên Tỉnh quan, giao nạp Triệu Toại cho vua Thái Tôn.
Vua Thái Tôn ra lệnh chém Triệu toại bêu đầu làm lệnh.
.
Hôm sau, binh Tống kéo tới đánh Thạch Châu tướng giữ ải này là Viễn Hy Liệt nghe binh Tống đến
bèn thương nghị với phó tướng là Ngô Xương:
- Tống tướng nhiều kẻ anh hùng, nếu mình đem binh đánh thì không lại, chi bằng truyền quân giữ
thành, đợi binh Tống mệt mỏi sẽ kéo ra đánh một trận, ắt toàn thắng.
Ngô Xương nói:
- Thành mình chắc, binh mình đông, lẽ nào cứ đóng cửa mà ngủ. Để tôi đem binh giao chiến với
chúng nó một trận, nếu có thua sẽ vào thành cố thủ cũng chưa muộn.
Viên Hy Liệt nghe nói liền cho Ngô Xương dẫn ba ngàn quân ra đánh.
Ngô Xương giục ngựa tới trước trận, nói lớn:
- Hớn vương đã giữ một cõi mà cai tri thiên hạ còn muốn đến chiếm đoạt các vùng khác, thật quá
tham lam.
Diên Táng nói:
- Chúa ta đã dẹp xong các nước rồi, còn Hà Đông chẳng sớm thì muộn cũng bình định xong. Bọn các
ngươi bây giờ chẳng khác nào cá lội trong chảo, chết giờ nào không biết. Thôi, hãy đầu hàng cho
sớm.
Ngô Xương nổi giận giục ngựa tới đánh. Hai bên giao đấu chưa đầy vài hiệp, binh Tống đã ào đến.
Ngô Xương biết sức cự không lại, cũng không dám vào thành, bèn giục ngựa chạy thẳng qua Phần
Dương mà trốn. Chẳng ngờ vừa chạy được một lúc thì bị một cái đầm lớn ngăn chặn không vượt qua
được. Hô Diên Táng rượt theo bắt được, khiến quân trói lại dẫn về nạp cho vua Thái Tôn.
Vua Thái Tôn truyền đem chém, rồi truyền lệnh ba quân công phá Thạch Châu .
Bấy giờ tướng Hy Liệt nghe quân vào báo:
- Tướng Tống đã đến vây ải, Ngô Xương đã bị bắt rồi.
Hy Liệt kinh hãi, vợ là Trương thị bước ra nói:
- Phu quân hãy an tâm? Tôi có kế hoạch đuổi giặc, không hề chi mà sợ .
Hy Liệt nói:
- Giặc đang vây thành, tình thế gấpnhư lửa cháy, phu nhơn có kế gì đối phó được .
Trương thị nói:
- Hôm nay phu quân đem binh ra đánh Tống, rồi trá bại mà chạy vào rừng là nơi tôi phục binh. Nếu
binh Tống rượt theo thì binh phục của tôi sẽ vây bắt.
Hy Liệt khen hay, bèn truyền lệnh cho quân sĩ rạng ngày xuất trận.
Quả nhiên, theo kế hoạch của Trương thị, Hô Diên Táng thất thế phải chạy dài binh Tống chết vô số.
Còn hai vợ chồng Hy Liệt trọn thắng, hiệp binh cùng nhau kéo về thành.
.
.

.
Hô Diên Táng về dinh tức tối nói với Mã Kim Đẩu:
.
- Ta không phải ngu dốt mà mắc kế như vậy. Chỉ vì khinh địch nên mới thất trận. Phu nhân có kế chi
trả thù chăng?
Mã Kim Đẩu nói:
- Chẳng có gì mà phu quân phải lo sợ, vợ Hy Liệt biết dùng kế còn tôi đây lại không biết tính mưu
sao? Để tôi lấy Thạch Châu cho phu quân xem.
Hô Diên Táng hỏi:
- Phu nhân tính mưu kế gì vậy?
Mã Kim Đẩu nói:
- Phu quân hãy truyền cho các doanh trại đóng lại một chỗ, dẹp hết đồ binh khí, rồi truyền tin rằng
phu quân bị thương nặng không ra trận được nữa. Như vậy quân giặc sẽ tự hào, không chuẩn bị, phu
quân đem binh phục ở núi phía đông, bất ngờ hãm thành, đánh riết vào Thạch Châu. Như vậy lấy
thành như trở bàn tay.
Hô Diên Táng nghe lời vợ, truyền lệnh cho các dinh trại làm theo kế ấy.
Mấy ngày sau, bên Thạch Châu có quan thám thính về báo với Hy Liệt:
- Bên dinh Tống thì binh sĩ tàn tệ, còn Hô Diên Táng thì bị thương, không dám ra trận nữa.
Hy Liệt nghe tin bàn với Trương thị đem quân ra đánh.
Trương thị nói:
- Ngày trước Hô Diên Táng bị một thương gần chết, nên binh Tống khiếp sợ. Nếu mình thừa cơ lúc
này đem quân đánh một trận nữa thì binh Tống tan tành.
Viên Hy Liệt nghe lời, kẻo quân thẳng qua dinh Tống mà đánh. Binh Tống giả bộ bỏ chạy, không dè
Cao Hoài Đức phục binh kéo vào hãm thành.
Hy Liệt vội đem binh về cứu ải, bị Hô Diên Táng đuổi theo đâm một đao nhào xuống ngựa chết tươi.
Còn Trương thị vừa đem binh trở lại cửa đông bị Kim Đẩu đón lại giao tranh. Trương thị không xong
chạy trở về ải của cha mình là Phong Châu để lánh nạn.
Cao Hoài Đức hiệp binh cùng vợ chồng Hô Diên Táng, vào chiếm Thạch Châu. Vua Thái Tôn mừng
rỡ truyền lệnh xa giá vào Thạch Châu chiêu an bá tánh.
Lời Bàn
Muốn cho thiên hạ thái bình phải nắm được thiên hạ, để xây dựng một cuộc sống bền vững, ấm
no.
Vua tôi nước Tống đang hồi hưng thịnh đánh Đông dẹp Bắc, mở rộng bờ cõi lẽ ra phải chấm dứt
việc chiến chinh để cho thiên hạ khỏi chết chóc về việc đao binh. Nhưng theo quan niệm của người
xưa, muốn bình ổn được thiên hạ, không phải chỉ củng cố quyền lực nơi triều đình, mà phải tóm thâu
giang san về một mối, để ứng dụng kế sách cai trị của mình, làm cho an dân. Vì vậy nước Tống vẫn
.
.

.
.
phải chinh phạt những nơi chưa đầu phục mình. Đó không phải là tham vọng riêng tư mà muốn giúp
dân có được một xã hội tốt đẹp, văn minh.
Cái quan trọng là sau khi tóm thâu được thiên hạ, triều đình có làm cho thiên hạ được an vui trong
cuộc sống ấy không. Những triều đại, lúc được thiên hạ thì hay nghĩ đến quyền lợi riêng tư của
mình, thì đó không phải là minh chúa.
.
.
.
Hồi Thứ Ba Mươi Sáu
   Kiến Trung lập kế lấy quan ải,
Liêu chúa đem binh cứu Tấn Dương
Vua Thái Tôn vào Thạch Châu chiêu an bá lánh, truyền lệnh cho chư tướng đem binh đánh Tiếp
Thiên Quan.
Phan Nhơn Mỹ, Cao Hoài Đức và Hô Diên Táng lãnh mạng kéo binh tới trước ải khiêu chiến.
Tướng giữ Tiếp Thiên Quan là Lục Lượng Phương, liền bàn với phó tướng là Vương Văn:
- Nay binh Tống đã kẻo đến trước ải, túc hạ có kế gì ngăn chống chăng?
Vương Văn vốn là tướng thất trận ở Thiên Tỉnh Quan, nên buồn bã nói:
- Xin tướng quân chớ gấp lo việc cự chiến. Binh Tống thế mạnh, còn binh ta thế yếu phải giữ thành
cho bền vững, chờ cho binh Tống hết lương thảo sẽ kéo binh ra ứng chiến.
Lục Lượng Phương nghe lời, liền bế cửa ải không xuất quân.
Hô Diên Táng khiêu chiến mấy ngày vẫn không thấy trong ải có động tịnh gì hết nên nổi giận truyền
quân công phá. Quân trên thành bắn tên và lăn gỗ đá xuống làm cho binh Tống bị chết rất nhiều.
Hô Diên Tang nghĩ thầm:
- Lục Lượng Phương đã đề phòng trước, cố thủ như vậy khó mà hãm thành được.
Lý Kiến Trung nói:
- Địa thế ải này rất khó đánh, nếu muốn lấy gấp cũng không được. Thôi bọn ta nên lui binh về trại để
tính kế thì hay hơn.
Cách vài hôm sau, Hô Diên Táng sai người đi thám thính, rồi về báo:
- Ải ấy quân binh giữ gìn mỗi ngày một chắc chắn hơn trước.
Hô Diên Táng nghe nói buồn bã, bỗng có một người vào báo:
.
.

.
- Ngoài trại có một ông già muốn vào ra mắt.
Hô Diên Táng liền hối quân mời vào. Ông già ấy bước tới thưa:
.
- Tôi nghe tướng quân đánh Tiếp Thiên Quan không nổi, nên đến dâng kế cho tướng quân.
Hô Diên Táng nói:
- Nếu được như vậy ta sẽ tâu với Thiên tử ban thưởng cho ông.
Ông già nói:
- Ải này địa thế hiểm trở lắm, bốn phía đều có núi cao, nên mới gọi là Tiếp Thiên. Còn tướng trấn ải
là Lục Lượng Phương, hữu dõng vô mưa, song phó tướng là Vương Văn là một người đa mưu túc trí.
Tướng quân lại chẳng biết đàng sau ải ấy có một ải nữa tên là Tam Trấn Quan. Ải ấy có một con
đường tuy hẹp, mà thông qua Hà Đông được. Vậy tướng quân hãy sai người qua đó nói với tướng
giữ ải ấy là Lý Thái Công, mượn đường đặng đem binh qua Hà Đông. Nếu đi khỏi chỗ đó thì chẳng
còn ai ngăn trở nữa.
Hô Diên Táng nghe nói mừng rỡ:
- Nếu vậy trời khiến ông giúp ta đó .
Ông già muốn từ giã ra đi. Hô Diên Táng giữ lại, chờ việc thành công tâu với vua phân thưởng. Ông
già nói:
- Tôi không trông chuyện ấy !
Nói rồi liền bước ra khỏi cửa, bỗng trời nổi lên một cơn gió, ông già ấy biến mất. Hô Diên Táng thấy
chuyện lạ như vậy liền cúi lạy tạ ơn.
Ngày sau, Diên Táng sai Liễu Hùng Ngọc đem năm ngàn quân theo đường hẹp vòng qua chân núi,
rồi tìm đến Hùng Ngọc vào nói tự sự, xin Lý Thái Công cho mượn đường.
Lý Thái Công nói:
- Ngươi phải biết, ải Tiếp Thiên là chỗ yết hầu của Hà Đông. Nếu cho chúa ngươi mượn đường ấy
đem binh qua lấy Hà Đông thì chẳng khác nào ta cắt thịt mà cho ngươi. Thôi, ta tha cho ngươi phải
mau trở về nói với Tống tướng có giỏi thì đem binh đánh với ta.
Lý Thái Công có hai người con trai, con lớn là Lý Tín, con thứ là Lý Kiệt, đều võ nghệ cao cường,
thấy Lý Thái Công nói lẩm bẩm thì thất kinh lui ra trại, thuật rõ mọi việc cho Liễu Hùng Ngọc nghe.
Liễu Hùng Ngọc nổi giận kẻo binh đến trước ải khiêu chiến.
Lý Thái Công liền khiến con lớn mình là Lý Tín đem binh ra đánh. Hai tướng đánh nhau chưa được
hai hiệp thì Liễu Hùng Ngọc bị Lý Tín đâm một thương nhào xuống ngựa. Lý Tín giết binh Tống
một hồi rồi trở về ải.
Hô Diên Táng nghe tin, sợ hãi nói:
- Việc tính không xong lại bị mất mất tướng, nếu quân giặc áp tới vây hai đầu, thì ta cự sao nổi.
Lý Kiến Trung nói:
.
.

.
.
- Nếu vậy thì phải thừa lúc này đem binh đánh lấy cho được Tam Trấn Quan thì mới bảo vệ được.
Hô Diên Táng nghe lời sai Cao Hoài Đức đi cùng Lý Kiến Trung đến đánh Tam Trấn Quan.
Lý Thái Công nghe quân báo, biết Tống tướng muốn đại chiến cùng mình, liền sai người đến Tiếp
Thiên Quan tin cho Lục Lượng Phương đem binh cứu ứng.
Lục Lượng Phương bàn với Vương Văn:
- Binh Tống bị ta ngăn chặn, lén ra sau ải mà đánh, nếu cha con Lý Thái Công mà cự không nổi, để
Tống lấy Tam Trấn Quan rồi thì bọn ta không còn giữ ải nổi. Vậy túc hạ phải đem quân ra tiếp ứng.
Vương Văn vâng lời kẻo hai ngàn quân ra đi.
Lý Thái Công được tin Vương Văn kéo binh tới, liền ra đón tiếp.
Vương Văn nói:
- Tướng công chớ lo, để tôi hiệp sức với lệnh lang mà phá Tống.
Hôm sau, trời vừa rạng đông, Lý Tín cùng Vương Văn khai cửa ải đem binh ra giáp chiến, Hô Diên
Táng giục ngựa ra trận chỉ Vương Văn nói:
- Ngày trước ngươi bại trận khỏi chết là may, bây giờ còn muốn đến nạp mình sao ?
Vương Văn nói :
- Lúc ấy ta thua ngươi là vì Triệu Toại không nghe lời ta, nay ta quyết giết bọn ngươi, không để một
miếng giáp cho nguyên.
Nói rồi xốc ngựa ra đánh.
Đánh đặng hai hiệp, Vương Văn giả thua quay ngựa mà chạy. Diên Táng biết Vương Văn là người
giỏi tính muốn bất sống về mà trọng dụng, liền giục ngựa rượt theo. Bỗng nghe phía trước núi nổ lên
một tiếng pháo. Hô Diên Táng ngước mặt xem thì thấy Lý Tín kéo binh tới bọc ngả hậu mình, bèn
tới đánh nhằm con ngựa của Vương Văn quị, Vương Văn thất thế, bị bộ hạ của Diên Táng ào tới bắt
sống, Hô Diên Táng liền quay ngựa lại đánh cùng Lý Tín, Lý Tín thấy Vương Văn bị bắt, thì không
dám đánh, bèn thối binh chạy về ải. Diên Táng không theo, thâu binh trở về trại, quân sĩ dẫn Vương
Văn đến nạp, Diên Táng vừa thấy, lật đật chạy ra mở trói, dắt mời ngồi, thết đãi trà nước rồi bèn xin
lỗi và nói:
- Khi nãy nơi trận, tôi lỡ mà làm xúc phạm túc hạ, xỉn túc hạ miễn chấp.
Vương Văn trả lời:
- Tôi đây bất tài nên bị tướng quân bắt đặng, tha chết cũng nhờ ơn, lẽ đâu dám chịu hậu đãi như vậy?
Diên Táng nói:
- Tôi cũng người quê quán Hà Đông, bị chuyện ức nên phải về đầu Tống, dầu sống thác cũng giữ dạ
trung thần, còn nghĩ người đởm lược mưu trí như túc hạ, mà phò tá người không xứng đáng như vậy,
thì tôi lấy làm tiếc lắm, ví chẳng khác chi ngọc vùi tro bụi. Thôi, xin túc hạ bằng lòng phò Tống chúa
mà lập công đặng để danh thơm tiếng tốt nơi đời sau cho con cháu hưởng nhờ, như vậy chẳng phải là
.
.

.
đẹp sao?
Vương Văn nghe Diên Táng nói, lòng muốn xiêu, bèn trả lời:
.
- Lời tục có nói: Chim khôn lựa nhánh mà đỗ, tôi hiền lựa chúa mà thờ. Nay cơ hội này tôi cũng
chẳng nói chi đặng nữa. Thôi nguyện cùng tướng quân đồng phò Tống chúa cho an thân?
Từ đó, Hô Diên Táng đãi Vương Văn cách trọng hậu, lại tâu cho Thái Tôn phong thưởng rồi bèn
thưởng nghị cùng Vương Văn lo mưu kế đánh cho đặng hai ải Tiếp Thiên và Tam Trấn.
Vương Văn nói:
- Việc ấy phải tùy cơ ửng biến mới đặng. Vả nay cha con Lý Thái Công thấy tôi bị bắt rồi dẫu có
chết cũng không đám đánh cùng tướng quân nữa. Tướng quân phải y kế như vầy... như vầy…
Hô Diên Táng cả mừng, bèn khiến Lý Kiến Trung đi phục binh, còn mình đem binh tới Tiếp Thiên
Quan mà công phá. Quân báo cùng Lục Lượng Phương. Lục Lượng Phương biết Tống tướng đánh
không nổi Tam Trấn Quan, nên trở lại đánh mình, bèn truyền cho quân sĩ cứ việc bế cửa mà cố thủ.
Hô Diên Táng làm bộ thúc binh, công phá ải ấy cho đến tối.
Lúc gần canh hai, Hô Diên Táng giả chước khiến binh của mình nổi đèn đuốc leo bờ ải mà đánh, thì
binh của Lục Lượng Phương trên bờ ải cứ làm như cũ, lăn cây và đá xuống. Binh của Hô Diên Táng
thấy vậy thì dang ra hết. Bỗng thấy bên phía Đông Bắc có một đạo binh kéo riết vào, Hô Diên Táng
biết là binh của Vương Văn đến làm kế cùng mình, liền giục ngựa ra giả đánh hỗn chiến cùng Vương
Văn. Đánh đặng vài hiệp. Hô Diên Táng giả thua, quay ngựa mà chạy. Vương Văn giả rượt theo một
đổi, rồi trở vào cửa ải mà kêu lớn rằng:
- Binh Tống bị tôi phá trận đã thua chạy rồi ! Vậy phải mở cửa ra mà tiếp cùng tôi.
Quân giữ ải nghe thì biết tiếng của Vương văn là phó tướng của mình, liền vào báo với Lục Lượng
Phương.
Lục Lượng Phương tưởng Vương Văn đi tiếp cứa ải Tam Trấn trở về bèn hối quân khai cửa ải.
Té ra bị Hô Diên Táng núp bóng Vương Văn, xốc ngựa tới giao chiến .
Lục Lượng Phương biết mình mắc kế, nhưng trở vào không kịp, lại thấy Lý Kiến Trung phục binh
ngoài xa, kéo quân vào tiếp ứng.
Lục Lượng Phương đành phải đánh với hai tướng, nhưng biết sức mình cự không nổi, liền giục ngựa
bỏ chạy, bị Hô Diên Táng rượt theo đâm một thương nhào xuống ngựa. Còn Lý Kiến Trung kéo
quân vào ải dựng cờ chiêu an. Binh Bắc Hớn đầu hàng hết.
Lúc trời vừa sáng, Tống tướng nhóm nhau mừng công, Hô Diên Táng nói với Vương Văn:
- Lấy được ải này nhờ có mưu hay của túc hạ.
Vương Văn nói:
- Việc tôi làm cũng chẳng có công chi lắm!
Hô Diên Táng liền sai người báo cho vua Thái Tôn hay, rước xa giá vào thành rồi chiêu an bá tánh
.
.

.
.
Lúc này bên ải Tam Trấn hay tin binh Tống đã lấy Tiếp Thiên Quan rồi, nên Lý Thái Công kinh hãi,
bèn hối hai con bỏ ải cùng nhau kéo quân chạy về Hà Đông.
Tưởng giữ ải Phong Châu là Trương Công Cẩn, nghe binh Tống đã chiếm ải Tiếp Thiên thì sợ hãi.
Phó tướng là Lưu Bính đến thương nghị:
- Binh tướng Tống đã đông, lại giỏi, đến như Tiếp Thiên Quan là chỗ hiểm trở mà còn lấy được thay,
huống chi Phong Châu thành đã thấp, đất lại bằng, làm thế nào mà cự nổi. Thôi, xin tướng quân nghĩ
việc đầu hàng, cho sinh tinh khỏi đồ thán.
Trương Công Cẩn nói:
- Lâu nay chúng mình thọ ơn Hán trào nay lúc nguy biến không ra công báo bổ, để đi đầu hàng cũng
ngặt.
Trong lúc còn đương dụ dự thì Lưu Bính lại thúc giục, Công Cẩn nói:
- Thôi, tướng quân hàng biểu qua dinh Tống mà nộp.
Lưu Bính vâng lệnh, đến ra mắt Hô Diên Táng thuật lại mọi chuyện.
Hô Diên Táng liền báo cho vua Thái Tôn biết.
Hôm sau, Hô Diên Táng vâng chiếu hộ giá đến phong Châu.
Trương Công Cẩn liền mở cửa ải nghênh tiếp. Vua vào ải chiêu an bá tánh, rồi hạ chiếu cho các
tướng đem binh đánh thắng tới Hà Đông.
Lưu Quân được tin sợ hãi, nhóm họp quần thần thương nghị.
Đinh Quới tâu:
- Binh Tống đi đường xa, chắc là lương thảo gần hết xin chúa công sai sứ qua Đại Liêu cầu Tiêu
Thái hậu sai tướng binh đem triệt đường để Tống hết lương rồi sẽ đánh.
Lưu Quân y lời, sai sứ qua Đại Liêu viện binh.
Sứ thần vừa qua Đại Liêu thì Tiêu Thái hậu hay tin, đón vào thương nghị.
Tiêu Thiên Hữu tâu rằng:
- Hà Đông với nước ta cũng như răng với môi, xin bệ hạ phát binh giúp Lưu Quân, chớ nên chậm trễ.
Tiêu Thải hậu nhận lời, liền khiến đại tướng Gia Luật Sa đem hai ngàn binh đi cứu Hà Đông. Gia
Luật Sa lãnh mạng, kéo quân đến núi Bạch Mã, hạ trại nghỉ ngơi.
Quân thám thính về Phong Châu báo tin ấy, vua Thái Tôn nổi giận nói:
- Lưu Quân nghịch mạng ta đem binh vấn tội chớ can gì đến Đại Liêu, mà nước ấy khởi binh trợ
nghịch như vậy?
Liền khiến Cao Hoàn Đức và Hô Diên Táng đem binh đánh Bắc Phiên, rồi sau sẽ đánh Hà Đông.
Cao Hoài Đức lãnh mạng kéo quân ra đi.
Quách Tấn nói:
- Việc chấn chỉnh, phải đánh gấp, không để cho địch đủ ngày giờ sắp xếp việc binh cơ. Nay binh
.
.

.
.
Liêu đóng tại núi Bạch Mã cách trở một con khe Hoành Sơn nên độ binh rất khó. Để tôi đem binh
qua khe ấy mà đánh trước, rồi các vị thủng thỉnh theo sau mà tiếp ứng .
Cao Hoài Đức khen phải, liền phát binh cho Quách Tấn đi trước.
Gia Luật Sa hay đặng tin, thương nghị với Địch Liệt rằng:
- Ta cùng tướng quân phải đem binh nơi khe Hoành Sơn đón trước, chớ cho tướng Tống qua khe.
Địch Liệt nói:
- Cứ để cho binh Tống qua khe nửa chừng rồi mình phục binh mà đánh thì chúng nó sẽ bị tiêu diệt.
Nói rồi hẹn kéo binh để đến khe Hoàng Sơn đón quân Tống.
Lời bàn.
Ai cũng muốn vì hơn kẻ khác, nên gây thù oán với kẻ giúp đỡ kẻ thù của mình.
Vua Thái Tôn đang chinh phục Lưu Quân, thế mà binh Liêu xuất quân trợ lực cho Lưu Quân thì giận
dữ truyền bỏ Lưu Quân đi đánh quân Liêu .
Nếu đặt vấn đề quyền lợi lên trên đạo nghĩa thì vua Thái Tôn cho đó không là lẽ phải nhưng nếu luận
về sự tương trợ lẫn nhau thì nước Liêu đến ứng cứu cho Lưu Quân là lẽ phải.
Thói đời ít ai nghĩ đến lẽ phải, chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng tư của mình mà thôi.
Xã hội loài người vì nặng ý thức riêng tư mà làm cho tình nghĩa con người bị tổn thương.
.
.
.
Hồi Thứ Ba Mươi Bảy
Lưu Quân sai sứ mời Dương Nghiệp,
 Quách Tấn đại chiến Gia Luật Sa
Bấy giờ Gia Luật Sa bàn với Địch Liệt đem quân đến khe Hoành Sơn đón đánh quân Tống.
Địch Liệt không nghe lời lại kéo binh vượt qua khỏi khe mà giao chiến. Gia Luật Sa thấy Địch Liệt
không hợp ý kiến mình thì để cho Địch Liệt kéo binh đi, rồi cũng theo mà ứng chiến.
Đạo binh của Địch Liệt vừa tới khe, mới mức độ qua phân nửa thì thấy binh Quách Tấn đã gần tới.
Địch Liệt biết mình làm không đúng cách, nên truyền ngưng binh giữa vời, lập thế ngưng chiến.
Quách Tấn vung thương xốc ngựa tới nói:
.
.

.
.
- Nước Liêu là một mũi giặc, chờ ta đến nơi mà đánh, nay lại đến đây chịu chết gấp rút như vậy sao?
Địch Liệt mắng:
- Chúa ngươi rất tham lam, đã làm vua cõi trung Quốc, mà chưa biết đủ, còn đem quân xâm chiếm
khắp nơi, không cho thiên hạ ở yên. Nay ta đem binh giết bọn ngươi mà cứu đất Hà Đông.
Quách Tấn nổi giận giục ngựa tới đánh. Kế đó Hô Diên Táng cũng tiếp ứng trợ chiến với Quách Tấn.
Gia Luật Sa thấy Địch Liệt đã mệt, bèn đem quân đến cứu.
Địch Liệt biết sức mình không còn cự lại liền rút quân chạy bị Quách Tấn đuổi theo, chém một
gươm rơi đầu xuống khe. Gia Luật Sa nhờ con ngựa chạy nhanh bỏ chạy vào đường núi nhưng chưa
được bao xa bị Hoài Đức chặn lại, may đâu có một tướng kéo quân tới giải cứu cho Gia Luật Sa.
Tướng cứu Gia Luật Sa tên là Gia Luật Tà Chẩn, có ý định giúp Hà Đông đánh Tống.
Gia Luật Sa nói:
- May nhờ có tướng quân, nếu không tôi đã bị Tống tướng bắt rồi?
Gia Luật Tà Chẩn nói:
- Ấy cũng nhờ Thái hậu độ trước nên khiến tôi đến mà tiếp đó.
Chuyện vãn cùng nhau rồi, cả hai đồng tình lui về Đại Liêu.
Còn Cao Hoài Đức và các tướng trở về trại, vào tâu cùng Thái Tôn rằng:
- Bọntôi đã dẹp đặng binh Liêu rồi lại giết một đại tướng nữa.
Thái Tôn nghe tâu liền mừng, hạ chiếu ban khen, rồi khiến đem quân tới đánh thẳng Hà Đông.
Lưu quân nghe binh Liêu bị thua rút về bổn quốc rồi, thì ngày đêm kinh sợ, liền hội quần thần
thương nghị. Hữu thừa. tướng là Quách Hữu Nghi tâu rằng:
- Binh Tống thế mạnh lắm, tôi e đánh không lại, xin chúa công dâng biểu mà đầu Tống cho xong,
trước nữa là vững an xã tắc sau nửa sanh tinh khỏi việc đồ thán.
Lưu Quân nghe tâu như vậy, còn dụ dự chưa định lẽ nào liền có Tống Trai Khưu tâu rằng:
- Đất Hà Đông chẳng phải là hết người, chiến sĩ có hơn mười muôn, thành trì cũng chắc, nếu chúa
công khiến tướng ra đánh một trận thì thắng bại cũng chưa biết đặng, lẽ đâu nhẹ mình mà quật hạ
người ta sao? Vậy xin chúa công để tôi tiến cử một người đánh Tống phải thua cho chúa công coi.
Lưu Quân hỏi:
- Khanh muốn cử ai thì nói cho trẫm biết.
Tống Trai Khâu tâu:
- Người ấy vốn thuở trước ở U Châu, tên là Mã Phong, lúc Huỳnh Sào làm loạn, Mã Phong rất nổi
danh vì nhờ một cây thương tên là Di Quảng không ai đánh lại, sau đó ẩn vào núi Trung Sơn, nay tuy
đã già mà sức còn mạnh lắm. Xin tướng quân sai sứ triệu người ấy về dùng.
Lưu Quân nhận lời liền sai Từ Trọng Tấn lãnh chiếu ra đi.
Từ Trọng Tấn đến núi Trung Sơn, thấy một cái am, trong am thấy một người cao lớn, mặt đen tóc
.
.

.
bạc đang ngồi xem sách.
Từ Trọng Tấn bước tới thưa:
- Xin tiên sinh cho biết chỗ này có phải là am của Mã tướng quân không?
Người nhìn lên rồi đứng dậy hỏi:
- Quí khách từ đâu đến mà biết Mã tướng quân?.
Trọng Tấn thưa:
.
- Tôi là người nướcBắc Hớn, vâng lệnh chúa sai đến đây thỉnh Mã tướng quân xuống giúp triều đình
.
Người ấy nói:
- Bần đạo đây thật là Mã Phong, song việc đánh lui binh Tống chắc là bần đạo không giúp được .
Trọng Tấn nói:
- Hiện nay binh Tống đang đáng gấp lắm, cả triều thần không ai địch nổi.
Mã Phong hỏi:
- Vậy nước Tống cử binh đánh Hà Đông sai ai làm chánh tướng, người ấy mưu lược ra sao?
Trọng Tấn thưa:
- Tống tướng có nhiều người, song có một tướng tên là Hô Diên Táng, tài cao, mưu lớn, cả trào Bắc
Hớn không ai cự nổi, nên vua khiến tôi đến đây mà triệu ngài. Xin ngài hãy vì dân Bắc Hớn mà
xuống núi.
Mã Phong nói:
- Bần đạo tuổi đã gần chín mươi, còn sức đâu mà cầm thương lên ngựa. Vậy xin ngài về tâu với vua
sai sứ đến Sơn Hậu triệu Dương Nghiệp mà dùng, đừng trễ nải hư việc lớn.
Tư Trọng Tấn nghe Mã Phong nói như vậy bèn từ giã ra về thuật lại lời nói của Mã Phong cho Lưu
Quân nghe.
Đinh Quới tâu:
- Việc binh rất gấp xin chúa công hạ chiếu sai sứ đi triệu Dương Nghiệp về cứu nạn mới xong.
Lưu Quân nói:
- Dương Nghiệp trước đây ở Thạch Châu đã lập huyết thề giảng hòa với Tống, nay trẫm e không
chịu giúp trẫm.
Đinh Quới tâu:
- Dương Nghiệp là người rất trọng nghĩa, đâu có lẽ phụ lòng chúa công.
Lưu Quân nghe theo, liền viết chiếu sai xứ đến San Hậu.
Dương Nghiệp tiếp chiếu, nghĩ thầm:
- Nay nước Tống có lòng chiếm đoạt Hớn đô, nếu không cứu giúp, e mang tiếng bất nghĩa.
Nghĩ rồi, Dương Nghiệp phú thác việc chánh trị cõi Sơn Hậu cho Vương Quới, rồi cùng bảy người
.
.

.
con đem ba muôn binh đến cứu Hà Đông.
.
Phan Nhơn Mỹ nghe tin ấy sợ hãi hội chư tướng bàn mưu đánh cùng Dương Nghiệp. Cao Hoài Đức
nói:
- Dương Nghiệp là anh hùng nổi tiếng, nay đem binh cứu Hà Đông vì quân ca khó tiến nổi.
Hô Diên Táng nói:
- Tôi cũng thường nghe Dương Nghiệp là tướng vô địch trong thiên hạ, song tôi chưa gặp lần nào.
Để tôi đem binh đánh thử một trận xem sao?
Phan Nhơn Mỹ liền sai Hô Diên Táng lãnh năm ngàn binh xuất trận.
Lúc này Dương Nghiệp kẻo quân đóng trại tại Ngọa Long Ba, bỗng nghe có quân báo:
- Binh Tống hạ trại cách đây chừng mười dặm.
Dương Nghiệp nghe báo cười nói:
- Tống tướng dụng binh sơ lược lắm, nếu đóng trại ở nơi đó thì sao cũng phải thua ta, chớ chẳng
không!
Nói rồi, bèn hỏi trong chư tướng:
- Ai muốn xuất trận đánh trước?
Người con thứ năm tên là Dương Diên Đức ra thưa rằng:
- Con xin lãnh binh đi đánh trước.
Lịnh công nhận lời, liền phát cho Diên Đức năm ngàn binh.
Dương Diên Đức đem binh ra trận nói lớn:
- Tống tướng hãy lui binh về tâu cùng chúa ngươi phải chừa đất Hà Đông, nếu cưỡng lý thì ta giết
không để một tên quân.
Hồ Diên Táng nổi giận mắng:
- Ngươi đừng khua môi uốn lưỡi ăn nói quen mắng kẻ bất tài, chớ nay ngươi gặp ta ắt không khỏi
chết.
Nói rồi vung thương xốc ngựa ra đánh.
Hai tướng hơn mười hiệp, chưa định hơn thua, mà hai con ngựa đánh rồi dùng dằng bước không tới.
Dương Diên Đức nói:
- Ngựa của hai ta coi đã hết cẳng rồi, thôi để mai đánh nữa.
Hô Diên Táng gật đầu, rồi hai bên thâu quân về trại.
Dương Diên Đức về tới trại, ra mặt cha và thưa rằng:
- Nay con ra giáp chiến cùng tướng Tống hơn bốn mươi hiệp, vì ngựa mệt, hai bên phải thâu quân,
nên chưa biết ai thắng bại.
Dương Nghiệp nói:
- Ta nghe Tống tướng có Hô Diên Táng võ nghệ cao cường, nếu phải ngừơi ấy ra trận bữa nay, thì
.
.

.
mai ta sẽ đích thân ra đánh cùng Diên Táng.
Nói rồi khiến đem binh tới gần dinh Tống cách vài dặm mà hạ trại.
.
Nói về người con thứ bảy của Dương Nghiệp là Dương Thất Lang tánh nóng, muốn lập đầu công,
nên lén đem ba ngàn binh tới cướp trại của Tống. Đêm ấy, lúc Tống tướng là Phan Nhơn Mỹ, Quách
Tấn và Cao Hoài Đức đang nhóm nhau mà luận việc binh pháp, thình lình có một luồng quái phong
thổi vụt qua tắt đèn, Phan Nhơn Mỹ sẵn dịp bàn rằng:
- Điềm này làm cho tôi nghe đêm nay chắc là Dương gia đem binh đến cướp trại ta chớ chẳng không,
vậy chứ tướng hãy truyền cho các dinh trại, đừng cho xao động và đem quân cung nỏ phục nơi phía
hậu cho sẵn để đặng mà dự phòng.
Bọn Cao Hoài Đức vâng lời, mỗi người đều giữ bổn phận mình, Dương Thất Lang kéo binh gần tới
thì liệu quyết bên trại Tống chắc không có dự phòng chi hết, bèn giục binh riết vào vừa tới xảy nghe
tiếng nổ một tiếng pháo, binh Tống ó lên mà bắn, tên bay ra tợ như mưa bấc. Binh của Dương Thất
Lang tấn thối lưỡng nan, bị chết vô số. Thất Lang biết mình lầm kế rồi, liền quay ngựa chạy trở về,
bị Cao Hoài Đức và Quách Tấn đón đánh một trận và rượt hơn năm dặm mới trở lại, Thất Lang chạy
về tới trại điểm binh lại thì chết hết phân nửa.
Ngày hôm sau, Dương Nghiệp thới hay sự tình như thế, bèn nổi giận cho đòi Thất Lang quở:
- Ngươi không tuân theo lệnh ta làm cho binh mã chết như vậy thì tội của người đáng xử cách nào?
Bèn khiến quân đem chém Thái Iang mà thị chúng.
Bộ tướng là Trương Văn Tấn nghe sự hung như vậy, chạy đến khiến quân giam Thất Lang lại đó, rồi
vào khuyên giải cùng Dương lịnh công rằng:
- Dương Thất Lang tuy phạm tội, song chí muốn vì nước mà ra công, rủi lầm kẻ địch nhơn nên thất
trận. Xin tướng công nghĩ tình phụ tử mà dung thứ cho Thất Lang.
Dương Nghiệp nói:
- Ta cũng biết tình cha con là chí thân, song phép luật chẳng riêng đặng, phải chém nó mà răn người
khác.
Các chư tướng đều hội nhau mà xin, Dương Nghiệp thấy vậy, bèn tha chém, sai quân đem đánh bốn
mươi trượng, ai thấy cũng kinh hãi. Đánh rồi, Thất Lang tạ tội mà lui về trại mình.
Dương Nghiệp liền bảo chư tướng:
- Binh ta mới đến, phải nghỉ ít ngày mà sắp đặt quân sĩ cho tề chỉnh, rồi sẽ đánh Tống.
Chư tướng vâng lời, ai nấy đều về trại, cứ việc bổn phận mà làm.
Nói về Tống tướng Phan Nhơn Mỹ nghe binh cha con Dương Nghiệp đến gần, thì truyền cho chư
tướng tập luyện cho binh mã trong mười ngày sẽ xuất trận, lại cho người đến thám binh tình của
Dương Nghiệp.
Người sai về nói:
.
.

.
.
- Binh của Dương Gia đóng tại trại coi có thế hùng mạnh lắm chắc là muốn đại chiến cùng ta.
Phan Nhơn Mỹ Liền hội chư tướng phân binh như sau:
- Phan Nhơn Mỹ là chủ tướng, đi trung phong, Cao Hoài Đức, Hô Diên Táng đi tả hữu, Quách Tấn đi
hậu tập đề phòng cứu ứng.
Phân công xong, ai nấy đều lãnh lịnh về dinh.
Hôm sau, trời vừa rạng sáng, ba hồi trống lệnh vừa dứt, Phan Nhơn Mỹ xuất quân, mình mặc bạch
bào, đầu đội kim khôi, binh sĩ đông đủ, giục ngựa ra trận, hỏi:
- Hà Đông là nước nghịch của Tống triều, nên chúa ta đem binh vấn tội. Còn các ngươi có can chi
mà ứng chiến giúp kẻ địch.
Dương Nghiệp nói:
- Chúa ngươi làm vua Trung Quốc, năm trước đã cùng ta cầu hòa, nay lại còn giục binh đến xâm
phạm. Vả lại Đông Hà là nước láng giềng với ta, đãi ta rất hậu, nên ta phải đem binh cứu viện. Các
ngươi phải lui binh cho mau, nếu không ăn năn không kịp.
Nhơn Mỹ nổi giận, quay lại hỏi chư tướng:
- Ai dám ra bắt thằng thất phu ấy?
Nói vừa dứt lời, Hô Diên Táng đã giục ngựa múa thương đâm Dương Nghiệp. Con của Dương
Nghiệp là Dương Diên Chiêu xông ra cản lại, đánh hơn bảy mươi hiệp chưa phân thắng bại, bỗng
nghe có tiếng chiêng thâu quân, cả hai bên đều lùi về.
Lời bàn
Lòng tham vọng bao giờ cũng bị sức cản lại, vì nó xâm phạm đến quyền lợi kẻ khác.
Vua Thái Tôn đi lính dẹp các nơi để thu quyền lợi cho nước Tống hành động ấy có liên quan đến chủ
quyền các dân tộc khác. Sức phản ứng ấy là sức tự vệ của dân chúng các nước. Sức tự vệ là lực
lượng chính nghĩa, tuy yếu đuối song nó mang tính chất tự tồn.
Không một sinh vật nào không tự vệ, bảo tồn nguồn sống của mình, Dương Nghiệp giúp một nước
liên bang cũng là vì quyền lợi bảo tồn dân tộc mình. Với nhiệt tình ấy đã un đúc cho chí khí và hành
động của Dương Nghiệp chói sáng trong lịch sử thời bấy giờ. Dù thất bại, danh của một dân tộc biết
tự vệ để tự tồn bao giờ cũng sáng rực.
.
.
.
.
.

.
Hồi Thứ Ba Mươi Tám
   Bác vương dâng kế ly gián,
Quang Mỹ dụ tướng Dương Nghiệp
.
Vua Thái Tôn lúc ấy thâu quân về dinh, tính không ra kế nên buồn bã không vui :
Bát Vương trông thấy, liền hỏi:
- Hôm nay bệ hạ buồn, có phải tìm không ra kế gì đối phó với cha con Dương Nghiệp chăng?
Thái Tôn nói:
- Tại sao khanh hiểu ý trẫm? Vậy khanh có kế chi trừ được Dương Nghiệp chăng?
Bát Vương tâu:
- Tôi có nghĩ một kế ly gián, xin bệ hạ sai một người thạo về ăn nói, đến Hà Đông làm kế ấy, thì ắt
cha con Dương Nghiệp qui hàng.
Vua Thái Tôn mừng rỡ nói:
- Kế ấy rất hay, ngặt không có người xứng đáng để sai khiến.
Bát Vương tâu:
- Việc này xin bệ hạ sai Dương Quang Mỹ đi thì ắt thành công.
Dương Quang Mỹ nghe nói bước ra tâu:
- Ngu hạ tuy bất tài, xin lãnh việc này để giúp nước.
Vua Thái Tôn mừng rỡ, cấp vàng bạc, gấm vóc rất nhiều.
Dương Quang Mỹ tạ từ vua trở về dinh, trong đêm ấy dẫn một ít tên quân qua Hà Đông thi kế.
Đi chưa đầy nửa đêm, đã đến dinh Triệu Toại. Quang Mỹ vào gõ cửa, đem tiền lo lót cho quân canh,
và nói:
- Ta là anh em bạn thiết của Triệu tướng công, lâu ngày không thấy mặt nhau, hôm nay rảnh việc đến
thăm xin cho vào ra mắt.
Quân canh thấy có tiền liền mở cửa cho Quang Mỹ vào, lại cho thêm vàng bạc cho bọn quân giữ cửa
để được vào trong, nói chuyện với Triệu Toại.
Triệu Toại là viên quan thân thích của Lưu Quân, nói việc gì Lưu Quân cũng nghe mà tánh lại tham
lam, thấy tả hửu dâng lễ vật rất nhiều, nên cho đòi Quang Mỹ vào hỏi:
- Ông là quan đại thần ở bên Thiên triều, vì cớ nào đêm hôm lại đến đây xin nói cho tôi biết? .
Dương Quang Mỹ nói :
- Tôi cũng vì việc nước nên đến đây ra mắt đại nhơn, sau có việc muốn bàn riêng. Bởi chúa tôi biết
đại nhơn là người thân của Lưu Quân, muốn việc gì Lưu Quân cũng nghe, nên đến cậy đại nhơn giúp
cho một việc.
.
.

.
.
Triệu Toại là kẻ tham lam, thấy tiền bạc thì sáng mắt lên, nên Quang Mỹ không ngần ngạỉ nói với
Triệu Toại:
- Trung Nguyên với Hà Đông không có thù địch binh Tống đi chinh phục cất là lấy oai để cảm hóa
cha con Dương Nghiệp, khiến cho hai nước giao hòa. Nay tôi qua đây cầu đại nhơn tâu với Lưu chúa
đừng dùng cha con bọn Dương Nghiệp, thì chúng tôi nguyện rút quân về U Châu đợi hai nước giao
hòa. Chừng ấy ắt đại nhơn sẽ được nhiều danh vọng.
Triệu Toại nghe nó xiêu lòng, có ý chê cha con Dương Nghiệp:
- Vậy xin ông hãy yên tâm để tôi lập kế trừ cha con Dương nghiệp cho.
Triệu Toại liền dạy quân bày tiệc rượu, ăn uống xong tiển Quang Mỹ trở về.
Sau đó Triệu Toại đem lễ vật của nước Tống, tìm cách phao tin Dương Nghiệp cố ý chiếm Hà Đông
chia hai thiên hạ với Tống.
Mấy hôm sau, tiếng đồn vang dội, Triệu Toại lại khiến người tâm phúc lén qua dinh Tống hứa hẹn sẽ
làm xong lời hứa.
Vua Thái Tôn nghe tin ấy mừng rỡ hỏi Quang Mỹ:
- Việc như vậy rất đáng tin.
Quang Mỹ tâu:
- Triệu Toại là đứa tiểu nhơn, tham lam tiền bạc, lại hay ganh tỵ, thấy cha con Dương nghiệp thành
công thì trong lòng bực tức. Xin bệ hạ chờ Triệu Toại làm xong việc, trừ được cha con Dương
Nghiệp thì đất Sơn Hậu phải về tay chúa thượng.
Ngày kia, Dương Nghiệp lại nghe đồn là cha con mình muốn thâu đoạt đất Sơn Hậu dâng cho Tống
đế, nên nổi giận nửa đêm vào tâu với Lưu Quân việc đồn đại ấy.
Lưu chúa nghe Triệu Toại nói thì thất kinh hỏi:
- Bây giờ chúng ta có mưu kế gì mà bắt cha con Dương Nghiệp.
Triệu Toại tâu :
- Nếu bệ hạ đã quyết thì chẳng khó gì. Ngày mai bệ hạ ra chiếu đòi Dương Nghiệp về hỏi sơ qua vài
tiếng rồi ra lệnh cho các tướng bắt trói thì Dương Nghiệp chạy đâu cho thoát.
Lưu Quân phải khen. Sáng hôm sau, sai sứ đến đòi Dương Nghiệp hồi trào nghị việc. Dương Nghiệp
không ngờ vào triều bái mạng. Lưu Quân rút kiếm ném xuống thềm ra lệnh cho phục binh áp tới bắt
trói Dương Nghiệp.
Dương Nghiệp không biết cớ gì, lớn tiếng nói:
- Tôi có tội gì mà bệ hạ làm như vậy?
Lưu Quân nói:
- Ngươi thiệt là đứa phản tặc, ta chưa bạc đãi ngươi mà ngươi mang lòng mãi quốc? Như vậy ngươi
còn gọi là không tội ư?
.
.

.
Nói rồi truyền võ sĩ dẫn Dương Nghiệp ra chém.
Lúc ấy Tống Trai Khấu hay tin lật đật chạy tới cản lại, tâu với vua rằng:
.
- Cha con Dương Nghiệp thật có lòng trung với nước, xin bệ hạ chớ nghe lời kẻ nịnh mà hư việc lớn.
Lưu Quân nói:
- Dương Nghiệp có ý phản ta, việc ấy tiếng đồn khắp nơi, nếu không trừ trước thì mang đại họa.
Đinh Tới lúc ấy cũng quì tâu:
- Hôm nay binh Tống còn đương giao tranh, bệ hạ giết trung thần thật là điều không nên. Xin bệ
truyền cho Dương Nghiệp đánh lui binh Tống để thử lòng trung.
Lưu Quân nhận lời tha chết cho Dương Nghiệp, và dạy phải gánh lui binh Tống mới mong thoát tội.
Dương Nghiệp trở về dinh, kêu các con đến nói:
- Công việc hôm nay, ta chắc là nước Tống đã làm kế phản gián, khiến Hớn chúa nghi cha con mình,
vậy phải tính kế chi để trừ kế phản gián.
Con Dương Nghiệp là Dương Diên Đức thưa:
- Phụ thân chớ lo chi cho hao tổn, Hớn chúa đã mờ ám, lại nghe lời nịnh thần, cha con ta ở đây làm
chi cho xấu hổ, hãy kéo nhau về U Châu, chờ binh Tống lấy hết Hà Đông, để xem Hớn chúa hối hận.
Dương Nghiệp nói :
- Lòng ta hết ngay vì nước, bây giờ không lẽ trở về, vậy ngày mai các con cứ đem binh ra khiêu
chiến, rồi sau sẽ tính.
Hôm sau, anh em Dương Diên Đức đem binh khiêu chiến, bên dinh Tống vẫn làm ngơ, nên túng thế
phải dẫn binh về.
Vua Thái Tôn hay việc Dương Nghiệp bị mắc kế, liền đòi các đại thần, đến bàn luận.
Dương Quang Mỹ tâu:
- Nay Dương Nghiệp đã căm hờn Hớn chúa, ta phải nhân lúc này qua thỉnh cầu, thì xong việc .
Vua Thái Tôn nói:
- Ta cũng tính như vậy, nhưng nghĩ chưa ra kế.
Quang Mỹ tâu:
- Tôi tính trong nửa tháng nữa thì đất Hà Đông phải bó tay, còn cha con Dương Nghiệp cũng về đầu
bệ hạ.
Vua Thái Tôn nói:
- Việc này trẫm giao cho khanh lo liệu .
Quang Mỹ vâng mạng lui ra về dinh sắp sửa đến cầu Dương Nghiệp:
Dương Nghiệp hay tin tướng Tống đến nghĩ thầm:
- Năm trước cũng tên này đến cầu hòa, ta rộng lòng hậu đãi cho về nên Hớn chúa nghi kỵ ta, bây giờ
nó còn muốn tới đây gây chuyện nữa. Vậy ta phục binh trước, chờ nó vào mà hạ sát.
.
.

.
.
Quang Mỹ theo quân vào đến chánh dinh là lễ bái kiến, thấy Dương Nghiệp ngồi giữa, bảy người
con đứng hầu hai bên. Dương Nghiệp hỏi Quang Mỹ:
- Người đến đây có việc chi?
Quang Mỹ đáp:
- Tôi vâng lệnh vua Tống đến đây cầu tướng quân.
Dương Nghiệp nghe nói hét lớn:
- Ngươi bảo ta đầu hàng Tống là có ý chi?
Dương Quang Mỹ nói:
-Tôi thường nghe: chim khôn lựa cành mà đỗ, tôi hiền tìm chúa sáng mà thờ. Tướng công hết lòng
giúp Lưu Quân để giữ đất Hà Đông mà Lưu Quân không thấy lòng trung nghĩa của tướng công. Còn
như Tống chúa, đức rải bốn phương, ai nấy đều phục tùng, xin tướng công nghĩ lại mà về nơi có ánh
sáng.
Dương Nghiệp nói:
- Nay ta niệm tình tha thứ cho ngươi về, vậy ngươi phải sai một tướng nào đó có đủ tài lực đem binh
ra chiến đấu với ta.
Quang Mỹ từ giã lui về, làm bộ bỏ rơi cuộn giấy, có vẽ bản đồ hứa rằng nếu Dương Nghiệp về đầu
Tống, vua Tống sẽ cất dinh đón rước.
Cha con Dương Nghiệp bàn luận cùng nhau, rồi đêm ấy kéo quân đi hết .
Quân Tống hay tin, chạy về báo với vua Thái Tôn:
- Cha con Dương Nghiệp đã lui binh hết rồi.
Vua Thái Tôn hỏi:
- Làm thế nào để dụ được cha con Dương Nghiệp bây giờ?
Quang Mỹ tâu:
- Nay nhân dịp Dương gia lui binh lén trốn, thì ắt có lòng phản rồi, bây giờ Lưu Quân đương kết binh
với Đại Liêu đem ra Ứng Châu thảo tội cha con hắn. Nếu lời diêu ngôn như vậy thấu đến tai người,
chỉ không khỏi lo sợ! Chừng ấy bệ hạ sai người ra nói chuyện một ít hồi, thì làm sao phe đó cũng về
đầu bệ hạ.
Thái Tôn nhận lời, bèn truyền lệnh ra hết trung quân, giả như người thương khách đi nói khắp mọi
nơi trong xứ Sơn Hậu.
Trong một ngày tiếng diêu ngôn đến tai Dương Nghiệp, binh tình đều thất kinh, còn Dương Nghiệp
buồn rầu ngồi đứng không yên chỗ. Lúc ấy Lữ thị phu nhân là vợ Dương Nghiệp thấy chồng buồn
bực thì hỏi rằng:
- Chẳng hay lang quân đem binh đi cứu viện mấy bữa nay, nhân sao tôi thấy có sắc lo rầu dữ tợn vậy.
Dương Nghiệp bèn đem chuyện Lưu chúa làm như vậy... đọc lại thột hồi và than thở.
.
.

.
Lữ phu nhân hỏi:
- Vậy cho lang quân có kêu các conthương nghị việc ấy chăng?
Dương Nghiệp nói:
.
- Có mấy đứa đều khuyên ta đi đầu Tống, mà ta ngại chúng nó ăn chưa no, lo chưa tới, nên ta không
nghe.
Phu nhơn nói:
- Nếu Đại triều hậu đãi ta, cũng là chước hay, sao ông không nghe chúng nó ?
Dương Nghiệp nói:
- Chẳng biết ai có hậu đãi hay không, mà nay mang chữ bất trung với Hớn chúa nữa, chừng ấy mới
khó bề lui tới.
Dương Nghiệp nói rồi bỏ đi vào thơ phòng nghị luận. Khi đó Ngũ Lang là Diên Đức bước vào hỏi
mẹ rằng:
- Chẳng biết phụ thân nãy giờ nói việc chi với mẹ?
Lữ thị thuật các lời của chồng nói lại cho con nghe. Diên Đức thưa công việc bên trào Tống hậu đãi
cho mẹ nghe và giở các bản đồ Vô nịnh phủ của vua Tống cất sẵn dành để cho cha con về ở. Khi ấy
hai người em gái của Diên Đức là Bát Nương và Cửu Muội chạy lại xem, thấy các việc như vậy, thì
ngày đêm khuyên bảo mẹ nói với cha, làm sao cũng về đầu Tống mà thôi.
Hôm sau, Dương Nghiệp vào ăn uống với Lữ thị phu nhơn.
Lữ thị hỏi chồng rằng:
- Thiếp có nghe trung quân chúng nó rộn rực, đều lo sợ việc Đại triều đến phạt. Vậy lang quân liệu
thế nào chớ thiếp hàng ngày lo lắng? Nếu đó chẳng dung tình, tính bề gấp, thì bọn ta khó tới mà cũng
khó lui. Thiếp cũng nghĩ hết, bóng quang âm như tên thoát, ngày tháng tợ thoi đưa mà công danh của
lang quân lập chưa rồi, thật đáng buồn đáng tiếc! Bây giờ theo ý ngu của thiếp tưởng cùng lời nghị
của trẻ hãy thuận tình xin đó bỏ dứt Hà Đông, về thuận với Đại triều, đặng trước là rõ cái chí bình
sanh, sau nữa khắc tên vào kim thạch, chớ để chìm nổi theo bọn di địch đây hoài, cả đời cũng mang
tiếng như đứa thất phu kia vậy!
Dương Nghiệp nghe lời của vợ nói, thì thư thuận trong lòng liền đáp:
- Lời của phu nhơn luận rất nhằm lý, vậy để mai ta cùng các tướng thương nghị lại coi thế nào đã.
Dương Nghiệp nói rồi bỏ vào thư phòng thổn thức cả đêm, chờ cho sáng đến ra lệnh nhóm các tướng
đàm luận về việc đầu hàng Tống Quốc. Lúc ấy Vương Quới ra thưa rằng:
- Đại nhân tính như vậy cũng xong, song trước phải coi trọng tư thế mình, sau người mới kính
chuộng. Vậy bây giờ đại nhân viết một cái hàng biểu, sai người qua trước nói chuyện với Tống quân
hay, đợi người sai đại thần cùng sắc mạng qua đây rước, rồi sẽ về đầu cũng chẳng muộn.
Dương Nghiệp rất mừng mà nói rằng:
.
.

.
- Lời em luận đó rất hay, vậy ta tả một tờ mây sai người qua đó trước.
.
Dương Nghiệp nói rồi hẹn viết biểu sai bộ tướng là Trương Văn Tiền qua Tống dinh dâng biểu.
Chẳng bao lâu vua Thái Tôn thâu đặng biểu liền nhóm văn võ hỏi:
- Hôm nay Dương Nghiệp khiến người dâng biểu xin thuận về bây giờ biết chi cho vừa lòng?
Bát Vương tâu:
- Nếu vương gia chịu về đầu phục, xin bệ hạ chớ lấy sự thường mà đãi, phải lựa văn võ hai người
cho thuận hậu, cùng đem sắc chỉ triệu, và phải lấy lời thuận lẽ êm mà nói chuyện, thì Dương Nghiệp
ắt vui lòng theo về không nghi ngại.
Vua Thái Tôn khen phải, liền hỏi:
- Trong văn võ có ai chịu đi việc này đặng? .
Dương Quang Mỹ bước ra bảo tấu:
- Văn thì có Ngưu Tư Tấn, lời ăn nói thông minh và bặt thiệp; còn võ tướng có Hô Diên Táng, anh
hùng mà có khí độ, hai người ấy đi chắc đặng vẹn toàn.
Vua Thái Tôn nhậm lời tấu, liền giáng chỉ sai hai người đem lễ vật và sắc chỉ đến Ứng Châu mà rước
Dương Nghiệp, Hai người vâng mạng, lãnh chỉ đi đến ra mắt Dương Nghiệp và đọc chiếu.
Dương Nghiệp nghe xong, liền bái tạ, rồi thỉnh Ngưu Tư Tấn, Hô Diên Táng vào phòng khách đàm
luận .
Ngưu Tư Tấn nói:
- Chúa thượng tôi đã hết lòng thỉnh cầu, nên mới sai bọn tôi đến rước, xin quý vị chớ nghi ngại nữa .
Dương Nghiệp nói:
- Từ thủa tôi ẩn cư đến nay, trên hết lòng ngay với tướng chúa, dưới cũng không lập được công lao,
thật rất xấu hổ với Tống Quốc lắm.
Hô Diên Táng nói:
- Lưu chúa đã dùng gian nịnh bày kế hại tướng công, ngày nay ngài tính quy thuận đại triều, ấy là
trời khiến cho ngài lưu danh hậu thế, đâu phải việc tình cờ.
Dương Nghiệp thấy hai tướng ăn nói lễ phép, lòng rất kính phục liền dọn yến thết đãi. Trong lúc
chuyện vãn hai bên rất tâm đắc.
Tiệc xong, hai người từ tạ lui ra quán dịch, còn Dương Nghiệp vào trong nói chuyện lại cho Lữ phu
nhân hay.
Lữ phu nhân nói:
- Việc ấy đã đúng lẽ phải rồi, ông mau sửa sang mà đi cho kíp, Dương Nghiệp lúc này rất vui vẻ, hối
thúc các con sửa soạn binh mã, chở hết tài sản đem theo về Tống.
Công việc đâu đó xong xuôi, hẹn với hai tướng Tống ngày lên đường.
Lời bàn
.
.

.
.
Kế Sách gián điệp chỉ thành công khi mà nội hộ đối phương có mâu thuẫn cùng nhau.
Dương Nghiệp là một tướng tài đem quân giúp Hớn chúa làm cho nước Tống không thể chinh phục
thiên hạ, phải dùng kế gián điệp để chia rẽ tình cảm nội bộ.
Đây là một kế sách trong tam thập lục kế của người thời xưa, sở dĩ đối phương mạnh là do tình đoàn
kết nội bộ, tình thương của tất cả mọi người cùng chung một hướng. Kẻ làm gián điệp là kẻ đi tìm
những mâu thuẫn với nội bộ để khai thác, làm cho nội bộ nghi ngờ nhau, Khi nội bộ đã nghi ngờ
nhau, thì không còn tình đoàn kết, mà đã mất tình đoàn kết thì tất nhiên phải yếu kém, xưa nói: Đoàn
kết là sức mạnh của một gia đình, của một dân tộc.
.
.
.
Hồi Thứ Ba Mươi Chín
Giấc mộng Tống Đế đoạt Thái Nguyên,
  Ước mơ Thái Tôn lấy Liêu quốc,
Ngưu Tư Tấn và Hô Diên Táng trở về phục chỉ .
Cha con Dương Nghiệp đã vâng mạng, chỉ một vài ngày sau sẽ đến chầu bệ hạ.
Vua Thái Tôn mừng rỡ, vội vã khiến Bát Vương chuẩn bị nghênh tiếp, Bát Vương tuân lệnh, sắp đặt
đâu đó xong xuôi, tạm nghỉ nơi quá n dịch để chờ tin cha con Dương Nghiệp kéo đến.
Khi đạo binh Dương Nghiệp dẫn đến thì đã thấy binh tướng Tống đón chào, Dương Nghiệp liền
xuống ngựa, Bát Vương làm lễ. Hai bên nhạc thiều nổi lên, Hô Diên Táng đến nói với Dương
Nghiệp:
- Người vừa đến chào tướng công là Bát Vương, cháu ruột của Hoàng đế.
Dương Nghiệp nghe nói thất kinh, đến trước bái phục, Bát Vương đỡ Dương Nghiệp dậy rồi dẫn vào
dinh ăn uống đãi đằng, sau đó mới ra mắt Thái Tôn.
Vua Thái Tôn mời ngồi và nói:
- Bấy lâu nay trẫm ao ước gặp mặt khanh ngày nay khanh về với năm, thật là đại phước.
Thái Tôn liền phong cho Dương Nghiệp. làm chức Đoàn Luyện Sứ và hứa:
- Chừng nào dẹp giặc xong ban sư trở về, trẫm sẽ gia phong quan tước.
Dương Nghiệp lạy tạ ơn, dẫn gia quyến vào thành an nghỉ.
.
.

.
Vua Thái Tôn hạ lệnh cho chư tướng công phá Hà Đông.
.
Lúc này bên Hớn trào,. Lưu Quân đã biết được Dương Nghiệp đã về đầu đại Tống thì lo sợ bỏ ăn bỏ
ngủ, liền ra lệnh cho Đinh Quới tăng cường gìn giữ các cửa thành cho nghiêm ngặt.
Ít ngày sau, Tống tướng là Phan Nhơn Mỹ khiến thủ hạ kéo binh ra khiêu chiến, nhưng bọn Đinh
Quới thủ thành không ra đánh.
Binh Tống uy thế mỗi ngày mỗi lớn, triều thần bàn với nhau sai sứ qua Đại Liêu cầu cứu.
Lưu Quân nhận lời, liền sai một võ tướng tức tốc lên đường.
Vua Thái Tôn thấy các tướng phá thành không được, để lâu ngày e có quân cứa viện, bèn sai Cao
Hoài Đức, Hô Diên Táng đốc quân phá thành. Mặt khác, vua Thái Tôn viết biểu dụ Lưu Quân ra
hàng .
Sứ thần vâng lệnh đem biểu đến nơi, nhưng tướng Hớn không cho vào.
Vua Thái Tôn lo lắng, thao thức không ngủ. Đến canh khuya bỗng nằm mộng thấy quân vào báo
rằng:
- Có phu nhân tới.
Trong vía Thái Tôn thấy ba bốn mươi người khiêng một cái kiệu, trong kiệu có một người đàn bà
bước ra, cầm một tờ giấy đưa cho Thái Tôn xem.
Vía Thái Tôn hỏi:
- Ngươi là ai? Đến đây có việc chi?
Người đàn bà ấy đáp:
- Thiếp là Tiểu Khánh ở tại Hà Đông đến xin dâng kế vua Thái Tôn đưa tờ giấy ra xem, thấy có đề
tám chữ: Nhâm quí chi binh, Khả phá Thái Nguyên.
Vua Thái Tôn xem xong thì người đàn bà đã biến mất, Vua giật mình thức dậy mới biết là chiêm bao
thì trời cũng đã gần sáng, bèn đòi Bát Vương và Dương Quang Mỹ đến bàn việc chiêm bao.
Dương Quang Mỹ tâu:
- Chữ nhâm quí thuộc về hướng Bắc, Có lẽ thần thánh mách bảo cho bệ hạ khiến kéo binh qua hướng
Bắc ắt thành công.
Vua Thái Tôn khen bảo, truyền quân nhằm phía Bắc môn đánh vào.
Lúc ấy Hớn chúa cũng lo lắng nên ngủ không yên, chiêm bao thấy nước lụt tràn vào thành, lại thấy
có một con rồng theo phía Bắc môn lội vào. Hớn chúa thức dậy, liền gọi bá quan lại bàn tính .
Vua Hớn chưa kịp kể lại giấc mộng, thì đã có tin báo:
- Quốc cựa đã mở cửa Bắc môn, quân Tống đang tràn vào thành.
Hớn chúa thất kinh dẫn các quan đi lánh mặt, Bỗng có Dương Quang Mỹ bước vào và nói:
- Vua Tống là người nhơn đức dầu chiếm thành cũng không làm hại ai mà sợ.
Hớn chúa nghe lời ấy liền khiến Lý Hoán đem ấn tín và hành biểu dâng cho vua Thái Tôn.
.
.

.
Vua Thái Tôn rất đẹp lòng, mời Hớn chúa ngồi và nói:
- Ta chẳng trách phạt khanh đâu, xin cứ an lòng đừng lo lắng.
.
Hớn chúa lạy tạ ơn và thỉnh vua đến phủ Thái Nguyên an nghỉ, Vua Thái Tôn nhận lời cùng các quan
ra đi, thấy hai bên đường dân chúng đặt bàn hương án chúc mừng, Hớn chúa cùng các quan triều
kiến.
Vua Thái Tôn phong Lưu Quân làm chức Kiến hiệu thái sư trấn giữ lại Hà Đông, Lưu Quân lãnh
mạng tạ ơn.
Đất Thái Nguyên lúc này mới yên ổn, dân chúng an cư lạc nghiệp.
Bình Định Thái Nguyên xong. Phan Nhơn Mỹ tâu với vua:
- Đất Hà Đông gần với Khiết Dông, nay sẵn dịp, tiện đường lấy uy thế mà tấn binh gia phạt Liêu
Đông, ấy là chuyện ngàn năm.
Dương Quang Mỹ lại tâu:
- Hà Đông mới định, quân sỹ còn mỏi mệt, xin bệ hạ ban sư để cho binh tướng nghỉ ngơi.
Các quan kẻ nói này người nói khác, làm cho Tống Thái Tôn không quyết định.
Bát Vương tâu:
- Ngày nay tấn binh nữa thì bất tiện, nên hồi loan thưởng phạt công lao cho tướng sĩ, để đẹp lòng
người. Xin bệ hạ y theo lời Quang Mỹ là thượng sách.
Vua Thái Tôn nghe nhắc đến việc phong thưởng cho các quan, thì biết Bát Vương có ý nhớ lại
chuyện cũ, cách mười năm về trước, nên làm lơ không nghe lời Bát Vương tấu, và nói:
- Đợi chừng nào khanh có giang sơn thì chừng ấy sẽ tấn binh hay sao?
Bát Vương thấy vua nghi ngờ thì thất kinh không dám nói nữa.
Vua Thái Tôn nghe theo lời Phan Nhơn Mỹ, kiểm điểm lương thảo kẻo binh qua chinh phạt Liêu
Đông.
Lúc này đại binh của Tống đã đến Diệt châu hạ trại, Phan Nhơn Mỹ hạ chiến thư đưa vào thành nước
Liêu xin định kỳ giáp chiến.
Quan Thái sử nước Đông Liêu và Liêu Võ khi nghe có binh đại Tống kéo đến bèn hội chư tướng
thương nghị.
Quách Hưng nói:
- Ông có kế nào hay xin cho tôi biết.
Lưu Võ nói:
- Theo ý tôi thì nước Tống rất mãnh liệt, vừa rồi chiếm đất Thái Nguyên, chúng ta khó giữ được
Đông Liêu, Chi bằng khiến người đến nước Tống thăm dò tình hình, rồi tính việc dâng thành, cho
khỏi muôn dân đồ thán.
Quách Hưng nói:
.
.

.
- Kế ấy rất hay ? Vậy để tôi đi thám thính.
Nói rồi, Quách Hưng lui ra tìm cách qua dinh Tống.
.
Khi đến nơi, Quách Hưng xin vào ra mắt chúa soái, thấy Cao Hoài Đức rất nghiêm trang, Quách
Hưng quì gối thưa:
- Chúa tướng tôi nghe binh trào kéo đến, nên sai tôi qua đây tỏ ý dâng thành qui thuận, để muôn dân
tránh nạn binh đao.
Cao Hoài Đức nghe nói cả mừng, dẫn Quách. Hưng đến yết kiến Phan Nhơn Mỹ.
Phan Nhơn Mỹ nói:
- Nếu thật lòng quy thuận, thì ngày mai mở hết cửa thành nghênh tiếp thánh giá các ngươi sẽ được
tước lộc như cũ.
Quách Hưng vâng lệnh tạ từ lui ra, về thành cùng các tướng sĩ ra khỏi ngọ môn nghênh tiếp vua
Tống.
Khi vua Thái Tôn vào thành thì khiến quân tra xét lương thảo và phong thưởng Lưu Võ cùng các
tướng sĩ giữ y chức cũ.
Hôm sau vua truyền xuất binh nhắm Trạc Châu tấn phát.
Tướng coi giữ thành Trạc Châu tên là Lưu Hậu Đức, khi nghe tin vua Thái Tôn chiếm được thành
Diệt Châu rồi thì thương nghị với các tướng.
Bấy giờ có quan Bộ thi là Thiểm Dương Khuê bước ra thưa:
- Vua Tống là người nhơn đức, oai thế rất mạnh, chúng chỉ là một mảnh đất bằng đầu ngón tay mà
làm sao giữ được, chi bằng đầu hàng để tùng phục thì hơn.
Lưu Hậu Đức khen phải, liền khiến quân mở cửa thành, kẻo binh ra đầu phục.
Nhơn Mỹ thấy vậy liền hộ giá đưa vua Thái Tôn vào thành kiểm điểm binh lương, Ai nấy đều vui vẻ
.
Lời Bàn
Con đường xây dựng sự nghiệp, không tránh khỏi những quyền lợi riêng tư, nếu kẻ cầm đầu
không sáng suốt thì khó thành công.
Vua Thái Tôn nước Tống đi chinh phục các nơi, trên đường chiến đấu không phải không xảy ra
những trạng trái tư thù tư oán, tham vọng cá nhân, nhưng vua Thái Tôn nước Tống đã sáng suốt lấy
lòng nhân lấy sự công bình mà đối xử với những kẻ nhỏ nhoi tham vọng. Chính vì sự sáng suốt ấy vì
vua Tống dễ dàng chinh phục được thiên hạ, giữ vững tình đoàn kết nội bộ, phát huy khả năng lãnh
đạo của mình.
Ấy là trách nhiệm một vì vua trong một nước, còn trong cuộc sống xã hội loài người, những kẽ cầm
đầu một cơ quan một tổ chức, nếu không sáng suốt thì bộ hạ của mình cũng vì ganh tỵ, tham lam, tìm
.
.

.
cách phá hoại lẫn nhau mất tình đoàn kết, làm cho người lãnh đạo phải thất bại.
Đây là tấm gương cho kẻ đang nắm trong tay quyền thế mà không biết sáng suốt.
.
.
.
.
Hồi Thứ Bốn Mươi
Cao Hoài Đức vâng chỉ đánh U Châu
 Tống Thái Tôn ban sư về Kim điện
Bấy giờ tiếng đồn khắp U Châu thành, Quan quân hay tin vào cấp báo cho Tiêu Thái Hậu rõ.
Tiêu Thái Hậu nghe báo thất kinh, vội nhóm quần thần để bàn luận, Thừa tướng Tiêu Thiên Hữu nói:
- Xin chúa công chớ lo, Tôi xin tiến cử hai người đem binh đánh Tống thì dễ như chẻ tre.
Tiêu Hậu nghe nói liền hỏi:
- Chẳng hay khanh định tiến cử ai vậy?
Tiêu Thiên Hữu tâu:
- Nhị Đại tướng là Gia Luật Hề Để và Gia Luật Hữu Ca là hai người trí dũng song toàn, nếu giao cho
việc binh ắt là nên việc.
Tiêu Hậu nhận lời liền hạ chỉ phong cho Gia Luật Hữu Ca làm Giám binh, Gia Luật Hề Để và Gia
Luật Sa làm Chánh phó tiên phong, phát năm ngàn binh ra cự địch.
Ba tướng tuân lệnh dẫn binh ra khỏi Nam Thành hạ trại.
Quân thám mã chạy về báo cho Phan Nhơn Mỹ hay, Phan Nhơn Mỹ vội bàn với các tướng kế xuất
quân, Hô Diên Táng thưa :
- Tiểu tử xin đi trước, thăm dò thế giặc xem sao, rồi sẽ tính.
Nhơn Mỹ nhận lời, phát cho Diên Táng một muôn binh để ra thăm dò thế địch.
Còn Cao Hoài Đức lúc này cũng xin đi theo trợ chiến, Phan Nhơn Mỹ cũng phát một muôn binh kéo
đi.
Hôm sau, hai người cùng hợp lực kéo binh ra trận.
Phía bên kia, tướng Liêu là Gia Luật Hề Để cùng dàn quân ứng chiến, Hô Diên Táng xốc ngựa tới
đánh nhau với Gia luật Hề Để, Hai bên đánh với nhau hơn hai mươi hiệp chẳng thấy hơn thua, Gia
Luật Sa giục ngựa xông vào trợ chiến, Cao Hoài Đức xông vào giúp, Bốn tướng đồng sức đánh nhau
hơn nửa ngày liền tự ý lui binh, hẹn ngày mai tái đấu:
.
.

.
Cao Hoài Đức và Hô Diên Táng về dinh ra mắt Nhơn Mỹ nói:
.
- Hai tướng nước Liêu thật là hào kiệt, cũng đồng tác với tôi nên không thủ thắng nổi .
Nhơn Mỹ nói:
- Ta có nghe uy danh của họ Gia Luật, nếu có ra trận nữa thì hai người phải cẩn thận .
Phan Nhơn Mỹ nói xong đi thẳng vào tình tâu với vua Thái Tôn về tình hình khó khăn nơi chiến trận.
Vua Thái Tôn nói:
- Vậy thì để trẫm thân chinh cho binh tướng thêm tinh thần mà giao tranh.
Bát Vương nghe nói liền can:
- Xin bệ hạ phải lấy thân làm trọng, Việc chiến đấu đã có tướng sĩ lo liệu lựa phải phiền bệ hạ thân
chinh sao?
Vua Thái Tôn không nghe, hôm sau dậy sớm nai nịt chỉnh tề ra lệnh cho các tướng xuất quân. Bên
kia Gia Luật Hề Để cùng nhóm họp các tướng bàn mưu. Xảy có quân vào báo:
- Binh Tống hôm nay kéo đến quyết chiến, xin Nguyên Soái lo liệu.
Gia Luật Hưu Ca nghe báo liền viết một phong thư sai quân cấp tốc đem đến Yên địa khiến Gia Luật
Hạc Cổ dẫn một đạo binh đi ngả hậu, đánh bọc sau binh Tống. Lại sai luôn Gia Luật Sa dẫn tướng
đến Cao Lương Hà bố trí thành trận thế, rồi trở về hiệp chiến.
Các tướng vâng lệnh sắp đặt đâu đó xong xuôi.
Bỗng có quân vào báo:
- Binh Tống đã kéo tới rồi, lại thỉnh Nguyên Soái ra trận.
Tướng sĩ nước Liêu nghe báo trong lòng nhốn nháo, Hô Diên Táng liền vung đao ra trận, bên kia Gia
Luật Sa cũng vung búa cản lại, Hai bên đánh đến bốn năm chục hiệp vẫn chưa thắng bại nhau, bụi
bay ngất trời, trống chiêng reo dậy đất.
Bỗng nghe một tiếng pháo nổ vang, binh Tống thình lình cả loạn. Xem lại là đạo quân Liêu không
biết từ hướng nào đến, áp lại đánh dồn, làm cho binh Tống bất ngờ rối loạn.
Gia Luật Hưu Ca thấy binh Tống rối loạn, liền dẫn một đạo quân bao vây, Vua Thái Tôn xem thấy cả
kinh bèn kêu Phan Nhơn Mỹ đem quân hộ giá.
Phan Nhơn Mỹ tuân lệnh mở vòng vây, gặp Gia Luật Hưu Ca lướt tới đâm một thương, té nhào
xuống ngựa, May nhờ có Quách Thắng giục ngựa đến cứa mới khỏi chết.
Lúc này binh Tống vỡ loạn, chư tướng mắc đấu nhau, còn quân sĩ thì chém giết nhau, tiếng kêu la
vang dội.
Trong lúc hỗn loạn ấy Thái Tôn kiếm đường thoát thân, vừa ra khỏi trận, rủi bị một tướng của Gia
Luật Hưu Ca là Ngột Hoàng Nô và Nguyên Lý Hề rượt theo rất gấp. May có Dương Nghiệp ở thành
Nam đến cứu, Con của Dương Nghiệp là Diên Chiêu gặp vua Thái Tôn liền cản quân Phiên, nạt lớn:
- Phiên cẩu! Sao dám cả gan rượt chúa của ta như vậy?
.
.

.
.
Diên Chiêu nói rồi vào đánh với hai tướng, đâm trúng Ngũ Hoàng Nộ nhào xuống ngựa, gặp Vua
Thái Tôn đang run rẩy núp bên gò mối, Diên Chiêu xuống ngựa ra mắt, và nói:
- Chẳng hay ngựa của bệ hạ đâu, và kẻ hộ giá sao không có mặt.
Vua Thái Tôn run rẩy nói:
- Con ngựa của ta bị tên chết rồi, còn bộ tướng thì tản mát.
Diên Chiêu nói rồi liền hối vua lên ngựa còn mình đánh bộ đi theo hộ giá .
Vua Thái Tôp nói:
- Tướng quân hãy ngồi trên ngựa mà chiến đấu, để ta núp theo sau cũng được.
Diên Chiêu tâu:
- Xin bệ hạ hãy lên ngựa mà đi cho mau, kẻo tướng Phiên theo kịp. Bệ hạ hãy bảo trọng mình vàng,
còn thân tôi rủi có bề nào cũng không sao.
Vua Thái Tôn còn do dự, bỗng có Dương Thất Lang bay ngựa tới nói:
- Binh Tống ta đang đại bại, hãy phò chúa thượng thoát trùng vây khỏi tai nạn.
Diên Chiêu thấy em tới thì rất mừng, nói:
- Ngươi mau xuống ngựa, nhường cho bệ hạ, đặng ta hộ giá cho khỏi nơi khốn đốn.
Dương Thất Lang liền xuống ngựa, đỡ vua Thái Tôn lên yên, vừa đi được một đoạn đường, xảy gặp
Nguyên Lý Hề kéo binh chặn lại, Diên Chiêu đánh với Lý Hề không đến hai hiệp, đâm Lý Hề nhào
xuống ngựa.
Lúc này quân Phiên biết vua Thái Tôn được anh em Diên Chiêu hộ giá nên cố gắng đuổi theo, nhưng
anh em Diên Chiêu ngăn cản không cho đuổi tới .
Thời may, lúc này Dương Nghiệp, Cao Hoài Đức và Hô Diên Táng đã kịp xông tới đánh đuổi quân
Phiên, gặp anh em Diên Chiêu, liên hợp lực cứu vua Thái Tôn đem về Dinh Châu.
Vua Thái Tôn nói:
- Hôm nay mới thấy Dương Diên Chiêu thật là hào kiệt.
Lúc này Phan Nhơn Mỹ được còn sống, núp vào một nơi, chừng thấy tan trận liền ra lệnh thâu quân.
Tính lại mất hết tám chín muôn và hao hụt khí giới không biết bao nhiêu mà kể.
Vua Thái Tôn về đến Định Châu nghĩ lại giật mình, đã thất trận lại hao binh, thiếu chút nữa mất
mạng nên vội đòi cha con Dương Nghiệp vào trọng thưởng.
Dương Nghiệp lạy tạ ơn, kế đó văn võ bá quan vào ra mắt.
Bát Vương tâu:
- Nay binh mã tốn hao quá sức, lương thảo chỉ đủ dùng trong một tháng mà thôi. Vậy xin bệ hạ giáng
chỉ thâu binh hồi trào cho sớm.
Vua Thái Tôn nhận lời, khiến bọn Nhơn Mỹ đi tiền đạo, Dương Nghiệp đi trung quân còn bao nhiêu
văn võ theo sau hộ giá.
.
.

.
.
Bá quan vâng lệnh sắp đặt xong xuôi, ngày hôm sau kéo binh nhắm Biện Kinh tấn phát .
Đạo binh của thái Tôn đi dọc đường vô sự. Khi về đến Biện Kinh bá quan nhập thành, rồi bày tiệc ăn
uống.
Vua Thái Tôn nói:
- Nay trẫm căm hờn đất U Châu, không biết ngày nào mới rửa hận. Các khanh ai có kế gì hãy bày
cho Trẫm để trừ khử nghịch tặc.
Quan tư đồ là Triệu Phổ quì tâu:
- Điều ấy chẳng khó gì, xin bệ hạ chậm chậm để dưởng sức rồi sẽ chinh phạt.
Vua Thái Tôn y lời khiến quân dọn tiệc nơi giáo trường để khao thưởng tướng sĩ đi chinh phạt Thái
Nguyên về.
Trong lúc ăn uống, vua Thái Tôn gọi Dương Nghiệp đến phong làm Đại châu thứ sử, lãnh chức
Nguyên nhung còn thấy người con riêng một phủ ở tại mé sông Kim Thủy.
Lúc ấy có nhiều người ganh ghét, nhóm nhau xầm xì việc khen thưởng bất công, Dương Nghiệp hay
việc ấy bèn làm biểu xin từ chức cả con cái mình.
Bấy giờ nước Liêu, từ khi Gia Luật Hưu Ca thắng trận lui binh về, lấy làm đắc ý được Tiêu Thái Hậu
trọng thưởng.
Gia Luật Hưu Ca tâu:
- Nay thừa dịp nước Tống bại bỉnh tướng sĩ kinh tâm khiếp vía ta nên khởi binh qua đó đánh một
trận nữa để rửa hờn lúc chúng nó qua vây phá U Châu.
Tiêu Hậu nói:
- Tướng quân luận rất phải, song lúc này e chưa tiện.
Yên Vương và Hàng Khuông Tự tâu:
- Xin bệ hạ chớ nghi ngờ, hai tôi nguyện đồng cử binh với Gia Luật tướng quân đi phạt Tống cho.
Tiêu Hậu nghe nói mừng rỡ, phân cho Hàng Khuông Tự lãnh chức giám quân, Gia Luật Hưu Ca là
ứng cứu ứng. Gia Luật Sa làm Tiên phong, lãnh mười vạn binh đi đánh Tống.
Ba tướng lạy tạ lui ra, sắp xếp đội ngũ chỉnh tề, ngày hôm sau nhắm Tống bang tấn phát.
Chẳng bao lâu đã đến tại thành ở phía Tây Bắc, cách năm chục dặm hạ trại.
Quân tuần trông thấy về báo với chủ tướng là Lưu Đình Hàng.
Lưu Đình Hàng nhóm các tướng bàn định.
Thôi Ngạn Tấn và Lý Hớn Quỳnh đồng ý nói:
- Nay nước Liêu thấy chúa thượng mình mới bại binh trở về, nên đắc ý kéo binh qua đây, chúng ta
phải làm cách nào cho chúng nó sợ.
Ngạn Tấn nói:
- Nếu bây giờ đem binh ra đối địch thì chưa chắc đã thắng, chi bằng làm kế không thành dụ chúng nó
.
.

.
vào trong, chỉ tốn một tiếng pháo là nên công lớn.
Đình Hàng nói:
- Kế đó rất hay !. Song ta e chúng nó không chịu vào thành thì liệu làm sao?
Hớn Quỳnh nói:
.
- Nếu còn nghi ngại điều ấy thì ta gởi hàng biểu dâng thành, dụ cho chúng nó vào.
Lưu Đình Hàng khen phải liền khiến một tên quân đem lễ vật và hàng thư đến dinh Phiên hiến nạp .
Gia Luật Hưu Ca nói:
- Việc đầu hàng ấy không phải thiệt tình, có lẽ nào binh Tống đương thanh thế mà chịu hàng như
vậy, chắc là chúng nó dùng quỉ kế dụ chúng ta vào thành đó.
Khuông Tự nói:
- Sao tướng quân hay nghi kỵ, chúng nó đem lễ vật đến đây để cầu xin còn gì nghi ngờ nữa.
Gia Luật Hưu Ca nhắm can không được nên bỏ ra về, còn Khuông Tự nhất định ngày mai kéo quân
nhập thành.
Các tướng Tống được tin mừng rỡ, khiến Thôi Ngạn Tấn dẫn binh đi mai phục phía Đông, chờ cho
binh Phiên vào thành thì phía sau đánh tới, còn Lý Hớn Quỳnh đem quân mai phục phía Tây, hễ
nghe tiếng pháo lệnh thì ập vào. Hai tướng tuân lệnh dẫn thột đạo binh đi mai phục.
Điều khiển xong Lưu Đình Hàng bổn thân dẫn một đạo binh ra cửa phía Nam, và dặn quân sĩ khi
binh Phiên kéo đến thì mở cửa cho chúng vào.
Lời Bàn
Không nếm mùi khổ cực thì không hiểu được công lao của kẻ khác.
Vua Tống Thái Tôn đem quân bình định thiên hạ, bị vây ở U Châu, suýt mất mạng, sau nguy hiểm
ấy, Tống Thái Tôn mới truyền kéo binh về nước không dám lặn lội nơi chiến trường nữa.
Rõ ràng, Tống Thái Tôn vừa nếm mùi cay đắng ở chiến trường mới thấy được cái khổ của những kẻ
ở chiến trận.
Tham vọng con người chỉ tồn tại khi bản thân mình được thụ hưởng, mà không bị cực khổ. Là một vị
vua đi chinh phục thiên hạ, biết bao nhiêu người, vì công lao khổ nhọc. Nếu ai cũng tránh khổ nhọc
về phần mình, thế tham vọng con người sẽ không còn nữa.
.
.
.
.

.
.
Hồi Thứ Bốn Mươi Mốt
 Hớn Quỳnh dùng trí gạt tướng Phiên,
Dương Nghiệp ra công đánh Liêu tướng
.
Bấy giờ Hàng Khuông tự kéo gần tới thành, quân thám thính vào báo:
- Nơi phía cửa Tây thành đều mở hết, còn quân sĩ vắng tanh.
Khuông Tự liền kéo đến, thấy trên cửa thành có một tướng là Lưu Hồng Võ đứng ra nói:
- Xin nguyên soái chớ khá khinh dễ mà dẫn binh vào thành, tôi chắc trong ấy có phục binh.
Khuông Tự khen phải, vừa muốn rút binh, đã nghe có một tiếng pháo nổ vang quân Tống bốn phía
ùn ùn kéo tới, Hàng Khuông Tự thất kinh bỏ chạy, Ly Hớn Quỳnh giục ngựa cản lại, hai bên đánh
nhau không mấy hiệp, Hồng Võ sa cơ bị Hớn Quỳnh đâm chết.
Tống binh thừa thế đánh binh Liêu, làm cho binh Liêu cả loạn, lớp bị giết, lớp bị thương. Gia Luật
Sa ráng sức xông vào giữa trận, cứu Hàng Khuông Tự đem về dinh. Lúc này binh Tống đã kéo đến
vây phủ, Gia Luật Sa thấy bình Tống quá mạnh liều chết phá trùng vây dẫn Khuông Tự chạy tuốt về
Diệt Châu. Còn Lý Hớn Quỳnh đánh với Gia Luật Hưu Ca mấy chục hiệp mới chịu lui binh. Ba
tướng Tống lúc này kéo binh vào thành.
Bấy giờ tiêu Hậu hỏi Gia Luật Hưu Ca:
- Tại sao lại để đến nỗi lầm mưu quân giặc như vậy?
Gia luật Hưu Ca kể hết sự tình, Tiêu Hậu nổi giận ra lệnh cho Khuông Tự phải chết.
Võ sĩ dẫn Khuông Tự đến pháp trường, thì Gia Luật Sa quì tâu:
- Xin bệ hạ niệm tình Tiên Đế mà tha cho Khuông Tự một phen.
Tiêu Hậu cũng vị tình, tha tội chém, nhưng lột hết chức quan đuổi về dân. Kế đó Tiêu Hậu lại phong
cho Gia Luật Hưu Ca làm nguyên soái, Gia Luật Tả Chuẩn làm Giám quân, thống lãnh mười muôn
binh đem qua phạt Tống.
Các tướng vâng lệnh kéo binh đi. Chẳng bao lâu đã tới Tống Thành.
Tướng Tống hay tin liền nhóm các tướng bàn bạc.
Lưu Đình Hàng nói :
- Nay binh Liêu kẻo tới nữa, chắc là quyết hệt. Vậy phen này đừng có ra binh, cứ đóng cửa thủ
thành, rồi sai người về Trường An báo tin .
Đình Hàng nói xong liền viết sớ sai sứ đem về Đại Thành, và dặn các tướng giữ thành nghiêm ngặt.
Vua Thái Tông nhận được tờ sớ của Đình Hàng, liền nói:
- U Châu là nơi hiểm trở, nay binh Liêu kéo đến đó nếu để mất thành thì yếu thế. Vậy bây giờ ai dám
.
.

.
vì ta đem binh chống đỡ?
Dương Quang Mỹ tâu:
.
- Cha con Dương Nghiệp bấy lâu muốn lập công đền nợ nước, nay sẵn dịp này xin bệ hạ sai họ đi là
xong.
Thái Tôn nhận lời, liền phong cho Dương Nghiệp làm U Châu binh mã sứ và lãnh năm muôn binh đi
giải cứu.
Dương Nghiệp lãnh mạng lui ra, dặn con lớn là Dương Diên Bình coi sóc việc binh, còn Diên Đức,
Diên Chiêu theo mình đến U Châu giải cứu.
Khi binh tới Xích Cang thì hạ trại. Quân thám thính hay tin về báo với Lưu Đình Hàng hay. Lưu
Đình Hàng mừng rỡ, vội vã sửa soạn đem quân tiếp ứng. "
Còn Dương Nghiệp lúc này an định hạ trại xong cho con đi xem xét chốn Bình Nguyên thôn dã để
bố liệt trận đồ, bỗng thấy một đạo binh gươm giáo sáng ngời, Dương Nghiệp lật đật ra xem, thấy
viên tướng mặt đen tai lớn, hình thù rất kỳ quái liền xốc ngựa tới hỏi:
- Tướng kia , họ tên là chi?
Vừa hỏi xong xem lại là Lưu Hắc Đạt.
Dương Diên Đức giục ngựa xông tới đánh, nhưng được vài hiệp, Diên Đức đã thua chạy dài, còn
Hắc Đạt giục ngựa đuổi theo. Diên Đức quay lại chém Hắc Đạt một búa đứt làm hai khúc.
Dương Nghiệp thấy con mình đắc thắng liền hối quân sĩ áp vào hỗn chiến.
Lưu Đình Hàng ở trên thành xem thấy, liền dẫn binh ra hiệp với binh Dương Nghiệp giết binh Phiên
thây nằm chật đất máu chảy đầy đường.
Gia Luật Tà Chuẩn thấy binh mình đại bại thì bỏ trại lên ngựa chạy tuốt về Ngõa Kiều Quan.
Đình Hàng và Dương Nghiệp kéo binh theo đoạt lương thảo và khí giới rất nhiều, rồi đóng quân tại
phía Nam thành.
Các tướng nói:
- Nay binh Liêu về chiếm cứ tại Ngõa Kiều Quan, ta thừa dịp đuổi theo đánh một trận ắt toàn thắng.
Lưu Đình Hàng nói:
- Gia Luật Hưu Ca là người có trí dũng, nay lánh mặt không ra, e có mưu chi đây, xin nguyên soái lui
binh về thành mà nghỉ rồi sẽ tấn binh cũng chẳng muộn.
Dương Nghiệp nói:
Chúng nó bại tẩu, còn đủ ngày giờ đâu mà sắp đặt mưu kế, các tướng chớ lo, cứ việc tấn công ắt thủ
thắng.
Các tướng vâng lệnh kéo binh đến Ngoa Kiều Quan nơi phía Đông Nam sông Hắc Thủy.
Lúc này Gia Luật Hưu Ca nghe binh Tống kẻo đến, nên cùng Gia Luật Tà Chuẩn bàn rằng:
- Cha con Dương Nghiệp thật là đấng nhân tài nay kéo binh đến đây vây Ngõa Kiều Quan nữa, vậy
.
.

.
.
thì ta nên thủ thành, chớ khi dễ giao công, đợi chừng nào nó hết lương thực ta sẽ kéo quân ra đánh
một trận rửa hờn.
Tà Chuẩn nghe theo, liền truyền lệnh chư tướng đóng các cửa ải và canh gác nghiêm ngặt.
Binh Tống kéo đến vây phủ bốn phía, đánh phá ngày đêm nhưng không thắng nổi. Qua mười ngày,
Dương Nghiệp tỏ vẻ lo lắng, liền lên ngựa dẫn vài mươi tên quân đi vòng ngoài xa xem địa thế.
Khi đi đến một gò cao, Dương Nghiệp biết chắc nơi đó là chỗ lương thực của Lưu Bang, nên trở về
đòi Lưu Đình Hàng đến bảo:
- Nay Liêu binh cố thủ thành trì, là ý chờ cho ta hết lương, đặng dụng kế tập công, nay sẵn dịp có gió
bấc làm cho khí trời lạnh lẽo, quân Phiên biếng nhác tuần phong, ta dùng kế hỏa công đánh một trận
ắt trọn thắng.
Lưu Đình Hàng nói:
- Lời của Dương nguyên soái rất có lý, song nếu như Gia Luật Hưu ca biết được kế ấy, đề phòng thì
nguyên soái tính thế nào?
Dương Nghiệp nói:
- Ngài chớ lo xa. Nếu chúng đề phòng thì ta sẽ tương kế tựa kế .
Dương Nghiệp nói rồi khiến quân đi tìm một người già cả ở trong làng gần đó để hỏi thăm công việc.
Chẳng bao lâu quân sĩ dẫn về một ông già trông rất sốt sắng.
Dương Nghiệp hỏi ông già:
- Chẳng hay phía tả Ngõa Kiều Quan này có con đường nhỏ nào đi được không?
Ông già nói:
- Đường đó hẹp lắm, chỉ để cho tiều phu đi đốn củi mà thôi.
Còn phía trong binh Liêu đã bít lại rồi, không có ngả nào thông thương được.
Dương Nghiệp nghe ông già nối mấy lời liền khiến quân đem rượu thịt cho ông già ấy ăn uống rồi
đưa trở về.
Nội ngày hôm ấy Dương Nghiệp sai Diên Đức dẫn hai trăm quân giả làm tiều phu đi đốn củi, giấu vũ
khí trong người đem theo đồ dẫn hỏa, thực hiện kế hỏa công.
Diên Đức vâng lệnh lãnh quân ra đi.
Dương Nghiệp lại sai Diên Chiêu, dẫn quân đến mé sông Hắc Thủy đốn cây thả xuống sông giả làm
cầu độ binh qua, lập kế tiếp ứng. Mặt khác, sai Lưu Đình Hàng và Ngạn Tấn đem binh núp gần mé
sông Hắc Thủy chờ cho quân giặc mắc kế kéo đến thì hai đầu đánh ép lại.
Mọi người đều vâng lệnh ra đi.
Còn Dương Nghiệp đích thân đến chỗ gò cao coi chừng quân giặc.
Lúc này Gia Luật Tà Chuẩn thấy binh Tống không làm gì nổi thì cứ lo ăn uống vui chơi. Bỗng có
quân thám thính vào báo:
.
.

.
- Binh Tống muốn kéo qua sông Hắc Thủy, đặng đến Yên Thành .
Tà Chuẩn nghe báo cười lớn nói:
.
- Bấy lâu ai cũng đồn rằng Dương Nghiệp dụng binh như thần nay rõ ra không bằng một tên bộ hạ
của ta.
Tà Chuẩn nói rồi liền bảo Gia Luật Cao:
- Ngươi mau dẫn một ngàn quân chặn binh Tống tại bờ sông Hắc Thủy, chờ binh Tống độ qua gần
nửa thì xua binh ra giết.
Gia Luật Cao vâng lệnh kéo binh đi. Tà Chuẩn lại khiến Gia Luật Sa và Hàng Xiêm lãnh một muôn
binh đi đến vây binh Tống.
Hai tướng vâng lệnh ra đi.
Tà Chuẩn sai khiến xong, đi với Gia Luật Hưu Ca chuẩn bị tiếp ứng.
Bấy giờ trời vừa chạng vạng, Dương Nghiệp, Diên Chiêu giả bộ đốn cây thả bè xuống sông, Gia
Luật Cao núp ở trên xem thấy đùa binh xuống đánh nhau, binh Tống giả đò kinh sợ hối lui lên bờ.
Binh Liêu rượt đuổi theo binh Tống. Diên Chiêu vừa đánh vừa chạy dụ binh Liêu đến chỗ phục binh.
Bỗng nghe một tiếng pháo lớn, tên bắn ra như mưa. Gia Luật Sa và Hàng Xiêm kéo binh ra vừa đến
trại Tống đã nghe quân ó vang trời thì biết là trúng kế, liền dẫn binh đi tiếp cứu.
Trong rừng, Diên Đức nghe tiếng pháo liền khiển quân châm ngòi hỏa, cháy rực trời, quân giữ kho
lương đều bỏ chạy Diên Đức thừa thế đến đốt cháy hết kho lương rồi dẫn binh qua sông đánh giết
quân Liêu vô số.
Bấy giờ, Gia Luật Cao thấy phía trại lương có lửa, nên lùi lại bị Lưu Đình Hàng phục binh trên mé
sông Hắc Thủy đón đánh dữ dội.
Còn Gia Luật Sa vừa đem binh tới bị Diên Chiêu và Lưu Đình Hàng đánh úp, quân sĩ nước Liêu bỏ
gươm chạy trốn tơi bời.
Tướng Tống chận giết, thây nằm chật đất.
Diên Đức thừa thế đánh bọc hậu phía sau thành, Gia Luật Hưu Ca thất kinh phò Tà Chuẩn lén mở
cửa thành phía Bắc mà chạy. Chẳng ngờ vừa ra khỏi cửa gặp Ngạn Tấn phục binh, quân sĩ điếng hồn
không biết đường nào mà trốn. Cũng may nhờ có Gia Luật Hưu Ca tả đột hữu xung, phò vẹn toàn ra
khỏi trận. Còn lúc này, Dương Nghiệp kéo binh vào thành trọn vẹn.
Trời vừa sáng, thấy trong thành đã dựng cờ đại Tống, tướng sĩ kêu nhau vào ra mắt.
Dương Nghiệp nói:
- Nay ta thừa cơ tiến binh thì lấy Yên Thành không khó.
Lưu Đình Hàng cản lại, nói:
- Binh ta đã mệt mỏi lắm, và lương thảo cũng gần hết rồi, không nên khinh địch vào sâu trong đất
giặc.
.
.

.
.
Dương Nghiệp nghe nói lương thảo gần hết nên đồn binh tại Ngõa Kiều Quan cho bênh sĩ nghỉ ngơi.
Lời Bàn
Trong lúc khổ cực ai cũng tiếc công lao mình, tránh né nhiệm vụ, còn đến lúc ban thưởng thì
lại tranh nhau hưởng thụ.
Cha con Dương Nghiệp có công lớn được triều đình trọng thưởng, làm cho các quan đại thần xầm
xì, ganh tỵ, cha con Dương Nghiệp phải từ chức lánh thân.
Ấy vậy trong cuộc sống con người, nhiều kẻ ganh tỵ về quyền lợi hơn là đem thân thân xây dựng sự
nghiệp để rồi hưởng thụ.
Kẻ có lòng ganh tỵ bao giờ cũng là kẻ bất tài mà muốn thụ hưởng cao sang. Những bậc anh hùng
hào kiệt thường đem thân mình giúp đời trả lại công lao ấy, bởi lẽ họ không tham hưởng thụ, họ
khinh thường danh lợi mà chỉ trọng đạo nghĩa làm người.
.
.
.
Hồi Thứ Bốn Mươi Hai
  Đãi tướng sĩ, Triệu Phổ từ quan,
Trường xạ tiễn, Mỹ Bân được thưởng.
Bấy giờ Gia Luật Tà Chuẩn về an dưỡng nơi Kế Châu, nghĩ càng giận Dương Nghiệp, nên nhóm
chúng tướng muốn kéo binh trở lại quyết tử chiến một lần nữa.
Gia Luật Hưu Ca nói:
- Xưa nay xuất trận thắng bại là lẽ thường nguyên soái chẳng nên hổ thẹn làm chi. Bây giờ ta nên
dâng sớ về kinh và xin binh đến giúp, như vậy mới mong phá được binh Tống.
Tà Chuẩn nghe lời, viết tờ sớ sai quân về đại thành tâu tự sự. Thái Hậu xem xong hỏi sứ giả:
- Vậy chớ Tống tướng đó tên chi? Mà dụng binh hay như vậy?
Sứ giả thưa:
- Tống tướng là người Hà Đông, ở Sơn Hậu Thành tên là Dương Nghiệp.
.
.

.
Tiêu Hậu nói:
.
- Ta vẫn nghe tên ấy đã lâu thiên hạ gọi là Dương vô địch. Nếu người này cầm binh cho Tống Đế, thì
binh ta khó thắng.
Tiêu Hậu nói xong sai Gia Luật Hề Để đem theo mười muôn binh cứu ứng với Gia Luật Tà Chuẩn.
Dương Nghiệp hay tin liền hỏi chư tướng:
- Nay tướng Liêu là Gia Luật Hề Đễ đem binh cứu ứng, mà mình thì lương thảo đã gần hết, biết làm
sao mà chống đỡ. Theo ý ta hôm nay sai một người về Biện kinh, tâu việc Liêu binh cho Thánh
Hoàng rõ, và vận lương cho đủ, mới dám cùng nó giao tranh.
Lưu Đình Hàng nói:
- Nguyên soái tính rất hay, vậy xỉn cho người đi gấp mới đặng
Dương Nghiệp liền sai Thái Nhạc về triều trình tấu.
Thái Nhạc vâng lời ra đi không bao lâu đã về đến kinh thành, yết kiến vua Thái Tôn tâu rõ tự sự .
Thái Tôn nghe nói muốn thân chinh, nhưng các quan hết lời can gián.
Quan đại thần Triệu Phổ bước ra tâu:
- Xin bệ hạ giáng chỉ đòi Dương Nghiệp về, và sai người đến trấn thủ các ải địa đầu, thì nước Liêu
chúng nó không làm khó dễ chúng ta.
Vua Thái Tôn nhận lời, liền sai người ra đòi Dương Nghiệp.
Bấy giờ Dương Nghiệp được chiếu triệu về kinh nên hội chư tướng nói:
- Nay có lệnh triều đình dạy ta ban sư, vậy các ngươi mau sắp đặt phòng ngừa binh Liêu theo quấy
rối.
Diên Đức nghe nói liền thưa:
- Nay tướng Liêu đã khiếp vía kinh hồn, mà chẳng thừa dịp này đánh vào U Châu, lại triệu tướng
hồi trào thật quá uổng.
Dương Nghiệp nói:
- Ta cũng có ý như vậy, song lệnh vua đã ban ra, không thể làm trái.
Dương Nghiệp nói xong lựa người ở lại giữ Ngõa Kiều Quan, còn bao nhiêu binh mã thì kêu về
Trường An phục chỉ.
Người sau có làm bài thơ hối tiếc như sau:
Công đã gần nên, chiếu triệu hồi,
Tiếc thay cơ hội uổng công tôi.
Dương gia thật đáng lòng trung nghĩa.
Muôn thuở người nghe tức giận đời .
Cha con Dương Nghiệp về đến kinh, vua Thái Tôn liền hối quân dọn ăn mừng, đãi đằng như tướng
đi chinh Liêu về.
.
.

.
Hôm sau, Triệu Phổ vào chầu, dâng sớ xin từ chức thừa tướng.
Vua Thái Tôn nghe nói ngơ ngẩn, lấy làm lạ hỏi:
.
- Ta với khanh từ thuở nhỏ đã tri ngộ với nhau nhờ khanh. giúp đỡ việc trị nước, nay khanh từ chức
là ý gì?
Triệu Phổ tâu:
- Không có việc gì hết. Tôi thấy nhân. lúc thái bình mà xin từ chức để về an dưỡng, xin Bệ hạ xét lại.
Thái Tôn thấy Triệu Phổ muốn về an nghỉ, nên nhận lời.
Triệu Phổ bái tạ lui về dinh.
Hôm sau bá quan vào chầu, vua Thái Tôn tỏ ý thương tiếc Triệu Phổ có công với triều đình. Tống
Ký thấy vậy liền tâu:
- Ơn đức của Bệ hạ không ai không cảm mến. Nhưng Triệu Phổ cũng đã già nua, trở về dưỡng lão
cũng là chuyện bình thường.
Năm ấy, triều Tống cải niên hiệu là U Hy. Năm đầu, vua Thái Tôn nhớ đến ông Trần Đoàn liền cho
sứ lên núi Hoa Sơn mời xuống yến ẩm.
Trần Đoàn được tin vua triệu, liền xuống núi vào ra mắt Thái Tôn.
Vua Thái Tôn rất hậu đãi, mở tiệc linh đình, cùng Trần Đoàn ăn uống.
Bấy giờ nhân dịp trong ngoài yên lặng, đâu đó bình an, vua Thái Tôn hạ chỉ cho dân chúng ở kinh
đô, mọi nhà đến bày một cuộc vui ba bữa, đèn đuốc rực trời. Vua Thái Tôn ngự giá đi xem, hết cuộc
vui này đến cuộc vui nọ rất nên hoan hỉ.
Sau đó, vua Thái Tôn về triều ra lệnh đòi các tướng và quan cận thần đến xem hoa uống rượu, vui
chơi cả ngày.
Vua Thái Tôn nói:
- Lúc này khí xuân đang ấm thiên hạ thái bình, cỏ cây tươi tốt các khanh làm thi phú, góp vui cho
trẫm.
Sau đó mỗi người làm một bài thơ, vua Thái Tôn xem bài nào cũng khen hay và nói:
- Nay nước nhà lạc nghiệp an dân, nhưng nếu bỏ việc võ nghệ sau này khó xây dựng lại. Nay trẫm
đòi hết các võ thần và chư tướng đến võ trường cỡi ngựa bắn tên, cùng nhau tỉ thí cho trẫm xem.
Tống Ký tâu:
- Nếu Bệ hạ có lòng lo lắng điều ấy thiết là phước cho nước Tống đó.
Vua Thái Tôn liền khiến làm một trường xạ tiễn gần nơi vườn hoa rồi ra lệnh cho các tướng mang
cung cưỡi ngựa đến hầu lệnh.
Vua thái Tôn phán:
- Nếu ai vào trường, bắn trúng hồng tâm thì trẫm thưởng ngựa hay áo tốt, còn bắn không trúng thì
thôi trẫm không trách phạt.
.
.

.
.
Lệnh vừa ban ra bỗng có một thiếu niên tên Vương Đình Mỹ xông ra cỡi ngựa giương cung nhắm
hồng tâm bắn ra một mũi tức thì trống đổ chuông rung, các quan đều vỗ tay khen ngợi. Đình Mỹ rất
vui mừng quầy ngựa đến trước ngự tiền chờ lệnh.
Vua Thái Tôn khen:
- Ngày nay cháu được như vậy mới đáng con nhà Vương tướng.
Thái Tôn nói xong liền thưởng một cái hồng bào và một con bạch mã. Đình Mỹ lạy tạ ơn lui ra đứng
một bên.
Bỗng có một tướng xông ngựa ra, giương cung nhắm hồng tâm bắn trúng một mũi nữa. Ai nấy đều
ngợi khen, xem ra là đại tướng Tào Ban.
Tào Ban liền xuống ngựa đến trước ngự tiền lãnh thưởng.
Vua Thái Tôn cũng khen, và ban cho áo và ngựa.
Hôm ấy, vua tôi ăn uống cả ngày. Khi ấy Tần vương đi ngang qua ngõ Sở Vương là Nguyên Tá.
Nguyên Tá là con !ớn của vua Thái Tôn, hồi thuở nhỏ Tần Vương rất thông minh và tướng mạo
giống như vua chẳng khác, nên Thái Tôn yêu mến lắm. Rủi một ngày kia mang bệnh, lúc này mới
hết, nên vua không cho đi tỉ thí.
Khi Tần Vương về ngang đó, biết được việc tỉ thí vừa rồi, lẩm bẩm nói:
Người khác đều đến dự hội yến, lãnh thưởng, còn ta không đặng dự tiệc, mà không ai hỏi han đến.
Tần Vương nói rồi đi đập phá khắp nơi, và sai quan hầu lấy rượu uống, rồi nửa đêm một mình lén đi
chất lửa đốt cung thất.
Dân trong thành xem thấy khói lửa bay lên ngùn ngụt đều thất kinh, còn quân sĩ chạy tới cứu chữa
cũng chẳng tắt. Vua Thái Tôn gạn hỏi duyên cớ mới biết rõ là Tần Vương làm như vậy bèn hạ chỉ
truất phế Nguyên Tá ra làm dân và cho ở quận Châu an tại.
Lệnh vua đã ban, Nguyên Tá lấy làm hổ thẹn, ăn năn thì việc đã rồi.
Lời Bàn
Trong vui chơi, bao giờ cũng có cái buồn, nếu cuộc vui không đem lại nguồn vui chung.
Vua Thái Tôn chinh phục các nơi, đem lại thái bình thạnh trị, thiên hạ vui, thì nguồn vui ấy là mối
vui chung của mọi người. Nhưng ở đời, nguồn vui nào cũng phát xuất những cái buồn không lường
trước được. Kẻ đã vui còn muốn được vui nhiều hơn, để chiếm nguồn vui của thiên hạ, bởi vì nguồn
vui là một phương tiện để hưởng thụ, mà trong hưởng thụ ai cũng muốn tranh đoạt cho mình. Đến
nỗi anh em trong nhà khi vui cũng cảm thấy lẽ bất công trong niềm yêu thương ruột thịt.
.
.

.
.
Tâm trạng con người là thế, tâm trạng nảy sinh nhiều biến cố để dẫn đến sự buồn bực đến với niềm
vui.
.
.
.
Hồi Thứ Bốn Mươi Ba
 Tào Bân dẫn binh lấn đất Liêu
Hưu Ca bày trận vây tướng Tống.
Lúc này Gia Luật Hưa Ca thấy đại binh của Tống đã kéo về nước thì thường ngày tập luyện quân
nhân, đặng trả hờn mối đại bại.
Hôm sau, Hưu Ca cho người qua Trung Nguyên dọ thám, về báo rằng:
- Chúa tôi vua Tống đang yến ẩm chơi bời chớ không lo việc binh tình gì hết.
Hưa Ca hay tin, lật đật về tâu với Tiêu Hậu:
- Ngu hạ tội cãi muôn thác, vì đem binh ra thất đã mấy lần, nay nhân dịp bên Trung Nguyên không
phòng bị, chúa tôi đang vui háo hức lúc thanh nhàn, nên sẵn cơ hội này Bệ hạ phát thêm binh cho tôi
đi một phen nữa, tôi nguyện ra hết sức bình sánh kẻo rốc binh đến kinh thành, thâu đồ thế đặng trả
hờn ngày trước.
Tiêu Hậu nghe tâu lắc đầu nói:
- Tướng quân cả năm nay đem binh đều bất lợi, và lúc này Tống binh cũng mạnh mẽ bội phần, ta e
có khi tướng quân chẳng đặng sự mà xảy đến.
Tiêu Hậu vừa phán, Gia Luật Sa quì xuống tâu nữa:
- Cơ hội tốt như lúc này ít có, và tháng ngày thấm thoát như thoi đưa xin bệ hạ nhân lúc Tống trào
không phòng bị, dùng một cữ mà khá lấy đại công.
Tiêu Hậu thấy các quan đều muốn thì nghe theo, liền xuống chỉ cho Gia Luật Hưu Ca làm giám
quân, Gia Luật Sa làm tiên phong và võ tướng từ nhị phẩm sắp xuống, đều theo dưới cờ mà nghe
điều khiển.
Hưu Ca được lệnh cả mừng, trong ngày ấy từ tạ Tiêu Hậu, rồi kéo mười vạn binh ra khỏi thành,
nhắm. ranh đất Trung Nguyên dẫn binh bắt đầu từ Sóc Vân mấy châu đó đánh tới.
Thám mã của Tống trào hay đặng việc đó, bay ngựa về Trường An báo tin ấy. Thái Tôn nghe báo nổi
giận nói rằng:
.
.

.
- Đồ vô loại, khi không dám sanh sự, đem binh rối loạn biên thùy.
Liền quyết định ra lệnh thân chinh.
Tống Ký tâu:
.
- Nước Liêu dầu muốn xâm phạm biên cương thì cũng có tướng ngăn cản, lẽ nào Bệ hạ nhọc lòng,
dấn thân vào chốn binh lửa.
Vua Thái Tôn thấy quần thần can gián, nên còn lưỡng lự.
Tề Hiền bước ra giới thiệu Tào Bân làm U Châu quảng thủ thủy thống lãnh mười muôn binh nhắm
nước Đại Liêu đánh tới.
Tào bân vâng chỉ, sắp đặt đâu đó xong xuôỉ phát pháo kéo quân đi ra khỏi biên thùy hạ trại.
Lúc này Phan Nhơn Mỹ và Cao Hoài Đức đi ngã Hoàng Châu, còn Tào Bân và Hô Diên Táng đi ngã
Tân Thành, hai bên đánh úp lại.
Lúc ấy là tiết xuân khí trời ấm áp, cây cỏ xanh tươi, quân sĩ Tào Bân vừa kéo tới Tân Thành thì
tướng giữ ải Tân Thành là Hạ Tư hay tin bèn dẫn binh đối địch.
Tào Bân thấy tướng nước Liêu liền giục ngựa hét:
- Liêu tướng, sao chưa chịu xếp giáp đầu hàng, còn đợi ta nhọc sức hay sao?
Hạ Tư nổi giận nói:
- Ngươi tài cán gì mà dám đến đây xâm chiếm biên cương? Ta sẽ cho ngươi biết tài cao thấp.
Tào Bân quay lại hỏi các tướng:
- Trong chư tướng có ai dám ra bắt thằng giặc Liêu đó không?
Hô Diên Táng lướt tới nói:
- Để tôi bắt nó cho.
Nói rồi xốc tới chém Hạ Tư. Hai bên đánh nhau kịch liệt hơn mấy chục hiệp; Hạ Tư đuối sức quay
ngựa chạy dài. Diên Táng đuổi theo đâm chết Hạ Tư, rồi đốc quân vào lấy ải.
Quân nước Liêu vỡ loạn, kéo nhau chạy khỏi Tân Thành.
Qua ngày sau, Hô Diên Táng tấn binh đến Phi Hồ Lãnh, tướng giữ ải này hay tin, hội chư tướng bàn
luận:
- Tống binh rất mạnh chỉ một trận đã chiếm Tân Thành, chúng ta biết làm thế nào mà chống cự. Chi
bằng mở cửa ải, kéo cờ hàng cho khỏi bị khổ sở sinh linh.
Tướng Đại Bàng Đước, và Chiêu An Sử đồng nói:
- Nếu tướng quân làm như vậy thì tướng Tống khi dễ chúng ta thà liều chết hơn là mang nhục.
Hai tướng nói rồi về dinh sắp đặt, kéo binh ra thành lập thế trận. Binh Tống kéo đến, thì hai tướng
Liêu đã giục ngựa ra cản lại hét lớn:
- Vua nước Tống quá tham lam, dám dẫn binh xâm chiếm bờ cõi nước ngoài. Chúng ta quyết không
tha.
.
.

.
Hô Diên Táng chẳng nói lời nào, giục ngựa đánh cùng tướng Liêu.
.
Đại Bàng Đước đánh hơn năm chục hiệp, Diên Táng giả thua, lui binh vào giữa trận, Đại Bàng Đước
không ngờ, giục ngựa đuổi theo, bị Hô Diên Táng dùng thế bắt sống trên lưng ngựa. Binh Liêu trông
thấy thất kinh, bỏ gươm giáo đầu hàng.
Tào Bân đem Đại Bàng Đước bêu đầu. Trong Thành, chúa soái là Lữ Hành Đức liền mở cửa ải đầu
hàng.
Tào Bân kéo binh qua khỏi Phi Hổ Lãnh, đến vây ải Linh Kỳ.
Tướng giữ ải này tên là Hồ Đạt, hay tin trước cho nên phòng bị sẵn sàng. Lúc binh Tống đến nơi, Hồ
Đạt kéo binh ra chân đánh.
Hô Diên Táng cũng đốc binh giao chiến, tiếng chiêng trống dậy trời, bụi bay rợp đất.
Hai tướng đánh nhau hơn một trăm hiệp, mà chưa thấy hơn thua.
Hô Diên Táng nghĩ thầm:
- Tên tướng Liêu này thật cũng đại tài, nếu ta không dùng mưu kế thì khó thắng nổi.
Nghĩ rồi, liền quay ngựa chạy vòng xung quanh trận. Hồ Đạt cứ rượt theo, Diên Táng dùng roi kim
tiên quất Hồ Đạt té xuống ngựa chết tốt.
Tào Bân trông thấy mừng rỡ, xua binh tới chém giết quân Liêu, thây nằm chật đất, rồi dẫn quân vào
thành tra xét lương thảo và hạ lệnh an dân.
Tào Bân kêu Hô Diên Táng đến khen:
- Đã mấy trận rồi, tướng quân đều thâu thành đoạt ai dễ như trở bàn tay, tài ấy ta không bì kịp.
Hô Diên Táng thưa:
- Ấy là nhờ có nguyên soái tính hay, chớ tiểu tướng này có công cán bao nhiêu mà dám sánh!
Tào Bân nghe Hô Diên Táng khiêm nhường mấy điều, rất phục và khen thầm:
- Chí độ như vậy mới cao.
Tào Bân liền tả biểu sai người về cho vua Thái Tôn thấu rõ tin lành.
Chẳng bao lâu Thái Tôn tiếp đặng tin ấy, mở ra xem thấy thất kinh và nói:
- Vì cớ nào tấn binh mau dường ấy? Mới có mấy ngày mà thắng đặng ba bốn thành vậy, mới là tay
hảo hớn đó!
Vua Thái Tôn khen rồi, liền tả chiếu, dạy sứ ra khiến Tào Bân đóng binh tại Linh Kỳ an nghỉ, và
chừng nào cho đạo binh Phan Nhơn Mỹ đi đến nơi sẽ hiệp nhau tấn bộ nữa.
Tào Bân đặng chỉ ấy còn đương nghị, thoạt nghe có quân vào báo:
- Đạo quân của Phan Nhơn Mỹ đã đi đến!
Tào Bân nghe báo cả mừng, cho tướng sĩ ra mời vào nghị luận.
Phan Nhơn Mỹ đến nơi, vào ra mắt Tào Bân kể chuyện lấy đặng Hoàn, Sóc mấy châu, lại thâu phục
đặng mãnh tướng như Triệu Ngạn Chương và Triệu Hy Viên cùng mười mấy tay hổ tướng nữa.
.
.

.
Tào Bân khen một hồi rồi nói:
.
- Mới đây tôi tiếp đặng tin của Thánh Hoàng dặn bảo rằng: tôi phải đợi đạo binh Chiêu thảo đến đây
rồi sẽ tấn nữa. Vậy thì hôm nay chúng ta nghỉ một bữa, rạng ngày kẻo binh qua Trác Châu khiêu
chiến.
Nhơn Mỹ vâng lời, đóng binh an nghỉ.
Qua ngày sau, các tướng kéo rốc đại binh ra khỏi Linh Kỳ, nhắm Trác Châu thẳng tới.
Lúc này Gia Luật Hưu Ca đồn binh tại Vân Châu, có thám mã về nói:
- Đạo binh Tống nhắm đường qua Trác Châu, trong một vài ngày nữa sẽ tới.
Hưu Ca nghe báo thất kinh, lật đật lệnh dẫn hết đại binh mình đến phía Nam thành Trác Châu cách
xa chục dặm hạ trại.
Ba quân vâng lệnh, nội ngày ấy kéo đi, chẳng bao lâu đến chốn. Khi đó Hưu Ca đòi Gia Luật Sa đến
trại trung nói:
- Tống binh hôm nay đã sâu vào nơi huyệt địa rồi, thế đó cũng đã mỏi mệt, nên nhân sẵn cơ hội này
dẫn một đạo binh vào thành trì thủ và kiên bế cho nghiêm, đợi Tống tướng bớt oai yếu thế rồi, chừng
ấy sẽ dồn binh ra đánh tróc.
Gia Luật Sa vâng mạng kẻo binh đi .
Hưu Ca liền kêu Huê Thắng dạy rằng:
- Ngươi mau dẫn một muôn binh mạnh, lén đi bọc ngõ tiểu lộ qua ải Linh Kỳ, và kiếm nơi mà phục
binh, đặng đón đoạt đường lương hướng của Tống, như vậy mới bớt oai thế giặc đặng.
Huê Thắng vâng mạng, lập tức dẫn binh đi.
Hưu Ca lại khiến bổn bộ binh mình canh giữ dinh trại cho chắc chắn, ban ngày thì dẫn nhau ra trước
tập luyện cho tinh nhuệ oai phong, và muốn khoe mình cho Tống binh khiếp sợ. Còn ban đêm, cứ
việc dẫn tốp thì năm trăm, tốp thì ba trăm quân mạng, đến tại dinh Tống cướp phá cầm chừng làm
cho yếu oai Tống tướng.
Hưu Ca phòng bị sẵn sàng còn chiến tướng cứ chiếu theo mà làm.
Lúc này Tào Bân hết sức tức giận, ra đốc lực các tướng mình áp vào dưới thành đặng địch chiến.
Liêu binh cứ việc ở trong thành làm thinh là kiên bế giữ gìn nghiêm nhặt, cùng lăn cây đá xuống
thường thường chẳng dứt.
Tống binh lúc này không làm gì nổi, và xem thấy sự tinh nhuệ của Liêu binh có oai thế, thì chẳng
dám khinh mà áp tới.
Bên Tống túng quá, thét phải đóng binh lại hơn mười ngày mà ngó vây. Lúc này trong quân lương
thảo không đủ dùng. Tào Bân đã quýnh tới không hiểu tại sao mà bặt đường lương như vậy?
Trong lúc Tào Bân đang ló lắng, bỗng có một thám mã bay ngựa về báo:
Đã mấy ngày rày đường lương thảo đều bị Liêu tặc chúng nó đón đoạt thâu, nên tôi phải mau về báo
.
.

.
tin cho chúa soái!
Lời bàn
.
Nếu ở phương diện quốc gia, người ta lấy uy quyền khống chế thiên hạ, thì ở phương diện cá
nhân người ta lấy uy danh cá nhân phô trương uy tín của mình.
Nước Tống sau khi củng cố thế lực trong nước, lại đem binh chinh phục Liêu bang, với mục đích là
bắt các liên bang tùng phục mình, bắt các nước tùng phục không phải về quyền lợi mà chỉ vì danh vị.
Bản chất háo danh là ý thức khoe khoang của con người, nhưng nếu khoe khoang một cách lố bịch
thì làm trò cười cho thiên hạ, lời tục có nói: "Hữu xạ tự nhiên hương, hà tất đương phong lập” . Hễ
có mùi thơm thì tự nhiên tỏa khắp nơi, can gì phải nhờ đến làn gió thổi.
.
.
.
Hồi Thứ Bốn Mươi Bốn
  Sa cơ Cao Hoài Đức từ trần
Tiến cử Dương Diên Bình hộ giá
Tào Bân hay tin thám mã về báo quân Liêu đã đoạt hết lương thảo thì thất kinh, mồ hôi toát ra như
tắm. Liền nói với Phan Nhơn Mỹ:
- Tướng giặc mấy ngày nay đón đường cướp lương thảo, nay trong quân không còn bao nhiêu lương
thực, vậy phải mau mau lui binh về Hùng Châu đồn trú đỡ, kẻo quân giặc biết được tình trạng này,
đem binh đến bọc hậu thì binh ta khó bề chống nổi. Phan Nhơn Mỹ khen phải, liền thôi thúc ba quân
rút binh về Hùng Châu.
Cuộc rút quân vô sự nên Tào Bân mới an tâm, viết sớ sai sứ về triều vận lương.
Vua Thái Tôn tiếp được tin, nổi giận nói:
- Quân ta đang tấn công ào ạt như vậy, sao lại lùi về Hùng Châu mà đợi lương, thật là làm nhẹ oai
tướng nước Tống.
Nói rồi hẹn thảo chiếu, ra lệnh cho Tào Bân:
- Không nên thối binh nữa. Phải sắp xếp kế hoạch tấn binh qua Bạch Câu mà bình định Phiên quốc.
.
.

.
Tào Bân tiếp được chiếu vua, liền hội chư tướng nói:
- Lệnh vua đã truyền như vậy, bọn ta phải liệu thế nào?
Phan Nhơn Mỹ nói:
.
- Thế giặc còn đang thạnh lắm, còn đường sá thì chúng ta không thuộc, rủi gặp sự bất trắc thì liệu
làm sao? Chi bằng ở lại Hùng Châu thêm một ít ngày rồi sẽ tính.
Cao Hoài Đức nói:
- Chiếu vua như vậy mà cứ đóng binh thì sao yên, chi bằng thuận theo lời chúa tấn công cho khỏi bị
ngờ vực.
Tào Bạn lúc này cũng bối rối, nên nhất định thâu lương thảo chở theo, Tống binh tới Các Châu một
lần nữa.
Gia Luật Ca hay tin ấy, liền viết thơ sai quân đem vào thành nói cho Gia Luật Sa biết:
- Nên thừa lúc sơ hở cùng tướng Tống, hôm nay xuất đại binh ra, chắc binh Tống rối loạn, phải rút
binh. Làm như vậy ắt trọn thắng.
Gia Luật Sa y lời, sắp đặt đội ngũ đâu đó tề chỉnh, đợi binh Tống đến quyết chiến.
Còn Gia Luật Hưu Ca sai Gia Luật Nạp dẫn một đạo binh đến Sào Lâm mai phục.
Sắp đặt xong, Hưu ca, và Hề Để kéo binh thẳng đến Kỳ Câu Quan khiêu chiến.
Hôm ấy, binh Tống đã đi một ngày đêm, ngựa không nước uống, người đã mỏi mệt, thấy giặc oai
nghi thì trong lòng rung động. Cao Hoài Đức thấy lòng quân không định, vội ra ngựa đi trước Liêu
quân, cố làm cho quân nước Liêu mất khí thế.
Gia Luật Hề Để nổi giận xốc ngựa tới đánh với Cao Hoài Đức dụ Cao Hoài Đức vào trận. Lúc ấy Gia
Luật Hưu Ca làm ra vẻ yếu thế dụ tướng Tống vào đến quân khẩu, thì Gia Luật Nạp phục binh nổi
dậy chọn đường vây binh Tống vào giữa.
Còn Gia Luật Sa được tin xua binh trong thành ra một lượt áp đến bắn tên ào ào, tiếng quân la ó vang
trời dậy đất.
Tào Bân thấy binh sĩ rối loạn, liền quay ngựa chạy dài, nhưng chạy chưa được bao xa thì con ngựa
quỵ xuống.
Tao Bân đang lúng túng thì có Hô Diên Táng phi ngựa đến nói:
- Chủ tướng theo tôi mà thoát thân.
Nói xong, Hô Diên Táng liền bảo hộ Tào Bân ra khỏi trùng vây.
Lúc này Phan Nhơn Mỹ đầu cổ tơi bời, mình mẩy không còn manh giáp, bỗng thấy Hô Diên Táng
vừa cứu Tào Bân ra khỏi trùng vây, cũng muốn theo Hô Diên Táng thoát ra, nhưng binh Liêu vào
đến, không còn lối thoát.
Cao Hoài Đức lúc ấy cũng bị vây nơi giữa trận, chống cự với Gia Luật Nạp hơn mấy chục hiệp, thì bị
Gia Luật Sa dẫn quân ào tới giết Cao Hoài Lương tại trận.
.
.

.
.
Cao Hoài Đức hay tin lật đật đem binh tới giải cứu cho em mình, nhưng thân thể đã bị mấy mũi tên,
máu nhuộm ướt giáp.
Đã vậy quân Liêu càng lúc càng đông, Hoài Đức ráng hết sức bình sanh cũng không thoát ra khỏi
được.
Cao Hoài Đức bèn rút gươm tự vẫn vì bị nhục nhã, hư danh của một tướng Tống Quốc.
Cao Hoài Đức tử trận, có quân báo cho Tào Bân hay. Tào Bân lật đật ra lệnh lui quân, chạy qua mé
sông, theo đường tắt ở chân núi trở về Tân Thành kiểm điểm lại thấy quân sĩ hao quá nửa, vội viết sớ
sai người về triều báo lại cho vua Thái Tôn hay.
Vua Thái Tôn được tin thì toát mồ hôi, than:
- Ấy cũng vì ta nóng lòng một chút mà làm hại binh tướng mấy chục muôn.
Bá Quan thấy vậy khuyên giải. Vua Thái Tôn liền hạ chiếu đòi Tào Bân về, và giao cho phó tướng là
Mê Tín ở lại cầm binh coi giữ Tân Thành.
Tào Bân được lệnh dẫn hết tướng sĩ về triều phục tội.
Vua Thái Tôn thấy vậy an ủi:
- Bởi vì trẫm không rõ địa thế, nên đốc thúc tiến binh, không phải tội các khanh đâu.
Tào Bân thấy vua tha tội, liền lạy tạ lui ra. Kế đó vua Thái Tôn giáng chỉ sai Hô Diên Táng dẫn một
đạo quân ra coi làm hai cái đồn nơi Định Châu và Trùng Tấn, rồi đồn binh trấn thủ, không cho quân
nước Liêu xâm lấn.
Bấy giờ Tào Bân trở về dinh buồn bực nghĩ thầm:
- Ta có trách nhiệm điều binh khiển tướng, lại để cho sinh linh chết đến mấy mươi muôn, thật không
còn đáng mặt làm người.
Nghĩ như vậy, Tào bân vội viết sớ xin từ chức.
Vua Thái Tôn cực chẳng đã cũng phải nhận lời, sai người trấn nhận tại Phòng Châu để an dưỡng.
Lúc này vua Thái Tôn mới nhớ đến công lao Cao Hoài Đức, nên đòi hai người con là Cao Lân và
Cao Phụng đến phong làm chức Đoàn luyện sứ Đại châu.
Bấy giờ Gia Luật Hưu Ca, khi được trọn thẳng về thành, liền viết biểu về kinh, xin với Tiêu Thái
Hậu, cử đại binh thừa cơ diệt Tống.
Tiêu Hậu lật đật sai người trở lại Trác Châu ngăn lại, nói:
- Binh ta mới thắng trận, người mỏi ngựa mệt, chỉ nên dưỡng sức mà giữ nguyên ải.
Gia Luật Hưu Ca tuân lệnh, đóng binh tại Trác Châu, không hành động gì nữa.
Vua Thái Tôn hay tin nước Liêu đang dưỡng binh nên cũng bớt lo. Nhưng có Bát Vương tâu:
- Binh Liêu lúc này rất mạnh, xin Bệ hạ truyền các tướng lập thêm đồn ải biên giới, để đề phòng
chúng nó xâm lấn.
Vua Thái Tôn khen phải, hạ lệnh cho các đồn trấn ở biên cương lúc nào cũng phải đề phòng cẩn
.
.

.
thận.
Một hôm vua Thái Tôn nhớ đến lời di chúc của Tiên đế, bèn hỏi quần thần:
.
- Anh trẫm ngày trước có lời dặn: phải làm sao thu được Ngũ Đài Sơn, vì đây là vùng đất quan trọng.
Quần thần nghe vua nói liền tâu:
- Tuy Tiên đế có lời dặn xong vừa rồi nước ta với nước Liêu đã đánh nhau hơn trăm trận, hao binh
tổn tướng rất nhiều nếu bây giờ Bệ hạ cử binh đi nữa, thì rất bất tiện. Vả lại, Ngũ Đài Sơn là biên
giới của nước Liêu, có Gia Luật Hưu Ca trấn giữ nếu Bệ hạ đến đó, chúng đem binh vây phủ, thì
chúng ta biết tình thế nào mà thoát được.
Vua Thái Tôn nghe tâu, chưa biết tính sao thì Phan Nhơn Mỹ xin có ý kiến:
- Tôi xin tiến cử một người theo bảo hộ Bệ hạ đến Ngũ Đài Sơn thì chắc không có việc gì đáng lo.
Vua Thái Tôn hỏi:
- Khanh định tiến cử ai?
Phan Nhơn Mỹ nói:
- Người này là con lớn của Dương Nghiệp, tên là Dương Diên Bình, văn võ toàn tài, lược thao đầy
đủ, xin dùng người ấy hộ giá thì mọi việc khỏi lo.
Vua Thái Tôn mừng rỡ phong cho Diên Bình làm hộ giá Đại Tướng Quân, truyền chỉ theo hộ tống.
Hôm sau, Diên Bình được lệnh dẫn hai muôn binh ra khỏi thành, hộ giá vua Thái Tôn nhắm Ngũ Đài
Sơn tấn phát.
Lời Bàn
Lòng tham con người không bao giờ đủ, nếu không biết tự mình hạn chế cái đủ trong lẽ sống.
Vua Tống Thái Tôn đi chinh phục khắp nơi để thị uy trong thiên hạ, nước nào không tùng phục thì
oán cừu.
Như vậy, là một kẻ vừa háo danh vừa tham quyền, làm khổ cho binh tướng. Trong lúc đánh với nước
Liêu vừa bại trận thế mà chỉ buồn rầu trong chốc lát rồi lại muốn đoạt Ngũ Đài Sơn là một vùng đất
biên giới của nước Liêu.
Tham vọng con người đặt trên xương máu của kẻ khác để hưởng thụ, thì thật là việc làm thiếu nhân
đạo.
Người đời phải biết đến cái đủ, là cái so với kẻ khác mình không thua kém. Còn cứ nghĩ về quyền lực
của mình thì chẳng bao giờ đủ.
.
.

.
.
.
.
Hồi Thứ Bốn Mươi Lăm
Thái Tôn ra viếng Ngũ Đài Sơn.
Diên Bình liều thác U Châu Địa.
.
Vua Thái Tôn rời Biện Kinh, đi chẳng bao lâu đã đến Ngũ Đài Sơn vào một ngôi chùa, kêu Quan
Hữu Tư đem lễ vật bày trước bàn phật niệm hương giải nguyện.
Công việc vừa xong, vua Thái Tôn đích thân giộng chuông đánh trống, đốt nhang quì khấn vái:
- Nay tôi đến đây là vì lời dặn của Tiên Đế ngày trước, xin cầu đức phật ban ơn cho hưởng phước
Thái Bình, muôn dân lạc nghiệp.
Vua Thái Tôn khấn vái xong, đến nghỉ tại cung Huê Nguyên. Có các quan hầu hạ.
Vua Thái Tôn nói:
- Trẫm bấy lâu mắc lo việc triều chính, nay sẵn dịp này muốn đi ngoạn cảnh rồi sẽ về triều cũng
chẳng muộn.
Các quan nghe vua phán như vậy không ai dám ngăn cản.
Hôm sau, Vua Thái Tôn đi dạo chơi, đến một đỉnh núi rất xinh đẹp nối liền U Châu, hỏi ra mới biết
đây là hòn Kỳ Lân chung quanh bao bọc nhiều núi nhỏ, hình tượng sắc sảo như tranh vẽ. Vua Thái
Tôn rất ngợi khen, dẫn các quan lần lượt đi xem bốn phía.
Thoạt nhiên, đến một khoảng trống, vua Thái Tôn xem thấy có một hòn núi nhỏ, chính giữa lại có
thành trì, phong cảnh rất xinh đẹp, liền hỏi các quan:
- Đây là đâu mà phong cảnh tốt tươi như vậy?
Phan Nhơn Mỹ tâu:
- Đó là U Châu thành, xưa nay đóng đô tại đó.
Vua Thái Tôn rất vui vẻ, nói với các quan:
- Ý trẫm muốn cùng các quan đến đó du ngoạn, cũng để biết cảnh đẹp của nước ngoài.
Bát Vương nghe vua phán thất kinh, bước ra tâu:
- U Châu là thủ đô của Tiêu Hậu, mà Bệ hạ muốn tới đó thì chẳng khác nào chim bay vào lưới rập.
Xin Bệ hạ mau dời gót trở về, để tránh điều lo lắng.
Vua Thái Tôn nói:
- Ngày trước vua Đường Thái Tôn cũng đi bình định Liêu Đông, thường hay ra chiến trận, còn ta đây
.
.

.
.
thiên binh vận mã, lo gì Tiêu Hậu, thôi các khanh sắp sửa theo trẫm đến đó mà du ngoạn.
Bát Vương thấy lệnh vua đã quyết, nên không dám cản ngăn, đồng dẫn nhau trở lại chùa.
Sáng hôm sau, xa giá rời khỏi Ngũ Đài Sơn đi về phía U Châu nhưng vừa tới phần Dương Địa bỗng
thấy binh mã kéo đến rần rần giây phút đã có quân trở về báo:
- Có binh Phiên cản đường.
Vua Thái Tôn hỏi:
- Ai dám cản đường trẫm vậy?
Hỏi vừa dứt tiếng thì có quan bảo giá Dương Diên Bình giục ngựa vung thương phóng tới trước, gặp
đại tướng của nước Liêu đông, tay cầm đại đao, cỡi ngựa xích thố tên là Gia Luật Kỳ.
Tướng ấy hét to:
- Tống tướng ! Mau trở về thì ta dung thứ, bằng đến đây xâm phạm cõi bờ thì chết uổng mạng.
Dương Diên Bình vung thương, lướt ngựa tới đánh.
Gia Luật Kỳ đánh được vài mươi hiệp bị Dương Diên Bình đâm một thương, liền quất ngựa chạy về.
Diên Bình cũng trở lại báo cho vua Thái Tôn biết.
Gia Luật Kỳ bị thua, chạy về tâu với Tiêu Thái hậu rõ sự tình.
Tiêu Thái Hậu nổi giận hỏi quần thần:
- Các khanh có biết tại sao quân Tống đến đó làm chi.
Già Luật Kỳ tâu:
- Cách mấy bữa trước, tôi có nghe quân báo rằng vua Tống tới Ngũ Đài Sơn vào chùa cầu nguyện,
nhân tiện dường đến đây du ngoạn, chớ không có việc chi lạ.
Tiêu Hậu nghe nói mới hết sợ, liền phán các quan hỏi:
- Lúc trước có người xin ra binh phạt Tống, nay sẵn cơ hội này sao không ai dám xuất trình?
Tiêu Hậu vừa dứt tiếng, có Thiên Khánh Vương và Gia Luật Thượng đồng quì tâu:
- Hai tôi xin ra trận bắt Tống chúa đem về nạp cho Bệ hạ.
Tiêu Hậu y lời, nói:
- Hai khanh đi ta e bất tiện, vậy phải lựa một tướng nữa theo giúp mới được.
Lúc đó có Mã Yên là Hàng Diên Thọ ra xin Tiêu Hậu cấp quân trợ chiến.
Ba tướng sắp đặt đâu đó xoạc xuôi, dẫn binh ra vây thành Phần Dương, dinh trại đóng liền như bao
lưới, binh khí sáng ngời chẳng khác một trời sao.
Tống Thái Tôn hay tin ấy tiền sai Dương Diên Bình đem quân đối địch.
Dương Diên Bình tâu:
- Binh Liêu rất mạnh mẽ, lại chuẩn bị trước lập bày trận thế, nếu ra đánh bây giờ không thể thắng
được, xin Bệ hạ chậm vài ngày, để tìm cách giải phá trùng vây.
Qua ngày sau, Gia Luật thượng đốc sức binh Liêu kéo đem đánh phá binh Tống, làm cho binh Tống
.
.

.
.
kinh hãi. Vua thái Tôn đứng ngồi không yên, dẫn các quan lên địch lầu xem thế trận.
Thái Tôn thấy binh Liêu vây phủ bốn phía dài hơn mấy dặm, thất kinh hỏi các tướng:
- Binh Liêu vây phủ như vậy, ta làm thế nào thoát thân cho đặng?
Phan Nhơn Mỹ tâu:
- Xin Bệ hạ chớ lo, tôi có một kế hoạch giải vây không khó, gần đây có Dương Nghiệp đồn binh tại
Đại Châu, cách đây không xa lắm, nếu lựa một người cho giỏi, thoát ra hỏi trùng vây. đến cầu
Dương Nghiệp cứu giá, ắt Dương Nghiệp giải cứu không khó.
Vua Thái tôn khen phải, liền hỏi các tướng:
- Có ai dám qua Đại Châu cầu cứu chăng?
Dương Diên Bình bước ra tâu:
- Ngu thần xin liều mình đền ơn Bệ hạ.
Vua Thái Tôn liền giao tờ cứu chỉ cho Diên Bình, rồi khiến mở cửa phía Đông thành, cho Dương
Bình thoát ra cần cứu.
Khi Dương Diên Bình vừa ra khỏi điếu kiều thì gặp tướng Liêu là Lưu Quân Bật cản lại. Diên Bình
ráng sức đánh nhau một trận giết được Quân Bật, làm cho quân Liêu tan rã, rồi thừa thế thoát thân.
Suốt đêm hôm ấy, Diên Bình đến Đại Châu, ra mắt thân phụ thưa rằng:
- Có chiếu của Bệ hạ sai con về đây xin phụ thân cử đại binh đến Phần Dương giải vây cho thánh giá
.
Dương Nghiệp đắc ý. Hai cha con hiệp lực dẫn binh ra đi.
Chẳng bao lâu, binh của Dương Nghiệp đã kẻo đến nơi. Quân thám thính chạy về báo cho Thiên
Khánh Vương hay.
Khánh Vương hội chư tướng nói:
- Nay cha con Dương Nghiệp đem binh đến cứu giá, thế nào chúng ta cũng phải liều sống thác một
trận, trước hết, ta phải giả thua làm cho cha con nó tự đắc, để cho chúng nó nhập thành rồi sau sẽ vây
lại nữa, thì mới trừ được chúng.
Chư tướng khen phải, hạ lệnh truyền binh mã lui ra hai chục dặm.
Binh Tống thám thính về báo cho Dương Nghiệp hay, Dương Nghiệp nghĩ thầm:
- Binh Liêu chưa đánh mà lui, chắc là có mưu kế chi đây.
Ta cứ kéo binh vào thành rồi sẽ liệu cách.
Nghĩ như vậy, Dương Nghiệp truyền lệnh vào thành triều kiến.
Vua Thái Tôn nói:
- Nếu không có khanh đến cứu viện thì làm sao quân giặc lui được. Uy danh của khanh đã làm cho
quân giặc khiếp vía.
Dương Nghiệp nói:
.
.

.
.
- Người Phiên tánh tình khó lường, xin Bệ hạ sửa soạn xa giá trở về cung, không nấn ná ở đây nữa.
Vua Thái Tôn nói :
- Ngày mai trẫm sẽ thượng lộ! :
Vua Thái Tôn vừa nói dứt lời, bỗng có quân. vào báo:
- Binh Liêu lại kẻo đến đây vây như cũ.
Thái Tôn nghe báo thất kinh, nói với Dương Nghiệp:
Lời khanh nói thật rất đúng. Bây giờ phải làm thế nào để lui được quân Liêu.
Dương Nghiệp tâu:
- Xin Bệ hạ lui vào trướng nghỉ an, để cha con tôi tính kế.
Dương Nghiệp nói rồi từ tạ lui ra, cùng các con lên dịch lầu xem thấy binh Liêu bốn phía đông nghịt,
gươm đao lởm chỏm.
Dương Nghiệp lắc đầu, than:
- Tuy trận này không khó phá, nhưng vì mắc bảo hộ thánh hoàng và văn võ, biết làm sao cho tròn
vẹn?
Dương Diên Bình thưa:
- Nếu phụ thân đã hết kế thì các con biết liệu làm sao?
Dương Nghiệp nói:
- Kế sách tuy có, nhưng phải có người tận trung.
Dương Nghiệp Bình thưa:
- Xưa nay phụ thân đã dạy lấy cái chết mà đền ơn nước.
Nay chúa thượng gặp nguy biến, thì thần tử đâu dám tiếc thân.
Dương Nghiệp nói:
- Nếu con chịu làm theo kế cha dạy thì bảo hộ thánh chúa mới được. Vậy để cha vào tâu với chúa
thượng rồi con lãnh chỉ mà thi hành.
Kế đó, cha con kẻo nhau xuống dịch lầu, vào thẳng ngự điện tâu với vua Thái Tôn:
- Quân địch vây rất đông, nếu muốn phá giặc thì phải dùng kế Kỹ Tín cứu Hán Cao Tổ ngày trước.
Bây giờ chẳng phải dùng kế trá hàng cho Phiên tướng ở Tây Môn rồi các quan bảo hộ thánh hoàng ra
cửa Đông môn thì mới tiện.
Thái Tôn nói:
- Kế ấy rất hay ! Nhưng có ai chịu làm Kỹ Tín không?
Dương Nghiệp tâu:
- Xin Bệ hạ chớ lo việc ấy, con lớn tôi là Diên Bình chịu ãnh mạng đi làm việc đó. Bây giờ xin Bệ hạ
làm hàng biểu, khiến người trao cho tướng Liêu, rồi sẽ theo kế ấy mà làm thì vô sự.
Vua Thái Tôn buồn bã nói:
.
.

.
.
- Trẫm nghĩ cha con khanh từ trước đến nay chưa được trọng đãi mà nay khanh lại lấy thân đem ra
bảo vệ trẫm thì thật là ơn đức không lấy gì đền.
Diên Bình thấy vua lưỡng lự, liền tâu:
- Ngu thần tuy bất tài, nhưng nguyện thi hành kế ấy, xin Bệ hạ sắp đặt mà dời chân cho kịp kẻo trễ
nải mang khốn. Còn việc làm của cha con hạ thần thì chỉ là đạo thần tử đâu dám tiếc thân.
Dương Diên Bình vừa nói dứt lời, thì đã có quân vào báo:
- Binh Liêu đã phá được ngoài thành, làm sập một tấm vách, chúng nó đang thả bè kéo quân vào
công phá nữa.
Diên Bình lật đật tâu:
- Xin thánh thượng mau cởi ngự bào giao lại cho tôi, đặng tôi cùng mấy anh em là Diên Chiêu, Diên
Tự bào giá Bệ hạ ra cửa phía Đông lánh nạn. Còn ngu thần với bốn đứa em khác là Diên Định, Diên
Huy, Diên Lăng và Diên Đức ở lại đây, rồi đồng ra cửa phía Tây làm theo kế. Nếu lúc này mà thánh
thượng không quyết thì chẳng khỏi bị chết trong thành này.
Vua Thái Tôn thấy cha con họ Dương hết lòng đền nợ nước thì không nỡ, bất đắc dĩ phải cởi ngự
bào trao cho Diên Bình.
Dương Diên Bình tìm một người miệng lưỡi, đem hàng biểu đến dinh phiên.
Tướng Liêu là Thiên Khánh Vương nhận được hàng biểu liền nói với các tướng:
- Nay vua Thái Tôn dâng hàng biểu là đã bị chúng ta vây khốn, không còn cách nào thoát ra.
Hàng Diên Thọ nói:
- Tống chúa này bị vây nên tính việc hàng. Vậy ta cũng nên rộng lòng tha cho về, đừng sát hại chi
cho gây của oán về sau.
Ngày hôm sau, cửa thành phía Tây thấy binh Tống treo cờ hàng. Tướng Phiên thấy vậy không công
thành nữa, chỉ đợi vua Tống đến giao hòa. Chẳng ngờ lúc ấy vua Thái Tôn cùng văn võ kẻo nhau ra
cửa Đông đi mất hết.
Còn Dương Diên Bình lúc đó ngoài nơi cửa Tây cắm cờ quỳnh kỳ, ngồi trên kiệu trước sau phủ kín,
lần lần đi đến.
Thiên Khánh Vương ngỡ thiệt, dẫn các tướng ra đón tiếp:
- Nếu phải Tống chúa tình nguyện ra đầu hàng, thì xuống long xa cho chúng ta xem mặt.
Diên Bình nghe nói liền khiến tả hữu vén mành lên, khi trông thấy tướng Liêu là Thiên Khánh
Vương ngồi trên lưng ngựa,
Diên Bình nổi giận hét lớn:
- Nếu không giết đặng thằng này, làm sao rửa nhục.
Diên Bình nói rồi kẻo cung nhắm mắt nhen Khánh Vương bắn ra một mũi Khánh Vương nhào xuống
ngựa chết tết.
.
.

.
Dương Diên Bình xuống xe nói lớn :
.
Ta là con lớn của Dương Nghiệp, tên là Diên Bình đây, có tướng nào dám cùng ta đối địch.
Hàng Diên Thọ nổi giận truyền quân vây bốn phía rồi giục ngựa tới đâm Diên Bình một thương, té
nhào xuống xe. Diên Định xem thấy em mình bị thương, lật đật đến cứu thì có Gia Luật Kỳ lướt
ngựa tới. Hai tướng đánh nhau mười hiệp. Binh Liêu kéo tới vây phủ trùng trùng nên Diên Định bị
tướng Liêu giết chết.
Còn Diên Huy thấy hai anh mình tử trận, ráng sức xông phá trùng vây, trên đường thoát thân, chẳng
ngờ bị quân Liêu dùng móc ném tới kẻo nhào xuống ngựa, bị tướng Phiên giết chết.
Dương diên Lãng lúc ấy chỉ còn một mình một ngựa, tả xung hữu đột đánh với tướng Liêu hơn mấy
chục hồi, sau bị Hàng Diên Thọ và Luật Kỳ áp tới bắt sống đem về dinh.
Lời Bàn
Lời nói của kẻ quyền thế, nếu không suy xét chính đáng thì rất tai hại cho kẻ thuộc hạ.
Vua Thái Tôn vì lòng tự ái, ngồi tại triều, không hiểu gì thế trận ngoài biên ải, chỉ nói một câu mà
làm cho binh tướng nước Tống phải chết hơn phân nửa trước trận với quân Liêu. Ấy vậy kẻ có quyền
có chức khi nói ra một lời phải suy xét lợi hại, không để về cái quyền của mình làm cho thuộc hạ
phải bị nguy khốn.
Đến lúc đi du ngoạn, cũng chỉ vì thú riêng của mình mà làm cho binh tướng phải bị nguy khốn để
bảo vệ thân danh mình. Một chiến du ngoạn chỉ để vui chơi mà làm khốn khổ hàng muôn người, thì
thật là điều đáng chê trách. Một minh quân không thể không hiểu rõ điều đó. Đây cũng là một tấm
gương cho những ai có quyền có thế, chỉ biết mình mà không nghĩ đến cái khổ của người khác.
.
.
.
Hồi Thứ Bốn Mươi Sáu
 Tống Thái Tôn giận đánh Bắc Phiên
Dương Diên Nghiệp cố phò nghiệp Tống.
.
.

.
.
Dương Diên Đức lúc này một mình thoát khỏi vòng vây, nhưng bị Liêu binh rượt theo. Trong cơn
bối rối, Diên Đức nhớ lại lúc ở Ngũ Đài Sơn thiền sư Trí Thông có cho một cái hộp và dặn rằng:
- Lúc nào ra trận mà gặp nguy biến thì mới mở hộp ra xem.
Diên Đức nghĩ rồi liền mở hộp ra, thấy bên trong có một cái dao nhỏ. Diên Đức hiểu ý nghĩ thầm:
- Như vậy là thầy mình bảo mình phải cạo đầu xuất gia.
Lập tức, Diên Đức cởi chiến bào, vắt trên lưng ngựa, rồi dùng dao cạo đầu, bỏ chạy vào Ngũ Đài
Sơn mai danh ẩn tích.
Lúc ấy binh Liêu đánh đến tối mới biết vua Tống đã trốn ra cửa phía Đông chạy mất. Bọn Hàng Diên
Thọ hối hận thì đã rồi, liền thâu quân trở về tâu với Tiêu Thái hậu.
Tiêu Thái Hậu cả mừng nói:
- Hôm nay dụng binh mà thắng đặng bọn Dương gia, ắt là người Tống đều táng đởm. Vậy thôi để
nghỉ binh an dưỡng sức một đôi hồi, rồi sau sẽ gia phạt nữa cũng chẳng muộn.
Tiêu Hậu nói rồi liền đòi dẫn tướng Tống là Dương Diên Lãng vào hỏi:
- Ngươi ở Tống trào lãnh chức gì bên đó?
Diên Lãng nói lớn tiếng rằng:
- Ta hôm nay đã lâm vào tay giặc, có bắt được ta thì giết đi chớ có nói nhiều lời.
Tiêu Hậu nói:
- Ta giết ngươi lúc nào không được, cần gì ngươi phải thách đố như vậy.
Tiêu Hậu nói rồi liền hạ lệnh cho võ sĩ dẫn ra ngoài hạ sát.
Diên Lãng nói:
- Kẻ đại trượng phu không ai sợ chết.
Nói rồi hẹn ngửa cổ chịu chém. Tiêu Thái Hậu thấy Diên Lãng trẻ tuổi mà đầy khí phách, đem lòng
thương tiếc bèn kêu võ sĩ dừng đao, rồi nói với Tiêu Thiên Tả:
- Tên Tống tướng này thật là hào kiệt, ta muốn tha tội và gả công chúa Quỳnh Nga đặng nó ở đây
giúp nước.
Tiêu Thiên Tả tâu:
- Bệ hạ tính như vậy thật là người có phúc đức, ai chẳng mang ơn.
Tiêu Hậu giao việc đó cho Thiên Tả đi dụ Diên Lãng coi thế nào.
Thiên Tả vâng mạng nói với Diên Lăng:
Diên Lăng nghĩ thầm:
- Nếu mình chẳng chịu mà lại liểu chết, thì lợi ích gì. Chi bằng thuận cùng ở lại đây đặng dòm hành
động tịnh, mà lo mưu báo cừu mới là đã chí.
Diên Lãng nghĩ rồi, bèn nói:
.
.

.
.
- Nay nương nương đã có lòng khoan hồng đại đức mà tha tội cho tôi, ấy là ơn tái sanh sánh tày non
biển, còn chuyện phối ngẫu, việc ấy tôi đâu dám chịu. Xin đại nhân niệm tình tâu giùm việc ấy lại
chớ việc ấy tôi chẳng dám vâng .
Tiêu Thiên Tả nói:
- Chúa thượng tưởng tình đó là anh hùng hào kiệt, nên như tính đến việc này, thôi đừng có chối từ
mà uổng cơ hội.
Thiên Tả nói rồi hẹn nắm tay Diên Lãng dẫn vào đền tâu các việc. Tiêu Hậu cả đẹp, liền phán:
- Vậy chớ ngươi tên họ chi. Nói cho quả nhân rõ với.
Diên Lãng khi đó nghĩ biết dòng Dương gia rất tối kỵ với Bắc Phiên, nên ngụ ý tâu:
- Tôi họ Mộc, tên là Diệt, chức là Đại trong Đoàn Luyện Sứ.
Tiêu Hậu nghe rất vui mừng, bèn dạy chọn ngày lành đặng sửa soạn y quan cho Mộc Diệt thành thân
phối hiệp.
Khi vua Thái Tôn về đến kinh thành, bá quan văn võ triều hạ, vua Thái Tôn đòi Dương Nghiệp lên
đền an ủi:
- Trẫm mà khỏi nạn khốn này là nhờ sức của cha con khanh. Như vậy mà chẳng nghe tin tức của
Diên Bình hôm nay ra sao?
Dương Nghiệp tâu:
- Con tôi lánh nó rất cang cường, tôi chắc nó ra đến đó không thể nào mà sống đặng.
Dương Nghiệp tâu vừa dứt, kế có quân về báo rằng:
- Diên Bình ra đến trại Phiên, bắn thác hết một chúa soái của Đông Liêu, rồi đó tàn quân đều bị chết
sạch.
Vua Thái Tôn nghe báo rơi lệ mà than:
- Ấy là lỗi nơi ta, cho nên lương tướng sa vào nơi tử địa.
Dương Nghiệp liền can gián:
- Tôi luôn có một điều thề nguyện: Lấy sự thác mà trả ơn cho thánh Hoàng, nay mấy đứa con tôi đều
tử nơi chiến trường binh cách như vậy là phận sự của chúng nó phải làm, xin bệ hạ chớ có thương
tiếc mà hao tổn tinh thần.
Thái Tôn giây lâu sầu thảm mới nguôi, rồi lại vỗ về an ủi Dương Nghiệp.
Sáng hôm sau, Vừa Thái Tôn hội các quan đại thần đến đặng nghị luận trả ơn cho các cha con họ
Dương:
Phan Nhơn Mỹ tâu:
- Như công lao của Dương gia ngày nay dường ấy, xin bệ hạ nên phong soái thần, đặng hiển vang tài
năng đó mới đáng. Và biên thùy lúc này đang ly loạn, xin sai người ra coi trấn thủ nơi ấy mới an.
Vua Thái Tôn nhận lời các quan bảo tấu, liền phong cho Dương Nghiệp làm chức Hùng Châu phòng
.
.

.
.
ngự sử. Dương Nghiệp lãnh sắc từ tạ lui ra. Vua Thái Tôn đưa ra khỏi đền và dặn với Dương
Nghiệp:
- Khanh đi xa trẫm, trẫm rất buồn. Nhưng việc ấy là phận sự của khanh, xin đi vì trẫm mà phòng bị
việc ngoài biên cho cẩn thận, chừng nào có chiếu trẫm ra triệu sẽ về.
Dương Nghiệp vâng mạng, cúi đầu từ tạ trở về vô nịnh phủ dặn dò hai người con gái là Bát Nương
và Cửu Muội, bảo hãy cố gắng lòng phục thị mẫu từ.
Dương Nghiệp dặn bảo trước sau sắp đặt rồi cùng với mấy người con trai dẫn binh ra trại Hùng Châu
thủ trấn.
Gia Luật Hưu Ca khi nghe tin có binh Dương Nghiệp kẻo ra trấn giữ tại Phần Dương, bèn viết sớ
khiến người về tâu với Tiêu Thái Hậu, xin nhân lúc này tấn binh tới lấy Trung Nguyên.
Tiêu Hậu tiếp đặng tin ấy bèn hội quần thần đến nghị việc tấn binh. Khi đó có Hữu thừa tướng là
Tiêu Thái Lại tâu:
- Tôi tuy bất tài, xin nguyện đem binh đi đánh một chuyến.
Tiêu Thái Hậu nhận lời và dặn:
- Nếu khanh chịu lãnh phận sự này mà kẻo binh phạt Tống thì trước phải đòi ba tỉnh sau đây: Kiến
Minh Trị, Ẩm Mã Tỉnh và Trung Nguyên Tuần. Nếu Tống chịu giao ba tỉnh ấy cho ta đồn binh, thì
tạm lui nhơn mã mình lại, bằng có cưỡng cầu, chừng đó sẽ tấn binh tới đánh. Như vậy ra đánh chớ
chẳng phải là vô cớ.
Thái Lại vâng mạng từ giã, trong ngày ấy cùng đại tướng Gia Luật Tà Chuẩn và Hàng Diên Thọ kéo
năm muôn hùng binh đi ngã Qua Châu thẳng tới.
Binh Liêu kéo đến Hồ Yên Nguyên hạ trại. Quân giữ ải địa đầu hay tin ấy liền phóng ngựa về tâu với
vua Thái Tôn.
Vua Thái Tôn nổi giận nói:
- Đồ quân mọi rợ, dám lớn gan xâm phạm bờ cõi Đại Tống.
Phen này trẫm phải thân chinh đặng rửa hờn ngày nọ.
Khấu Chuẩn nghe vua nói liền can:
- Bệ hạ chớ nên xông pha vào chốn đao binh, chỉ cần sai tướng đem quân ngăn chặn cũng đủ.
Vua Thái Tôn hỏi:
- Có ai dám vì trẫm mà trừ bọn man di chăng? .
Khấu Chuẩn tâu:
- Xin bệ hạ khiến Thái Sư Phan Nhơn Mỹ đi thì xong, vì người ấy rất thạo công việc ở biên ải.
Thái Tôn nhận lời hạ chỉ cho Phan Nhơn Mỹ làm Chiêu thảo sứ ra ngăn đón binh Liêu.
Phan Nhơn Mỹ cực chẳng đã tuân lệnh lãnh chỉ trở về dinh, lòng buồn chẳng nói. Con là Phan
Chương xem thấy hỏi:
.
.

.
- Hôm nay phụ thân đi chầu về sao có vẻ không vui?
Phan Nhơn Mỹ nói:
.
- Hôm nay chúa thượng sai ta đi dẹp loạn biên đình mà không có người tiền đạo lãnh chức tiên
phong, cho nên cha còn đang lo tìm người tiến cử.
Phân Chương thưa:
- Cha con Dương Nghiệp ở Hùng Châu, không lãnh trọng trách chi, xin cha dùng cha con người ấy ắt
sẽ được việc.
Phan Nhơn Mỹ nghe con nói hợp lý, liền vào triều tâu xin vua triệu thỉnh cha con Dương Nghiệp ra
giúp sức.
Vua Thái Tôn y tấu, liền sai sứ qua Hùng Châu thỉnh cha con Dương Nghiệp.
Dương Nghiệp tiếp được chỉ, kẻo binh về triều bái. Vua Thái Tôn liền phong cho Dương Nghiệp làm
chức Đô Thống Tiên Phương.
Dương Nghiệp tạ ơn, trở về phủ thấy Dương Lệnh bà và Sài Thái Quận đang ngồi nói chuyện.
Dương lệnh bà thấy chồng con về rất mừng hỏi:
- Lão tướng quân nhận việc chi mà về trễ vậy?
Dương Nghiệp nói:
- Nay có Bắc Phiên dấy binh xâm lấn, nên chúa thượng cho sứ thần ra triệu ta về làm tiên phong đi
dẹp giặc.
Dương Lệnh bà nói:
- Vậy ai làm chủ soái?
Dương Nghiệp nói:
- Phan Nhơn Mỹ làm chúa soái
Dương Lệnh bà không vui, nói:
- Người ấy lúc trước bị ông nhục mạ, nên âm mưu hãm hại ông mãi, nhờ có chúa thượng anh minh
nên không làm gì ông đặng. Nay bốn đứa con lớn của ông đều tử trận, bây giờ còn có ba cha con, mà
hiệu lệnh đều ở trong tay nó hết, e ông khó mà gìn giữ.
Dương Nghiệp nghe vợ nói có lý, nên đáp:
- Lão cũng biết việc ấy, nhưng mệnh vua làm sao từ chối.
Sài Thái quân nghe nói nổi giận thưa:
- Vậy để thiếp làm sớ, ngày mai vào triều bảo tấu, xin một đại thần theo bảo hộ lệnh công, thì Phan
Nhơn Mỹ không dám âm mưu gì hết.
Dương Nghiệp nghe nói rất đẹp lòng, bày tiệc ăn uống.
Hôm sau, Dương Lệnh bà và Sài Thái quận vào triều tỏ ý với vua Thái Tôn:
- Tiện thiếp vừa nghe bệ hạ sai tướng đi đánh Bắc Phiên, mà nguyên soái Phan Nhơn Mỹ cùng
.
.

.
.
Dương Tiên Phong không thuận tùng, e xảy ra sự việc không hay, xin bệ hạ thương cha con Dương
lệnh công mà tính toan lại .
Vua Thái Tôn ngẫm nghĩ, rồi nói:
- Việc này nếu sai người khác thì không được, giặc Phiên rất kiêng nể uy danh của Dương lệnh công,
vậy nay Thái quận có chước gì hay mà bày tỏ chăng?
Sài Thái quận tâu:
- Nếu bệ hạ đã quyết định vậy thì lựa một quan đại thần theo ở trung quân để bảo hộ cho lệnh công,
mới không bị hãm hại.
Vua Thái Tôn khen phải hạ chiếu sai Hô Diên Táng làm chức bảo quân, theo Dương Nghiệp đi đánh
Bắc Phiên.
Dương Nghiệp hay tin rất vui mừng, bèn giã từ trở về phủ, chuẩn bị quân sĩ trở lại Hùng Châu hiệp
với binh triều mà đánh giặc.
Lời Bàn.
Lấy tư thù cá nhân mà xen vào việc lớn của đất nước thì tai hại không ít.
Phan Nhơn Mỹ có hiềm khích với Dương Nghiệp, nay Dương Nghiệp về giúp Tống thì là tôi một
triều, thế mà Phan Nhơn Mỹ lấy hiềm khích cá nhân, không coi việc nước là trọng, đó là điều tai hại.
Kẻ lấy tư thù cá nhân, xen vào việc nước thì không phải là kẻ yêu nước.
Điều sáng suốt là vua Thái Tôn đã cảm nhận điều đó để cứu vãn tình thế, nên việc chinh phục Bắc
Phiên mới thành công.
Đời nay, cũng nhiều kẻ vì quyền lợi riêng tư, vì thù oán cá nhân mà không xem trọng việc lớn của
quốc gia, làm cho quốc gia suy yếu, chỉ vì không xem trọng dân tộc đất nước.
.
.
.
Hồi Thứ Bốn Mươi Bảy
Hô Diên Táng đánh phá binh Liêu,
Dương lệnh công được bia tự sát.
.
.

.
.
Lúc này Phan Nhơn Mỹ kéo binh ra khỏi kinh thành, đi được mấy ngày đã đến ải Huỳnh Long hạ
trại, phân binh đóng ở các hiểm địa, để cho Hô Diên Táng trấn tại Đông Bích, còn mình thì đồn trú
phía Tây.
Công việc hoàn thành, Nhơn Mỹ hội các tướng là: Lưu Quân Kỳ, Hạ Quốc Cựu, Trần Chiêu Khánh
và Mễ Liên Giáo đến nghị luận.
Phan Nhơn Mỹ nói:
- Ta căm hờn bọn cha con Dương Nghiệp bấy lâu mà trả thù chưa được, nay may có cơ hội này ta
tính lúc ra binh tìm cách sát hại chúng nó. Nhưng có Hô Diên Táng làm chức Bảo Quân thiệt khó bề
tính kế.
Mễ Liên Giáo thưa:
- Tiểu tướng có một kế, trước phải trừ Hô Diên Táng, sau mới sát hại bọn Dương Nghiệp được.
Phan Nhơn Mỹ nghe nói rất vừa lòng, liền hỏi Mễ Liên Giáo:
- Tướng quân có kế gì hay, xin nói ra cho anh em bàn luận.
Mã Liên Giáo thưa:
Nay nhân lúc binh ta mới đến, thế nào tướng Phiên cũng dẫn binh ra áp chiến. Mà lúc này Dương
Nghiệp chưa có mặt nơi đây tướng quân dùng kế ấy mà giao việc binh cho Hô Diên Táng.
Ngày nay Hô Diên Táng cũng đã già yếu rồi, làm sao mà cự lại Phiên tướng. Ta cứ án binh không
cứu ứng, thì Hô Diên Táng phải chết về tay tướng Phiên.
Phan Nhơn Mỹ y kế, dọn tiệc ăn uống vui chơi.
Hôm sau, quả có binh Phiên kẻo tới. Quân thám mã chạy về báo, Phan Nhơn Mỹ liền nói với Hô
Diên Táng:
- Nay Phiên binh đến đánh ta, mà binh mã Dương Tiên Phuông chưa đến, vậy tướng quân cớ gì trừ
được binh Liêu?
Diên Táng nói:
- Trong binh pháp có nói: hễ giặc đến thì tướng ngăn, nước tràn thì lấy đất đắp. Nay chúng ta đã
vâng mệnh bệ hạ đi chinh phạt, phải tận trung báo quốc, đánh cùng Phiên bang một trận, cho chúng
nó khiếp uy.
Phan Nhơn Mỹ nói:
- Vậy là tướng quân ra trận trước, để tôi kẻo binh theo cứu ứng.
Hô Diên Táng không ngờ kế của Phan Nhơn Mỹ, nên lập tức đứng dậy ra khỏi dinh, dẫn binh ra trận.
Vừa đến nơi gặp tướng Phiên là Tiêu Thái Lại, cỡi ngựa cản đường. Hô Diên Táng nạt lớn:
- Đồ rợ Phiên! Mau kẻo binh trở về, đừng quen thói hống hách mà bỏ mạng.
Tiêu Thái Lại nói:
.
.

.
- Ngươi chớ múa miệng! Không lo thân già lại còn giám ra đây so tài với ta sao?
.
Thái Lại nói xong, vung đao chém tới. Hai đàng đánh với nhau hơn tám mươi hiệp vẫn không phân
thắng bại.
Hô Diên Táng muốn lập đại công nên ráng sức đánh vùi làm cho tướng Phiên thua chạy. Hô Diên
Táng đuổi theo đến chỗ phục binh thì bị quân Phiên áp tới phủ vây Hô Diên Táng vào giữa.
Hô Diên Táng lúc này lúng túng nên không đủ sức cho kháng cự, chỉ còn cách đánh cầm chừng chờ
đợi binh sau tiếp ứng.
Bỗng nghe trong rừng thình tinh phát ra ba tiếng pháo, thấy một tướng Liêu cầm đầu kẻo ra hơn mấy
ngàn binh nữa. Hô Diên Táng thất kinh, đánh giải vây mà chạy nhưng đánh hơn mấy chục hiệp vẫn
không thoát ra được.
Trong lúc nguy cấp, Diên Táng nóng lòng đợi quân tiếp ứng, bỗng xa xa có một đạo binh ở phía
Đông đang kéo tới tiếng quân reo inh ỏi. Đó là đạo quân của Dương Nghiệp.
Lúc Dương Nghiệp xem thấy binh Phiên đang vây khốn, liền giục ngựa tới kêu lớn:
- Tướng Liêu chớ chạy có binh Dương Nghiệp đến đây.
Tên tướng Liêu này là bộ hạ của Thái Lại tên là Hạ Văn Long, thấy Dương Nghiệp xông ngựa tới thì
vội vàng ra cản đầu binh đánh với Dương Nghiệp bị Dương Nghiệp chém một đao đứt làm hai khúc.
Ba cha con Dương Nghiệp giục ngựa xông vào trùng vây đánh phá tan hoang, cứu Diên Táng đem
trở về dinh.
Hô Diên Táng về đến dinh nói với Dương Nghiệp:
- Nếu tôi không nhờ tướng quân đến cứu thì mất mạng rồi.
Dương Nghiệp nói:
- Vì tôi đến chậm nên, lão tướng nhọc nhằn, xin Tổng quản niệm tình mà miễn tội.
Hô Diên Táng bảo Dương Nghiệp đồn binh tại dinh mình, để hôm sau báo tin cho Phan Nhơn Mỹ.
Phan Nhơn Mỹ nghe tin ấy hối hận vô cùng, đòi Lưu Quân Kỳ đến bàn cbuyện.
Lưu Quân Kỳ nói:
- Dương Nghiệp lãnh chức tiên phong, mà chần chờ đến trễ xin quân sư lấy theo phép nước, bắt tội
mà hạ sát để trừ một hận trước kia.
Hai người đang chuyện trò thì Dương Nghiệp vào ra mắt Phan Nhơn mỹ.
Phan Nhơn Mỹ hét:
- Quân cơ là việc trọng, sao ngươi dám trễ nải như vậy?
Dương Nghiệp đáp:
- Tôi vâng lệnh thánh thượng trở về Hùng Châu kéo binh đến hợp với binh triều, nên đến không sớm
được.
Phan Nhơn Mỹ nghe Dương Nghiệp nói cứng thì nổi giận:
.
.

.
- Ngươi chớ cậy vua mà cãi lời ta, tội ấy ta không dung.
Nói rồi, liền truyền Tả Hữu bắt trói Dương Nghiệp đem chém.
Tả Hữu vâng lệnh áp tới bắt trói. Dương Nghiệp nạt lớn:
- Ta không phải là người sợ chết, mà chết như vậy e khi việc lớn không thành.
.
Dương Nghiệp nói vừa dứt tiếng, thì có Hô Diên Táng cỡi ngựa đến hét lớn, hỏi Nhơn Mỹ:
- Ngươi lãnh chức Chiêu Thảo làm chi mà ta ra giao phong ngươi lại ngồi không, chẳng chịu đem
quân ra tiếp ứng. Nếu chẳng có Dương tướng quân thì mạng ta còn gì. Nay ngươi còn dám chuyên
quyền đòi chém Dương tướng quân. Ngươi có thấy cây kim giảng của ta không? Nếu ngươi không
nghe lời, thì cây kim giảng này sẽ không tha mạng ngươi.
Phan Nhơn Mỹ lòng như lửa đốt, ngồi làm thinh không dám chống trả .
Hô Diên Táng nói rồi dẫn Dương Nghiệp trở về dinh.
Phan Nhơn Mỹ xấu hổ với tướng sĩ của mình, trọn ngày không nói một tiếng.
Mễ Liên Giáo khuyên:
- Thái sư chớ có lo sầu, tiểu tướng có một kế nữa, có thể trừ khử Hô Diên Táng và Dương Nghiệp.
Phan Nhơn Mỹ lúc này đã bí kế, nên nghe Mễ Liên Giáo nói, liền hỏi:
- Ông có kế chi hay nói cho ta nghe thử .
Mễ Liên Giáo thưa:
- Trong quân đang thiếu lương thực, xin thái sư sai Hô Diên Táng trở về vận lương. Nếu nó đi khỏi
nơi đây rồi mình kiếm chuyện để bắt tội bọn Dương Nghiệp thì còn ai mà che chở nữa.
Phan Nhơn Mỹ khen hay nên sai Hô Diên Táng trở về vận lương.
Diên Táng đang ngồi lo buồn thì Dương Nghiệp bước vào hỏi:
- Chẳng có việc chi mà Tổng Quản buồn lo như vậy?
Hô Diên Táng đem chuyện Nhơn Mỹ khiến mình đi vận lương nói lại với Dương Nghiệp. Dương
Nghiệp không ngờ âm mưu của Nhơn Mỹ, nên nói:
- Lương thảo là việc quan trọng, nếu lão tướng không đi thì làm sao được.
Hô Diên Táng nói:
Không phải ta trốn tránh việc ấy, song lo vì Nhơn Mỹ là đứa lòng lang dạ thú, ý muốn hãm hại tướng
quân. Nếu ta ra đi thì lấy ai bảo trợ tướng quân được.
Dương nghiệp nói:
- Đội ơn lão tướng có lòng lo lắng như vậy, nhưng lão tướng có đi cũng chẳng sao, bởi vì tôi xem thế
giặc cũng đã yếu rồi, ắt không dám ra quân nữa. Dù sao Nhơn Mỹ có tính cách nào hại tôi cũng
không làm được.
Hô Diên Táng cực chẳng đã phải ra đi, nên dặn Dương Nghiệp việc đi vận lương không chừng không
đổi, nên không chắc ngày nào trở về. Vậy tướng quân hãy lưu trú trong dinh này mà đợi tôi về sẽ tính
.
.

.
việc xuất quân.
.
Dương Nghiệp vâng lời. Diên Táng từ giã dẫn năm ngàn binh trỡ về Trường An vận lương.
Bấy giờ Phan Nhơn Mỹ hay tin Hô Diên Táng đã trở lại Biện Kinh thì rất mừng liền hợp các tướng
lo việc xuất binh.
Mễ Liên Giáo bước ra thưa:
- Xin quân sư hạ chiến thơ sai người đến dinh Phiên mà định kỳ giao chiến.
Nhơn Mỹ nhận lời, hạ chiến thơ sai người đem sang dinh Tiêu Thái Lại.
Tiêu Thái Lại nhóm họp các tường, nói:
- Nếu Nhơn Mỹ ra quân chẳng có gì lo, chỉ sợ bọn Dương Nghiệp là tay hào kiệt, chúng ta khó
chống lại.
Các tướng nói:
- Cách đây chừng một dặm có chỗ kêu là Trần Gia Cốc Khẩu, địa thế rất hiểm trở, nếu sai một người
đến đó phục binh, rồi dụ địch đến đó mà đánh thì chắc trọn thắng.
Gia Luật Tà Chuẩn nghe nói vừa dứt, liền xin ra ứng chiến.
Thái Lại rất mừng, liền phát binh cho Tà Chuẩn đến Trần Gia Cốc Khẩu mai phục.
Ngày hôm sau Thất Lại theo kế đến dinh Tống khiêu chiến.
Phan Nhơn Mỹ bèn đòi Lưu Quân Kỳ đến hỏi:
- Vậy ngày mai ngươi định sai ai đem quân đi trước?
Quân Kỳ thưa:
- Việc ấy phải sai Dương tiên phương, còn ngài giả đò dẫn binh theo sau tiếp ứng.
Nhơn Mỹ nghe theo liền cho đòi Dương Nghiệp đến nói:
- Binh Liêu ngày mai đến khiêu chiến, tướng quân phải dẫn quân ra đánh một trận để không làm mất
uy phong của chúa thượng.
Dương Nghiệp đáp:
- Ngày mai Hô Tổng quản vận lương chưa về, còn thế lực của quân giặc mạnh lắm, phải cho quân
thám thính dò xét địch tình thì mới mong thắng được
Phan Nhơn Mỹ nói:
- Giặc đã đến khiêu chiến, ngươi còn đợi ai? Nếu ngươi không chịu ra đánh thì ta sẽ làm sớ tâu với
triều đình là ngươi muốn trở lòng làm phản.
Dương Nghiệp biết mình không có quyền gì, nên đành chịu nhục nói:
- Đạo hành quân phải có kế sách, nếu không cẩn thận e rằng quân Phiên phục binh nơi Trần Gia Cốc
Khẩu thì ta rất khó mà đánh cho lại, vì nơi đó núi non rất hiểm trở. Vậy xin Chiêu Thảo dẫn một đạo
binh đến đó trước mà ngăn ngừa, đặng cho tôi thủ thắng mới được.
Nhơn Mỹ nói:
.
.

.
- Vậy thì ngươi ra trận đi, ta sẽ sai người đến đó tiếp ứng.
.
Dương Nghiệp vâng lời, lui ra về dinh thu xếp binh mã, kế đó có Hạ Hoài Phổ vào thưa với Phan
Nhơn Mỹ:
- Nếu Dương tiên phương đã chịu ra trận thì ngài cũng nên đem quân đến Trần Gia Cốc Khẩu mà
ngăn ngừa, mới đề phòng bất trắc.
Nhơn Mỹ nói:
- Ta muốn hại nó đã lâu, song chưa có cơ hội. Nay có dịp này thì rất tốt, lại còn phải đem quân tiếp
ứng làm chi.
Hoài Phổ nói:
- Như ngài muốn trả thù riêng thì thiếu gì cơ hội. Nếu để thua trận thì hư việc lớn.
Nhơn Mỹ nghe nói trái ý, bỏ vào trong nghỉ ngơi.
Hoài Phổ than:
- Đồ thất phu, muốn làm hư việc nước, ta nỡ nào ngồi ngó mà chẳng cứu người.
Nói rồi bỏ ra ngoài, đến ra mắt Dương Nghiệp nói:
- Ông ra binh lần này tôi e bất lợi, bởi vì thằng thất phu kia nó muốn hại ông, xin ông phải cẩn thận
cho lắm.
Dương Nghiệp nói:
- Cám ơn ông có lòng trung nghĩa, nhưng bổn phận tôi phải chịu chứ biết làm sao. Tôi chẳng kể thân
tôi vì thời thế bất lợi, nên khiến chuyện không hay, vậy phải ôm lòng mà chịu.
Hoài Phổ nói:
- Ông đã một lòng tự quyết, vậy tôi xin cùng đi với ông, may ra giúp được một đôi lời cho phỉ
nguyện.
Dương Nghiệp nói :
- Nếu vậy thì rất may. Tôi cùng ông phân ra làm tả chi, hữu dựt, may ra thắng được kẻ địch.
Hôm sau ba cha con Dương Nghiệp và Hoài Phổ kéo binh ra, thấy binh Liêu kéo đến chật đường,
tiếng chiêng ầm ĩ.
Gia Luật Hề Để giục ngựa tới trước trận, lớn tiếng nói:
- Tống tướng mau xuống ngựa quy hàng, bằng nghịch mạng đừng có oán trách.
Dương Nghiệp không nói, cứ việc giục ngựa tới đánh. Hề Để giao tranh mấy hiệp rồi giả thua bỏ
chạy, Dương Nghiệp đuổi theo. Dương Diên Chiêu và Hoài Phổ hối thúc tướng sĩ đuổi theo tướng
phiên, làm cho quân Phiên cả loạn.
Dương Nghiệp rượt theo một lúc nghĩ thầm:
- Chốn này là đất bằng, không có gì đáng sợ, chẳng lẽ chúng nó phục binh nơi đây hay sao?
Dương Nghiệp nghĩ như vậy, giục ngựa đuổi đến Trần Gia Cốc Khẩu.
.
.

.
Thái Lại ở trên cao trông thấy liền cho nổ ba tiếng pháo.
.
Gia Luật Tà Chuẩn truyền phục binh nổi dậy bao vây Dương Nghiệp, rồi dùng tên bắn xuống như
mưa. Quân Tống bị chết không biết bao nhiêu mà kể.
Lúc này Dương Diên Chiêu, Dương Diên Tự, hai anh em thấy đạo binh của cha mình đã bị vây ở
Cốc Khẩu, bèn liều mạng xông phá trùng vây nhưng không phá nổi.
Lúc ấy Hề Để giục ngựa qua Đông Bích, chẳng ngờ gặp Hoài Phổ đang phá trận. Hề Để xốc ngựa tới
chém Hoài Phổ té nhào, hai anh em Diên Chiêu, Diên Tự lúc này cũng bị vây giữa trận, không biết
làm sao cứu ứng.
Diên Chiêu nói với Diên Tự:
- Em mau tìm đường trở lại thưa với Phan Nhơn Mỹ đem thêm binh mà giải vây, còn để ta ở đây tìm
đường vào Cốc Khẩu bảo hộ thân phụ.
Diên Chiêu nói rồi đánh phá vòng vây, đặng đưa Diên Tự ra, còn hình thì lên chỗ cao nhắm chừng
nơi Cốc Khẩu, chỗ binh Tống bị vây mà tới.
Bấy giờ Dương Nghiệp ở trong vòng vây đánh ra, gặp Diên Chiêu kêu lớn:
- Binh Phiên đông lắm, con phải tìm đường thoát thân, kẻo bị chúng bắt.
Diên Chiêu vừa khóc vừa nói:
- Con xông pha vào đây giải cứu cho thân phụ, xin thân phụ theo con mà ra.
Tiếp đó, đạo binh của Tiêu Thái Lại từ trong núi kéo ra vây cha con Dương Nghiệp một chặng nữa
làm hai cha con bị chia cắt.
Diên Chiêu quay ngựa đánh trở lại một lần nữa, thì bộ hạ đều bị quân Phiên giết hết.
Lúc này Dương Nghiệp đánh đã đuối sức, khôi giáp rách tơi bời, liền lách ngựa lên chỗ cao xem bốn
phía thấy toàn là binh giặc, thì than dài:
- Lòng ta muốn lập công, vun đắp cho nước nhà, không ngờ lại bị lầm tay quân độc.
Dương Nghiệp nói rồi đưa mắt nhìn bốn phía, có ý tìm kiếm con mình, nhưng nhìn mãi không thấy,
xung quanh tướng sĩ chỉ còn độ một trăm người.
Dương Nghiệp nói:
- Các ngươi mỗi đứa đều có cha mẹ vợ con mà chịu bỏ thân nơi đây thì thật là đáng tiếc, vậy các
ngươi nay đổi dạng lên núi trốn đi, đặng về báo cho vua hay tự sự.
Quân sĩ đều khóc mà thưa:
- Nay đại gia vì nước mà chịu chết ở đây, chúng tôi đâu nỡ sống làm gì.
Dương Nghiệp thở dài, nói với quân sĩ:
- Ta không thể cứu các ngươi được, chỗ này là nơi ta hết lòng với chúa thượng.
Nói rồi Dương Nghiệp đập đầu vào bia đá tự vận.
Bấy giờ Dương Diên Tự khi chạy về đến Qua Châu vào ra mắt Phan Nhơn Mỹ vừa khóc vừa nói:
.
.

.
.
- Cha tôi bị Phiên binh vây khốn tại Cốc Khẩu xin ngài cho binh đến cứu, nếu không ắt chẳng khỏi
chết.
Nhơn Mỹ nói:
- Cha con ngươi thuở nay xưng là vô địch, tại sao bây giờ mới ra quân lại trở về xin cầu cứu? Thôi
ngươi hãy đến nói với cha ngươi là binh mã ta chỉ còn đủ giữ dinh, không có dư để sai đi cứu viện.
Dương Diên Tự nghe nói cả giận, hét lớn:
- Nay cha con ta đã ra sức giúp nước, ngươi nỡ nào đối xử ác tâm như vậy.
Nhơn Mỹ nổi giận sai tả hữu đuổi Dương Diên Tự ra khỏi dinh. Dương Diên Tự mắng:
- Ta không ngờ ngươi là đứa thất phu. Nếu ta còn sống trên đời thì không nguyện cùng ngươi đội trời
chung.
Phan Nhơn Mỹ nói:
- Thằng con nít sao dám cả gan mắng ta? Việc cừu hận ta không thèm nói tới, còn quyền sát phạt là ở
tay ta, sao ngươi dám lớn gan như vậy?
Lời bàn.
Trách nhiệm của kẻ cầm quyền là phải rèn luyện thân mình, biết trọng đạo đức thì mới thu
phục được thiên hạ.
Tống Thái Tôn là anh quân, thế mà dùng Phan Nhơn Mỹ một kẻ có quyền thế, nhưng thiếu đạo đức
chỉ biết thù hận, mà không kể đến đạo nghĩa. Dương Nghiệp dù bị ác trong vòng oan nghiệt, nhưng
có kẻ thương tâm, vì tình người mà giúp đỡ, vì nghĩa khí mà giúp nhau như Hô Diên Táng, Hoài Phổ
chẳng hạn.
Như vậy có kẻ lương tri bao giờ cũng đồng cảm với người có thiện ý. Trong xã hội, không phải ai
cũng độc ác, trong những kẻ ác độc có những kẻ từ tâm.
Điều đáng nói là muốn cầm quyền trong một tổ chức, bất kỳ là tổ chức nào, người cầm quyền phải là
kẻ biết rèn luyện bản thân. tôn thờ đạo nghĩa làm người. Được như vậy thì mới thu phục được thiên
hạ. Không ai thương kẻ độc ác. Không ai ghét kẻ có lòng nhân.
.
.
.
.
.

.
Hồi Thứ Bốn Mươi Tám
Dương Diên Chiêu đến kinh nạp văn trạng,
Vương Khâm định bày kế hại Bát Vương.
.
Khi Diên Chiêu đánh xong ba hồi trống kêu oan, được ngự lâm quân dẫn vào nội điện. Quan Đề hình
gạn hỏi, rồi đem văn trạng đến nạp cho vua Thái Tôn.
Vua Thái Tôn xem văn trạng thấy lời văn rất thấm thiết.
Tiếp đó lại có văn biểu của Phan Nhơn Mỹ kiện cha con Dương Nghiệp, vì tham công nên mới thua
binh tổn tướng.
Vua Thái Tôn xem xong nghĩ thầm:
- Một đàng thì minh oan có người hãm hại, một đàng lại đổ tội cho kẻ thừa hành, không rõ phải trái
thế nào.
Lúc đó có ngự sử là Huỳnh Ngọc bước ra tâu:
- Việc biên thùy quyền phép nơi tay soái thần, kẻ không tuân lệnh thì phải trừng trị, sao còn làm văn
trạng đổ tội cho kẻ khác?
Lúc ấy Bát Vương biết Huỳnh Ngọc là anh vợ của Nhơn Mỹ muốn bênh vực buộc tội Diên Chiêu,
nên đứng ra tâu:
- Cha con Dương Nghiệp là người hữu công của triều đình, vì đối xử bất công nên bị chết oan. Xin
Bệ hạ tra xét rõ ràng, xuống chỉ cách chức Nhơn Mỹ, giao cho viện tư pháp tra hỏi rõ ràng, rồi sẽ
định đoạt.
Thái Tôn y theo lời Bát Vương tâu, truyền chỉ giao việc đó cho Triệu Đảnh tra xét.
Triệu Đảnh đòi Phan Nhơn Mỹ và Diên Chiêu đến lấy lời khai.
Gia đình Phan Nhơn Mỹ lại đem vàng bạc, lễ vật đến lo lót với Triệu Đảnh nên Triệu Đảnh có ý
bênh vực Phan Nhơn Mỹ.
Bát Vương thấy vậy, sai người thân tín đi dò hỏi rồi bắt người đem lễ vật dẫn về cung hỏi rõ tự sự,
rồi tâu với vua Thái Tôn mọi việc. Vua Thái Tôn thất kinh nói:
- Nếu không nhờ có khanh lo lắng thì việc này trẫm bị lầm rồi. Bây giờ khanh liệu định nên xử tội
Triệu Đánh như thế nào?
Bát Vương tuy lánh nóng nảy, lòng không ác ý nên tâu với vua:
- Triệu Đảnh ăn hối lộ, giúp lũ gian thần, xin Bệ hạ cách chức cho về làm dân.
Thái Tôn liền hạ chiếu đuổi Triệu Đảnh về làm Hương lý.
Bấy giờ Thái Tôn giáng chỉ giao việc Nhơn Mỹ cho Lý Tế tra xét.
Lý Tế truyền dẫn bọn bộ hạ của Nhơn Mỹ là Lưu Vân Kỳ, Mễ Liên Giáo tới trước đường tra vấn.
.
.

.
.
Lúc này bọn bộ hạ của Nhơn Mỹ không thể giấu được phải khai sự thật. Lý Tế cung chiêu xong dâng
lên cho vua Thái Tôn xem, và giam tất cả phạm nhân vào ngục đợi lệnh vua thẩm xét.
Vua Thái Tôn khi thấy sự việc rõ ràng liền hỏi Phan Nhơn Mỹ:
- Trẫm bấy lâu tưởng ngươi là công thần của tiên đế, vận trung giúp nước, không ngờ ngày nay
ngươi lộng hành phạm tội như vậy thì làm sao mà điều khiển các tướng.
Vua Thái Tôn nói xong, liền hỏi Bát Vương:
- Vậy ý định của khanh nên xừ tội như thế nào?
Bát Vương tâu:
Tội Nhơn Mỹ ngày nay đã tra hỏi minh bạch rồi, những người ấy là tôi của Tiên Đế, thì nên cách
chức đuổi về làng. Còn bọn thuộc hạ phải gánh mỗi bữa năm chục roi, không cho trỡ về thành nữa.
Vua Thái Tôn y lời luận án Bát Vương, xuống chiếu giao cho Lý Tế thi hành.
Lý Tế vâng lệnh làm y như lời vua phán.
Nhơn Mỹ bị bãi chức về làm thứ dân, trong lòng oán hận và cũng muốn tìm cách hại Bát Vương,
nhưng chưa có dịp.
Bấy giờ vua Thái Tôn lên ngôi đã lâu, mà chưa phong ngôi thái tử cho các con.
Thất Vương lúc này thấy công chuyện còn đang lộn xộn nên không để ý.
Một hôm Vương Khâm nói với Thất Vương:
- Chúa thượng không chọn thái tử, ắt sau này đem thiên hạ giao cho Bát Vương, nếu điện hạ không
tính trước thì sau ăn năn không kịp.
Thất Vương nghe nói liền hỏi:
- Việc đó ngươi tính thế nào?
Vương Khâm thưa :
- Nếu bây giờ Bệ hạ tính cho được việc thì phải lo mưu sát hại Bát Vương mới cầm phần chắc .
Thất Vương nghe nói ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
- Bát Vương là người được phụ thân vương thương mến nhất, lẽ nào lại tìm kế hãm hại cho được?
Vương Khâm thưa:
- Tôi có một kế rất hay, chẳng biết điện hạ có vừa lòng chăng?
Vương Khâm nói nhỏ:
- Bây giờ điện hạ rước một người thợ bạc cho khéo, vào trong cung, bảo nó làm một cái bầu rượu
đựng cho được hai thứ khác nhau. Một bên là đựng rượu độc, một bên là đựng rượu thường. Nhân
lúc mùa xuân, điện hạ dọn tiệc phía sau vườn rồi mời Bát Vương đến uống rượu thưởng hoa.
Thất Vương nghe nói liền khiến quân ra phía tây thành lựa một người thợ bạc khéo léo vào cung.
Chẳng bao lâu, quân sĩ rước được một người thợ rất khéo dẫn vào. Thất Vương khiến làm một bầu
oan ương bằng vàng phân biệt hai ngăn để đựng hai thứ rượu. Vương Khâm trông thấy rất vui, nói:
.
.

.
- Bây giờ phải giết tên thợ này trước, sau này mới khỏi lậu tiếng.
Thất Vương y lời khiến hữu tả bắt tên thợ bạc trói lại ném xuống sông.
Việc xong xuôi, Vương Khâm thưa với Thất Vương:
.
- Bây giờ xin điện hạ viết sớ sai quân đem đến dinh Bát Vương mời ngày mai đến dự tiệc.
Bát Vương xem thơ, không từ chối, hứa đúng giờ sẽ đến.
Sắp đặt xong, sáng hôm sau Bát Vương đi xe đến. Thất Vương ra chào đón rồi rước vào vườn hoa
mở tiệc thết đãi.
Bát Vương nói:
- Tôi vị tình Thất Vương là anh em nên phải đến, thật tình hôm nay tôi không ăn uống gì được, vì
trong mình có bệnh, tạng phủ không yên.
Thất Vương nói:
- Sao anh nói vậy? Chẳng uống được nhiều thì được vài chén cho vui, để thỏa tình huynh đệ.
Thất Vương liền hối quân rót rượu, rượu độc thì dâng cho Bát Vương, rượu thường thì dâng cho Thất
Vương.
Bát Vương cảm thấy nghi ngại nên từ chối không uống, bỗng có trận cuồng phong thổi đến, làm cho
bình chén đổ sạch trơn, ruồi rượu độc xông lên nồng nặc. Khi gió lặng không còn thấy Bát Vương
đâu cả.
Vương Khâm thấy vậy hoảng sợ, nên thưa với Thất Vương:
- Xin điện hạ chớ lo buồn, việc này tôi tin chắc Bát Vương không ngờ đâu.
Lời Bàn
Bản chất con người tạo nên giá trị con người trong cuộc sống. Mỗi người đều hành động theo
bản chất của mình.
Phan Nhơn Mỹ lập mưu bắt Dương Diên Tự trói vào cột để bắn cho chết, thế mà quân sĩ không bắn
trúng kẻ bị trói tay. Việc này tác giả muốn nói, khí phách của Dương Diên Tự đã làm cho quân sĩ
nhìn thấy Dương Diên Tự thì tay run, không bắn trúng được. Đến khi Dương Diên Tự bảo nhắm mắt
lại thì bắn mới trúng. Ấy vậy, khí phách của Dương Diên Tự đã làm cho quân sĩ sợ hãi, nên phải
nhắm mắt không nhìn thấy, mới không sợ hãi mà bắn trúng.
Vương Khâm là một gián điệp của nước Phiên, trà trộn vào triều đình nước Tống để phá phách. Thế
mà Thất Vương lại dùng Vương Khâm để lập mưu giết anh mình, chỉ vì ham danh vị. Những kẻ gián
điệp muốn thành công bao giờ cũng lợi dụng lòng ham muốn của kẻ địch, để điều khiển kẻ địch tự
hại lấy mình.
.
.

.
.
Đáng trách cho Thất Vương không kể tình cốt nhục, chỉ vì tham vọng bản thân, nghe lời Vương
Khâm mà mưu giết Bát Vương. Mọi hành động xuất phát từ bản chất con người, thật đáng khinh.
Người thời nay cũng không thiếu những kẻ vì tham vọng mà nghe lời kẻ địch, hãm hại kẻ trung nghĩa
vì dân tộc, vì đất nước.
.
.
.
Hồi Thứ Bốn Mươi Chín
   Đến châu dinh Diên Tự bị tên,
Qua Nguyên Cốc, Ngũ Lang gặp cứu.
Bấy giờ Diên Tự nghe Nhơn Mỹ nói chừng nào lại càng mắng nhiếc chừng ấy. Nhơn Mỹ tức giận
bèn hạ lệnh cho quân sĩ bắt Dương Diên Tự trói vào gốc cây mà bắn.
Quân sĩ vâng mạng áp lại hơn mấy trăm người mới trói được Diên Tự vào gốc cây, rồi lấy cung tên
mà bắn, nhưng chẳng có mũi tên nào trúng vào người Diên Tự hết.
Quân sĩ lấy làm lạ vào báo cho Nhơn Mỹ hay.
Nhân Mỹ thất kinh nói:
- Việc quái lạ ! Tại sao mà bắn không trúng nó?
Nhơn Mỹ nói rồi cùng các tướng ra xem.
Khi ấy Diên Tự nghĩ thầm:
Dù thế nào cũng chẳng khỏi chúng nó giết. Vậy thôi để mắng chúng nó cho hả giận rồi chỉ cho nó
bắn một mũi đặng chết cho mát thân.
Nghĩ rồi Dương Diên Tự nói:
- Thằng loạn thần kia! Ngươi gian ác như vậy khiến cho hư hết việc nước. Còn ta là đấng đại trượng
phu, nào có biết sợ chết là gì, nhưng ta còn lo một nỗi, không biết cha anh ta còn mất lẽ nào, còn như
ngươi là một loại tiểu nhân, có sống cũng chẳng làm gì ích lợi.
Nhơn Mỹ nghe mắng càng tức tối ,hối quân sĩ buông tên bắn mãi.
Bấy giờ Diên Tự kêu Nhơn Mỹ nói :
- Thằng thất phu kia, ngươi muốn bắn ta cho chết thì đừng có xua quân bắn nhiều vô ích. Hãy bịt hai
con mắt lại thì mới bắn trúng ta.
Nhơn Mỹ nghe nói lấy làm lạ liền bảo quân sĩ bịt mắt và buông tên. Quả thực, chỉ cần một mũi tên
.
.

.
Diên Tự đã hồn về chín suối.
.
Phan Nhơn Mỹ liền khiến quân đem thây Diên Tự bỏ xuống sông Huỳnh Hà cho cá nuốt.
Bỗng có quân về báo:
- Binh Liêu vây cốc khẩu đã lấy được thủ cấp của Dương Nghiệp rồi, bây giờ đang kéo quân đến đây
công phá.
Nhơn Mỹ nghe tin thất kinh, nói:
- Binh Liêu lúc này mạnh lắm, nếu nó kẻo tới đây chắc chẳng còn ai đánh nổi. Vậy ta phải mau lui
binh trước, kẻo mang hại.
Nhơn Mỹ nói xong liền ra lệnh nhổ trại rút lui, bọn Lưu Quân Kỳ hay việc ấy thất kinh, kéo nhau
chạy về Biện Kinh.
Binh Liêu khi kéo đến trại, thấy trại không người thì biết rằng bên Tống đã không còn tướng ra đối
địch, liền dồn quân đóng ở Huy Châu, sai người về báo tin cho Tiêu Thái Hậu rõ.
Bấy giờ, bộ hạ Dương Diên Chiêu là Trần Lâm và Sài Cảm, khi bị giặc vây ở Cốc Khẩu thoát thân
chạy trốn trong rừng, đến lúc tan giặc mới dám lần mò ra. Vừa tới suối Huỳnh Hà thì thấy trên dòng
nước trôi xuống một tử thi. Hai người nhìn thấy khóc lóc:
- Đây là thây của tiểu chủ, không biết vì sao mà bị bắn đến chết như vậy?
Hai ngươi lội xuống vớt lên, còn đang than thở, thì bỗng thấy xa xa có một người cỡi ngựa chạy đến,
hỏi:
- Hai người làm gì đó?
Trần Lâm nhìn thấy đó là Dương Lục Lang, liền nói:
- Hai chúng tôi bị giặc đuổi phải ẩn tích nơi đây, nay ráng đi tìm tiểu chủ, bắt gặp thây của tiểu chủ
bị bắn chết trôi trên dòng suối, không rõ nguyên nhân.
Dương Luật Sứ nghe rõ trên xuống ngựa, than:
- Cha con tôi hết lòng vì nước, sao lại sai khiến số phận đến thế này?
Trần Lâm và Sài Cảm đem thây Thất Lang mai táng.
Trần Lâm hỏi Dương Lục Sứ:
- Bây giờ quan chủ định đi ngả nào, để hai tôi theo với.
Dương Lục Sứ tức là Dương Chiêu nói:
- Thôi hai người kiếm chỗ mà ẩn thân, để ta đi do tin tức thân phụ ta hiện nay như thế nào. Ta sẽ về
Trường An để tâu rõ sự việc.
Trần Lâm và Sài Cảm nghe nói liền lo việc tống táng cho Thất Lang, còn Dương Diên Chiêu một
mình lên ngựa đến nơi Cốc Khẩu theo dõi tình hình.
Lúc Dương Diên Chiêu đi được nửa đường thì gặp hai người tiều phu, liền hỏi thăm tình hình ở Cốc
Khẩu.
.
.

.
.
Hai người tiều phu kể lại sự tình, Diên Chiêu liền giục ngựa đến Cốc Khẩu, thấy xác của quân sĩ tử
trận còn nằm la hệt, Diên Chiêu lại thấy dưới bia của Lý Lăng có xác một đại tướng lưng còn thắt đai
vàng.
Diên Chiêu biết là thây của cha mình, khóc lớn:
- Trời sao không thương người trung liệt, khiến gặp phải cảnh chết thảm thương như vậy.
Diên Chiêu than khóc một hồi ôm thây cha đem mai táng, công việc vừa xong thấy có một người cỡi
ngựa đến, Diên Chiêu xem rõ thì đó là Diên Đức, anh ruột của mình.
Hai anh em ôm nhau than thở rồi trở về Ngũ Đài Sơn, vào chùa ăn uống.
Diên Chiêu hỏi anh:
- Từ ngày đại ca ở U Châu thất lạc, tại sao anh vào được chùa này mà tu trì. "
Diên Đức nói :
- Lúc đó ta cũng bị tướng Liêu vây khốn, phải cạo đầu giả thầy tu vào chùa trốn tránh.
Diên Chiêu nghe kể chuyện rất buồn lòng.
Sau đó, Diên Chiêu kể lại cho Diên Đức nghe chuyện thân phụ mình bị Phan Nhơn Mỹ âm mưu hại
mạng. Diên Đức nổi giận nói:
- Phụ cừu không lẽ không lo, anh nguyền chẳng sớm thì muộn sẽ báo cừu cho thân phụ. :
Diên Chiêu nói:
- Quyết trở về kinh tâu với thánh thượng minh oan cho phụ thân.
Hai anh em trò chuyện đến khuya mới đi nghỉ.
Hôm sau, Diên Chiêu từ tạ Diên Đức, rồi xuống núi nhắm đường cũ trở về Trường An lo việc báo
cừu.
Lúc này, triều đình mới hay việc Dương Nghiệp bại binh, và tự vận. Vua Thái Tôn nói với triều thần:
- Cha con Dương Nghiệp là người trung, nay bị chết một cách mờ ám, trẫm không yên lòng.
Bát Vương thấy vua nhớ đến cha con Dương Nghiệp, nên tâu:
- Mới đây Hô Diên Táng về kinh vận lương thảo, có ghé cho tôi hay: Chủ soái đã cố tình hại Dương
Nghiệp để rửa hận. Xin bệ hạ phải tra xét việc này, thì mới làm yên tâm các tôi thần.
Thái Tôn nghe lời, hạ chỉ cho các đại thần tra xét việc ấy.
Phan Nhơn Mỹ hay tin đứng ngồi không yên, vội trở về dinh cùng các gia tướng bàn kế.
Lưu Quân Kỳ hỏi Phan Nhơn Mỹ:
- Tôi nghe có người nói Dương Lục Sứ còn sống, và đang về triều đình tâu với vua xin minh oan cho
Dương Nghiệp việc này nếu Hô Diên Táng chịu ra làm chứng thì gia đình ta, không khỏi bị tru lục,
chi bằng sai người đón Huỳnh Hà giết Diên Chiêu cho khỏi sanh hậu họa.
Nhơn Mỹ khen phải, liền sai người tâm phúc ra đón Diên Chiêu tại Huỳnh Hà.
Còn Dương Diên Chiêu lúc này đã rời khỏi Ngũ Đài Sơn, đi đến một chỗ sơn lâm vắng vẻ, bỗng gặp
.
.

.
.
lại hai nha tướng của mình ngày trước là Trần Lâm và Sài Cảm. Ba thầy trò mừng rỡ dắt nhau lên
trại, bày tiệc vui vầy. Dương Diên Chiêu kể lại chuyện Phan Nhơn Mỹ lúc trước cố tình không phát
binh, mới khiến cho cha anh bị chết như vậy. Hai tướng nghe nói hết sức căm hờn Nhơn Mỹ, nói:
- Việc như vậy, quan chủ tính thế nào để báo oán?
Diên Chiêu nói:
Ta định nghỉ lại đây một đêm, ngày mai sẽ đến Tràng An xin vua minh oan cho thân phụ.
Diên Chiêu vừa nói dứt thì có một tên lâu la đến nói:
Cách đây vài hôm, tôi có đến bến đò Huỳnh Hà, nghe một việc xin nói lại cho đại nhân rõ. Nếu đại
nhân có qua nơi đó thì phải cẩn thận cho lắm.
Diên Chiêu hỏi:
- Ngươi nghe việc coi hãy nói cho ta biết?
Tên lâu la thưa :
- Có một bọn quân trào độ hai ba mươi người đến tại Huỳnh Hà đón đại nhân, quyết giết trừ hậu họa.
Tôi có hỏi rõ việc này do phân Nhơn Mỹ chủ trương.
Diên Chiêu nghe rõ đầu đuôi liền bàn luận với Trần Lâm, một mặt phải giết sạch bọn tay sai, một
mặt phải tìm đường tắt về Tràng An cho tiện.
Trần Lâm nói:
- Xin quan chủ chớ nóng, việc đó cần phải nhẫn nhục. Nơi đây có một tiểu lộ, có thể đi tránh lối đó
mà về Biện Kinh, vậy quan chủ phải lo đi cho sớm kẻo trễ.
Rạng ngày thầy trò từ biệt, Diên Chiêu lên ngựa đi về ngả Hùng Châu.
Lúc này Tiêu Thái Hậu tiếp được biểu chương của Tiêu Thái Lai xin đánh thẳng tới Trung Nguyên.
Tiêu Hậu còn đang bàn tính thì có một viên quan tâu:
- Có xuất thêm binh cũng vô dụng.
Tiêu Hậu xem lại thì người đó là Vương Khâm. Tiêu Hậu hỏi:
- Tại sao khanh có ý như vậy?
Vương Khâm nói:
- Đất Trung Nguyên lắm anh tài, làm sao đánh cho lại mà xin thêm quân? Theo tôi, chỉ cần có một kế
thời gian độ nửa năm thì có thể định Trung Nguyên.
Tiêu Hậu nghe nói liền hỏi: :
- Khanh có kế chi hay thì nói cho trẫm biết.
Vương Khâm tâu:
- Nay tôi giả làm người nước Nam, trà trộn trong triều đình nhà Tống, dò xét mọi việc lợi hại báo tin
về cho Bệ hạ biết. Lúc nào thời cơ đến thì ra tay, như thế Giang Sơn nhà Tống có gì không thuộc về
tay Bệ hạ.
.
.

.
.
Tiêu Hậu nghe nói rất đắc ý liền phê chiếu cho Vương Khâm đi. Hôm sau, Tiêu Hậu thấy Vương
Khâm đổi khác, giống như người Tống thì mừng rỡ vô cùng.
Lúc này Dường Diên Chiêu cũng đã đi gần đến Hùng Châu, trời đang nóng nực nên vào quán trọ
nghỉ. Một lúc sau lại thấy có một người đi tới, tướng mạo ra vẻ thư sinh, nên Diên Chiêu thân mật
hỏi:
Chẳng hay tiên sinh từ đâu đến?
Người ấy đập:
- Tôi là Vương Khâm, quê ở Sóc Châu, từ nhỏ lo học hành tính vào Trung Nguyên tìm lập thân danh.
Không ngờ đến đây lại gặp các hạ, xin cho tôi biết danh tánh.
Diên Chiêu bèn tỏ tâm sự của mình, rồi thuật chuyện oan ức cho Vương Khâm nghe.
Vương Khâm nói:
- Người trung nghĩa như vậy lại bị kẻ tiểu nhân hãm hại, tại sao không đến trước mặt chúa thượng
kêu oan.
Diên Chiêu nói:
- Tôi cũng muốn tố cáo tội ác, nên lo việc làm,cáo trạng.
Vương Khâm nói:
- Vậy tôi nguyện ra sức giúp túc hạ một văn trạng, để cho triều đình tra xét.
Diên Chiêu nói:
- Nếu tiên sinh sẵn lòng giúp đỡ, tôi cảm ơn vô cùng.
Vương Khâm liền cầm bút hỏi Diên Chiêu hết nội tình, rồi thảo văn trạng.
Diên Chiêu khen:
- Văn bút như vậy thật ít ai bì kịp, lần này chắc tôi được minh oan. Vậy tiên sinh hãy đi cùng tôi đến
Biện Kinh một lần cho biết .
Vương Khâm cả mừng, theo Diên Chiêu về kinh.
Lúc này có người báo tin cho Phan Nhơn Mỹ biết. Nhơn Mỹ thất kinh, nhóm hợp các bộ tướng nghĩ
kế.
Quân Kỳ nói:
- Vậy xin đại vương làm một biểu chương, tâu trước với thánh thượng rằng: Cha con Dương Nghiệp
ỷ tài, nên bị thất cơ, sợ tội mà tự sát.
Chẳng ngờ ngày ấy Dương Diên Chiêu cũng đã về tới Biện Kinh và gặp Thất Vương tỏ mọi sự tình,
rồi đưa văn trạng cho Thất Vương xem.
Thất Vương hỏi:
- Văn trạng này ai giúp cho người mà rõ ràng như vậy?
Diên Chiêu thuật lại sự việc Vương Khâm cho Thất Vương nghe .
.
.

.
Thất Vương nói:
.
- Ta muốn dùng một người có tài năng như vậy, nếu người ấy muốn cầu thân thì ta sẽ thâu dụng.
Diên Chiêu bèn chỉ chỗ ở của Vương Khâm cho Thất Vương nghe.
Thất Vương nói:
- Việc minh oan cho ngươi là việc rất lớn lao, vậy ngươi mang đến cửa khuyết đánh trống kêu oan,
cho chúa thượng và các quan phân xử.
Diên Chiêu nghe theo lời, vội vã đến cửa khuyết đánh trống.
Người giữ cửa dẫn Diên Chiêu và Vương Khâm vào nội cung.
Lời Bàn.
Kẻ làm dữ lúc nào trong lòng nơm nớp lo sợ, nên trong lòng không bao giờ thơ thới.
Phan Nhơn Mỹ là một kẻ âm mưu, hành động gian ác, khi hại được người, nhưng trong lòng luôn
luôn sợ hãi, vì lẽ làm ác phải gặp điều dữ. Tình trạng đó làm cho kẻ ác tâm trong lòng không bao giờ
thanh thản, vì sợ kẻ khác báo thù.
Trong lẽ sống của con người, muốn được ung dung tự tại thì mình phải rèn luyện lấy mình, tránh gây
thù hận, để khỏi bị kẻ khác thù hận mình. Cái gì có vay cũng có trả, đó là luật thiên nhiên.
.
.
.
Hồi Thứ Năm Mươi
    Trung thần nước Tống treo ấn từ quan,
Tiêu Hậu nước Phiên mưu đoạt Trung Nguyên.
Bấy giờ vua Thái Tôn lâm bệnh nặng, nên triệu Khấu Chuẩn và Bát Vương vào trối rằng:
- Tiên Đế đem thiên hạ mà giao cho trẫm chưởng lý, nay đã được hai mươi năm, trẫm định nhường
ngôi lại cho Bát Vương, để khỏi trái lệnh của Hoàng Thái Hậu.
Bát Vương nghe nói tâu:
- Nay Hoàng Tử của Bệ hạ đã khôn lớn, và lòng người cũng phục, xin Bệ hạ hãy nhường ngôi lại
cho Thất Vương thì phải hơn.
.
.

.
Vua Thái Tôn ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi Khấu Chuẩn:
- Khanh xem thử ngôi báu của trẫm đáng giao lại cho ai?
Khấu Chuẩn tâu:
.
- Bệ hạ vì thiên hạ mà chọn chúa thì chẳng nên tính với đàn bà trong cung, và cũng chẳng nên bàn
với cận thần. Chỉ có Bệ hạ suy xét trông cậy vào ai thì trao cho kẻ đó mà thôi.
Vua Thái Tôn nói:
- Nay Bát Vương không chịu làm vua, thì trẫm phải lập Nguyên Khản lên ngôi báu mà giữ xã tắc .
Khấu Chuẩn tâu:
- Không ai biết con mình bằng cha. Bệ hạ đã thấy được người đáng kế vị, xin lập thừa kế cho xong .
vua Thái Tôn nói với Bát Vương:
- Bệnh trẫm nay đã gần ngày, khanh hãy ráng mà giúp cho em của khanh. Tiên đế cũng thường nói
đời nào cũng có tôi nịnh làm loạn việc nước. Nay trẫm cho khanh lệnh miễn tử, nếu gặp gian thần thì
được quyền trị tội, còn như con Dương Nghiệp là Dương Chiêu, người ấy nên trọng dụng chớ bạc
đãi.
Bát Vương tuân chỉ.
Vua Thái Tôn băng hà. Quần thần lập Nguyên Khản lên tức vị, lấy hiệu là Chơn Tôn Hoàng Đế, tôn
mẹ là Lý thị làm Hoàng Thái Hậu, phò linh cữu vua Thái Tôn mai táng nơi Yên Lăng.
Vua Chơn Tôn lên ngôi phong cho Vương Khâm là Su mật sứ, phong cho Bát Vương làm Thiên ý
Vương, còn bao nhiêu văn võ đều được thăng chức.
Lúc ấy Tống Kỳ bước ra tâu:
- Tôi mang ơn Tiên Đế, nay đã cao tuổi, nếu còn ở lại cũng vô ích cho triều đình, xin Bệ hạ cho tôi
về quê dưỡng lão.
Vua Chơn Tôn nói:
- Trẫm mới lên ngôi, nhờ các khanh phò tá, sao lại bỏ trẫm ra đi sớm vậy?
Tống Kỳ tâu:
- Nay trong trào không thiếu người tài, tôi già yếu đâu còn đủ sức lo việc lớn.
Vua Chơn Tôn thấy Tống Kỳ đã quyết ý nên phải nhận lời.
Tông Kỳ lạy tạ ơn vua rồi trở về điền lý.
Mấy ngày hôm sau Lữ Môn Chánh và Trường Tề Hiền cũng đều dâng biểu từ quan. Từ đó việc triều
chính đều giao cho một tay Vương Khâm bảo quản.
Ngày kia, Bát Vương vừa ở trong trào đi ra, bỗng có một người đón trước xe dâng cáo trạng kêu oan.
Bát Vương hỏi:
- Ngươi là ai, có việc gì mà kêu oan?
Người ấy khóc và thưa:
.
.

.
.
- Tôi là con thợ bạc ngày trước Tân chúa nghe lời Vương Khâm đòi cha tôi vào cung, bảo làm một
cái bầu rượu hai ngăn, để lập mưu hại điện hạ. Khi làm xong, Vương Khâm sợ lậu chuyện nên giết
cha tôi cho kín miệng. Bởi vậy, oan ức không biết đâu mà tố cáo, nên tôi phải lạy cầu điện hạ mà
minh oan.
Bát Vương nổi giận nói:
- Hèn chi trong lúc đãi tiệc thấy rượu ấy, ta đã nghi rồi, lại có Vương Khâm đứng một bên tiệc mà
điều độ việc ấy, thiệt là không dè nó bày mưu độc thế ấy ?
Bát Vương nói rồi khiến tả hửu tiếp lấy tờ cáo trạng, lại lấy ra mười lạng vàng ròng mà cho người
con tên thợ bạc, rồi quay ngựa xe giá trở về triều, vừa gặp Vương Khâm đang ở nơi điện nghị việc
với vua, Bát Vương liền bước tới tâu:
Tôi ra tới Ngọ môn gặp một ngừơi dâng tờ văn trạng mà cáo Vương Khâm. vì sự mưu hại cha nó tên
thợ bạc họ Hồ. Tôi thấy việc oan khuất như vậy nên phải trở vào mà tâu cho Bệ hạ rõ.
Chơn Tôn nghe cả kinh, hỏi:
- Vương Xu mật thường ở bên trẫm, có đâu lại sanh ra việc ấy? Vương huynh chớ có nghe chi lời
đứa gian.
Bát Vương cười nói:
- Cũng vì tôi mà ra việc mưu hại tên thợ bạc ấy, tôi đã lấy lòng trung mà đãi Bệ hạ sao Bệ hạ lại nghi
ngờ và nghe lời sàm nịnh làm chi, mà muốn giết anh em xương thịt của mình?
Nếu như Thái Tổ Hoàng Đế mà chẳng linh thì xã tắc còn gì? Sao Bệ hạ chẳng nghĩ? Phải chi tôi có ý
muốn làm vua thì có đâu ngày nay Bệ hạ đặng lên ngôi báu.
Khi ấy Vương Khâm bước ra tâu: ấy là Bát vương ỷ thế mà muốn hại tôi nên mới kiếm chuyện như
vậy mà thôi, chớ lý đâu mưu giết người lúc nọ sao chẳng cáo, để cho Bệ hạ đã lên ngôi cả rồi, mới
đến Ngọ môn mà báng Thiên tử như vậy sao?
Bát Vương nổi giận rút cây kim giản ra nhắm ngay mặt
Vương Khâm mà đánh, Vương Khâm tránh chẳng kịp, trúng nhằm sống mũi huyết lưu mãn địa, liền
đứng dậy bụm mặt mà chạy dài. Bát Vương liền rượt theo. Chơn Tôn vội vã bước xuống kim giai
cản Bát Vương lại và khuyên:
- Muôn việc cũng xin vì tình trẫm mà tha hắn một phen.
Bát Vương liền đứng lại chỉ Vương Khâm mắng:
- Đồ súc sanh! Nếu ngươi còn như vậy, ắt ta giết ngươi. Nay ta dung cho ngươi khỏi chết là may cho
ngươi đó.
Nói rồi giận dỗi quay quả lui về, Vương Khâm bèn quì trước mặt vua mà thỉnh tội.
Chơn Tôn nói:
- Bát Vương là tôi yêu của Tiên Đế, trẫm còn phải nhường huống chi là ngươi, tự hậu như có việc
.
.

.
chi phải tránh đi cho khỏi
.
Vương Khâm cúi đầu lui ra, và lầm hầm oán hận Bát Vương, muốn lo kế mà trả thù, bèn viết một
bức thơ sai người tâm phúc suốt đêm qua U Châu ra mắt Tiêu Hậu mà tâu rằng:
- Nay Tống Quốc Thái Tôn đã an giá, tân quân mới tức vị, trong trào không có tướng giỏi, nếu thừa
dịp này phát binh qua đánh, Trung Nguyên ắt về tay Bệ hạ.
Tiêu Hậu đặng tin ấy bèn thương nghị với quần thần.
Tiêu Thiên Hữu bước ra tâu:
- Gia Luật Hưu Ca đồn binh tại Vân Châu, đã nhiều phen xin cử binh phạt Tống, song chưa có dịp,
nay Trong Quốc mới gặp việc tang, vậy thì phải thừa lúc không dự bị mà dấy binh thì ắt thành công
lớn.
Tiêu Thiên Hữu nói chưa dứt lời thì có Quyện liêm tướng quân là Thổ Kim Tú bước ra tâu:
- Tống chúa khéo dùng người lắm, những tướng trấn thủ biên đình đều rất hùng hổ, lời Vương Khâm
nói đó chưa đủ chi làm tin, nếu mà cử binh thì chưa biết hơn thua. Tôi có một kế chẳng hao binh
động chúng nó mà làm cho Tống Quốc phải nạp hết chín châu đất Sơn hậu về cho Bệ hạ.
Tiêu Hậu nghe tấu liền hỏi:
- Khanh có kế chi mà hay như vậy?
Kim Tú nói:
- Bệ hạ phải viết một bức thư sai người đem qua Tống Quốc, còn tôi với Ma Lý Chiêu Kiết và Ma
Lý Khánh Kiết dẫn năm ngàn binh kỵ đến vây Hà Đông mà thi bắn để dò xét tình hình bên Tống.
Nếu gặp thời cơ, thu đoạt giang sơn nhà Tống không khó.
Tiêu Hậu nghe theo, liền viết một bức thơ sai sứ đem qua Tống Quốc.
Vua Chơn Tôn xem thơ, liền hỏi quần thần có ai biết ý định của Thiên chúa như thế nào chăng?
Khấu Chuẩn tâu:
- Cứ theo lời thơ thì chúa nước Liêu có vẻ kiêu ngạo. Nay trong nước ta nhân tài đầy đủ, há sợ nước
Liêu sao?
Bát Vương tâu:
- Xin để cho tôi qua Vô Nịnh Phủ mà dò hỏi xem tình thế ra sao?
Vua Chơn Tôn :
- Ấy là việc quan trọng, khanh đi hết lòng dò xét mới được.
Bát Vương vâng lệnh đến ra mắt Dương Lệnh bà và hỏi thăm tin tức Dương phò mã.
Dương Lệnh bà nói:
- Lục Lang từ ngày phạm tội bị đày ra Trình Châu đến nay không thấy trở về, nay điện hạ đến đây,
mụ không biết gì cả.
Bát Vương nói:
.
.

.
.
Tân quân tức vị đã hạ chiếu tha cho Lục Lang rồi, lẽ phải về triều mà cứu giá, tại sao phải ẩn mặt
như vậy?
Thái Quân nghe nói thưa:
- Xin điện hạ hoãn lại vài ngày, đặng tôi sai người đi Trịnh Châu thăm dò thử.
Bát Vương từ biệt ra về, tâu với vua Chơn Tôn:
- Quận Mã nay không biết ở đâu, gia đình không rõ tin tức.
Vua Chơn Tôn đang rất lo lắng, bỗng có tin:
- Binh Liêu tràn qua Trấn Dương, cướp phá rất hung hăng, xin Bệ hạ sai người đi đánh dẹp.
Vua Chơn Tôn hỏi:
- Có ai dám lãnh binh dẹp loạn chăng? " .
Khấu Chuẩn tâu:
- Nay có Giáo Liên Sứ là Giả Năng, văn võ toàn tài, đáng trách nhiệm ấy.
Vua Chơn Tôn liền hạ chỉ sai Giả Năng dẫn binh một muôn, hiệp với Khấu Chuẩn và Tấn Dương mà
ngăn giặc.
Giả Năng và Khấu Chuẩn dẫn binh nhắm Hà Đông kéo tới. Bấy giờ, Dương lệnh bà nghe tin, trên
bàn với Lục Lang:
- Giả Năng không phải tay đối thủ với Liêu tướng, nay tân quân mới lên ngôi, con hãy ra giúp người.
Lục Lang nói:
- Lời mẫu thân đã dạy, con xin hết sức giữ tròn trách nhiệm.
Lục Lang vừa dứt thì Bát Nương và Cửu Muội bước ra thưa:
- Hai em xin đi theo cùng giúp sức đại ca.
Lục Lang nói:
- Hai em là đàn bà con gái đi sao tiện?
Bát Nương thưa:
- Chị em tôi sẽ giả dạng đàn ông thì ai biết được.
Lục Lang tức cười, nhưng chiều ý hai em, từ biệt Dương lệnh, rồi ba anh em nhắm Tấn Dương thẳng
tới.
Bấy giờ tướng Liêu là Thổ Kim Tú, đã bố trí doanh trại tại đất Hà Đông, ngày thường cướp phá lê
dân cùng binh sĩ vui chơi ăn uống, bỗng nghe có quân Tống kéo đến, liền thương nghị với bọn Ma
Lý Chiêu Kiết:
- Nay binh Tống không có cha con họ Dương thì không còn ai tài giỏi. Nếu chúng nó ra đây chúng ta
quyết đánh cho một trận để tiêu tan uy thế.
Chiêu Kiết nói:
- Nước Tống hiện nội tình rắc rối, các trung thần nghĩa sĩ bỏ chức về quê, thì làm gì có đủ sức mạnh.
.
.

.
.
Hôm sau, Kim Tú tìm nơi đất rộng dựng một cây cờ Đại Liêu cao chót vót, để khiêu khích binh
Tống.
Tướng Liêu là Thổ Kim Tú, Ma Lý Chiêu Kiết và Ma Lý Khánh Kiết đều cưỡi ngựa đứng trước trận,
còn binh Tống thì Khấu Chuẩn, Giả Năng cũng lướt ngựa tới giáp chiến.
Khấu Chuẩn nói:
- Nước Liêu của ngươi cũng là một tiểu quốc, nay Tống trào vua mới lên ngôi, các ngươi dám đem
binh xâm phạm bờ cõi giết hại dân ta, còn dám khiêu khích dựng cờ đại Liêu, nhục mạ binh tướng
của ta sao.
Thổ Kim Tú nói:
- Tân chúa các ngươi mới lên ngôi mà quần thần bỏ ấn về quê, như vậy thì còn giá trị gì mà gọi là đại
quốc.
Khấu Chuẩn nói:
- Các ngươi là nước nhỏ, lợi dụng thời gian Tống chúa mới lên ngôi, mà phá phách như vậy, thật
đáng tội.
Thổ Kim Tú nói:
- Các ngươi có giỏi thì đấu chiến với ta, không hơi đâu mà cãi lẽ.
Vừa dứt lời, đã thấy Ma Lý Chiêu Kiết vỗ ngựa xông ra giáp chiến .
Lời Bàn
Giá trị con người không phải ở chức quyền, mà do tình cảm và đạo nghĩa làm người.
Con của người thợ bạc là dân thường trong xã hội, thế mà khi có bị chết oan, vì lòng hiếu thảo, tình
máu mủ đệ đơn đến triều đình kêu oan. Hành động ấy rõ ràng là do đạo làm người. Kẻ biết phụng sự
đạo làm người thì dù là một dân giã, cũng được mọi người kính trọng và thương xót.
Còn như Thất Vương, con một vị vua lại lập kế giết anh mình để đoạt ngôi vị thì nhân tính thật
không bằng một người con của kẻ dân giã. Giá trị làm người không phải ở chức vị, quyền thế, mà ở
tấm lòng. Đừng bảo kẻ dân giã giá trị không bằng kẻ quyền quí giàu sang.
Đánh giá ngột con người phải nhìn vào nhân tính. Đây là một tấm gương cho kẻ nhìn đời chỉ thấy
quyền quí cao sang mà tôn trọng. Phải biết giá trị con người là ở đạo nghĩa.
.
.
.
.

.
.
Hồi Thứ Năm Mươi Mốt
 Giả Giáo Luyện sa trưng bỏ mạng,
Dương Lục Lang lãnh trấn Tam Quan.
.
Hai bên giáp chiến, chuông trống khua vang. Chiêu Kiết với Giả Năng đánh nhau hơn mấy hiệp chưa
phân thắng bại. Chiêu Kiết thương pháp rất tinh phục nhưng giả cách sợ hãi, giả thua dụ địch chạy
vào giữa trận. Giả Năng đuổi theo thì bị Chiêu Kiết quay ngựa lại đâm một thương làm cho Giả
Năng té nhào xuống ngựa. Binh Phiên áp lại vây phủ binh Tống, làm cho binh Tống rối loạn.
Giữa lúc đó, bỗng thấy một viên nữ tướng xông ra đánh Chiêu Kiết. Đánh được mấy hiệp, nữ tướng
chém dây xích thằng trói Chiêu Kiết lại, binh Tống bắt dẫn đem về giao cho Khấu Chuẩn.
Khấu Chuẩn hỏi:
- Nữ tướng vừa thắng trận là ai vậy?
Nữ tướng đáp:
- Tôi là con gái của Dương Nghiệp, thường gọi là Bát Nương.
Khấu Chuẩn khen:
- Thật đúng là con nhà tướng.
Liền khiến quân ghi vào sổ công lao, rồi dọn tiệc ăn mừng.
Bấy giờ tướng Phiên là Thổ Kim Tú thấy Chiêu Khiết bị bắt, thì giận lắm, vừa muốn ra binh, bỗng
có Ma Lý Khánh Kiết bước tới nói:
- Cái thù giết anh lẽ nào tôi chẳng trả?
Nói rồi vung dao ra trận. Bên Tống, Triệu Ngạn cũng xông ra ứng chiến. Hai tướng đánh nhau được
vài hiệp, Triệu Ngạn đuối sức quay ngựa bỏ chạy. Khánh Kiết rượt theo, xảy có một viên nữ tướng
múa đao đón lại, chém Khánh Kiết rơi đầu.
Nữ tướng này là Cửu Muội, con gái của Dương Nghiệp.
Khấu Chuẩn nói:
- Nhà họ Dương chỉ còn mấy người sót lại mà tài năng làm cho quân địch khiếp vía.
Lúc này tại dinh Phiên, Thổ Kim Tú nổi giận giục ngựa xông ra hét to:
- Có ai dám ra đây thi bắn với ta chăng?
Thổ Kim Tú là một tướng có tài thiện xạ, từ trước tới nay không ai địch nổi. Bấy giờ tướng Tống là
Dương Văn Hổ xông ra nói:
- Có ta thi bắn với ngươi.
Thổ Kim Tú liền trương cung lắp tên, cho ngựa chạy vòng một hồi, rồi bắn luôn ba mũi, trúng đích
.
.

.
.
cả ba. Quân sĩ vỗ tay khen ầm lên. Dương Văn Hổ nổi giận cũng cho ngựa chạy vòng một lúc rồi
trương cung bắn ra ba mũi tên, nhưng chỉ trúng đích một mũi mà thôi.
Thổ Kim Tú nói:
- Như vậy thì ngươi thua ta hai mũi, phải đem tướng vừa bị bắt trả lại cho ta.
Dương Văn Hổ nói:
- Nghề bắn thì ta thua ngươi, còn nghề võ ngươi dám đấu với ta chăng?
Kiến Tú nổi giận mắng:
- Để ta giết ngươi trả thù cho Khánh Kiết. Nói rồi vung đao đâm tới. Hai bên đánh nhau được vài
hiệp, Văn Hổ bị thương bên tay trái, quay ngựa bỏ chạy. Thổ Kim Trí đuổi theo tiền bị Dương Lục
Lang xông ra chận lại.
Kiến Tú nói :
- Tướng Tống hãy khoan đấu võ đã. Hãy thi bắn với ta trước.
Lục Dương Lạc cười lớn:
- Nghề bắn của ngươi giỏi đến bực nào mà dám khoe khoang như vậy?
Nồi rồi liền khiến quân đem cung tên ra, ngồi trên ngựa bắn luôn ba mũi tên đều trúng vào đích rồi
quay lại nói với Kim Tú:
- Người khỏi cần phải bắn, hãy trương thử cây cung của ta đây xem có đủ sức hay công?
Quân sĩ khiêng cây cung đem trao cho Kim Tú.
Kim Tú trợn mắt, ráng sức kéo cây cung, tồi thất kinh nói:
- Cung cứng như thế này kéo sao cho nổi.
Lúc này binh Phiên thất kinh vừa muốn kéo nhau bỏ chạy thì Khấu Chuẩn đã bước ra giữa trận nói:
- Ta trả lại những tướng ta đã bắt cho các ngươi. Các ngươi hãy về nói với Tiêu Hậu chớ nên xâm
phạm bờ cõi sát hại sinh anh nữa. Nếu không tuân lời thì bọn ta sẽ không dung thứ.
Nói rồi truyền quân mở trói Chiêu Kiết thả về.
Thổ Kim Tú hổ thẹn, dẫn quân trở về Đại Liêu, không dám quấy rối nữa.
Ngày hôm ấy Khấu Chuẩn hạ lệnh thâu binh về Biện Kinh vào ra mắt vua Chơn Tôn và tâu:
- Tôi dẫn binh ra trận nhờ có mấy anh em họ Dương mới thắng được binh Phiên, Bệ hạ thật có phước
lớn.
Vua Chơn Tôn liền triệu Dương Quận Mã đến trước điện, phán:
- Cha con khanh thật là tôi trung của nước Tống, Tiên Đế cũng thường hay khen ngợi.
Dương Quận Mã cúi đầu tạ ơn. Vua Chơn Tôn hỏi Khấu Chuẩn:
- Nay nên phong chức gì cho Quận Mã?
Khấu Chuẩn tâu:
- Đất Cao Châu còn thiếu Kiết Đại Sứ, xin Bệ hạ phân chức ấy.
.
.

.
Vua Chơn Tôn nói :
.
- Lúc Tiên Đế còn sống vẫn thường nói đến công nghiệp cha con khanh. Nay đã đánh lui binh Phiên,
lẽ nào không trọng thưởng.
Quận Mã tâu:
- Nếu Bệ hạ muốn phong chức, tôi xin lãnh làm tuần Kiểm tại Giải Sơn mà thôi.
Vua Chơn Tôn nói:
- Chức Tiết đại sứ là cao sang, sao khanh lại muốn lãnh chức Tuần Kiểm là một chức nhỏ mọn như
vậy?
Dương Quận Mã tâu:
- Tôi nghe xứ ấy có mấy viên tướng giỏi, muốn đến đó chiêu dụ họ. Vả lại, Giải Sơn là chỗ xung yếu
của Tam Quan, gần bờ cõi U Châu, nên tôi muốn trấn thủ ở đó để giữ bình an cho dân chúng.
Vua Chơn Tôn nghe nói, khen:
- Khanh thật là kẻ tôi thần trung nghĩa.
Dương Quận Mã tạ ơn lui ra.
Hôm sau Dương Quận Mã ra Giải Sơn trấn thủ đem theo Nhạc thắng là người văn võ toàn tài, muốn
lập công danh.
Dương Quận Mã nói:
- Nếu ngươi muốn lập công thì hãy đi với ta ra Giải Sơn trại mà trấn thủ, sẽ có dịp xuất thân.
Nhạc Thắng nói:
- Tiểu tướng xin tình nguyện theo làm bộ hạ tướng quân.
Dương Lực Lang thâu được Nhạc Thắng, liền từ giã Dương Lệnh bà và Thái Quận mà đi.
Dương Lệnh bà hỏi:
- Trước kia cha con làm Đại Châu thứ sử, nay con lại làm Giải sơn Tuần Kiểm, họ chẳng nhục với
tiền nhân sao?
Lục Lang thưa :
- Chẳng phải con không muốn làm quan lớn, nhưng lúc triều đình có nhiều việc mờ ám, con phải lựa
chỗ an thân.
Dương Lệnh bà liền truyền bày tiệc rượu tống hành vào tiết xuân, khí trời ấm áp, cây cỏ xanh tươi,
Dương Lục Lang đi được mấy ngày đã đến Giải Sơn, quan quân đều ra nghênh tiếp.
Dương Lục Lang nói:
- Nay triều đình thấy binh Liêu, hay xâm lấn bờ cõi, nên sai ta ra đây trấn thủ chỗ yết hầu, gần bờ cõi
U Châu để cho biên thùy khỏi nạn binh đao.
Chư tướng nghe nói đều cảm tạ.
Hôm sau, Nhạc Thắng đi dạo trong vùng, thấy trước mặt một tòa núi cao sừng sững, đá dựng chập
.
.

.
chùng, liền hỏi người dân trong xứ:
- Hòn núi trước mặt là núi gì mà hiểm trở như vậy?
Người dân đáp:
- Xin tướng quân đừng hỏi chỗ đó. Nơi đó có nhiều điều rất bí ẩn.
Nhạc Thắng nói:
- Chắc có nhiều thú dữ lắm sao?
Người dân nói:
.
- Xa xa phía trước có một cái suối là Hồ Lâm, có một cái động Khả Lạc, có một người Chủ trại là
Mạnh Lương ở xứ Đặng Châu, hay dùng một cây búa lớn, tụ tập hơn mấy trăm người, phá xóm phá
làng, lại hay bắt đàn bà con gái, nên chẳng ai dám đi qua núi ấy.
Nhạc Thắng nghe nói trên trở về ra mắt Dương Lục Lang thuật lại mọi việc.
Lục Lang nói:
- Ta vẫn nghe xứ này có một người tên là Mạnh Lương, có tài đặc biệt, nếu được người ấy về giúp
thì rất tốt.
Nhạc Thắng nói:
- Vậy thì xin để tôi đi một mình đến đó thăm dò, rồi sẽ liệu kế.
Lục Lang y lời, liền cho Nhạc Thắng đi đến động Khả Lạc.
Lúc này Mạnh Lương đang đi dạo Sơn Thủy, chỉ còn những tên bộ hạ là Lưu Siêu, Trương Cái ở giữ
động. Khi Nhạc Thắng đến nơi liền hét lên một tiếng, làm cho Lưu Siêu và Trương Cái thất kinh,
ngỡ là quan quân kéo đến, liền dẫn lâu ta ra đánh. Nhưng Nhạc Thắng lại quay ngựa chạy về. Khi
Mạnh Lương trở về động được bọn thủ hạ báo lại, liền hỏi:
- Ai dám đến đây mà giỡn cợt như vậy?
Bọn thủ hạ đáp:
- Có một thằng tướng nhỏ đơn thân độc mã xông vào, hét nên một tiếng rồi chạy mất.
Mạnh Lương suy nghĩ mãi vẫn không tìm được nguyên nhân.
Còn Nhạc Thắng về trại ra mắt Lục Lang kể lại mọi chuyện.
Lục Lang nói:
- Hễ Mạnh Lương hay được việc này, chắc là nó kẻo lâu la đến. Bọn ngươi phải đề phòng.
Chẳng bao lâu, quân vào báo:
- Có Mạnh Lương đang ở ngoài trại khiêu chiến.
Lục Lang và Nhạc Thắng liền dẫn quân xông ra, thấy Mạnh Lương mày rô mắt lớn, tướng mạo hùng
tráng liền nói:
- Ta xem ngươi tướng mạo đường đường, chẳng phải là một tên cướp núi, sao không theo chúng ta
mà trấn thủ biên thùy, lập công với triều đình, lại làm nghề ăn cướp.
.
.

.
Mạnh Lương nói:
.
- Ta nghe cha con ngươi bỏ Hà Đông, về đầu nước Tống, nay đều là quỉ không đầu, mà ngươi không
thấy thù oán. Còn ta chiếm cứ nơi đây có can chi đến ngươi mà đến đây phá phách? Nếu ngươi theo
ta về làm tướng cướp, thì cuộc đời vui vẻ hơn nhiều.
Lục Lang nổi giận nói :
- Quân thất phu! Dám khi dễ ta như vậy.
Nói rồi vung dao xốc tới đánh Mạnh Lương. Hai bên đánh nhau hơn bốn mươi hiệp chẳng phân
thắng bại. Nhạc Thắng xông ra trợ lực Lục Lang bèn trương cung bắn con ngựa Mạnh Lương một
mũi làm cho Mạnh Lương té nhào xuống. Quân sĩ xông ra bắt trói Mạnh Lương đem về trại.
Lục Lang hỏi:
- Ngươi đã bị ta bắt rồi, có chịu hàng phục không?
Mạnh Lương nói :
- Ngươi bắn lén ngựa ta, chớ có tài giỏi gì mà bảo ta hàng phục.
Lục Lang nói:
- Nếu ngươi không phục thì ta thả ngươi ra có phục không?
Mạnh Lương nói:
- Nếu ngươi thả ta về thì phải chỉnh đốn quân sĩ, để cùng ta đấu chiến, chừng nào rõ được hơn thua
thì ta mới phục.
Lục Lang nói:
- Ta tha ngươi rất dễ, dẫu ngươi có cánh bay lên trời ta cũng bắt được.
Nói rồi liền khiến quân mở trói, đuổi Mạnh Lương về Động.
Lời Bàn
Tài năng trí tuệ là yếu tố thu phục nhân tâm. Trong đó phải xây dựng đạo nghĩa làm người.
Trong đời, ai cũng quí trọng tài năng và trí tuệ, vì tài năng và trí tuệ là nguồn vốn để chiến thắng
đối phương. Nhưng nếu đem tài năng và trí tuệ để hãm hại và chém giết mọi người, không xây dựng
trên đạo nghĩa thì chỉ làm cho đối phương căm hờn và oán giận, không làm cho đối phương kính
phục.
Dương Lục Lang, một kẻ tài trí, đã thu phục nhân tài bằng đạo nghĩa làm người. Trước một Mạnh
Lương, kẻ cướp có biệt tài vẫn thu phục bằng đạo nghĩa. Đạo nghĩa phải đặt trên tài năng, mưu trí
phải ứng dụng đúng người đúng lúc.
Dù xã hội nào, kẻ có lương tâm cũng làm cho mọi người kính phục. Lục Lang thả Mạnh Lương về,
.
.

.
.
tức là muốn giữ Mạnh Lương lại. Mà muốn giữ một kẻ phục tùng mình, trước tiên phải làm cho họ
thấy đạo nghĩa của mình.
Bởi vậy, có những việc buông ra mà không mất, có những việc giữ lại không còn, ấy là do bản lãnh
của con người.
.
.
.
Hồi Thứ Năm Mươi Hai
Tiều phu dụng kế bắt Mạnh Lương
Lục Lang một mình thâu Tiêu Táng
Khi Lục Lang thả Mạnh Lương đi rồi, Nhạc Thắng nói:
- Mạnh Lượng là đứa kỳ khôi, nay bắt được nó sao thượng quan lại thả nó đi. Nay nó trở về thế nào
cũng đến đánh nữa, vậy thượng quan phải dùng kế bắt nó .
Lục Lang nói:
- Mạnh Lương tuy có dõng lực, nhưng ít mưu. Cách đây chừng năm dặm, đá dựng chập chùng,
không có đường đi, ngươi hãy dẫn binh ra đó mai phục, chờ ta dụ nó đến thì chận lại mà đánh ta sẽ
có kế.
Nhạc Thắng vâng lệnh dẫn quân đi.
Lục Lang chọn năm tên quân mạnh mẽ bảo giả là tiều phu, đứng nơi góc núi, hễ thấy Mạnh Lương
chạy đến hỏi thăm đường, thì phải làm y theo kế.
Quân sĩ vâng lệnh ra đi.
Lục Lang sắp đặt xong thì nghe quân báo Mạnh Lương đã dẫn quân đến trước trại khiêu chiến.
Lục Lang liền lên ngựa, dẫn quân ra khỏi trại kêu Mạnh Lương nói lớn:
- Hôm nay ngươi có đánh thì phải cẩn thận, nếu để ta bắt một lần nữa thì ta không tha.
Mạnh Lương nói :
- Hôm nay ta đến đây là quyết báo cừu bữa trước.
Mạnh Lương vừa nói dứt lời, liền vung búa giục ngựa xông tới chém Lục Lang. Lục Lang cũng vung
thương rước đánh. Đánh được vài chục hiệp, Lục Lang bèn quay ngựa nhắm đường núi chạy. Mạnh
Lương giận nói:
- Còn dám dùng tên mà bắn ta nữa chăng?
.
.

.
.
Rồi giục ngựa đuổi theo. Lục Lang vừa đỡ vừa chạy, dụ Mạnh Lương lên tới dốc núi, lại làm bộ sợ
hãi loay hoay rớt mão xuống đất rồi trèo lên núi mà chạy. Mạnh Lương tánh nóng như lửa, cũng
xuống ngựa vung búa rượt theo, vừa qua khỏi góc núi thì chẳng thấy Lục Lang đâu.
Mạnh Lương thất kinh nói:
- Ta lại trúng kế nữa rồi!
Mạnh Lương vừa muốn quay lại, bỗng nghe phía sau còi trống vang dậy. Binh phục của Nhạc Thắng
ó dậy, vây chặt ở góc núi, Mạnh Lương thấy có binh phục liền bỏ chạy trở qua núi Tây Nhân, lẫn
theo đường chẹt mà đi. Bỗng thấy trên núi có bốn năm ông tiều phu, Mạnh Lương bèn kêu hỏi:
- Trên ấy có đường chỗ đi đâu chăng?
- Trên đỉnh này có một cái đường nhỏ, đi ra Hồ Lâm giản đặng.
Mạnh Lương nói:
- Bọn ngươi mà cứu đặng thì ta sẽ đem châu báu mà đền ơn ấy.
Mấy tiều phu nói:
- Tôi vẫn muốn cứu lắm, song e tướng quân không chịu.
Mạnh Lương nói:
- Miễn là cho thoát khỏi thì thôi, có sao mà không chịu?
Ông tiều phu liền thòng dây xuống mà nói:
- Tướng quân hãy lấy mối dây này buộc ngang lưng, rồi bọn tôi ráng sức kéo lên, thì tướng quân mới
thoát nạn.
Mạnh Lương lúc ấy bèn nghĩ rằng:
- Việc gấp như vầy ta phải tùng quyền mà nghe theo cũng chẳng hề chi.
Nghĩ rồi liền với lấy mối dây, buộc chặt vào lưng.
Ở trên, mấy ông tiều phu hiệp lực kéo lên, kéo đến nửa chừng rồi treo tòn ten để đó. Mạnh Lương
bèn kêu lớn mà hỏi:
- Sao các ngươi không kéo tuốt lên, lại để tòn ten nửa chừng làm chi vậy?
Mấy người tiều phu nói:
- Tướng quân hãy đợi một chút, để tôi kêu người ta tựu lại cho đông rồi sẽ kéo lên.
Mạnh Lương nghe nói nửa nghi nửa sợ trong giây phút Lục Lang và Nhạc Thắng đều đến, đứng trên
đỉnh núi kêu Mạnh Lương mà nói:
- Phen này ta bắt ngươi tại trên trời, ngươi đã phục ta chưa.
Mạnh Lương đáp:
- Ngươi dùng kế quỉ mà bắt ta, chớ chẳng phải là ta thua ngươi nếu muốn giết thì giết chớ ta chẳng
phục đâu. Mấy người dụng kế như vậy cũng chưa giỏi, duy có đánh nhau một trận, như ngươi có giỏi
mà bắt đặng ta tại chiến trường, thì ta mới phục và qui hàng.
.
.

.
Lục Lang nói:
.
- Thôi để ta tha ngươi một phen nữa, rồi ta sẽ xuống đất mà bắt ngươi, ngươi chớ còn ăn năn chi.
Nói rồi liền khiến quân nới dây xuống mà thả Mạnh Lương đi rồi dắt Nhạc Thắng về trại thương
nghị rằng:
- Mạnh Lương bị ta bắt luôn hai phen, nay nó chẳng dám đánh ban ngày nữa, ắt chờ đêm tăm tối, dẫn
binh đến lén cướp trại mà thôi. Vậy phen này bắt đặng nó rồi, coi nó còn nói chi.
Nhạc Thắng thưa:
- Thượng quan mưu hay chước lạ , ít ai bì kịp, song tôi e Mạnh Lương chẳng dám đến nữa.
Lục Lang nói:
- Ta liệu chắc đêm nay, sao Mạnh Lương cũng đến.
Nói rồi liền khiến quân sĩ đào hầm nơi trước cửa trướng, sâu năm sáu thước, trên lót ván mỏng rồi
trải chiếu cho khuất miệng hầm, lại khiến quân sĩ mai phục hai bên xa xa, để chừng tám chín người
núp nơi trước trướng, chờ Mạnh Lương trúng kế sẽ ra mà bắt. Quân sĩ vâng lệnh y thứ mà làm, đâu
đó đều dự bị sẵn sàng.
Đêm ấy, Lục Lang ngồi nơi trướng một mình chong đèn mà xem sách, gần hết canh hai, quả có
Mạnh Lương dẫn binh la hét đi đến Giải San trại, cho người đi thám về báo rằng:
- Trong trại tướng sĩ không phòng bị, đều ngủ hết rồi.
Mạnh Lương đặng tin ấy cả mừng mà nói rằng:
- Phen này chắc báo đặng cừu ?
Nói rồi hẹn giục ngựa đến gần bên trại để binh ở ngoài, một mình xông thẳng vào trướng, thấy Lục
Lang dựa ghế mà nằm, hai bên chẳng có ai hết. Mạnh Lương vung búa nhảy tới hét lớn:
- Lục Lang chớ chạy!
Nói chưa dứt lời, người và ngựa đều sụp tuốt xuống hầm.
Mấy tên quân mạnh xông ra thòng câu móc kép lên trói lại, còn hai ngàn binh của Mạnh Lương,
cũng thẩy đều bị binh phục chặn bắt chẳng sót một người.
Lục Lang bèn nói với Mạnh Lương:
- Ta liệu việc kiến thức của ngươi chẳng qua đặng cơ mưu của ta. Thôi để ta tha ngươi về mà chiêu
tập binh mã rồi sẽ đến mà đánh nữa.
Liền khiến quân mở trói mà thả Mạnh Lương.
Mạnh Lương than rằng:
- Tôi tuy là trộm cướp. Song cũng biết lễ nghĩa ít nhiều, bởi lánh dữ chưa trừ, nên quên phứt điều
liêm sỉ, tướng quân thiệt là thần nhân, tôi lẽ nào chẳng phục? Nay tôi tình nguyện hết lòng mà phụng
sự thượng quan, chớ chẳng còn trông chi khác nữa.
Lục Lang cả mừng bèn nói:
.
.

.
.
- Nếu ngươi khùng lòng qui thuận ta, thì ngày sau ắt cũng đặng hưởng danh ư hậu thế.
Qua bữa sau, Mạnh Lương bèn bẩm với Lục Lang xin trở về động, đặng chiêu tập bọn Lưu Siêu,
Trương Cái, Quản Bá, Quang Huân, Vương Kỳ, Kỳ Trân, Kỳ Khiêm, Trần Hùng, Tạ Dõng, Mạnh
Đắc, Lâm Thiết Thường, Tống Thiết Bỗng, Diều Thiết Kỳ, Đồng Thiết Cố, Lang Thiên và Lang
Vạn, hết thảy là mười sáu viên đầu mục. Lục Lang nhận lời.
Chẳng bao lâu, Mạnh Lương dẫn bọn ấy đến vào khấu Lục Lang. Lục Lang bèn truyền lệnh dọn yến
khao thưởng bá quan.
Lúc đang ăn uống, Mạnh Lương bèn nói:
- Cách đây chừng sáu mươi dặm có một hòn núi là Ba Tiêu sơn địa thế nguy hiểm, trong ấy có một
đám cường nhân, tụ nhau cướp giật đất nhà cửa, phá xóm phá làng, quan cũng không làm chi đặng,
người đầu đảng là người ở Nha Châu Tam Nguyên huyện, họ Tiêu tên Táng, hay ăn thịt người, mặt
như đất đỏ, mắt to đồng linh, cả người gân cổ có vồng, thịt đùn có khúc, hay dùng cây thiết phi chùy,
sức mạnh đánh muôn người. Nếu đặng người ấy đầu thì lại càng hơn bọn tôi nữa.
Lục Lang nghe nói càng hớn hở đứng dậy nói:
- Vậy thì để ta đến đó dụ Tiêu Táng về làm tướng.
Mạnh Lương thưa:
- Người ấy tánh khí dọc ngang, thượng quan chớ nên khinh mà đi một mình, phải dẫn binh theo mới
đặng.
Lục Lang nói:
- Ta lấy sự thiền tín mà đãi người, lựa phải đem binh theo làm chi cho rộn ?
Đêm ấy ăn uống rồi thì đã canh ba, bèn phân nhau đi nghỉ.
Hôm sau, Lục Lang khiến bọn Nhạc Thắng và Mạnh Lương thủ trại rồi dẫn vài chục quân kỳ tuốt lên
Ba Tiêu sơn. Vừa đến chân núi, thấy có một người đang ngồi tại đó, hình dung cổ quái, ăn mặc giống
dạng tiều phu. Lục Lang bèn hỏi:
- Chỗ này có phải là núi Ba Tiêu chăng?
Người ấy đứng dậy đáp:
- Phải! Còn người là người chi, một người một ngựa đến đây có việc gì?
Lục Lang nói:
- Tôi họ Dương tên Diên Chiêu, con thứ sáu của Dương Nghiệp, mới lãnh chức Tuần Kiểm Giải San
trại, nay nghe chỗ này có một người tên là Tiêu Táng, động lực vô song, nên đến mà dụ về làm tướng
.
Người ấy nói:
- Tiêu Táng có quen với tôi, như ông muốn tìm thì hãy theo tôi, tôi sẽ chỉ cho.
Diên Chiêu rất mừng, liền theo người ấy mà lên núi.
.
.

.
.
Đi dọc đường, Diên Chiêu thấy hai bên đá dựng chập chồng, cỏ cây rậm rạp. Gần tới động, người ấy
bèn nói rằng:
- Ông hãy đứng đây mà đợi, để tôi vào thông báo trước đã rồi sẽ vô sau.
Diên Chiêu tưởng thiệt, bèn đứng lại đó. Người ấy vào động, trong giây phút có hơn mấy trăm lâu la
chạy ra bắt Diên Chiêu trói lại dẫn vào. Diên Chiêu đến nơi, thấy có một người ngồi trên, xem kỹ là
người dắt mình khi nãy.
Người ấy cười và nói:
- Ta là Tiêu Táng đây? Ta chưa có quen biết chi với ngươi sao ngươi lại đến đây mà nạp mạng?
Diên Chiêu thần sắc chẳng đổi, nói lớn:
- Đại trượng phu coi chết như không, ngươi muốn làm chi thì làm đi .
Tiêu Táng nói:
- Ta ăn gan những người hảo hớn chẳng biết bao nhiêu, chớ phải có một mình ngươi mà thôi đâu.
Tiêu Táng nói rồi liền khiến kẻ thủ hạ treo Diên Chiêu lên.
Lâu la vâng lệnh vừa muốn vung dao mổ ruột, bỗng thấy trên đầu Diên Chiêu có một đạo hắc khí
bốc lên, có con bạch hổ chạy ra, bào hao nhảy nhót. Tiêu Táng thất kinh nói:
- Nếu vậy, người này quả là thần tướng?
Liền hối quân thủ hạ nới dây, rồi bổn thân bước tới mở trói cho Diên Chiêu, lại cúi đầu vừa lạy vừa
nói:
- Tôi chẳng biết người hiền, nay tình nguyện qui hàng, xin thượng quan thứ tội.
Diên Chiêu nói:
- Như người khứng đầu ta thì đặng làm quan chức, chẳng hay hơn là ăn cướp hay sao?
Tiêu Táng cả mừng, liền khiến thủ hạ tựu đến lạy ra mắt, rồi truyền dọn tiệc thết đãi.
Đang ăn uống, bỗng nghe dưới núi la hét rền trời, trống chiêng dậy đất. Diên Chiêu bước ra xem thì
là Mạnh Lương và Nhạc Thắng. Hai người ấy thấy Diên Chiêu liền xuống ngựa nói:
- Hai anh em tôi nghe kẻ tùng nhân về báo rằng: Thượng quan đã bị ăn cướp bắt rồi, nên phải dẫn
binh đến đây cứu viện.
Diên Chiêu bèn thuật hết đầu đuôi các việc lại, rồi dắt hai người vào động. Ra mắt xong, Tiêu Táng
bèn mời hai người ngồi tiệc ăn uống chuyện trò đến canh khuya.
Qua bữa sau, Tiêu Táng bèn đốt sạch dinh trại, rồi dẫn hết lâu la về Giải San.
Lúc ấy Dương Diên Chiêu đã thâu đặng ba viên đại tướng, liền sai người về thông báo với triều đình,
đặng cầu phong quan chức cho an lòng tướng sĩ. Chơn Tôn tiền triệu quần thần đến thương nghị.
Khấu Chuẩn bèn tâu:
- Diên Chiêu đã thâu phục đặng quần khấu, vậy thì Bệ hạ phải y theo lời xin mà phong thưởng.
Chơn Tôn nhận lời, liền sai sứ đệ sắc chỉ ra Giải San, phong cho Dương Diên Chiêu là Nhị Châu Đô
.
.

.
.
chỉ huy chánh sứ, còn Nhạc Thắng, Mạnh Lương, Tiêu Táng và một bọn phó tướng mười tám người
đều phong làm Chỉ huy phó sứ, ai nấy đều tạ ơn.
Từ ấy tướng mạnh, binh ròng, oai phong lừng lẫy, trước cửa ải Diên Chiêu dựng cờ hiệu Dương gia,
Bắc Phiên tướng sĩ đều nể phục, chẳng còn dám lăm le chi nữa.
Nhằm lúc tiết lạnh, là Trung Thu tháng tám, Diên Chiêu bèn truyền dọn tiệc mà thưởng trăng, thầy tớ
vầy đoàn, ăn uống chuyện trò rất vui vẻ. Lúc đang ăn uống, Diên Chiêu bèn nói với các chư tướng:
- Cha con ta tám người, đầu Tống từ đầu về sau, mới gây ra sanh cừu hận với Bắc Phiên, cha ta là
Dương Nghiệp, nhân đánh một trận tại Qua Châu, bị táng thân nơi hổ Nguyên Cốc, lúc ấy ta chôn đỡ
nơi dưới Lý Lăng bi, ta thường muốn sai người qua đem hài cốt về đặng chôn theo tổ mộ, cho trọn
đạo làm con, ngặt vì không có người tâm phúc đi thế cho ta, nên lòng ta hằng ngày băn khoăn, chẳng
biết ngày nào cho toại chí bình sanh đặng.
Nhạc Thắng nói:
- Thượng quan thiện ý, thiệt là đại hiếu chi tình, ngặt vì binh Phiên nó ngăn đón, đường sá thì khó đi,
vậy thì phải chậm lại vài năm sẽ tấn phương kế.
Dương Diên Chiêu buồn bã, không biết nói sao.
Mạnh Lương về phòng nghĩ thầm:
- Ta mang ơn thượng quan ba phen không giết, hôm nay người lại muốn tìm kẻ tâm phúc để lấy hài
cốt. Vậy ta thừa dịp này lén đến Hồ Nguyên Cốc lấy hài cốt đem về để đền ơn thượng quan chút
đỉnh.
Mạnh Lương nghĩ rồi, sắp sẵn hành lý, lén ra khỏi trại.
Hôm sau, quân sĩ chẳng thấy Mạnh Lương đâu, vội vã báo cho Dương Diên Chiêu biết.
Dương Diên Chiêu nói:
- Đêm hôm qua Mạnh Lương còn ăn tiệc với ta, có lý nào lại trốn đi.
Bọn Nhạc Thắng nói:
- Mạnh Lương là tên ăn cướp, chắc nó trốn đi xứ khác làm ăm, nên chẳng dám cho thượng quan hay.
Dương Diên Chiêu nói:
- Mạnh Lương lánh tuy lỗ mãng, song tình nghĩa rất sâu đậm. Ta nghĩ chắc không phải trốn đâu.
Các tướng hồ nghi, Dương Diên Chiêu vẫn không buồn chuyện Mạnh Lương bỏ trốn.
Lời bàn.
Nhận xét một nhân tài không phải nhìn vào hành động nhất thời, mà phải nhìn vào sự nghiệp
của họ .
.
.

.
.
Mạnh Lương và Tiêu Táng là hai tên cướp. Tuy nhiên, hành động cướp giật chỉ là việc làm nhất thời,
còn chí khí anh hùng là phải xét về thành tích, và lương tâm.
Người xưa, nhiều bậc anh hùng lúc chưa gặp thời thì đi lên núi đốn củi, xuống sông chèo đò, nhưng
tư cách anh hùng của họ vẫn không biến đổi. Dương Diên Chiêu thu nạp Mạnh Lương và Tiêu Táng
là thu nạp chí khí của một kẻ anh hùng, không phải thu nhận kẻ cướp.
Chính vì vậy mà Mạnh Lương ra khỏi trại không báo cho biết, Dương Diên Chiêu vẫn không nghi
ngờ là Mạnh Lương bỏ trốn. Đầu óc của kẻ có tâm trí bao giờ cũng thông cảm với những kẻ có tâm
hồn nghĩa nặng tình sâu.
.
.
.
Hồi Thứ Năm Mươi Ba
Mạnh Lương dụng trí trộm ngựa bay,
Nhạc Thắng đua tài đánh Tiêu Hậu.
Bấy giờ Mạnh Lương ra khỏi trại, giả làm tiều phu, đi thẳng Hồ Nguyên Cốc, tìm hài cốt của Dương
Nghiệp mà không được. Bỗng gặp một tên quân Phiên già đi ngang qua đó, Mạnh Lương đón lại hỏi:
- Hài cốt Dương Nghiệp trước chôn ở đây sao nay lại tìm không thấy?
Tên quân Phiên già đáp:
- Cách đây mấy tháng, Tiêu Hậu đã sai người đào lên đem về chôn ở Hồng Dương Động rồi.
Mạnh Lương nghe nói nghĩ thầm:
- Ta đến đây chỉ có việc ấy, nếu về không thì rất uổng công, chi bằng thẳng đến U Châu mà tìm cách
khác.
Nghĩ rồi thay đổi y phục, giả dạng một tên quân Phiên thẳng qua U Châu.
Đến nơi gặp một ông chài đang xách một giỏ cá đi tới. Mạnh Lương hỏi:
- Ngươi đi đâu vậy?
Ông chài đáp:
- Ngày mai là ngày chúc thọ của Tiêu Hậu, theo lệ phải đem cá tươi chúc mừng.
Mạnh Lương nghĩ thầm:
- Như vậy thì ta theo lão chài này vào thành xem sao.
.
.

.
Nghĩ rồi bèn nói với lão chài:
- Tôi cũng muốn vào thành, vậy chúng ta cùng nhau đi cho có bạn.
.
Lão chài đi trước, Mạnh Lương nối gót theo sau. Đi được một lúc đến chỗ vắng vẻ, Mạnh Lương rút
dao chém lão chài chết tốt rồi lột hết y phục mặc vào, y tấm nha bài cầm nơi tay, đeo giỏ cá vào
lưng.
Quân giữ thành thấy Mạnh Lương thì đón lại. Mạnh Lương xưng mình là người đến dâng cá để chúc
thọ nhà vua, nên quân giữ cửa thả cho đi. Lúc ấy Tiêu Hậu ngự ra triều, văn võ bá quan chầu đủ mặt.
Có quan Huỳnh Môn vào tâu:
- Nay có ông chài ở sông Huỳnh Hà đến dâng cá tươi mừng thọ.
Tiêu Hậu truyền chỉ cho vào.
Mạnh Lương bước vào, Tiêu Hậu hỏi:
- Có phải là người dâng cá năm ngoái không?
Mạnh Lương tâu:
- Đúng là hạ thần, nhưng năm nay cá không lớn bằng năm ngoái, nhưng rất thơm ngon, xin Bệ hạ
dùng thử rồi sẽ biết.
Tiêu Hậu truyền các quan thu lễ vật rồi dọn tiệc thết đãi quần thần. Lúc ấy có quan vào báo:
- Bên nước Tây Lương có đem một con ngựa tốt tên Túc Sương dâng cho nước Tống, khi đi ngang
qua U Châu bị tướng Liêu bắt được, nên đem về nạp cho Bệ hạ.
Tiêu Hậu nghe báo truyền dắt ngựa vào, quả nhiên thấy đó là một con tuấn mã lông màu xanh, cặp
mắt long lanh, bốn chân cao hơn sáu thước, Tiêu Hậu khen:
- Ngựa này rất quí.
Bèn truyền lệnh cho quan Hữu Tư nuôi dưỡng tử tế.
Quan Hữu Tư vâng lệnh dắt ngựa về nhất trong chuồng phía sau dinh.
Mạnh Lương nghe được việc ấy, liền lén đến xem rồi nghĩ thầm:
- Ta phải lấy hài cốt trước, rồi dùng kế bắt con ngựa này làm chân trở về thì tiện lắm.
Nghĩ rồi, liền đi thẳng đến Hồng Dương động, nơi có chỗ đất bằng, thấy có một gò cao, có tấm biển
đề chữ: Dương Nghiệp chi mộ. Mạnh Lương chờ trời tối lén đào lấy hài cốt chạy về chỗ trú ngụ giấu
một nơi, rồi lén đem thuốc độc đến bên chuồng ngựa ném vào máng cỏ, làm cho con ngựa bị chất
độc không ăn được.
Quan Hữu Tư thấy vậy vào báo với Tiêu Hậu, Tiêu Hậu nói:
- Con ngựa đó là con ngựa quí, nếu không ăn thì chắc có bệnh. Vậy phải tìm thầy thuốc chữa trị.
Nói rồi, hạ chỉ treo bảng chọn thầy thuốc ngựa.
Mạnh Lương hay tin vội ra giật bảng, nói với quân sĩ:
- Ta là thầy thuốc chữa bệnh ngựa.
.
.

.
Quân sĩ dẫn Mạnh Lương vào cung. Tiêu Hậu nói:
- Nếu ngươi chữa cho ngựa lành bệnh thì ta phong chức cho ngươi.
.
Mạnh Lương vâng chỉ lui ra, đến chuồng ngựa đem thuốc giải độc, làm cho con ngựa trở lại ăn cỏ
như thường.
Quan Hữu Tư mừng rỡ vào triều tâu với Tiêu Thái Hậu.
Tiêu Thái Hậu nói với Mạnh Lương:
- Con ngựa ấy đã mạnh, ấy cũng nhờ công của khanh, nay tại Yên Châu có khuyết một viên Tổng
quản, vậy trẫm phong cho khanh chức ấy mà đến nơi trấn nhậm.
Mạnh Lương tạ ơn lui ra nghĩ thầm:
- Ta muốn bắt con ngựa, đâu phải ham chức Tổng quản.
Nghĩ rồi liền vào tâu với Tiêu Thái Hậu:
- Mang ơn Bệ hạ phong quan chức, song con ngựa ấy mới mạnh còn phải tiếp tục chăm sóc, xin cho
tôi lãnh về Yên Châu mà chăm sóc nó ít hôm, thì con ngựa đó mới an toàn.
Tiêu Hậu nói:
- Lời khanh tâu rất phải.
Liền giao con ngựa cho Mạnh Lương đem về Yên Châu nuôi dưỡng.
Mạnh Lương lui ra lén về nhà trọ đem hài cốt cột vào lưng, rồi thoát lên yên rời khỏi U Châu chạy
miết về Giải sơn trại.
Quân sĩ trông thấy, biết là Mạnh Lương bèn chạy vào báo cho Dương Chiêu hay.
Dương Diên Chiêu sai Nhạc Thắng và Tiêu Táng ra đón tiếp.
Mạnh Lương vào đến nơi thì kêu lớn nói:
- Thượng quan! Mạnh Lương đã trở về đây.
Dương Diên Chiêu thấy Mạnh Lương trở về mừng rỡ hỏi:
- Có Việc Chi mà mừng vui như vậy?
Mạnh Lương thuật hết đầu đuôi công chuyện, và nói:
- Nay tôi đã đem được hài cốt của Lệnh công về đây, bây giờ phải tìm nơi an táng, còn con ngựa này
là ngựa quí, phải đem về dâng cho chúa thượng mà lập công.
Diên Chiêu liền đem con ngựa Túc Sương về triều hiến nạp.
Vua Chân Tôn xem thấy con ngựa rất mừng, nói với quần thần:
- Diên Chiêu mới trấn thủ Tam Quan mà đã thâu đặng ba viên tướng giỏi, lại đoạt được ngựa quí
đem dâng cho ta thì công ấy chẳng nhỏ .
Bát Vương tâu:
- Dương Diên Chiêu hết lòng trung vì nước, Bệ hạ mà trọng thưởng là đúng lắm.
Vua Chơn Tôn liền sai sứ đem thịt rượu đến thưởng cho Dương Diên Chiêu và các tướng.
.
.

.
Bỗng có quan cận thần bước ra tâu:
- Nay có binh Phiên đánh phá Đàng Châu, xin Bệ hạ liệu định.
Vua Chơn Tôn liền hỏi quần thần:
- Nay Phiên binh xâm phạm bờ cõi, nên sai ai đi đánh dẹp.
Bát Vương tâu:
.
- Đàng Châu với Tam Quân gần gũi nhau, xin Bệ hạ giáng chỉ sai Dương Diên Chiêu đi đánh dẹp thì
rất tiện.
Vua Chơn Tôn nhận lời, liền hạ chỉ sai Dương Diên Chiêu đem quân bình Phiên.
Vương sứ lãnh chỉ đem đến Giải Sơn trại, Dương Diên Chiêu vâng chỉ, nhóm các tướng mà thương
nghị:
- Nay binh Phiên phá rối Đàng Châu, triều đình sai bọn ta đánh dẹp, vậy các ngươi phải ra sức lập
công.
Mạnh Lương nói:
- Bắc Phiên dấy loạn, ấy cũng tại tôi chọc nó, vậy thì cho tôi dẫn binh ra trước mà ngăn chống.
Dương Diên Chiêu nói:
- Tiêu Thiên hữu là danh tướng của Bắc Phiên, ngươi dẫn binh đi trước, ta sẽ xuất binh tiếp ứng.
Mạnh Lương hớn hở ra đi. Dương Diên Chiêu lại kêu Nhạc Thắng bảo:
- Ngươi hãy dẫn binh mã ra đóng nơi phía tả, chờ ta đến thì hai bên giáp chiến phủ vây quân địch
Nhạc Thắng vâng lệnh dẫn quân đi, còn Dương Diên Chiêu dẫn hai ngàn quân theo sau cứu ứng.
Quân Phiên hay được chạy về phi báo.
Tiêu Thiên hữu nói với Gia Luật Đệ:
- Thái Hậu hạ chỉ sai ta dẫn quân trị thằng ăn trộm ngựa là Mạnh Lương, nay nó lại đến đây đánh với
ta, như vậy phải làm sao bắt nó, để đòi con ngựa lại đem về dâng chúa thượng.
Gia Luật Đệ nói:
- Nguyên soái chớ lo, thằng ăn trộm ngựa đó mà tài cán gì, chỉ cần một trận đánh ắt thành công.
Khi Tiêu Thiên Hữu dẫn binh ra thì Mạnh Lương đã phất cờ gióng trống, vung búa lướt tới, hét lớn:
- Phiên tặc! Hãy trở về cho mau kẻo mất mạng.
Tiêu Thiên Hữu nổi giận mắng:
- Thằng ăn trộm ngựa còn dám ra đây múa mỏ sao?
Hai bên đánh nhau hơn mười hiệp, chưa rõ hơn thua, Gia Luật Đệ xông vào trợ chiến. Bỗng nghe
phía sau núi có tiếng quân la hét, rồi Nhạc Thắng xông tới chận Gia Luật Đệ lại. Bốn tướng cùng hỗn
chiến một lúc. Nhạc Thắng thấy quân mình bị yếu thế, chẳng dám đánh nữa, bèn hiệp binh với Mạnh
Lương kéo chạy về ải.
Tiêu Thiên Hữu biết phía trước có phục binh, liền thâu quân trở lại.
.
.

.
Mạnh Lương về trại ra mắt Dương Diên Chiêu và thuật lại thế trận.
Còn Tiêu Thiên Hữu cũng thâu binh về bàn luận với các tướng:
.
- Mạnh Lương và Nhạc Thắng là hai dũng tướng, nếu cứ đấu chiến mãi cũng chẳng ích gì. Cách đây
chừng ba mươi dặm có một chỗ là Song Long Cốc, chỗ ấy rất hiểm trở, có một con đường nhỏ thông
qua Nhạn Lãnh Sơn, phía ấy thuộc về đất U Châu, nếu có một người dẫn binh mai phục trước, rồi dụ
giặc vào đó mà vây, thì chúng nó phải chết đói.
Gia Luật Đệ lãnh kế kéo quân đi.
Tiêu Thiên Hữu lại sai Quỳnh Oai Hiểu dẫn một ngàn quân ra nơi Nhạn Lãnh Sơn chờ quân giặc đến
thì xông ra chận đường.
Huỳnh Oai Hiển lãnh kế ra đi.
Lời bàn.
Kẻ tâm phúc không phải là kẻ vì quyền lợi, mà vì lương tri.
Trong xã hội, nhiều người kết thân với nhau, tôn thờ kẻ khác thường hay nghĩ đến quyền lợi
và danh vọng.
Những người vì quyền lợi và danh vọng thì hay dua nịnh, dùng lời nói ấy cho tình cảm, mà hành
động thì ngược lại.
Kẻ có kiến thức, khi chọn một người tâm phúc phải xét về ẩn tình hơn là quyền lợi, thì mới khỏi lầm
lẫn.
Mạnh Lương là tên trộm ngựa, thế mà quyền lợi không ham, được Dương Diên Chiêu kết thân thì
chịu khổ cực đi lấy hài cốt của cha Dương Diên Chiêu đem về để đền đáp tình sâu nghĩa trọng, dù
phải cực khổ đến đâu cũng cố gắng.
Cho nên, lòng người khi thân nhau, tình thương xuất phát từ đạo nghĩa, chứ không phải bằng quyền
lợi vật chất, kẻ trọng lễ vật chất hơn tình nghĩa thì không thể nào giữ trọn được lòng trung hậu.
.
.
.
Hồi Thứ Năm Mươi Bốn
.
.

.
Mạnh Lương cầu cứu nơi Ngũ Đài Sơn
 Diên Đức xem sao ở Tam Quan trại.
.
Bấy giờ Tiêu Thiên Hữu phân binh vừa xong, kế nghe báo có quân Tống đến khiêu chiến.
Tiêu Thiên Hữu liền mang giáp lên ngựa dẫn quân ra. Nhạc Thắng múa dao nói:
- Phiên tướng, hãy mau lui về giữ niềm hòa khí nếu không hối hận không kịp đó.
Tiêu Thiên Hữu nghe nói nổi giận vung dao tới chém Nhạc Thắng. Hai bên đánh nhau chưa đầy mấy
hiệp, Mạnh Lương và Tiêu Táng dẫn quân xông ra, chặn đánh quân Phiên rất gấp.
Tiêu Thiên Hữu đánh không lại liền giục ngựa bỏ chạy. Diên Chiêu ở một bên bèn xông ra đuổi theo,
Tiêu Thiên Hữu liền dụ vào cốc khẩu.
Dương Diên Chiêu thấy núi non trùng điệp bèn dừng ngựa nói:
- Chư tướng chớ theo, e có phục binh.
Mạnh Lương nói:
- Chỗ này tôi thuộc hết, phía trước đây là cùng đường, duy có một ngả tắt thông qua Nhạn Lãnh Sơn,
ta nên thừa lúc này theo bắt chúng nó, sao lại không dám tấn binh.
Dương Diên Chiêu nghe nói, liền đốc thúc ba quân đuổi theo chẳng thấy binh mã quân Phiên, nên
thất kinh nói:
- Binh giặc ắt có kế chi, nếu ta không lui binh chắc phải mang khốn.
Nói vừa dứt, bỗng nghe tiếng trống vang dội, phục binh nổi dậy vây chặt binh Tống.
Mạnh Lương và Nhạc Thắng ráng sức đánh vùi. Trên núi tên bay xuống như mưa, binh Tống bị
thương vô số.
Dương Diên Chiêu và chư tướng bị vây không thể thoát ra được.
Tiêu Táng nói: :
- Để tôi dẫn binh xông ra Cốc Khẩu mà cứu thượng quan.
Dương Diên Chiêu hỏi:
- Binh Phiên đông lắm, phá sao cho nổi, chi bằng nán đợi vài ngày, rồi thừa cơ đánh phá .
Nhạc Thắng nói:
- Trong trại chưa hay ta bị khốn, nên chưa có binh cứu. Nếu không phá được vòng vây, chẳng lẽ ngồi
đói sao, chi bằng nghe theo lời Tiêu Táng, phá vòng vây thoát ra.
Dương Diên Chiêu nói:
- Binh cứu thì có sẵn ngặt vì không ai đem tin đến Ngũ Đài Sơn chỉ cách đây chừng mấy dặm. Nếu
báo tin cho Dương Ngũ Lang hay thì trong ngoài hiệp công mới phá vòng vây được.
Mạnh Lương nói:
- Vậy thì thượng quan và chư tướng chịu khó bảo vệ trận chiến, để tôi giả dạng binh Phiên lén ra
.
.

.
khỏi núi chạy đến Ngũ Đài Sơn cầu cứu.
Dương Diên Chiêu nói:
- Ngươi phải bí mật đến cầu Ngũ Lang rồi trở lại cho mau.
.
Mạnh Lương vâng lệnh, cởi hết khôi giáp ra giả dạng binh Phiên thừa lúc canh khuya trà trộn trong
quân, bỗng một tên binh Phiên đi tuần, Mạnh Lương chém một đao rơi đầu rồi lấy lệnh tiễn và qưần
áo. mặc vào thoát ra ngoài nhắm Ngũ Đài Sơn đi riết.
Chỉ một ngày đã đến nơi, thấy một tên tiểu đồng ngoài cửa, Mạnh Lương nói:
- Chẳng hay có thầy ở nhà chăng?
Tiểu đồng nói :
- Ông ở đâu đến vậy?
Mạnh Lương nói:
- Tôi là người của Dương Diên Chiêu sai đến, muốn ra mắt thầy có việc gấp.
Tiểu đồng nghe nói là người của họ Dương, liền dẫn Mạnh Lương thẳng vào phương trượng.
Ngũ Lang đón tiếp, và hỏi:
- Ngươi đến chùa ta có việc chi?
Mạnh Lương nói:
- Tôi là Mạnh Lương theo Dương Lục sứ trấn thủ ở Tam Quan, giặc Bắc Phiên xâm phạm bờ cõi,
thượng quan tôi đánh với nó chẳng ngờ trúng kế bị vây tại Song Long Cốc. Nay không có binh cứu,
nên sai tôi về đây cầu sư phụ ra sức giúp đỡ.
Ngũ Lang nói:
- Ta là người đã xuất gia đầu Phật, sao còn ra trận sát hại sinh tinh. Vả lại việc võ nghệ ta đã phế hết,
dẫu có đi cũng chẳng ích gì. Ngươi hãy về Biện Kinh mà cầu cứu.
Mạnh Lương nói:
- Từ đây về kinh đường sá xa xôi, vậy xin sư phụ hãy nghĩ tình anh em mà giải cứu, ấy cũng là việc
nhân đức, hợp với cửa Phật.
Ngũ Lang nghĩ rồi nói:
- Đi thì cũng dễ, ngặt vì con chiến mã của ta đã chết rồi nay không có ngựa hay thì làm sao ra trận
Mạnh Lương nói:
- Nếu sư phụ chịu đi thì tôi trở về lại bắt ngựa đem đến đây.
Ngũ Lang nói:
- Ngựa cho vừa ý ta thì hiếm lắm. Hiện nay có con Thiên lý mã và con Vạn lý vân của Bát vương.
Hai con đó mà được một thì mới xong việc.
Mạnh Lương nói:
- Vậy thì tôi phải tuốt về Biện Kinh hỏi Bát vương mà mượn lấy một con.
.
.

.
Ngũ Lang nói:
- Nếu được một trong hai con ngựa ấy thì lo chi không phá đặng binh Phiên.
.
Mạnh Lương liền từ giã Ngũ Lang, suốt đêm thẳng về Biện Kinh, vào phủ Bát Vương ra mắt và nói
chuyện mượn ngựa.
Bát Vương nói:
- Vật chi thì ta cho mượn, còn hai con ngựa ấy ta sẽ không thể trao cho ai. Chớ nói nhiều lời vô ích.
Mạnh Lương buồn bã lui ra, đến phủ Vô Ninh ra mắt Dương Lệnh bà thuật chuyện Dương Diên
Chiêu bị vây khốn.
Dương Lệnh bà buồn bã nói:
- Chồng ta chết rồi, trong mấy người con chỉ có một mình Lục Lang noi theo chí cha mà thôi, nay lại
bị quân Phiên vây khốn, nếu có bề nào thì ta biết nương tựa vào ai.
Cửu Muội nghe nói bước ra thưa:
- Mẹ chớ lo buồn, nếu Lục ca con mắc nạn thì con sẽ đi với Mạnh Lương ra đó ứng cứu .
Dương Lệnh bà nói:
- Chỗ tình anh em, con đi cũng phải, nhưng cẩn thận cho lắm mới được .
Cửu muội vâng lời theo Mạnh Lương ra đi.
Mạnh Lương nói:
- Tiểu thơ đi trước ra khỏi thành chừng ba mươi dặm thì ở đó đợi tôi, để tôi đêm nay lén vào phủ Bát
Vương bắt trộm con ngựa rồi sẽ theo sau.
Cửu Muội y lời một mình ra đi, còn Mạnh Lương trở lại lén ra sau vườn hoa của Bát Vương ẩn núp ở
đó, chờ cho đến tối thì nổi lửa đốt cháy thư lầu. Quân sĩ hơ hải chạy vào báo. Bát Vương thất kinh
liền khiến người đến chữa. Mạnh Lương thừa dịp lộn xộn tuốt vào chuồng ngựa, bắt con Thiên lý mã
lẻn ra ngõ sau thoát lên ngựa chạy mất.
Lúc Bát Vương nghe báo tức giận, nói:
- Nếu vậy thì do Mạnh lương bày kế đốt nhà để bắt trộm ngựa.
Nói rồi liền hối quân thắng con Vạn Lý Vân dắt ra. Bát Vương thót lên yên hăm hở đuổi theo.
Lúc này Mạnh Lương cỡi con Thiên lý mã chạy ra khỏi Biện Kinh thì rất mừng, không ngờ con ngựa
của Bát Vương chạy theo sau nhanh như gió. Lại nghe Bát Vương la mắng:
- Loài nghịch tặc hãy trả con ngựa lại cho ta thì ta dung tha tánh mạng.
Mạnh Lương sợ hãi nghĩ thầm:
- Ông này đi theo sau mà làm sao mau lẹ như vậy?
Nghĩ rồi liền sanh ra một kế, xô con ngựa Thiên Lý mã xuống vũng lầy, rồi núp ở bên rừng xem
chừng.
Bát Vương đuổi đến nơi thấy con ngựa mình đang sa chân dưới hầm thì cười lớn nói:
.
.

.
.
- Thằng khốn đó bị ta rượt không biết làm sao túng thế nên xô con ngựa ta xuống bùn. Thôi, để ta sai
quân sĩ dắt lên.
Nói xong, Bát Vương liền xuống ngựa đến gần xem con ngựa dưới bùn, chẳng ngờ Mạnh Lương núp
gần đó, thừa dịp thót lên con Vạn Lý Vân, rồi nói lớn:
- Xin Bát Đại Vương chớ gấp, tôi muốn ngựa này đi dẹp quân Phiên, lúc yên giặc tôi sẽ đem về trả
lại.
Nói rồi Mạnh Lương lên ngựa chạy mù.
Bát Vương tức giận, nhưng không biết làm sao. Có tên quân quì thưa:
- Xin điện hạ chớ lo, để cứu Dương Diên Chiêu xong thì thế nào Mạnh Lương cũng đem về trả.
Bát Vương cực chẳng đã phải dẫn con Thiên lý mã trở về Biện Kinh.
Lúc này trời đã rạng sáng, Mạnh Lương gặp Cửu Muội bèn kể lại chuyện ăn trộm ngựa cho Cửu
Muội nghe.
Cửu Muội nói:
- Đã bắt được ngựa rồi thì tướng quan mau đem qua Ngũ Đài sơn cho anh tôi, còn tôi đi trước ra Tam
Quan mà đợi.
Mạnh Lương vâng lời, liền cưởi ngựa thẳng đến Ngũ Đài Sơn ra mắt Ngũ Lang, thuật lại chuyện bắt
ngựa và nói có Cửu Muội cùng đi cứu viện.
Ngũ Lang khen:
- Ta thấy ngươi hết lòng vì chủ, nên ta cũng ráng mà đi.
Nói rồi năm sáu trăm người kéo cờ hiệu Dương gia rời Ngũ Đài Sơn nhắm Tam Quan kéo tới.
Ra đến nơi, anh em gặp nhau tâm sự. Cửu Muội nói:
- Lục ca bị khốn đã lâu, vậy đêm nay phải phá vây mà cứu.
Ngũ Lang nói:
- Binh Phiên vây đông lắm, phải cho người đi thám thính để biết tình hình rồi sẽ nghĩ kế.
Lúc này Tiêu Thiên Hữu được tin, nói với các tướng:
- Nay có Ngũ Lang dẫn binh tới cứu, người này vũ dõng không ai bì kịp. Ta có một kế làm cho binh
cứu phải lui, quân Tống sẽ chết nơi Cốc Khẩu.
Gia Luật Đệ nói:
- Nguyên soái có kế chi hay, xin cho chúng tôi biết.
Tiêu Thiên Hữu nói:
- Nay ta mới bắt được một tên quân Tống, diện mạo giống Lục Lang, vậy phải giết tên quân lấy đầu
bêu lên ngọn cờ, và nói dối ràng đêm qua ta đã bắt đặng Lục Lang và lấy đầu răn chúng. Nếu binh
Tống hay được tin ấy lập tức phải lui.
Gia Luật Đệ khen:
.
.

.
- Kế ấy rất hay.
Nói rồi Tiêu Thiên Hữu làm y theo dự tính.
Quân thám thính về báo, Ngũ Lang thất kinh nói:
- Em ta đã bị khốn, Phiên binh lại tàn nhẫn giết chết vậy thì còn tiếp cứu làm chi.
.
Nói rồi sai Cửu Muội ra trận để do thám. Cửu Muội dẫn binh đi đến nơi quả thấy thủ cấp của anh
mình thì vội vã lui binh.
Tiêu Thiên Hữu thấy mưu kế mình đã lừa được binh Tống thì mừng rỡ, còn Cửu Muội vừa lui binh,
vừa than khóc:
- Ta sẽ trả thù cho được mới nghe.
Nói rồi liền vào trại báo tin cho Ngũ Lang hay. Ngũ Lang than:
- Ta có ý đến cứu em ta, không ngờ em ta bị giết, nhà họ Dương ta rất bất hạnh.
Mạnh Lương không tin, nói:
- Việc này đáng nghi ngờ, lúc tôi về Song Long Cốc thì bộ hạ của thượng quân tôi binh mã còn
nhiều, nếu mà bị giết, thì lẽ nào không sót một người về đây báo tin hay sao?
Ngũ Lang cũng nửa tin nửa ngờ thì đêm ấy trăng trong gió mát, Ngũ Lang bèn mặc áo ra ngoài xem
sao, thấy tướng binh của Lục Lang vẫn còn tỏ rạng, nên nghĩ thầm:
- Em ta chắc còn sống, không hề chi.
Sáng hôm sau, Ngũ Lang kêu Cửu Muội nói:
- Đêm hôm ta xem tinh tướng thấy sao bổn mạng của Lục Lang vẫn còn sáng chói, nay phải cho một
người đi thông tin vào Cốc Khẩu mới được.
Mạnh Lương nói:
- Để tôi vào đó xem sao?
Ngũ Lang nói:
- Nếu được thì tốt lắm.
Mạnh Lương liền từ tạ ra đi. Cửu Muội nói:
- Để em đi theo mà dò thử.
Ngũ Lang nói:
- Em có đi thì phải cẩn thận, chớ cho quân giặc biết được.
Cửu Muội thưa:
- Em sẽ có cách.
Nói rồi từ tạ Ngũ Lang giả dạng đi săn đến Thiên Mã Sơn.
Nơi đây đường sá chật hẹp, cây cối rậm rạp, vừa vào đến khu rừng bỗng thấy quân Phiên đi đến vô
số. Cửu Muội vòng ra phía sau mà chạy, thấy gần đó có một cái am, liền chạy thẳng vào trong.
Am chủ trông thấy hỏi:
.
.

.
- Ngươi là ai? Đến đây có việc gì.
Cửu Muội nói:
.
- Tôi là con gái họ Dương, vì anh tôi là Dương Lục Lang bị binh Phiên vây khốn, nên tôi đi dò tin
tức, rủi lộn đường bị binh Phiên theo đuổi nên tôi phải vào đây lánh mặt.
Am chủ nói:
- Đây là bờ cõi của Bắc Phiên, sao ngươi dám đi một mình?
Hãy mau mau lấy áo tràng mặc vào, ta sẽ có cách che giấu.
Cửu Muội vừa mặc áo xong, binh Phiên đã ào tới vây bắt.
Am chủ nói:
- Thầy trò ta là người tu hành, can chi các ngươi đến bắt.
Binh Phiên nói:
- Đã tu hành sao lại có sắm cung tên.
Am chủ nói:
- Các ngươi chưa biết, ta ở núi này có thú dữ rất nhiều, nó đã hại nhiều mạng người, nên học trò của
ta mới đi bắn về, nên có cung tên ấy, có chi làm lạ?
Binh Phiên nói:
- Nếu ngươi biết bắn thì ắt cũng có sức mạnh hơn người.
Nhưng đánh thắng bọn ta thì ta tha, bằng không thì ta sẽ bắt đem về nạp cho chúa tướng.
Am chủ nói :
- Sao bọn ngươi lại nói lạ vậy?
Phiên binh nói:
- Vì bên Tống có tên Mạnh Lương lén qua ăn trộm ngựa Túc Sương, nên lúc này các sứ đều tuần tra
nghiêm ngặt. Bọn ta thấy tên học trò của ngươi đây nghi chắc là quân thám thính, nên muốn thử
xem.
Cửu Muội liền bước ra nói:
- Xin thầy cho tôi tỉ thí với chúng nó.
Nói rồi bước ra sân đánh bọn binh Phiên chạy toán loạn.
Am chủ nói :
- Vậy thì tiểu thơ ở nán lại đây ít ngày, tôi sẽ cho người hỏi thăm tin tức lệnh huynh cũng chẳng
muộn gì.
Cửu Muội vâng lời, bèn ở lại nơi am chờ tin tức.
Lời Bàn.
.
.

.
.
Trí dũng là phương tiện để tự vệ nhưng nếu không sử dụng hợp lý thì không có tác dụng.
Cửu Muội đi trốn quân giặc, ghé vào chùa để ẩn thân, người chủ am thương tình che chở, cho khoác
áo cà sa biến làm ni cô để che mắt quân thù, đó là phần mưu trí. Nhưng đến lúc quân địch khiêu
khích để tìm sự thật, thách Cửu Muội ra đấu chiến thì Cửu Muội không thể kiên nhẫn được, lại dùng
cái dũng của mình để đánh đuổi kẻ địch. Đó là cái dũng thắng trí, làm cho mưu kế bị bại lộ.
Tuy trí và dũng là hai phương tiện để bảo vệ thân mình, đáng lẽ Cửu Muội phải giả vờ ni cô, không
biết võ nghệ, thì sẽ qua mặt được quân Phiên, đằng này Cửu Muội lại dùng võ để đánh đuổi bọn
chúng, thì hành động ấy đã làm bại tung tích của mình.
Trí và dũng mà không dùng đúng lúc, hợp với hoàn cảnh thì chắc chắn phải nhận lấy sự thất bại.
.
.
.
Hồi Thứ Năm Mươi Lăm
 Cửu Muội lậu mưu bị bắt,
Ngũ Lang cả phá dinh Phiên.
Lúc ấy quân Phiên chạy về U Châu ra mắt quan Thừa tướng là Trương Hoa, mà bẩm rằng:
- Tại núi Thiên Mã, có một người tráng sĩ, tu hành nhưng võ nghệ siêu quần, đánh chúng tôi chạy tán
loạn.
Trương Hoa nghe nói nghĩ thầm:
- Nếu có người như vậy thì phải sai quân đòi về đây để sử dụng.
Nói rồi lập tức sai một viên quan lãnh mệnh đến am Trang, ra mắt am chủ mà nói rõ việc ấy.
Am chủ gọi Con Muội đến nói:
- Nay U Châu có thừa tướng sai người đến rước ngươi, ngươi có đi chăng?
Cửu Muội nói :
- Người ta đã mời lẽ nào lại từ chối.
Am chủ sửng sốt liền kêu Cửu Muội ra phía sau, nói nhỏ:
- Tiểu thơ là đàn bà con gái, nếu nó biết được thì tánh mạng chẳng còn, tại sao tiểu thơ lại chịu đi?
Cửu Muội nói:
.
.

.
.
- Tôi mang ơn am chủ hậu đãi, thì đủ thấy lòng tốt của am chủ rồi. Vả lại tôi đến đó sẽ lập mưu cứu
anh tôi, đó cũng là cơ hội tốt.
Am chủ nói:
- Tuy vậy tiểu thơ phải cẩn thận, vì đem thân nạp vào miệng cọp, không phải dễ.
Cửu Muội liền từ biệt am chủ, theo quân Phiên về U Châu, vào ra mắt Thừa tướng.
Trương Hoa nói:
- Tráng sĩ là người ở xứ nào, tên họ là chi, hãy nói cho ta biết đặng ta thu dụng.
Cửu Muội đáp:
- Tôi quê quán ở Thái Nguyên, họ Hồ tên Nguyên, lúc nhỏ có học tập võ nghệ, đã đi thi mấy khoa
mà không đậu nên bỏ vào núi tu hành, nay mang ơn ngài chiếu cố đến, nên tôi phải đến hầu.
Trương Hoa thấy Cửu Muội ăn nói thanh nhã, tướng mạo khác thường, bèn khiến quân dọn dẹp một
chỗ tịnh phòng để Hồ Nguyên an nghỉ.
Khi Hồ Nguyên từ tạ về phòng, thì Trương Hoa vào hậu đường nói với phu nhân muốn gả Nguyệt
Anh tiểu thơ cho Hồ Nguyên. Phu nhân cũng đẹp ý.
Hôm sau, Trương Hoa cho người nói với Hồ Nguyên biết.
Hồ Nguyên nói:
- Ấy là việc tốt tôi mang ơn Thừa tướng rất hậu tình, nhưng lúc này binh Tống còn xâm lăng, ý tôi
muốn ra sức đánh dẹp để lập công, rồi sẽ tính.
Phiên quan làm việc ấy nói lại với Trương Hoa. Trương Hoa khen phải, và nói:
- Vậy thì để ta xem võ nghệ hắn thế nào rồi sẽ liệu.
Nói rồi vào triều tâu với Tiêu Hậu:
- Tôi mới chiêu mộ được một tráng sĩ, đáng mặt anh hùng, lại muốn lập công để đền ơn, xin Bệ hạ
gia phong quan chức để sai người ấy đi phá Tống.
Tiêu Hậu nhận lợi, phong cho Hồ Nguyên là U Châu Đoàn luyện sứ, dẫn năm ngàn quân giúp
nguyên soái Tiêu Thiên Hữu.
Hồ Nguyên tạ ơn, dẫn binh thẳng đến Đàn Châu, hiệp với binh Tiêu Thiên Hữu đóng tại Tây dinh.
Vừa lúc ấy có binh Ngũ Lang đến khiêu chiến. Hồ Nguyên hẹn mang giáp lên ngựa, xông ra trước
trận kêu lớn:
- Tống tướng hãy lui binh cho mau, kẻo ta chém đầu
Ngũ Lang nhìn thấy biết Cửu Muội thì nghĩ thầm:
- Em ta sao lại giả trai đem quân đến đánh với ta.
Cửu Muội mỉm cười, ra ám hiệu:
- Ngũ ca nên giả thua bỏ chạy, em sẽ có kế hay.
Ngũ Lang biết ý, liền xốc ngựa tới đánh vài hiệp rồi giả thua bỏ chạy, Cửu Muội đuổi theo vài dặm,
.
.

.
rồi thâu binh trở lại.
Quân thám mã về báo với Tiêu Thiên Hữu:
- Người tướng mới thu dụng đã đánh thắng binh tống một trận.
.
Tiêu Thiên Hữu cả mừng, bèn thỉnh Cửu Muội vào lập kế phá Tống. Chẳng ngờ Cửu Muội là con
gái, nên tiếng nói mỗi lúc một trong trẻo, làm cho Tiêu Thiên Hữu nghi ngờ, nghĩ thầm:
- Người này diện mạo giống Lục Lang, chúng ta phải coi chừng cho lắm.
Nói rồi sai quân bắt trói Cửu Muội, nói:
- Người là tướng của họ Dương ở bên Tống, dám đến đây mà gạt ta sao.
Dứt lời, liền sai quân bỏ vào tù xa, giải về U Châu cho Tiêu Hậu xét xử.
Tiêu Hậu khiến giam Cửu Muội vào ngục.
Tin này truyền đến Tam Quan, Dương Ngũ Lang biết em mình mắc nạn, liền bàn với các tướng:
- Nay Cửu Muội bị giam vào trong ngục hình, ta phải lo cứu em ta trước mới được .
Trần Lâm nói:
- Tướng quân có kế chi hay không?
Ngũ Lang nói:
- U Châu phía hữu gần đất Tây Phiên, ta giả binh mã của Tây Phiên qua giúp Tiêu Hậu, rồi lợi dụng
tình thế mà cứu em ta.
Trần Lâm nói:
- Kế ấy rất hay vậy tướng quân đi trước, còn tôi sẽ đem binh ứng.
Ngũ Lang liền sắp đặt chỉnh tề, kéo cờ Tây Phiên thẳng tới U Châu, sai người báo với Tiêu Hậu hay.
Tiêu Hậu khiến triều thần ra rước vào.
Dương Ngũ Lang vào đến nơi ra mắt. Tiêu Hậu nói:
- Tướng quân đường sá xa xôi, đến đây giúp ta rất là ơn đức.
Ngũ Lang nói:
- Nước Tây Phiên thấy Bệ hạ đánh với Tống chưa rõ hơn thua, nên sai tôi đến đây phá Tống cho rồi.
Tiêu Hậu bèn truyền dọn tiệc thết đãi rất trọng hậu. Ăn uống xong, Ngũ Lang tâu:
- Việc binh rất gấp, ngày mai tôi phải ra quân.
Tiêu Hậu nói:
- Ở nơi xa đến, binh mã còn mệt mỏi, vậy phải nghỉ ngơi vài hôm, rồi sẽ ra trận.
Ngũ Lang vâng lời đóng quân ở phía Nam, rồi nhóm chư tướng truyền lệnh:
- Ta phải thừa lúc binh Phiên không đề phòng, đêm nay đánh rốc vào hoàng thành, thì việc lớn ắt
xong.
Chư tướng vâng lệnh, sẵn sàng chờ đến ban đêm sẽ hành sự.
Lúc này Cửu Muội bị giam trong ngục, may nhờ có Ngục quan là Chương Nô biết người tốt, nên hậu
.
.

.
đãi lắm. Đã nhiều lần muốn thả nhưng chưa có dịp.
Hôm ấy Cửu Muội nói với Chương Nô:
- Tôi mang ơn ông rất hậu, nếu có dịp ông hãy theo tôi về Tống để được báo đền.
Chương Nô nói:
.
- Tôi có ý ấy đã lâu, ngặt không có người dìu dắt, nếu tướng quân muốn đem tôi đi, thì đêm nay vượt
ngục ra khỏi chốn này.
Trời vừa chạng vạng, bỗng nghe tiếng quân la ó, Dương Ngũ Lang dẫn bảy trăm quân đánh rốc vào
hoàng thành. Quan cận thần vào báo:
- Quân Tây Phiên làm phản.
Tiêu Hậu thất kinh liền truyền lệnh phong bố nội thành.
Dương Ngũ Lang xông thẳng vào ngục, vừa gặp Cửu Muội và Chương Nô đang đánh ra, quân Phiên
hoảng chạy chẳng dám cản đường.
Ngũ Lang và Cửu Muội đánh phá U Châu một hồi, rồi nổi lửa đốt cửa thành phía Nam kéo binh đánh
rốc qua Đàn Châu.
Tiêu Thiên Hữu không biết do đâu mà binh biến, còn Gia Luật Đệ vừa giục ngựa đuổi theo thì gặp
Ngũ Lang, hai bên giao chiến chưa được vài hiệp thì bị Ngũ Lang cho một búa bể óc. Trần Lâm và
Sài Cảm dẫn binh đến nhưng chẳng dám chống cự, bèn bỏ binh mà chạy.
Dương Ngũ Lang nghĩ thầm:
- Thầy ta có nói Thiên tướng là Tiêu Thiên Hữu nửa mình đồng xương sắt, nếu muốn chém nó phải
dùng búa Dáng Lâm, vậy ta thử xem?
Nghĩ rồi, xông vào nội thành gặp Tiêu Thiên Hữu phóng ngựa chạy ra, Ngũ Lang kêu lớn:
- Tiêu Thiên Hữu, ngươi đã đến số rồi.
Nói rồi niệm chú Dáng Lâm chém Tiêu Thiên Hữu một búa mình sa xuống ngựa .
Bấy giờ trời vừa rạng sáng, Ngũ Lang dẫn binh đánh phá dinh Phiên, thẳng vào Song Long Cốc.
Mạnh Lương lúc ấy dẫn binh đánh nhồi ra gặp tướng Phiên là Huỳnh Oai Hiền, Mạnh Lương chém
một búa té nhào.
Dương Diên Chiêu bấy giờ cũng thừa thế xông ra, hiệp binh với Dương Ngũ Lang đánh giết binh
Phiên thây nằm chật đất, phá tan trùng vây rồi thu quân về trại.
Sáng hôm sau, chư tướng vào ra mắt Dương Diên Chiêu.
Dương Diên Chiêu nói:
- Nếu không nhờ Ngũ Ca ta ra sức cứu viện, thì ta đã khốn đốn rồi.
Dương Ngũ Lang kể lại chuyện Cửu Muội bị quân Phiên bắt cầm ngục, nếu chẳng gặp cơ hội này thì
tánh mạng nó cũng không còn.
Cửu Muội nói:
.
.

.
.
- Em nhờ có ngục quan Chương Nô cứu giúp, nếu không thì đã bị binh Phiên sát hại rồi. Ơn ấy khó
mà trả được.
Dương Ngũ Lang nói:
- Trong chốn thâm sơn U Cốc mà cũng có người tốt như vậy thật đáng kính.
Nói rồi, lấy bạc vàng gấm vóc tạ ơn Chương Nô.
Ngũ Lang nói với Cửu Muội:
- Hiền muội hãy trở về phụng dưỡng mẫu thân, anh cũng sẽ dẫn chúng tướng về Ngũ Đài sơn, còn
Lục Đệ thì phải ở lại đây gìn giữ Tam Quan, để nối chí cha ngày trước.
Sau đó anh em từ giã mỗi người đi làm một trách nhiệm.
Dương Diên Chiêu về trại, sai người đem con Vạn Lý Vân về Biện Kinh trả lại cho Bát Vương.
Bát Vương được ngựa mừng rỡ nói:
- Lúc trước ta không cho mượn ngựa, chỉ vì muốn thử tài Mạnh Lương để thôi. Nay đã đem ngựa trả
lại thì Mạnh Lương và Dương Diên Chiêu quả là người trọng nghĩa.
Nói rồi tâu vua truyền chỉ cho Dương Diên Chiêu trấn thủ Tam Quan, chiêu mộ anh hùng, phòng
ngày sau đem binh phạt Bắc.
Vua Chơn Tôn nói:
- Dương Lục sứ vừa lập công lớn, nên trọng thưởng thế nào?
Bát Vương nói:
- Nên lấy lễ mà đãi cho trọng hậu để họ Dương hết lòng giúp nước.
Vua Chơn Tôn y lời sai người đem gấm vóc lụa là và vàng bạc đến nơi trọng thưởng.
Lúc ấy Vương Xu trở về mật phủ, nghĩ thầm:
- Nếu họ Dương mà anh hùng như vậy thì làm sao ta địch nổi?
Nghĩ rồi liền thỉnh Tạ Kim Ngô đến nói:
- Ta có việc cơ mật, muốn cùng ngươi bàn tính một việc.
Tạ Kim Ngô hỏi:
- Chẳng hay đại nhân có việc chi quan trọng chăng?
Vương Khâm nói:
- Ta lâu nay nhờ ơn thánh thượng trọng dụng, song Bát Vương có ý bất bình. Hôm trước nhân có
việc ta đi qua Vô Nịnh phủ quên xuống ngựa, bị họ Dương làm nhục một phen, nên vào tâu với chúa
thượng, bị Bát Vương đả kích. Nay ta nghĩ lại muốn từ quan thì mới tránh khỏi sự phiền não như
vậy.
Tạ Kim Ngô nói:
- Đại quan sao lại quá nhẫn nhịn như vậy. Trong lúc có mấy vị đại thần nay đã tiêu tan gần hết rồi,
duy còn có mấy người của chúng ta mà thôi. Các Điện hạ quyền thế tuy cao mà không có thủ hạ.
.
.

.
.
Còn cha con họ Dương đã thành quỉ không đầu. Lúc Tiên đế còn sống vì tưởng cái ơn nên lập Thiên
Ba lầu là Vô Nịnh phủ, để dụ dỗ bọn chúng. Nay Chúa thượng không còn nghĩ đến chuyện đó nữa.
Vậy để tôi đi qua đó một phen, nếu chúng nó quen thói khinh người thì tôi sai bộ hạ phá hết hai phủ
ấy xem chúng nó làm chi cho biết.
Vương Khâm thấy Tạ Kim Ngô trúng kế mình, liền nói khích:
- Tạ Phó Sứ chớ nên nóng nảy, nếu phá Thiên Ba lầu thì không dễ với Dương Lệnh bà, còn nếu phá
Vô Nịnh phủ thì bọn ta không thể yên tâm mà bị nhục nhã.
Nói rồi mời Kim Ngô ở lại uống rượu, chuyện trò đến tối mới cho từ giã ra về.
Lời Bàn
Trí và tín là hai điều cơ bản để xây dựng danh giá con người. Thiếu một điều thì làm người
không thể trọn vẹn.
Dương Diên Chiêu và Mạnh Lương là hai kẻ biết vận dụng trí và tín.
Trong lúc tình hình nguy hiểm, cần một con ngựa hay, để phá giặc Phiên, Mạnh Lương đã dùng hết
mưu trí của mình đã bắt được con Vạn Lý Vân của Bát Vương. Đó là trí.
Lúc dẹp xong giặc Phiên, Dương Diên Chiêu sai người trả ngựa lại cho Bát Vương, thì đó là giữ
điều tín nghĩa.
Trong cuộc sống con người, nếu chỉ dùng trí mà mưu đoạt lợi với kẻ khác, không có tín nghĩa, thì
người đó trở thành kẻ gian manh, xảo trá.
Còn nếu chỉ dùng tín nghĩa, không đủ mưu trí để ứng biến tùng quyền, cứu nguy cho hoàn cảnh, thì
kẻ đó là bất lực không đủ khả năng mưu đồ việc lớn.
Bởi vậy, làm người phải có trí và tín. Trí để mưu đồ thành công việc lớn, tín để giữ cách đạo nghĩa
làm người.
Hai điều đó có trong một đức tánh con người, thì người đó là anh hùng, là kẻ siêu nhân.
.
.
.
Hồi Thứ Năm Mươi Bốn
.
.

.
Kim Ngô mưu phá Thiên Ba lâu,
Xu Mật xâm phạm Vô Nịnh phủ.
.
Hôm sau, Tạ Kim Ngô dẫn đội quân ngũ đi qua Vô Nịnh phủ, gần đến Thiên Ba lầu bèn đánh chiêng
trống la hét om sòm, nhằm lúc Dương lệnh và Sài Quan Nhân đang nói chuyện bên trong.
Dương Lệnh bà sai người xem, rồi trở vào báo:
- Tạ Kim Ngô cưỡi ngựa đi qua trước phủ, có quân gia rầm rộ chiêng trống vang trời, không kiêng nể
ai hết.
Dương Lệnh bà nổi giận:
- Cả trào ai cũng kính nể nhà họ Dương, huống chi Tạ Kim Ngô là đứa nào, mà dám đến đây khinh
dễ ta như vậy.
Nói rồi liền vào cung tâu báo.
Vua Chơn Tôn nghênh tiếp, rồi hỏi:
- Chẳng hay lão phu nhân vào đây có việc chi?
Dương Lệnh bà nói:
- Chồng tôi mang ơn Tiên Đế lập Thiên Ba lầu, Vô Nịnh phủ để đền ơn họ Dương. Các khanh trong
triều ai đi cũng xuống ngựa. Đó không phải là trọng họ Dương, mà trọng mệnh vua mà thôi. Nay Tạ
Kim Ngô đi qua đánh chiêng gióng trống, làm ầm ĩ thì rõ ràng là khinh mệnh thánh thượng, nên tôi
phải vào đây tâu cho Bệ hạ biết.
Vua Chơn Tôn liền đòi Tạ Kim Ngô đến khiển trách:
- Tiên đế ta di chỉ lại, sao người dám trái lệnh vua? Nay lão phu nhân vào đây trách độ ngươi khinh
dễ triều đình.
Tạ Kim Ngô tâu:
- Tôi dám đâu khinh dễ phép nước. Nay Thiên ba lầu chiếm lãnh con đường mà nhiều quần thần phải
đi qua, nếu xuống ngựa thì mệnh vua coi khinh quá. Lâu nay tôi cũng muốn tâu nên dời Thiên Ba lầu
đi nơi khác ở chỗ vắng vẻ hơn. Còn ở nơi đây rất bất tiện.
Vương Khâm phụ họa:
- Lời Kim Ngô rất phải lẽ, nên phá đi tiện hơn.
Vua Chơn Tôn nói:
- Các khanh hãy lui về để trẫm suy tính đã.
Lúc này Dương Lệnh bà buồn bực, không biết làm sao cãi lệnh vua, bèn thương nghị với Sài phu
nhân rằng:
- Không dè Tạ Kim Ngô nó muốn phá Thiên Ba lầu, còn Vương Khâm lại một phe với nó. Nếu
chẳng lo liệu trước thì xấu hổ họ Dương chúng ta.
.
.

.
Sài Thái Quận thưa:
.
- Hiện nay trong triều rất nhiều gian nịnh, phải khiến kẻ tâm phúc đem thơ đến Tam Quan mà tin cho
Dương Diên Chiêu hay, họa may mới giải còn được.
Dương Lệnh bà nói :
- Con nói rất hay, song mẹ chẳng biết sai ai đi việc này.
Cửu Muội thưa :
- Đường ra Tam Quan con rất thuộc, vậy thì con phải đi mới được .
Dương Lệnh bà nói:
- Nếu con có đi thì phải về cho sớm, kẻo mẹ không an lòng.
Cửu Muội vâng lệnh đi suốt đêm mới đến Tam Quan ải, vào ra mắt Dương Diên Chiêu, thuật hết các
việc.
Dương Diên Chiêu thất kinh hỏi:
- Trong trào văn võ không còn ai can gián hay sao?
Cửu Muội thưa:
- Chỉ còn có Bát Vương, nhưng yếu thế không chống lại nổi bọn nịnh thần. Bởi vì bọn Vương Khâm
thu nhận nhiều thuộc hạ toàn là những tên gian manh xảo quyệt.
Dương Diên Chiêu nghe nói vừa giận vừa lo, nói với Cửu Muội:
- Anh trấn thủ nơi đây là chỗ trọng yếu, triều đình không có chiếu gọi về, mà lén bỏ đi là trọng tội,
nay biết làm sao bây giờ.
Cửu Muội nói:
- Thân mẫu trông đợi Lục ca lắm, vậy phải lén mà về ít ngày, xong việc rồi sẽ trở ra.
Dương Diên Chiêu suy nghĩ một lúc, bèn gọi Nhạc Thắng vào nói:
- Nay triều đình có việc, mẹ ta sai người đến kêu ta lén về ít bữa, vậy ngươi và Mạnh Lương phải hết
lòng giữ quan ải. Nếu Tiêu Táng có hỏi thì hãy giấu kín, nói ta đi săn chưa về chớ cho Tiêu Táng
biết.
Nhạc Thắng lãnh mạng.
Đêm ấy Dương Diên Chiêu ra khỏi trại, thẳng về Biện Kinh khi đi được nửa đêm, gần tới rừng Ô
Nha thì có một bóng người nhảy ra, nói:
- Thượng quan dặn dò Nhạc Thắng đừng cho Tiêu Táng biết, mà Tiêu Táng đã rình nghe hết đầu
đuôi rồi.
Dương Diên Chiêu thất kinh nói:
- Sao ngươi không ở lại giữ gìn ải quan, lại đến chận đường ta ?
Tiêu Táng nói:
- Thượng quan lén bỏ ải Tam Quan mà đi, sao lại hỏi Tiêu Táng? Vì Tiêu Táng muốn về kinh xem
.
.

.
thử cảnh vật mà thuở nay chưa biết.
Dương Diên Chiêu nói:
.
- Không được đâu. Ta đi đây không muốn cho ai biết, còn ngươi thì tánh hay giễu cợt, lại nóng như
lửa, nếu để đến kinh thành, thì ắt mang họa. Ngươi mau trở về giữ trại.
Tiêu Táng thưa:
- Nếu không cho tôi đi thì tôi cũng lén đến Biện Kinh để phò quan chủ.
Cửu Muội thấy con người kỳ cục, nói với Dương Diên Chiêu:
- Thôi cứ cho nó đi, nếu ép nó ở lại nó còn sanh sự lôi thôi.
Dương Diên Chiêu nghe lời Cửu Muội nên cho Tiêu Táng đi theo về đến nơi, anh em vào phủ ra mắt
Dương Lệnh bà .
Dương Lệnh bà buồn bã nói:
- Tám cha con họ Dương vì nước mà thác dần, nay chỉ con hai anh em con thôi, thế mà bọn nịnh thần
là Vương Khâm và Tạ Kim Ngô lại tâu với Thiên tử phá Thiên Ba lầu, và Vô Nịnh phủ làm nhục họ
Dương.
Dương Diên Chiêu thưa:
- Xin mẹ chớ lo, để con lén vào thương nghị với Bát Vương tìm cách trừ chúng nó.
Hôm sau, Dương Diên Chiêu sai gia tướng giữ gìn Tiêu Táng, không cho ra ngoài, sợ e sanh sự.
Tiêu Táng bị cầm giữ buồn bã nói với quân sĩ:
- Ta theo thượng quan về đây là muốn xem chơi phong cảnh Biện Kinh, chẳng ngờ bị giam lỏng như
vậy, thì hay hơn là chẳng về.
Quân sĩ thấy Tiêu Táng buồn bã, nói:
- Đi xem phong cảnh thì chẳng hề chi, chỉ sợ phá phách mà liên lụy đến thượng quan chăng?
Tiêu Táng nói:
- Ta đã biết mọi việc, quyết chẳng làm lậu chuyện của thượng quan.
Tối hôm ấy, Tiêu Táng lén mở cửa sau thoát ra ngoài đi dạo kinh thành.
Khi đi ngang qua phủ Tạ Kim Ngô, nghe trong phủ có tiếng nhạc rất vui vẻ, Tiêu Táng bèn đừng
chân hỏi tên gác cửa:
- Nhà này là nhà ai, mà hát xướng vui vẻ như vậy?
Quân giữ cửa nói:
Nhà này là của quan lớn Tạ Kim Ngô, ngươi ở đâu mà không biết.
Tiêu Táng nghe nói đến Tạ Kim Ngô thì biết là tên nịnh thần đang âm mưu hãm hại thầy mình, nên
lần ra phía sau, thấy tường chẳng cao cho lắm liền nhảy phóc vào vườn hoa, rồi đi lần đền nhà bếp.
Bọn gia đinh lúc này đều bận phụ việc ở nhà trên, duy có một cô đầy tớ gái đang lum khum nấu bếp.
Tiêu Táng núp trong bóng tối lén bưng đồ ăn ngồi ăn một lúc, rồi bưng đĩa khác lên nhà trên, thấy Tạ
.
.

.
.
Kim Ngô đang ngồi ăn uống, bàn chuyện phá Thiên Ba lầu. Tiêu Táng ném đĩa đồ ăn trúng vào mặt
Kim Ngô. Tạ Kim Ngô thất kinh, đồ ăn dính đầy mặt, hét lớn:
- Gia đinh đâu ! Có ăn cướp đến.
Tiêu Táng nổi giận mắng:
- Đồ gian nịnh! Ngươi lộng quyền thái quá, hôm nay ta cho ngươi biết Tiêu Táng là ai.
Nói rồi rút dao chém xuống một đao, đầu Kim Ngô rơi xuống đất. Bọn gia đinh thất kinh bỏ chạy.
Tiêu Táng đuổi theo giết sạch.
Giết xong thì đã đến canh ba, Tiêu Táng ngồi lại ăn uống no say rồi lấy máu viết mấy hàng để chữ
lại, mục đích để cho kẻ khác khỏi họa lây.
Sau đó Tiêu Táng nhảy vọt qua tường trở về Dương phủ.
Sáng hôm sau, tin Tạ Kim Ngô bị giết đồn vang khắp kinh thành, mọi người đều kinh hãi.
Vua Chơn Tôn nghe tin thất kinh hạ lệnh cho Vương Khâm tra xét việc ấy.
Vương Khâm cho bộ hạ dò la biết đó là bộ tướng của Dương Diên Chiêu tên là Tiêu Táng lén về
kinh thành làm loạn.
Vua Chơn Tôn nói:
- Dương Lục sứ trấn ải tại Tam Quan, sao bộ tướng lại vào thành mà giết người được?
Vương Khâm tâu:
- Dương Lục sứ bỏ Tam Quan mà về, lại dắt Tiêu Táng theo thật trái phép nước, xin Bệ hạ trị tội.
Vua Chơn Tôn nhận lời, liền hạ chỉ bắt Dương Diên Chiêu và Tiêu Táng.
Lúc này, Dương Diên Chiêu đang ngủ ở trong phòng trò chuyện với Dương Lệnh bà, bỗng nghe
quân báo:
- Đêm hôm qua Tiêu Táng nhảy tường vào giết cả nhà Tạ Kim Ngô, lớn nhỏ mười ba người, nay
triều đình sai bắt.
Dương Diên Chiêu thất kinh nói:
- Thằng điên này ! Nó làm hại ta rồi.
Nói vừa dứt lời, thì cấm quân đã xông vào bắt Dương Diên Chiêu. Tiêu Táng ở ngoài nghe được tin
ấy, liền xách dao chạy tới múa vun vút làm bọn cấm quân chẳng ai dám lại gần.
Dương Diên Chiêu thấy Tiêu Táng làm dữ, thì nạt lớn:
- Ngươi gây họa cho ta như vậy, mà còn dám nghịch mệnh triều đình nữa sao? Hãy trói mình cho
mau mà chịu tội.
Tiêu Táng nói:
- Thuở nay tôi ăn cướp, giết người ta không biết bao nhiêu, nào thấy có tội gì. Nay mới giết chúng nó
mười ba đứa mà sợ chi? Vậy tôi với thượng quan trở lại sơn trại, đặng xem chúng nó làm chi cho
biết.
.
.

.
Dương Diên Chiêu nói:
- Nếu ngươi chẳng nghe lời ta, thì ta chém đầu ngươi trước.
Tiêu Táng sợ hãi, quăng dao quì lạy .
Dương Diên Chiêu nói:
- Nếu sai phạm lần nữa ta không tha cho ngươi.
Bọn cấm quân thấy vậy muốn áp lại bắt trói Tiêu Táng.
Dương Diên Chiêu hét lớn:
.
- Chúng bay không được lộn xộn, không được bắt thủ hạ của ta. Để ta vào triều ra mắt Thiên tử rồi sẽ
hay.
Nói rồi vào triều ra mắt vua Chơn Tôn.
Vua Chơn Tôn hỏi:
- Trẫm không có chỉ triệu, sao khanh bỏ Tam Quan mà về đây lại dắt tên bộ tướng theo giết cả nhà
phó sứ?
Dương Diên Chiêu tâu:
- Tội tôi rất nặng, nhưng Bệ hạ nghe lời nịnh thần, đòi phá bỏ Thiên Ba lầu, làm nhục họ Dương, nên
mẹ tôi buồn rầu sanh bệnh, tôi phải lén về thăm. Còn Tiêu Táng, bộ tướng của tôi tánh khí hung
hăng, đã phạm tội triều đình, xin cứ theo phép nước mà xử.
Vua Chơn Tôn chưa kịp nói, thì Vương Khâm đã tâu:
- Giết Tạ Kim Ngô đúng là Tiêu Táng, bộ tướng của Dương Diên Chiêu, xin Bệ hạ truyền bắt Dương
Diên Chiêu và Tiêu Táng xử trảm để răn chúng.
Vua Chơn Tôn chưa quyết thì Bát Vương tâu:
- Dương Lục sứ tuy có tội, song công lao rất lớn, lại đang trấn thủ Tam Quan, là chỗ yết hầu của
nước Tống, vậy xin Bệ hạ vì giang sơn không hại kẻ trung thần.
Vua Chơn Tôn nhận lời, giao cho Viện Pháp tư định tội.
Vương Khâm liền cho người qua dặn dò Viện Pháp tư, phải tìm cách xử tử Dương Diên Chiêu và
Tiêu Táng.
Lúc này Dương Diên Chiêu hay được tin, nói với Dương Lệnh bà:
- Xin mẹ chớ lo rầu, con sẽ trở lại Tam Quan, chờ ngày sum hiệp. Còn như Tiêu Táng giết Tạ Kiến
Ngô ấy cũng là việc trừ được đứa dữ cho triều đình.
Mẹ con đang trò chuyện, thì Tiêu Táng bước vào nói:
- Tôi nghe triều đình muốn bắt tội thượng quan đày ra Nhử Châu, còn tôi thì đày ra Đăng Châu mà
làm lính. Nên tôi vào đây xin rủ thượng quan trở về Tam Quan trại, chớ có nghe bọn nó làm gì.
Dương Diên Chiêu nói:
- Thánh chỉ đã ban rồi, chúng ta phải tuân lệnh, đợi triều đình ân xá trở về sẽ gặp lại nhau. Nếu ngươi
.
.

.
nghịch chỉ thì tội lại nặng thêm.
Tiêu Táng nói:
.
- Tôi nhất định không ra Đăng Châu, mà trở về sơn trại nói cho bọn Mạnh Lương và Nhạc Thắng
biết để ra Nhữ Châu rước thượng quan về thì mới an dạ .
Dương Diên Chiêu nói:
- Ngươi đừng có hung hăng mà mất mạng
Tiêu Táng cười lớn, rồi từ biệt bỏ đi.
Chỉ mấy hôm sau, Dương Diên Chiêu đã bị đày ra Nhữ Châu.
Quan Thái thú Nhữ Châu là Tương Tế được nghe Dương Diên Chiêu kể chuyện, thì trong lòng ấm
ức, không biết cách nào trừ khử bọn nịnh thần, nên nói với Dương Diên Chiêu:
- Tướng quân phải nhẫn nhục ở tạm nơi đây giúp ta lấy thuế nạp triều đình, chẳng bao lâu cũng sẽ trở
về triều được.
Dương Diên Chiêu tạ ơn rồi ở đó thu thuế rượu.
Bấy giờ Vương Khâm nghe Dương Diên Chiêu đã đến Nhữ Châu, bèn bàn với Huỳnh Ngọc tìm kế
hãm hại.
Huỳnh Ngọc nói:
- Việc ấy cớ khó chi, nay thánh thượng cần lấy thuế rượu ở Nhữ Châu, đại nhơn nên làm một bản tấu
nói Dương Diên Chiêu bán rượu của nhà nước thâm lạm tiền bạc, chúa thượng biết được ắt xử tội.
Hôm sau Vương Khâm vào triều tâu:
- Dương Diên Chiêu khi dễ phép nước, đã bị đày ra Nhữ Châu còn lấy rượu quan mà bán, ý muốn
trốn đi làm phản, xin Bệ hạ trừ đi kẻo sanh hậu họa.
Vua Chơn Tôn nghe tấu, nổi giận phán:
- Nó đã xúi bộ hạ giết cả nhà Tạ Kim Ngô. Nay bị đày còn dám bán rượu của triều đình, thiệt tội ấy
khó dung.
Nói rồi truyền chỉ sai Hô Diên Táng ra Nhữ Châu lấy đầu Dương Diên Chiêu đem về nạp
Bát Vương vội vã tâu:
- Dương Diên Chiêu là tôi trung nghĩa, bản chất trung hậu, có đâu làm việc gian xảo như vậy. Xin Bệ
hạ đừng nghe kẻ nịnh thần mà giết đấng anh hùng oan uổng.
Vua Chơn Tôn nói:
- Sao khanh cứ binh vực Dương Diên Chiêu, mà không xét đến tội tình .
Bát Vương làm thinh không dám tâu nữa.
Đi về đến phủ, Khấu Chuẩn nói với Bát Vương:
May là người lãnh sắc mệnh là Hô Diên Táng, vậy hãy bảo Hô Diên Táng ra Nhữ Châu lựa một tội
phạm giống như Dương Diên Chiêu, chém lấy thủ cấp đem về nạp, còn Dương Diên Chiêu thì bảo
.
.

.
phải lánh mặt đợi ngày sau trong nước có nạn thì sẽ về lập công chuộc tội.
Bát Vương khen phải, liền đến bàn với Hô Diên Táng.
Hô Diên Táng nói:
- Việc ấy xin cứ để mặc tôi.
.
Nói rồi từ biệt ra đi, đến Nhữ Châu ra mắt quan Thái thú là Trương Tế, tỏ hết các việc.
Trướng Tế thất kinh nói:
- Dương Diên Chiêu mới đày đến đây chưa bao lâu, sao lại có chuyện bán rượu của triều đình? Thật
là bọn gian thần kiếm điều vu oan, giá họa.
Hô Diên Táng nói:
- Ấy là tên gian thần Vương Khâm muốn hại người trung thần, Bát Vương tâu không đặng, nên mới
lập kế như vậy mà cứu người.
Trương Tế liền làm y theo kế, thỉnh Dương Diên Chiêu đến nói rõ sự việc .
Dương Diên Chiêu nói:
- Tôi không có lòng phản chúa mà nay nịnh thần cố hãm hại không biết phải làm sao.
Trương Tế nói:
- Tuy vậy tướng quân chớ lo. Tôi đã có cách cứu mạng.
Nói rồi vào trong ngục có tên Thái Quyền là tử tội, diện mạo giống như Dương Diên Chiêu, liền sai
quân chém lấy đầu trao cho Hô Diên Táng đem về nạp.
Hô Diên Táng lãnh thủ cấp, suốt đêm về Biện Kinh, nhằm lúc vua Chơn Tôn đang lâm triều, Hô
Diên Táng dâng thủ cấp lên.
Vua Chơn Tôn ngỡ thiệt,còn Bát Vương sợ đem thủ cấp ra bêu e có người biết được mà lậu chuyện,
nên tâu với vua giao cho Vô Nịnh Phủ chôn cất.
Vua Chơn Tôn y lời, khiến quân đem thủ cấp giao cho Dương Phủ, mọi người trông thấy ai cũng thất
kinh.
Lời bàn.
Kẻ nịnh ưa thích những lời nịnh ngợi, người trung thích những kẻ khí tiết, đạo nghĩa.
Tiêu Táng, một kẻ nghĩa khí, tôn trọng đạo làm người, thế mà có lúc lại đem thân là tướng cướp,
hành động đó chỉ là quyền biến nhất thời, bản chất con người không phai nhạt mùi đạo nghĩa. Khi
đã tôn Dương Diên Chiêu lên làm chủ, thì một lòng một dạ tôn phò chủ mình, vì chủ mà chịu bao
cay đắng khổ cực.
Còn như Thất Vương con một vị vua, lại tham quyền đoạt lợi, đầu độc giết em, không kể tình cốt
.
.

.
.
nhục, lại nghe lời nịnh thần, như vậy con một ông vua, xét về đạo nghĩa làm người thua một tên
tướng cướp.
Chuyện đời rất phức tạp, kẻ có đôi mắt tinh đời không căn cứ vào lời nói, không căn cứ vào địa vị xã
hội mà đánh giá phẩm chất con người.
Đây là một tấm gương soi vào cuộc sống, và cảnh cáo những ai cho mình là kẻ quyền quý, tự cho
mình là hơn thiên hạ.
.
.
.
Hồi Thứ Năm Mươi Lăm
Tống Chơn Tôn qua Ngụy Châu dạo cảnh
Vương Tòan tiếp vây Đồng Đài giao tranh
Tin tức Dương Diên Chiêu bị giết đồn đến Giải Sơn trại, bọn Nhạc Thắng, Mạnh Lương kêu khóc
om sòm.
Mạnh Lương nói với chư tướng:
- Nay thượng quan đã bị chết oan, bọn ta đây cũng chẳng làm gì, chi bằng phân nhau đi các nơi làm
ăn thì hơn.
Nhạc Thắng nói:
- Lời tướng quân rất phải.
Bèn khiến Lưu Siêu, Trương Cái xuống dưới núi, lập một cái miếu thờ Dương Diên Chiêu, và lập hai
cái cốt tượng hình Dương Diên Chiêu và Tiêu Táng mà thờ, còn bọn Nhạc Thắng và Mạnh Lương
thì về lại Thái Hành Sơn làm tướng cướp mà nuôi nhau.
Bấy giờ Tiêu Táng bị đày ở Đăng Châu nghe Dương Diên Chiêu bị giết thì cũng vượt ngục mà trốn
đi.
Bấy giờ Vương Khâm thấy Dương Diên Chiêu đã chết liền viết thơ sai người tâm phúc đem qua Bắc
Phiên nói rõ cho Tiêu Hậu biết.
Tiêu Hậu xem xong mừng rỡ, nói với Tiêu Thiên Tử:
- Nay Vương Khâm gởi thơ về nói rõ ràng tình hình nước Tống đang nguy khốn như vậy. Chúng ta
nên khởi binh đánh một trận xem sao.
.
.

.
Sư Cải tâu:
.
- Họ Dương tuy mất, song nước Tống binh tướng còn nhiều nếu ta dẫn binh chinh phạt e chưa chắc
thắng. Vậy phải lập kế gạt Tống chúa ra khỏi triều đình, rồi vây bắt.
Tiêu Hậu hỏi:
- Khanh có kế gì gạt Tống chúa hãy nói cho ta nghe thử?
Sư Cải tâu:
- Nay Ngụy phủ là Lăng tẩm của Tấn Đế, lâu ngày bỏ hoang. Nay khiến người trồng thêm hoa thơm
cỏ lạ rồi đồn đại trời xuống điềm lành, mưa rượu ngọt, cây hóa huỳnh tương, bày điều quái lạ như
vậy. Lại khiến một người đem tin cho Vương Khâm hay, bảo Vương Khâm xúi vua Tống ra đó mà
xem, rồi ta kéo binh vây bắt. Nước Tống mất vua thì còn gì mà giữ được giang sơn.
Tiêu Hậu theo kế liền viết thơ sai người đến Biện Kinh tin cho Vương Khâm hay trước, rồi chọn
người đến Ngụy phủ sửa sang lăng tẩm, đào lập vườn. Một mặt sai Tiêu Thiên Tả dẫn binh mã đến
đó phục sẵn.
Chưa đầy một tháng, tin tức đồn đến Biện Kinh.
Vua Chơn Tôn hỏi quần thần:
- Nay Ngụy phủ có điềm lạ như vậy, các khanh xét thấy thế nào?
Vương Khâm bước tâu :
- Nay Ngụy phủ có điềm lạ như vậy, ắt lòng trời muốn cho nước Tống giàu mạnh, Bắc Phiên chẳng
dám lăm le bờ cõi nữa.
Vua Chơn Tôn mừng rỡ, nói:
- Đất Ngụy gần cõi Phiên mà lúc này là lúc chiến tranh, nếu trẫm ngự giá ra đó ai dám đi theo để bảo
giá?
Vương Khâm tâu:
- Bệ hạ nên khiến phò mã Khấu Thừa gìn giữ kinh thành rồi ra đi ắt vô sự.
Bát Vương thấy can không được, buồn bực lui ra.
Vua Chơn Tôn liền hạ chỉ sai Hô Diên Táng làm bảo giá.
Đại tướng quân, Quang Châu Tiết, Vương Toàn Tiết, Trịnh Châu Tiết đều theo hộ giá.
Bọn Hô Diên Táng vâng mạng sắm sửa sẵn sàng, cách vài hôm sau rời Biện Kinh, có Bát Vương và
văn võ bá quan theo hầu.
Đi được mấy ngày đã đến Ngụy Châu, vào lúc tiết trời nắng ráo, xe giá vào ngự phủ đồn trú.
Vua Chơn Tôn bèn dắt quần thần đi xem phong cảnh, quả nhiên thấy cây lá tốt tươi, nước xanh leo
lẻo, vua bèn khiến múc nước ao lên nếm, thì quả có bay mùi rượu, quân sĩ bẻ lá cây mà ngửi thì
chẳng có chi lạ.
Bát Vương tâu:
.
.

.
.
- Bệ hạ vì điềm lành mà muốn đến đây xem, nay thấy chẳng có gì đáng lưu ý, vậy xin Bệ hạ sớm trở
về cung, kẻo lầm kế giặc.
Vua Chơn Tôn nghe nói, cũng nghi ngờ, bèn hạ chỉ di giá trở về. Chẳng ngờ quân Bắc Phiên thám
thính, thấy chúa tôi nhà Tống đã vào Ngụy phủ, nên báo cho Tiêu Thiên Tả và Thổ Kim Tú dẫn
mười muôn binh mã, vây chặt bốn phía.
Vua Chơn Tôn cả kinh, nói:
- Trẫm chẳng nghe lời các khanh can gián, hôm nay bị vây biết làm sao thoát khỏi.
Bát Vương nói:
- Binh Phiên đã lập kế đưa chúng ta vào lưới, Bệ hạ phải truyền cho các tướng giữ bốn cửa phủ cho
nghiêm ngặt, rồi sai người về Biện kinh cầu cứu.
Vua Chơn Tôn liền khiến Hô Diên Táng cho quân giữ các cửa, trong lúc binh Phiên đông như kiến
cỏ, ai nấy đều khiếp sợ.
Tướng Phiên là Thổ kim Tú, giục ngựa xông ra nói lớn:
- Vua tôi nước Tống các ngươi đã trúng kế sa vào lưới rập sao không chịu đầu hàng cho khỏi chết?
Hô Diên Táng nổi giận xông ngựa ra đánh với Kim Tú một hồi. Hô Diên Táng đuối sức quay ngựa
bỏ chạy bị quân Phiên dùng cung tên bắn như mưa, trúng vào con ngựa Hô Diên Táng, làm cho Hô
Diên Táng té nhào xuống đất bị quân Phiên áp đến bắt sống.
Vua Chơn Tôn hay tin thất kinh. Bát Vương tâu:
- Việc đã gấp xin Bệ hạ sai người đến các trấn gần đây cầu viện binh cứu.
Vua Chơn Tôn y lời, sai người ra đi.
Bấy giờ quân Phiên bắt được Hô Diên Táng, bèn bỏ vào xa giải về U Châu nạp cho Tiêu Hậu.
Thấy vua Chơn Tôn buồn bã, Bát Vương tâu:
- Triều đình tin tức không thông, còn ở đây chẳng ai dám ra đánh, nay phải tìm cho được họ Dương
thì mới phá nổi quân Phiên.
Chơn Tôn nói :
- Họ Dương biết đâu mà tìm bây giờ?
Bát Vương tâu:
- Xin Bệ hạ viết một bức thơ, sai người đi tìm khắp thiên hạ may ra gặp được.
Vua Chơn Tôn làm thinh, vào trong trướng nghĩ thầm:
- Lời tâu của Bát Vương thật đáng nghi lắm, tại sao đã giết Dương Diên Chiêu, chặt đầu đem về, lại
còn bảo là đi tìm trong thiên hạ?
Nghĩ rồi, liền đòi quân Thị Thần vào hỏi:
- Các khanh nghe lời tâu của Bát Vương có gì nghi ngờ chăng?
Quan Thị Thần tâu:
.
.

.
.
- Có khi Bát Vương biết đặng tin tức của Dương Diên Chiêu nên mới tâu như vậy. Xin Bệ hạ hãy
phát thơ sai người ra Nhữ Châu mà hỏi, thì sẽ biết rõ.
Vua Chơn Tôn nghe lời, viết thơ và hỏi các tướng:
- Có ai dám vì trẫm mà thoát vây đến Nhữ Châu chăng?
Vương Toàn Tiết bước ra xin đi. Vua Chơn Tôn sai Lý Ninh yểm trợ ra khỏi thành.
Vương Toàn Tiết may mắn thoát ra được liền nhắm Nhữ Châu đi tới.
Lời Bàn
Trong lúc hoạn nạn mới thấy được quyền uy không phải là lẽ sống.
Vua Chơn Tôn trong lúc không gặp hoạn nạn, nghe lời bọn ninh thần, giết hại các tôi trung, dùng
quyền uy để trấn áp mọi người, rồi đến lúc hoạn nạn lại cầu cứu các trung thần để bảo vệ mình. Như
vậy kẻ thiếu sáng suốt chỉ thấy quyền uy trong lúc thái bình mà không thấy nguy hiểm trong lúc hoạn
nạn.
Người có bản lĩnh, có tinh thần sáng suốt, không cậy vào quyền uy trong lúc thái bình, mà nghĩ đến
việc nguy hiểm trong lúc hoạn nạn.
Từ xưa đến nay, những kẻ cầm quyền, nắm quyền lực trong tay, ít ai biết lo xa, lúc thái bình nghĩ đến
lúc nguy khốn, chỉ nhìn vào sự việc trước mắt, đến lúc tình thế diễn biến, không còn quyền nữa thì
mới ăn năn hối hận.
Tội nghiệp cho những kẻ trung quân ái quốc như họ Dương, suốt đời chịu nhẫn nhục để đuổi theo
một ước vọng vì nước vì dân, nên dù khổ cực đến đâu cũng không xa rời mục đích của mình.
.
.
.
Hồi Thứ Năm Mươi Sáu
Bát Vương lãnh sứ cứu Dương Diên Chiêu,
   Mạnh Lương tình cờ theo Tiêu Táng.
Vương Toàn Tiết ra khỏi vòng vây, suốt đêm chạy đến Nhữ Châu ra mắt quan Thái thú, nói:
- Chúa thượng bị vây khốn tại Ngụy Phủ, không ai dám ra đánh quân Phiên, nay có chiếu sai tôi đến
.
.

.
đây, tìm Dương Diên chiêu trở về cứu giá. Xin quan Thái thú tìm giùm cho được.
Quan Thái thú là Trương Tế nói:
.
- Dương Diên Chiêu phạm tội, đã bị chặt đầu đem nạp về triều nay còn khiến tôi đi tìm sao được.
Xin tướng quân hãy về tâu lại.
Vương Toàn Tiết than:
- Nếu không tìm được thì chúa thượng không thoát khỏi nạn này.
Trương Tế nói:
- Thật là trái lễ! Lúc bình thường triều đình sai đi chặt đầu người nọ, chém đầu người kia, dù đó là kẽ
trung thần, rồi đến lúc tai nạn lại bảo đi tìm người đã chết.
Vương Toàn Tiết nghe nói không biết làm sao, phải trở về Dương phủ, ra mắt Dương Lệnh bà để bày
tỏ việc ấy.
Dương Lệnh bà nổi giận mắng:
- Cái đầu con ta đã chôn lâu rồi, các ngươi hãy đào lên mà tìm nó.
Vương Toàn Tiết buồn bực phải trở ra Ngụy Châu tâu lại với vua Chơn Tôn .
Vua Chơn Tôn nghe tâu, thở dài than:
- Nước Tống là một nước uy hùng, gặp cơn hoạn nạn chẳng ai dám ra cứu viện.
Quần thần tâu:
- Nay chúa thượng đã mắc vào vòng vây của địch, dẫu có Tử Nha sống lại, cũng không tìm ra kế.
Vua Chơn Tôn bỏ ăn bỏ ngủ. Bát Vương thấy vậy tâu:
- Việc đã quá gấp, tôi phải đích thân về Dương phủ mà hỏi thăm tin tức của Dương Diên Chiêu, nếu
không được thì tôi phải đích thân đi khắp nơi để tìm cho được. Vậy Bệ hạ sai chư tướng giữ thành
cho nghiêm ngặt.
Vua Chơn Tôn nói:
- Như khanh có đi thì phải cẩn thận.
Bát Vương lãnh mệnh, sai Vương Toàn Tiết và Lý Minh bảo hộ ra khỏi vòng vây đi thẳng tới Dương
phủ, ra mắt Dương Lệnh bà, nói:
- Nay chúa thượng đang lúc lâm nguy, xin thỉnh Dương Diên Chiêu ra đây cho tôi thương nghị.
Dương Lệnh bà nói:
- Nay Bát Vương đến đây, tôi không còn giấu giếm nữa.
Nói rồi sai người xuống một cái hầm kêu Dương Diên Chiêu lên.
Dương Diên Chiêu vào ra mắt Bát Vương và nói:
- Nếu ngày trước không nhờ điện hạ lập kế giải cứu thì nay Dương Diên Chiêu này đâu còn sống mà
tìm. Tôi mang ơn điện hạ không biết lấy chi báo đáp.
Bát Vương nói:
.
.

.
- Nay chúa thượng bị vây nơi Ngụy phủ, nên phải tìm đến tướng quân để cầu cứu.
Dương Diên Chiêu nói:
.
- Muốn phá vòng vây quân Phiên phải có quân sĩ. Tôi nghe nói Tam Quân bây giờ binh tướng đều
tan rã, vậy để tôi đến đó chiêu mộ binh tướng rồi mới hành động được.
Bát Vương nói:
- Nếu vậy chẳng nên chậm trễ. Ta sẽ về triều viết thơ tin cho các trấn thu thập binh mã sẵn sàng, rồi
hiệp với các tướng quân kéo đến giải vây một lượt.
Dương Diên Chiêu vâng mạng, vào bái biệt Dương Lệnh bà, thẳng đến Tam Quan trại, trở qua Đăng
Châu tìm Tiêu Táng hỏi thăm tin tức.
Khi vừa đến Cẩm Giang, Dương Diên Chiêu thấy tốp thầy chùa vừa đi vừa cằn nhằn, Dương Diên
Chiêu hỏi:
- Các ngươi đi đâu mà coi bộ bất bình như vậy?
Mấy vị thầy chùa nói:
- Nơi đây có một thằng điên bắt thầy chùa chúng tôi đêm ngày đến tụng kinh chẳng ai dám nghịch
mạng.
Dương Diên Chiêu nghĩ thầm:
- Đây chắc là Tiêu Táng chẳng sai, liền hỏi:
- Người ấy bây giờ ở đâu?
Thầy chùa nói:
- Ở phía Tây thành Đăng Châu, nơi một cái miếu mới vừa lập lên đó.
Dương Diên Chiêu nói:
- Vậy thì ta đi với các ngươi.
Mấy ông thầy chùa dắt Dương Diên Chiêu đến nơi, thấy Tiêu Táng đang nằm trên bàn thần ngủ ngáy
pho pho.
Dương Diên Chiêu bước lại gần, đập mạnh vào lưng Tiêu Táng.
Tiêu Táng giật mình thức giấc, trợn mắt hét:
- Đứa nào dám cả gan đến phá giấc ngủ của ta vậy?
Dương Diên Chiêu nạt:
- Tiêu Táng chớ vô lễ ? Hãy nhìn ta xem ai.
Tiêu Táng thấy Dương Diên Chiêu vội nhảy xuống ôm chầm lấy, hỏi:
- Quan chủ! Ngươi là người hay ma quỉ, đã bị chặt đầu sao còn hiện hình nhát ta?
Dương Diên Chiêu cười nói:
- Đang giữa ban ngày mà ma quỉ đâu dám đến. Thôi, hãy theo ta ra ngoài ta kể chuyện cho mà nghe.
Mấy ông thầy chùa trông thấy rồi bụm miệng cười dắt nhau đi mất.
.
.

.
.
Lục sứ dẫn Tiêu Táng ra khỏi miếu, thuật lại mọi việc cho Tiêu Táng nghe. Tiêu Táng mừng rỡ nói:
- Tôi tưởng thượng quan đã bị triều đình chặt đầu nên lập miếu mà thờ, không dè sự việc như vậy.
Dương Diên Chiêu nói:
- Nay việc binh rất gấp, hai ta phải ra Tam Quan cho sớm, chiêu tập binh sĩ giải vây cho chúa
thượng.
Hai người vừa đi vừa nói chuyện thì đã đến bến đò Dương Gia, bỗng thấy một lũ côn đồ chạy tới.
Tiêu Táng nói:
- Để tôi giết hết lũ này trừ mối họa cho địa phương.
Dương Diên Chiêu nói:
- Không nên? Chúng ta đang cần chiêu binh dụ lính, phải thu bọn chúng để dùng vào việc binh.
Người cầm đầu bọn lâu la này là Dương Thái Bảo, cùng họ với Dương Diên Chiêu, nên khi biết
Dương Diên Chiêu thì quì gối phục tùng, mời Dương Diên Chiêu và Tiêu Táng về mở tiệc đãi đằng.
Lúc ấy nhằm tiết tháng tư, trời đang nóng nực, hai người đi trót nửa ngày, ngưng ngồi dưới gốc cây
mà nghỉ mát. Tiêu Táng thưa:
- Thượng quan hãy ngồi đây để tôi đi trên quán rượu giải khát.
Nói rồi ra đi, bỗng thấy một đám người khiêng rượu thịt đi ngang qua đó. Tiêu Táng hỏi:
- Các ngươi gánh rượu thịt đi đâu vậy?
Bọn người ấy nói:
- Phía trước có cái miếu Dương Diên Chiêu, oai linh hiển hách, trong làng chúng tôi thường đến
khấn vái, nên nay đem lễ vật đến cúng tế.
Tiêu Táng cười lớn:
- Té ra ngươi đem rượu thịt đến tế Dương Diên Chiêu, vậy thì hãy theo ta đến gốc cây kia mà tế.
Tiêu Táng dẫn bọn người gánh rượu thịt đến nơi, rồi cười nói với Dương Diên Chiêu:
- Người gánh rượu thịt đến tế thượng quan đây.
Dân làng thấy việc lạ, cúi đầu lạy và thưa:
- Bọn tôi ngỡ quan đã chết nên lập miếu mà thờ. Chẳng ngờ quan còn sống, vậy chúng tôi dâng vật
cho thỏa lòng thành kính.
Tiêu Táng và Dương Diên Chiêu ăn uống xong thì đến Tam Quan ải.
Nhạc Thắng và Mạnh Lương lúc này đang chiếm cứ Thái Hành Sơn, nghe tin vội ra đón tiếp.
Dương Diên Chiêu nói:
- Các ngươi phải sửa soạn binh mã sẵn sàng để theo ta đi về giải vây cho chúa thượng. Nay ta còn
phải đi các nơi khác.
Nói rồi Dương Diên Chiêu và Tiêu Táng dắt nhau ra đi.
Đi được nửa ngày, mặt trời đã chen núi, Dương Diên Chiêu bảo Tiêu Táng:
.
.

.
- Chỗ này là rừng núi, không có quán trọ, hãy nên kiếm nhà mà nghỉ đỡ.
.
Tiêu Táng lãnh mạng đi một lúc, chẳng thấy nhà cửa ai hết, bỗng thấy nơi gốc núi, có một ngôi nhà
có một ông viên ngoại đang chong đèn ngồi một mình .
Tiêu Táng bước vào hỏi:
- Tôi là người khách buôn, lỡ đường trời tối, xin ông cho tá túc một đêm.
Ông lão đáp:
- Ở đây khó khăn lắm, xin quý khách tìm nơi khác.
Tiêu Táng nói:
- Trời đã khuya, xin ông làm ơn cho chúng tôi tạm một đêm.
Ông lão hỏi:
- Có cùng đi với ai nữa không?
Tiêu Táng nói:
- Chỉ có một người nữa mà thôi.
Ông lão nói:
- Nếu chỉ có hai người thì chẳng hề chi. Vậy xin mời vào phòng nghỉ tạm.
Tiêu Táng bèn trở ra kêu Diên Chiêu vào ra mắt. Ông lão thấy Dương Diên Chiêu tướng mạo khác
thường, liền hỏi:
- Ông ở đâu mà đến đây?
Dương Diên Chiêu đáp:
- Tôi là người ở Biện Kinh, muốn đến Thái Hành Sơn có việc.
Ông già nghe nói nhăn mặt nói:
- Tôi nghe tới Thái Hành Sơn mà thêm sầu não.
Dương Diên Chiêu hỏi:
- Có việc chi xin cho tôi biết.
Ông già nói:
- Tôi ở đây xưa nay chỉ có việc ưa danh chuyện nghĩa, cả xóm này đều là họ Trần, vừa rồi có một vị
thảo khấu trên Thái Hành Sơn tên là Nhạc Thắng, một người nữa tên là Mạnh Lương, đem bộ hạ
cướp phá xóm làng nhiễu hại lương dân. Tôi đã nửa đời người, chỉ sanh được có một chút gái, bị
Mạnh Lương xem thấy ép tôi phải gả con. Đêm nay Mạnh Lương đến làm rể, cực chẳng đã tôi phải
vâng lời, nhưng đau đớn biết chừng nào.
Dương Diên Chiêu cười nói:
- Ông chớ lo, Mạnh Lương là bạn cũ của tôi, để tôi cảm nó cho.
Ông già nói:
- Nếu con tôi mà khỏi nhục thì ơn ông rất lớn.
.
.

.
Tiêu Táng nói:
.
- Nếu Mạnh Lương muốn làm rể ông, thì tôi xin tình nguyện làm con gái ông để đón chàng rể quí.
Nói rồi mượn quần áo con gái mặc vào, rồi ra ngồi giữa bàn đón rể.
Chẳng bao lâu, bên ngoài dẫn bọn tùy tùng đến vừa bước vào nhà đã thấy Tiêu Táng mặc đồ con gái
bước ra thưa:
- Thiếp nghe tin trễ nên vội ra đón tiếp Mạnh Phu Quân xin tha tội.
Mạnh Lương trông thấy Tiêu Táng thì sửng sốt.
Kế đó Dương Diên Chiêu bước ra thì Tiêu Táng đã chạy đến ôm chặt Mạnh Lương vào lòng, lôi vào
phòng trong, rồi nói với Dương Diên Chiêu:
- Để tôi dẫn nó động phòng hoa chúc.
Mạnh Lương trông thấy Dương Diên Chiêu, liền xô Tiêu Táng ra, quỳ lạy Dương Diên Chiêu, nói:
- Thượng quan đến đây lúc nào, xin ngài tha tội.
Dương Diên Chiêu nói:
- Hãy mau trở về trại để cùng ta thương nghị.
Lời Bàn
Lời xưa nói: "Thiện ác đáo đầu chung hữu báo " (lành dữ cuối cùng đều có trả)
Từ xưa đến nay, triều đình là chỗ cai trị dân, lúc nào cũng có kẻ nịnh, người trung.
Kẻ nịnh chỉ thành công nhất thời, còn trung tuy gian nan cực khổ, nhưng cuối cùng vẫn được đền
đáp công lao.
Sở dĩ có nịnh trung là do tham vọng hưởng thụ, mà kẻ tham vọng hưởng thụ thì không thể trường
tồn, chỉ có đạo nghĩa làm người mới vĩnh cửu mà thôi.
Truyện Tàu lưu lại những tấm gương sáng cho những ai có trách nhiệm trị nước an dân, nhìn lại
gương xưa mà học tập tránh những điều gian tà, chạy theo dục vọng cá nhân, làm trái đạo nghĩa
làm người.
.
.
.
.
.

.
Hồi Thứ Năm Mươi Bảy
Tống Chơn Tôn qua Ngụy Châu dạo cảnh
Vương Tòan tiếp vây Đồng Đài giao tranh
.
Tin tức Dương Diên Chiêu bị giết đồn đến Giải Sơn trại, bọn Nhạc Thắng, Mạnh Lương kêu khóc
om sòm.
Mạnh Lương nói với chư tướng:
- Nay thượng quan đã bị chết oan, bọn ta đây cũng chẳng làm gì, chi bằng phân nhau đi các nơi làm
ăn thì hơn.
Nhạc Thắng nói:
- Lời tướng quân rất phải.
Bèn khiến Lưu Siêu, Trương Cái xuống dưới núi, lập một cái miếu thờ Dương Diên Chiêu, và lập hai
cái cốt tượng hình Dương Diên Chiêu và Tiêu Táng mà thờ, còn bọn Nhạc Thắng và Mạnh Lương
thì về lại Thái Hành Sơn làm tướng cướp mà nuôi nhau.
Bấy giờ Tiêu Táng bị đày ở Đăng Châu nghe Dương Diên Chiêu bị giết thì cũng vượt ngục mà trốn
đi.
Bấy giờ Vương Khâm thấy Dương Diên Chiêu đã chết liền viết thơ sai người tâm phúc đem qua Bắc
Phiên nói rõ cho Tiêu Hậu biết.
Tiêu Hậu xem xong mừng rỡ, nói với Tiêu Thiên Tử:
- Nay Vương Khâm gởi thơ về nói rõ ràng tình hình nước Tống đang nguy khốn như vậy. Chúng ta
nên khởi binh đánh một trận xem sao.
Sư Cải tâu:
- Họ Dương tuy mất, song nước Tống binh tướng còn nhiều nếu ta dẫn binh chinh phạt e chưa chắc
thắng. Vậy phải lập kế gạt Tống chúa ra khỏi triều đình, rồi vây bắt.
Tiêu Hậu hỏi:
- Khanh có kế gì gạt Tống chúa hãy nói cho ta nghe thử?
Sư Cải tâu:
- Nay Ngụy phủ là Lăng tẩm của Tấn Đế, lâu ngày bỏ hoang. Nay khiến người trồng thêm hoa thơm
cỏ lạ rồi đồn đại trời xuống điềm lành, mưa rượu ngọt, cây hóa huỳnh tương, bày điều quái lạ như
vậy. Lại khiến một người đem tin cho Vương Khâm hay, bảo Vương Khâm xúi vua Tống ra đó mà
xem, rồi ta kéo binh vây bắt. Nước Tống mất vua thì còn gì mà giữ được giang sơn.
Tiêu Hậu theo kế liền viết thơ sai người đến Biện Kinh tin cho Vương Khâm hay trước, rồi chọn
người đến Ngụy phủ sửa sang lăng tẩm, đào lập vườn. Một mặt sai Tiêu Thiên Tả dẫn binh mã đến
.
.

.
đó phục sẵn.
Chưa đầy một tháng, tin tức đồn đến Biện Kinh.
Vua Chơn Tôn hỏi quần thần:
- Nay Ngụy phủ có điềm lạ như vậy, các khanh xét thấy thế nào?
Vương Khâm bước tâu :
.
- Nay Ngụy phủ có điềm lạ như vậy, ắt lòng trời muốn cho nước Tống giàu mạnh, Bắc Phiên chẳng
dám lăm le bờ cõi nữa.
Vua Chơn Tôn mừng rỡ, nói:
- Đất Ngụy gần cõi Phiên mà lúc này là lúc chiến tranh, nếu trẫm ngự giá ra đó ai dám đi theo để bảo
giá?
Vương Khâm tâu:
- Bệ hạ nên khiến phò mã Khấu Thừa gìn giữ kinh thành rồi ra đi ắt vô sự.
Bát Vương thấy can không được, buồn bực lui ra.
Vua Chơn Tôn liền hạ chỉ sai Hô Diên Táng làm bảo giá.
Đại tướng quân, Quang Châu Tiết, Vương Toàn Tiết, Trịnh Châu Tiết đều theo hộ giá.
Bọn Hô Diên Táng vâng mạng sắm sửa sẵn sàng, cách vài hôm sau rời Biện Kinh, có Bát Vương và
văn võ bá quan theo hầu.
Đi được mấy ngày đã đến Ngụy Châu, vào lúc tiết trời nắng ráo, xe giá vào ngự phủ đồn trú.
Vua Chơn Tôn bèn dắt quần thần đi xem phong cảnh, quả nhiên thấy cây lá tốt tươi, nước xanh leo
lẻo, vua bèn khiến múc nước ao lên nếm, thì quả có bay mùi rượu, quân sĩ bẻ lá cây mà ngửi thì
chẳng có chi lạ.
Bát Vương tâu:
- Bệ hạ vì điềm lành mà muốn đến đây xem, nay thấy chẳng có gì đáng lưu ý, vậy xin Bệ hạ sớm trở
về cung, kẻo lầm kế giặc.
Vua Chơn Tôn nghe nói, cũng nghi ngờ, bèn hạ chỉ di giá trở về. Chẳng ngờ quân Bắc Phiên thám
thính, thấy chúa tôi nhà Tống đã vào Ngụy phủ, nên báo cho Tiêu Thiên Tả và Thổ Kim Tú dẫn
mười muôn binh mã, vây chặt bốn phía.
Vua Chơn Tôn cả kinh, nói:
- Trẫm chẳng nghe lời các khanh can gián, hôm nay bị vây biết làm sao thoát khỏi.
Bát Vương nói:
- Binh Phiên đã lập kế đưa chúng ta vào lưới, Bệ hạ phải truyền cho các tướng giữ bốn cửa phủ cho
nghiêm ngặt, rồi sai người về Biện kinh cầu cứu.
Vua Chơn Tôn liền khiến Hô Diên Táng cho quân giữ các cửa, trong lúc binh Phiên đông như kiến
cỏ, ai nấy đều khiếp sợ.
.
.

.
Tướng Phiên là Thổ kim Tú, giục ngựa xông ra nói lớn:
.
- Vua tôi nước Tống các ngươi đã trúng kế sa vào lưới rập sao không chịu đầu hàng cho khỏi chết?
Hô Diên Táng nổi giận xông ngựa ra đánh với Kim Tú một hồi. Hô Diên Táng đuối sức quay ngựa
bỏ chạy bị quân Phiên dùng cung tên bắn như mưa, trúng vào con ngựa Hô Diên Táng, làm cho Hô
Diên Táng té nhào xuống đất bị quân Phiên áp đến bắt sống.
Vua Chơn Tôn hay tin thất kinh. Bát Vương tâu:
- Việc đã gấp xin Bệ hạ sai người đến các trấn gần đây cầu viện binh cứu.
Vua Chơn Tôn y lời, sai người ra đi.
Bấy giờ quân Phiên bắt được Hô Diên Táng, bèn bỏ vào xa giải về U Châu nạp cho Tiêu Hậu.
Thấy vua Chơn Tôn buồn bã, Bát Vương tâu:
- Triều đình tin tức không thông, còn ở đây chẳng ai dám ra đánh, nay phải tìm cho được họ Dương
thì mới phá nổi quân Phiên.
Chơn Tôn nói :
- Họ Dương biết đâu mà tìm bây giờ?
Bát Vương tâu:
- Xin Bệ hạ viết một bức thơ, sai người đi tìm khắp thiên hạ may ra gặp được.
Vua Chơn Tôn làm thinh, vào trong trướng nghĩ thầm:
- Lời tâu của Bát Vương thật đáng nghi lắm, tại sao đã giết Dương Diên Chiêu, chặt đầu đem về, lại
còn bảo là đi tìm trong thiên hạ?
Nghĩ rồi, liền đòi quân Thị Thần vào hỏi:
- Các khanh nghe lời tâu của Bát Vương có gì nghi ngờ chăng?
Quan Thị Thần tâu:
- Có khi Bát Vương biết đặng tin tức của Dương Diên Chiêu nên mới tâu như vậy. Xin Bệ hạ hãy
phát thơ sai người ra Nhữ Châu mà hỏi, thì sẽ biết rõ.
Vua Chơn Tôn nghe lời, viết thơ và hỏi các tướng:
- Có ai dám vì trẫm mà thoát vây đến Nhữ Châu chăng?
Vương Toàn Tiết bước ra xin đi. Vua Chơn Tôn sai Lý Ninh yểm trợ ra khỏi thành.
Vương Toàn Tiết may mắn thoát ra được liền nhắm Nhữ Châu đi tới.
Lời Bàn
Trong lúc hoạn nạn mới thấy được quyền uy không phải là lẽ sống.
Vua Chơn Tôn trong lúc không gặp hoạn nạn, nghe lời bọn ninh thần, giết hại các tôi trung, dùng
.
.

.
.
quyền uy để trấn áp mọi người, rồi đến lúc hoạn nạn lại cầu cứu các trung thần để bảo vệ mình. Như
vậy kẻ thiếu sáng suốt chỉ thấy quyền uy trong lúc thái bình mà không thấy nguy hiểm trong lúc hoạn
nạn.
Người có bản lĩnh, có tinh thần sáng suốt, không cậy vào quyền uy trong lúc thái bình, mà nghĩ đến
việc nguy hiểm trong lúc hoạn nạn.
Từ xưa đến nay, những kẻ cầm quyền, nắm quyền lực trong tay, ít ai biết lo xa, lúc thái bình nghĩ đến
lúc nguy khốn, chỉ nhìn vào sự việc trước mắt, đến lúc tình thế diễn biến, không còn quyền nữa thì
mới ăn năn hối hận.
Tội nghiệp cho những kẻ trung quân ái quốc như họ Dương, suốt đời chịu nhẫn nhục để đuổi theo
một ước vọng vì nước vì dân, nên dù khổ cực đến đâu cũng không xa rời mục đích của mình.
.
.
.
Hồi Thứ Năm Mươi Tám
Bát Vương lãnh sứ cứu Dương Diên Chiêu,
   Mạnh Lương tình cờ theo Tiêu Táng.
Vương Toàn Tiết ra khỏi vòng vây, suốt đêm chạy đến Nhữ Châu ra mắt quan Thái thú, nói:
- Chúa thượng bị vây khốn tại Ngụy Phủ, không ai dám ra đánh quân Phiên, nay có chiếu sai tôi đến
đây, tìm Dương Diên chiêu trở về cứu giá. Xin quan Thái thú tìm giùm cho được.
Quan Thái thú là Trương Tế nói:
- Dương Diên Chiêu phạm tội, đã bị chặt đầu đem nạp về triều nay còn khiến tôi đi tìm sao được.
Xin tướng quân hãy về tâu lại.
Vương Toàn Tiết than:
- Nếu không tìm được thì chúa thượng không thoát khỏi nạn này.
Trương Tế nói:
- Thật là trái lễ! Lúc bình thường triều đình sai đi chặt đầu người nọ, chém đầu người kia, dù đó là kẽ
trung thần, rồi đến lúc tai nạn lại bảo đi tìm người đã chết.
Vương Toàn Tiết nghe nói không biết làm sao, phải trở về Dương phủ, ra mắt Dương Lệnh bà để bày
tỏ việc ấy.
Dương Lệnh bà nổi giận mắng:
.
.

.
- Cái đầu con ta đã chôn lâu rồi, các ngươi hãy đào lên mà tìm nó.
Vương Toàn Tiết buồn bực phải trở ra Ngụy Châu tâu lại với vua Chơn Tôn .
Vua Chơn Tôn nghe tâu, thở dài than:
- Nước Tống là một nước uy hùng, gặp cơn hoạn nạn chẳng ai dám ra cứu viện.
Quần thần tâu:
.
- Nay chúa thượng đã mắc vào vòng vây của địch, dẫu có Tử Nha sống lại, cũng không tìm ra kế.
Vua Chơn Tôn bỏ ăn bỏ ngủ. Bát Vương thấy vậy tâu:
- Việc đã quá gấp, tôi phải đích thân về Dương phủ mà hỏi thăm tin tức của Dương Diên Chiêu, nếu
không được thì tôi phải đích thân đi khắp nơi để tìm cho được. Vậy Bệ hạ sai chư tướng giữ thành
cho nghiêm ngặt.
Vua Chơn Tôn nói:
- Như khanh có đi thì phải cẩn thận.
Bát Vương lãnh mệnh, sai Vương Toàn Tiết và Lý Minh bảo hộ ra khỏi vòng vây đi thẳng tới Dương
phủ, ra mắt Dương Lệnh bà, nói:
- Nay chúa thượng đang lúc lâm nguy, xin thỉnh Dương Diên Chiêu ra đây cho tôi thương nghị.
Dương Lệnh bà nói:
- Nay Bát Vương đến đây, tôi không còn giấu giếm nữa.
Nói rồi sai người xuống một cái hầm kêu Dương Diên Chiêu lên.
Dương Diên Chiêu vào ra mắt Bát Vương và nói:
- Nếu ngày trước không nhờ điện hạ lập kế giải cứu thì nay Dương Diên Chiêu này đâu còn sống mà
tìm. Tôi mang ơn điện hạ không biết lấy chi báo đáp.
Bát Vương nói:
- Nay chúa thượng bị vây nơi Ngụy phủ, nên phải tìm đến tướng quân để cầu cứu.
Dương Diên Chiêu nói:
- Muốn phá vòng vây quân Phiên phải có quân sĩ. Tôi nghe nói Tam Quân bây giờ binh tướng đều
tan rã, vậy để tôi đến đó chiêu mộ binh tướng rồi mới hành động được.
Bát Vương nói:
- Nếu vậy chẳng nên chậm trễ. Ta sẽ về triều viết thơ tin cho các trấn thu thập binh mã sẵn sàng, rồi
hiệp với các tướng quân kéo đến giải vây một lượt.
Dương Diên Chiêu vâng mạng, vào bái biệt Dương Lệnh bà, thẳng đến Tam Quan trại, trở qua Đăng
Châu tìm Tiêu Táng hỏi thăm tin tức.
Khi vừa đến Cẩm Giang, Dương Diên Chiêu thấy tốp thầy chùa vừa đi vừa cằn nhằn, Dương Diên
Chiêu hỏi:
- Các ngươi đi đâu mà coi bộ bất bình như vậy?
.
.

.
Mấy vị thầy chùa nói:
.
- Nơi đây có một thằng điên bắt thầy chùa chúng tôi đêm ngày đến tụng kinh chẳng ai dám nghịch
mạng.
Dương Diên Chiêu nghĩ thầm:
- Đây chắc là Tiêu Táng chẳng sai, liền hỏi:
- Người ấy bây giờ ở đâu?
Thầy chùa nói:
- Ở phía Tây thành Đăng Châu, nơi một cái miếu mới vừa lập lên đó.
Dương Diên Chiêu nói:
- Vậy thì ta đi với các ngươi.
Mấy ông thầy chùa dắt Dương Diên Chiêu đến nơi, thấy Tiêu Táng đang nằm trên bàn thần ngủ ngáy
pho pho.
Dương Diên Chiêu bước lại gần, đập mạnh vào lưng Tiêu Táng.
Tiêu Táng giật mình thức giấc, trợn mắt hét:
- Đứa nào dám cả gan đến phá giấc ngủ của ta vậy?
Dương Diên Chiêu nạt:
- Tiêu Táng chớ vô lễ ? Hãy nhìn ta xem ai.
Tiêu Táng thấy Dương Diên Chiêu vội nhảy xuống ôm chầm lấy, hỏi:
- Quan chủ! Ngươi là người hay ma quỉ, đã bị chặt đầu sao còn hiện hình nhát ta?
Dương Diên Chiêu cười nói:
- Đang giữa ban ngày mà ma quỉ đâu dám đến. Thôi, hãy theo ta ra ngoài ta kể chuyện cho mà nghe.
Mấy ông thầy chùa trông thấy rồi bụm miệng cười dắt nhau đi mất.
Lục sứ dẫn Tiêu Táng ra khỏi miếu, thuật lại mọi việc cho Tiêu Táng nghe. Tiêu Táng mừng rỡ nói:
- Tôi tưởng thượng quan đã bị triều đình chặt đầu nên lập miếu mà thờ, không dè sự việc như vậy.
Dương Diên Chiêu nói:
- Nay việc binh rất gấp, hai ta phải ra Tam Quan cho sớm, chiêu tập binh sĩ giải vây cho chúa
thượng.
Hai người vừa đi vừa nói chuyện thì đã đến bến đò Dương Gia, bỗng thấy một lũ côn đồ chạy tới.
Tiêu Táng nói:
- Để tôi giết hết lũ này trừ mối họa cho địa phương.
Dương Diên Chiêu nói:
- Không nên? Chúng ta đang cần chiêu binh dụ lính, phải thu bọn chúng để dùng vào việc binh.
Người cầm đầu bọn lâu la này là Dương Thái Bảo, cùng họ với Dương Diên Chiêu, nên khi biết
Dương Diên Chiêu thì quì gối phục tùng, mời Dương Diên Chiêu và Tiêu Táng về mở tiệc đãi đằng.
.
.

.
.
Lúc ấy nhằm tiết tháng tư, trời đang nóng nực, hai người đi trót nửa ngày, ngưng ngồi dưới gốc cây
mà nghỉ mát. Tiêu Táng thưa:
- Thượng quan hãy ngồi đây để tôi đi trên quán rượu giải khát.
Nói rồi ra đi, bỗng thấy một đám người khiêng rượu thịt đi ngang qua đó. Tiêu Táng hỏi:
- Các ngươi gánh rượu thịt đi đâu vậy?
Bọn người ấy nói:
- Phía trước có cái miếu Dương Diên Chiêu, oai linh hiển hách, trong làng chúng tôi thường đến
khấn vái, nên nay đem lễ vật đến cúng tế.
Tiêu Táng cười lớn:
- Té ra ngươi đem rượu thịt đến tế Dương Diên Chiêu, vậy thì hãy theo ta đến gốc cây kia mà tế.
Tiêu Táng dẫn bọn người gánh rượu thịt đến nơi, rồi cười nói với Dương Diên Chiêu:
- Người gánh rượu thịt đến tế thượng quan đây.
Dân làng thấy việc lạ, cúi đầu lạy và thưa:
- Bọn tôi ngỡ quan đã chết nên lập miếu mà thờ. Chẳng ngờ quan còn sống, vậy chúng tôi dâng vật
cho thỏa lòng thành kính.
Tiêu Táng và Dương Diên Chiêu ăn uống xong thì đến Tam Quan ải.
Nhạc Thắng và Mạnh Lương lúc này đang chiếm cứ Thái Hành Sơn, nghe tin vội ra đón tiếp.
Dương Diên Chiêu nói:
- Các ngươi phải sửa soạn binh mã sẵn sàng để theo ta đi về giải vây cho chúa thượng. Nay ta còn
phải đi các nơi khác.
Nói rồi Dương Diên Chiêu và Tiêu Táng dắt nhau ra đi.
Đi được nửa ngày, mặt trời đã chen núi, Dương Diên Chiêu bảo Tiêu Táng:
- Chỗ này là rừng núi, không có quán trọ, hãy nên kiếm nhà mà nghỉ đỡ.
Tiêu Táng lãnh mạng đi một lúc, chẳng thấy nhà cửa ai hết, bỗng thấy nơi gốc núi, có một ngôi nhà
có một ông viên ngoại đang chong đèn ngồi một mình .
Tiêu Táng bước vào hỏi:
- Tôi là người khách buôn, lỡ đường trời tối, xin ông cho tá túc một đêm.
Ông lão đáp:
- Ở đây khó khăn lắm, xin quý khách tìm nơi khác.
Tiêu Táng nói:
- Trời đã khuya, xin ông làm ơn cho chúng tôi tạm một đêm.
Ông lão hỏi:
- Có cùng đi với ai nữa không?
Tiêu Táng nói:
.
.

.
- Chỉ có một người nữa mà thôi.
Ông lão nói:
- Nếu chỉ có hai người thì chẳng hề chi. Vậy xin mời vào phòng nghỉ tạm.
.
Tiêu Táng bèn trở ra kêu Diên Chiêu vào ra mắt. Ông lão thấy Dương Diên Chiêu tướng mạo khác
thường, liền hỏi:
- Ông ở đâu mà đến đây?
Dương Diên Chiêu đáp:
- Tôi là người ở Biện Kinh, muốn đến Thái Hành Sơn có việc.
Ông già nghe nói nhăn mặt nói:
- Tôi nghe tới Thái Hành Sơn mà thêm sầu não.
Dương Diên Chiêu hỏi:
- Có việc chi xin cho tôi biết.
Ông già nói:
- Tôi ở đây xưa nay chỉ có việc ưa danh chuyện nghĩa, cả xóm này đều là họ Trần, vừa rồi có một vị
thảo khấu trên Thái Hành Sơn tên là Nhạc Thắng, một người nữa tên là Mạnh Lương, đem bộ hạ
cướp phá xóm làng nhiễu hại lương dân. Tôi đã nửa đời người, chỉ sanh được có một chút gái, bị
Mạnh Lương xem thấy ép tôi phải gả con. Đêm nay Mạnh Lương đến làm rể, cực chẳng đã tôi phải
vâng lời, nhưng đau đớn biết chừng nào.
Dương Diên Chiêu cười nói:
- Ông chớ lo, Mạnh Lương là bạn cũ của tôi, để tôi cảm nó cho.
Ông già nói:
- Nếu con tôi mà khỏi nhục thì ơn ông rất lớn.
Tiêu Táng nói:
- Nếu Mạnh Lương muốn làm rể ông, thì tôi xin tình nguyện làm con gái ông để đón chàng rể quí.
Nói rồi mượn quần áo con gái mặc vào, rồi ra ngồi giữa bàn đón rể.
Chẳng bao lâu, bên ngoài dẫn bọn tùy tùng đến vừa bước vào nhà đã thấy Tiêu Táng mặc đồ con gái
bước ra thưa:
- Thiếp nghe tin trễ nên vội ra đón tiếp Mạnh Phu Quân xin tha tội.
Mạnh Lương trông thấy Tiêu Táng thì sửng sốt.
Kế đó Dương Diên Chiêu bước ra thì Tiêu Táng đã chạy đến ôm chặt Mạnh Lương vào lòng, lôi vào
phòng trong, rồi nói với Dương Diên Chiêu:
- Để tôi dẫn nó động phòng hoa chúc.
Mạnh Lương trông thấy Dương Diên Chiêu, liền xô Tiêu Táng ra, quỳ lạy Dương Diên Chiêu, nói:
- Thượng quan đến đây lúc nào, xin ngài tha tội.
.
.

.
Dương Diên Chiêu nói:
- Hãy mau trở về trại để cùng ta thương nghị.
Lời Bàn
.
Lời xưa nói: "Thiện ác đáo đầu chung hữu báo " (lành dữ cuối cùng đều có trả)
Từ xưa đến nay, triều đình là chỗ cai trị dân, lúc nào cũng có kẻ nịnh, người trung.
Kẻ nịnh chỉ thành công nhất thời, còn trung tuy gian nan cực khổ, nhưng cuối cùng vẫn được đền
đáp công lao.
Sở dĩ có nịnh trung là do tham vọng hưởng thụ, mà kẻ tham vọng hưởng thụ thì không thể trường
tồn, chỉ có đạo nghĩa làm người mới vĩnh cửu mà thôi.
Truyện Tàu lưu lại những tấm gương sáng cho những ai có trách nhiệm trị nước an dân, nhìn lại
gương xưa mà học tập tránh những điều gian tà, chạy theo dục vọng cá nhân, làm trái đạo nghĩa
làm người.
.
.
.
Hồi Kết
 Hô Diên Táng gặp nạn được cứu,
Dương Diên Chiêu đánh phá Phiên dinh.
Bấy giờ Dương diên Chiêu bảo Mạnh Lương trở về trại, góp nhóm quân sĩ để kéo đến giải vây.
Còn viên ngoại họ Trần ra nhà sau bảo con gái. đến ra mắt Dương Diên Chiêu tạ ơn
Tiêu Táng cởi áo trả lại cho nàng dâu, và thấy nàng ấy tướng mạo đoan trang, hình dung yểu điệu,
sắc đẹp phi thường, liền cười nói:
- Thật rủi cho Mạnh huynh quá? Nếu thầy trò tôi tới chậm một chút thì Mạnh huynh đã hưởng được
phước rồi.
Mạnh Lương mắc cỡ nạt lớn:
- Thằng quỉ! Mày dám đùa cợt với ta như vậy sao?
Nàng Bá Hoa là con gái của viên ngoại, lạy tạ ơn xong, trở vào phòng, còn Trần viên ngoại làm tiệc
.
.

.
đãi mọi người ăn uống rất vui vẻ.
Hôm sau, mọi người đều lên đường thẳng đến Thái Hành Sơn.
Nhạc Thắng hay tin liền dẫn binh kỵ ra nghênh tiếp.
Trà nước xong, Nhạc Thắng thưa:
.
- Bọn tôi nghe thượng quan mắc tội, nên phân nhau trở về nơi cũ làm ăn, nay đã được gặp nhau, thật
là may mắn.
Dương Diên Chiêu nói:
- Nay chúa thượng bị vây ở Ngụy Châu, chúng ta phải kiểm điểm binh mã đi cứu giá.
Nhạc Thắng nói:
- Triều đình dùng lũ nịnh thần, mưu hãm hại chúng ta, nay may trời đất phù hộ, chúng ta còn sống và
được gặp nhau vậy thì cứ ở lại đây làm ăn theo nghề cũ chẳng vui hơn sao, lại xen vào việc triều đình
chi cho mệt.
Dương Diên Chiêu nói:
- Biết vậy, nhưng nếu chúng ta ở đây chiếm cứ một phương, mang danh ăn cướp, để tiếng nhơ muôn
đời, thì lại tốt gì?
Nhạc Thắng ngẫm nghĩ rồi không nói nữa.
Hôm sau, ai nấy đều thu xếp binh mã, cùng nhau ra đi.
Chẳng mấy bữa, Sài Cảm, Trần Lâm cũng dẫn binh đến.
Những thủ hạ như: Nhạc Thắng, Mạnh Lương, Tiêu Táng, Trần Lâm, Sài Cảm, Lưu Siêu, Trương
Cái. đều là những viên dũng tướng, còn binh ròng cộng lại hơn tám muôn.
Dương Diên Chiêu nói:
- Như vậy là đủ phá giặc rồi.
Liền sai người về Biện Kinh báo cho Bát Vương hay, hẹn ngày tấn binh.
Khi kéo đến Đăng Châu, thì Bát Vương cũng dẫn bốn muôn binh tới đó, xem thấy Dương Diên
Chiêu hùng mạnh thì rất vui mừng.
Dương Diên Chiêu nói với Bát Vương:
- Chuyến này không những cứu giá mà còn bình định U Châu cho xong.
Bát Vương khen phải, dồn binh nghỉ lại một đêm.
Hôm sau, Dương Diên Chiêu nghe Nhạc Thắng đến, nói:
- Chúa thượng bị vây đã lâu, ngươi làm tiên phong, để đánh một trận cho Phiên binh vỡ mật.
Nhạc Thắng lãnh mạng dẫn binh đi.
Dương Diên Chiêu lại kêu Mạnh Lương và Tiêu Táng nói:
Hai người phải dẫn các bộ tướng quân làm hai đạo đánh vào trung quân. Còn ta sẽ dẫn đạo binh tiếp
cứu.
.
.

.
Dương Diên Chiêu phân binh xong cùng Bát Vương kéo binh ra.
.
Lúc này Nhạc Thắng dẫn binh đi trước, thấy xa xa cát bụi bay mù trời, Nhạc Thắng liền vung đao
lướt tới thấy một tướng Phiên đang giải một tù xa đi rất nhanh.
Nhạc Thắng xem lại thì người trong tù xa là Hô Diên Táng, liền vội vã đánh đuổi quân Phiên, rồi mở
tù xa thả Hô Diên Táng ra.
Hô Diên Táng mừng rỡ vội đến ra mắt Bát Vương và Dương Diên Chiêu tạ ơn.
Dương Diên Chiêu mừng rỡ rồi cùng nhau lo việc tấn binh.
Bấy giờ tướng Phiên là Lưu Hà chạy về báo với Tiêu Thiên Tả:
- Nay binh Tống đến cứu đã đoạt mất Hô Diên Táng rồi.
Tiêu Thiên Tả thất kinh, liền sai quân thám thính, người ấy trở về báo:
- Đây là binh của Dương Diên Chiêu, quân tướng rất đông hùng mạnh vô cùng.
Tiêu Thiên Tả truyền lệnh cho các dinh chuẩn bị nghinh địch.
Vừa ra lệnh xong, thì đã thấy binh Nhạc Thắng rần rần kéo tới Binh Phiên là Gia Luật Khánh kéo ra
chống cự.
Hai bên đánh nhau vài chục hiệp thì có Mạnh Lương và Tiêu Táng áp tới phá vòng vây.
Tướng Phiên là Ma Lý Lạc Hổ cũng dẫn binh ra trợ chiến, vừa gặp Mạnh Lương, Trần Lâm và Sài
Cảm cũng dẫn binh hai phía đánh ép lại.
Hai bên đấu chiến, chiêng trống vang trời.
Tiêu Táng nổi giận xông vào chém tướng Phiên là Lưu Hà đầu rơi xuống ngựa.
Thế trận binh Phiên nao núng. Nhạc Thắng xua quân tới chém Ma Lý Lạc Hổ, còn Mạnh Lương thừa
thế xô quân đánh riết vào Đông Môn.
Trong thành trông thấy binh Phiên bên ngoài rối loạn tiền sai Vương Toàn Tiết và Lý Minh dẫn quân
ra tiếp ứng, giết binh Phiên thây nằm chật đất. Thổ Kim Tú và Tiêu Thiên Tả thâu góp tàn quân chạy
về U Châu.
Lúc này Bát Vương vào thành, ra mắt vua Chơn Tôn tâu:
- Nhờ phước lớn của bệ hạ, nên tôi mới tìm được Dương Diên Chiêu đem binh đến cứu giá, giải vây
được thế trận.
Vua Chơn Tôn nói:
- Trẫm thoát khỏi tai nạn này cũng nhờ công danh của khanh đó.
Bèn khiến triệu Dương Diên Chiêu đến.
Dương Diên Chiêu vào quì ra mắt. Vua Chơn Tôn nói:
Trước kia khanh có tội, nay có công cứu giá rất lớn, trẫm quyết chẳng phụ tình.
Dương Diên Chiêu tâu:
- Gặp cơ hội này, nay xa giá bệ hạ còn đây, tôi xin dẫn hết bổn bộ, kéo qua U Châu đoạt hết đất đai
.
.

.
của Tiêu Hậu, dâng cho bệ hạ.
Vua Chơn Tôn nói:
- Lời khanh luận rất hay ngặt vì xa giá đã lâu, phải về trào nghỉ ngơi
.
Dương Diên Chiêu lui ra, khiến Đại Châu Tiết, Dương Quang Mỹ ở lại trấn thủ Ngụy Châu, còn bao
nhiêu kéo về Biện Kinh.
Khi đến nơi, vua lâm trào, bá quan chầu đủ mặt, riêng Bát Vương và Dương Diên Chiêu được vua
Chơn Tôn vỗ về rất hậu.
Vua Chơn Tôn nói với Dương Diên Chiêu:
- Tam Quan là đất rất quan trọng, cửa ngõ của nước Tống, vậy khanh hết lòng trấn giữ nơi đó, làm
cho dân bắc Phiên không dám dòm ngó nước Tống, ấy là hàng rào của xã tắc.
Dương Diên Chiêu tâu:
- Tôi cũng muốn hết lòng vì nước, chỉ sợ bệ hạ nghe lời dèm pha của nịnh thần, làm cho các bậc
trung nghĩa nản chí mà thôi.
Vua Chơn Tôn liền phong cho Dương Diên Chiêu làm quan Tiết Độ sứ, trấn Tam Quan ải.
Tiếp đó, truyền dọn yến tiệc đãi đằng, ai nấy ăn uống vui chơi.
Hôm sau, Dương Diên Chiêu trở về VÔ Nịnh phủ, từ biệt Dương Lệnh bà mà đi trấn nhậm.
Dương lệnh bà quyến luyến không nở rời con, nhưng lệnh vua không thể trái lời.
Chẳng mấy ngày, Dương Diên Chiêu đã đến Tam Quan ải, truyền các tướng xây dinh lập trại, rồi
cùng bọn Nhạc Thắng, Tiêu Táng, Mạnh Lương đồng ở đó trấn ải.
Từ ấy, đất Tam Quan hưng vượng, muôn dân lạc nghiệp, binh tướng bắc Phiên không dám dám ngó
nữa.
HẾT
.
.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét