Chủ Nhật, 18 tháng 1, 2015

TÂY DU KÝ - Lời nói đầu - Hồi 1-25


TÂY DU KÝ
Tác giả: Ngô Thừa Ân
Dịch giả: Như Sơn, Mai Xuân Hải và Phương Oanh
Nhà xuất bản Văn học hà Nội - 1988
Dịch từ nguyên bản tiếng Trung Quốc - Nhân dân văn học xuất bản xã - 1972

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU
LỜI GIỚI THIỆU
HỒI THỨ NHẤT
Gốc thiêng ấp ủ, nguồn rộng chảy
Tâm tính sửa sang, đạo lớn sinh
HỒI THỨ HAI
Thấu lẽ bồ đề là diệu lý
Bỏ ma về gốc ấy nguyên thần
HỒI THỨ BA
Bốn biển nghìn non đều sợ phục
Mười loại âm ti thảy xóa tên
HỒI THỨ TƯ
Quan phong Bật mã lòng đâu thỏa
Tên gọi Tề Thiên dạ chẳng yên
HỒI THỨ NĂM
Loạn vườn đào Đại thánh trộm thuốc tiên
Về thiên cung, các thần bắt yêu quái
HỒI THỨ SÁU
Quan âm dự hội hỏi nguyên nhân
Tiểu thánh trổ tài bắt Đại thánh
HỒI THỨ BẢY
Đại thánh trốn khỏi lò bát quái
Hầu vương giam dưới núi Ngũ Hành
HỒI THỨ TÁM
Phật tổ tạo kinh truyền cực lạc
Quan Âm vâng mệnh đến Tràng An
HỒI THỨ CHÍN
Trần Quang Nhị nhậm chức gặp nạn
Sư Giang Lưu phục thù báo ơn
HỒI THỨ MƯỜI
Lão Long vương vụng kế phạm phép trời
Ngụy thừa tướng gởi thư nhờ âm sứ
HỒI THỨ MƯỜI MỘT
Chơi âm phủ Thái Tông về trần
Dâng quả bí Lưu Toàn gặp vợ
HỒI THỨ MƯỜI HAI
Vua Đường lòng thành mở đại hội
Quan Âm hiển thánh hóa Kim Thiền
HỒI THỨ MƯỜI BA
Sa hang cọp Kim Tinh cứu thoát
Núi Song Soa Bá Khâm mời sư
HỒI THỨ MƯỜI BỐN
Lòng vươn theo đường chính
Sáu giặc mất tăm hơi
HỒI THỨ MƯỜI LĂM
Núi Xà Bàn các thần ngầm giúp sức
Khe Ưng Sầu long mã thắng yên cương
HỒI THỨ MƯỜI SÁU
Viện Quan Âm, các sư lừa bảo bối
Núi Hắc Phong, yêu quái trộm cà sa
HỒI THỨ MƯỜI BẢY
Tôn Hành Giả đại náo núi Hắc Phong
Quan Thế Âm thu phục yêu tinh gấu

HỒI THỨ MƯỜI TÁM

Chùa Quan Âm, Đường Tăng thoát nạn

Thôn Cao Lão, Đại thánh trừ ma

HỒI THỨ MƯỜI CHÍN

Động Vân Sạn, Ngộ Không thu Bát Giới, Núi Phù Đồ, Tam Tạng nhận Tâm Kinh
HỒI THỨ HAI MƯƠI

Núi Hoàng Phong, Đường Tăng gặp nạn, Giữa rừng thâm, Bát Giới lập công
HỒI THỨ HAI MƯƠI MỐT

Hộ Pháp dựng nhà lưu Đại Thánh

Tu Di Linh Cát bắt yêu ma

HỒI THỨ HAI MƯƠI HAI

Bát Giới đại chiến sông Lưu Sa, Mộc Soa vâng lệnh bắt Ngộ Tĩnh
HỒI THỨ HAI MƯƠI BA Tam Tạng không quên gốc, Bốn thánh thử lòng thiền
HỒI THỨ HAI MƯƠI BỐN

Núi Vạn Thọ Đại Tiên lưu bạn cũ
Quán Ngũ Trang, Hành Giả trộm nhân sâm

HỒI THỨ HAI MƯƠI LĂM

Trấn Nguyên tiên đuổi bắt người lấy kinh

Tôn Hành Giả đại náo Ngũ Trang quán

HỒI THỨ HAI MƯƠI SÁU

Khắp ba đảo, Ngộ Không tìm thuốc, Nước cam lồ, Bồ Tát chữa cây
HỒI THỨ HAI MƯƠI BẢY

Thây ma ba lượt trêu Tam Tạng

Đường Tăng giận đuổi Mỹ Hầu vương

HỒI THỨ HAI MƯƠI TÁM

Núi Hoa Quả, lũ yêu tụ nghĩa

Rừng Hắc Tùng, Tam Tạng gặp ma

HỒI THỨ HAI MƯƠI CHÍN

Thoát nạn Giang Lưu sang nước khác, Đội ơn Bát Giới chuyển non ngàn
HỒI THỨ BA MƯƠI

Tà ma phạm chính đạo, Tiểu Long nhớ Ngộ Không
HỒI THỨ BA MƯƠI MỐT

Trư Bát Giới lấy nghĩa khích Hầu vương, Tôn Ngộ Không dùng mưu hàng yêu quái
HỒI THỨ BA MƯƠI HAI

Núi Bình Đính Công Tào truyền tin, Động Liên Hoa Bát Giới gặp tai
HỒI THỨ BA MƯƠI BA Ngoại đạo mê chân tinh Nguyên thần giúp bản tâm
HỒI THỨ BA MƯƠI TƯ

Ma vương giỏi mẹo khốn Hầu vương

Đại Thánh khéo lừa thay bảo bối

HỒI THỨ BA MƯƠI NHĂM Ngoại đạo ra oai lừa tính thắng. Ngộ Không được báu thắng yêu ma
HỒI THỨ BA MƯƠI SÁU

Ngộ Không xử đúng muôn duyên phục, Đạo tà phá bỏ thấy trăng soi
HỒI THỨ BA MƯƠI BẢY

Đêm khuya vua quỷ cầu Tam Tạng

Hóa phép Ngộ Không dắt trẻ thơ

HỒI THỨ BA MƯƠI TÁM Trẻ thơ hỏi mẹ hay tà chính Kim, mộc thăm dò rõ thực hư
HỒI THỨ BA MƯƠI CHÍN

Một hạt linh đơn xin thượng giới

Ba năm vua cũ lại hồi sinh

HỒI THỨ BỐN MƯƠI

Trẻ thơ bỡn cợt lòng thiền rối

Vượn cắp đao về, mộc mẫu trơ

HỒI THỨ BỐN MƯƠI MỐT
Hành Giả gặp lửa thua, Bát Giới bị ma bắt
HỒI THỨ BỐN MƯƠI HAI Đại Thánh ân cần cầu Bồ Tát Quan Âm từ thiện trói Hồng Hài
HỒI THỨ BỐN MƯƠI BA

Ma sông Hắc Thủy bắt Tam Tạng

Rồng biển, Tây Dương tóm Đà Long

HỒI THỨ BỐN MƯƠI TƯ

Thần thông vận phép đun xe nặng

Tâm chính trừ yêu vượt cổng cao

HỒI THỨ BỐN MƯƠI LĂM

Quán Tam Thanh, Đại Thánh lưu danh

Nước Xa Trì, Hầu Vương hóa phép

HỒI THỨ BỐN MƯƠI SÁU

Ngoại đạo cậy tài lừa chính pháp

Ngộ Không hiền thánh diệt yêu ma

HỒI THỨ BỐN MƯƠI BẢY

Thánh tăng đêm vướng sông Thông Thiên

Hành Giả thương tình cứu con trẻ

HỒI THỨ BỐN MƯƠI TÁM

Ma nổi gió hàn sa tuyết lớn,

Sư mong bái Phật giẫm băng dầy

HỒI THỨ BỐN MƯƠI CHÍN

Tam Tạng gặp nạn chìm đáy sông,
Quan Âm trừ tai hiện làn cá

HỒI THỨ NĂM MƯƠI

Tình loạn, tình theo vi ái dục, Thần mờ, tâm động gặp yêu ma
HỒI THỨ NĂM MƯƠI MỐT

Nghìn mưu Đại Thánh thành vô dụng, Nước lửa không công khó diệt ma
HỒI THỨ NĂM MƯƠI HAI

Ngộ Không đại náo động Kim Đâu

Như Lai ngầm mách cho ông chủ

HỒI THỨ NĂM MƯƠI BA

Uống nước sông, Tam Tạng mang nghén quỷ

Đi lấy nước, Sa Tăng giải thai ma

HỒI THỨ NĂM MƯƠI TƯ

Tam Tạng sang Tây qua nước gái

Ngộ Không lập mẹo thoát trăng hoa

HỒI THỨ NĂM MƯƠI LĂM

Dâm tà bỡn cợt Đường Tam Tạng, Đứng đắn tu trì chẳng hoại thân
HỒI THỨ NĂM MƯƠI SÁU

Điên lòng trừ giặc cỏ

Mê đạo đuổi Ngộ Không

HỒI THỨ NĂM MƯƠI BẢY

Núi Lạc Già, Hành Giả thật kể khổ

Động Thủy Liêm, Hầu Vương giả đọc văn
HỒI THỨ NĂM MƯƠI TÁM

Nhị tâm làm loạn càn khôn rộng

Một thể khó tu tịch diệt chân

HỒI THỨ NĂM MƯƠI CHÍN

Tam Tạng gặp Hỏa Diệm Sơn nghẽn lối

Hành Giả lần đầu mượn quạt ba tiêu

HỒI THỨ SÁU MƯƠI

Ma vương ngừng đánh đi dự tiệc rượu

Hành Giả lần hai mượn quạt ba tiêu

HỒI THỨ SÁU MƯƠI MỐT

Bát giới giúp sức đánh bại yêu quái

Hành giả lần ba mượn quạt ba tiêu

HỒI THỨ SÁU MƯƠI HAI

Tắm bụi rửa thân lên quét tháp

Bắt ma về chủ ấy tu thân

HỒI THỨ SÁU MƯƠI BA

Hai sư diệt quái náo long cung

Các thánh trừ tà thu bảo bối

HỒI THỨ SÁU MƯƠI TƯ

Núi Kinh Cức Ngộ Năng gắng sức

Am Mộc Tiên Tam Tạng làm thơ

HỒI THỨ SÁU MƯƠI LĂM Yêu ma bày đặt Lôi Âm giả Thầy trò đều gặp ách nạn to
HỒI THỨ SÁU MƯƠI SÁU
Các thần gặp độc thủ

Di Lặc trói yêu ma

HỒI THỨ SÁU MƯƠI BẢY

Cứu  xóm Đà La thiền tính vững

Thoát đường ô uế đạo tâm trong

HỒI THỨ SÁU MƯƠI TÁM

Nước Chu Tử, Đường Tăng bàn đời trước

Chữa quốc vương, Hành Giả đóng thầy lang

HỒI THỨ SÁU MƯƠI CHÍN Hành Giả nửa đêm điều thuốc tễ Quân vương trên tiệc kể yêu ma
HỒI THỨ BẢY MƯƠI

Yêu ma rung vòng tung khói lửa

Hành Giả trộm nhạc tính mẹo lừa

HỒI THỨ BẢY MƯƠI MỐT

Hành Giả giả danh hàng quái sấu

Quan Âm hiện tướng phục ma vương

HỒI THỨ BẢY MƯƠI HAI

Động Bàn ty bảy tinh mê gốc

Suối Trạc Cấu Bát Giới quên hình

HỒI THỨ BẢY MƯƠI BA

Hận cũ bởi tình, gây nên đầu độc mới

Đường Tăng gặp nạn, Tỳ Lam phá hào quang

HỒI THỨ BẢY MƯƠI TƯ

Trường Canh truyền báo ma hung dữ
Hành Giả ra tay trổ phép tài

HỒI THỨ BẢY MƯƠI LĂM

Hành Giả khoan thủng bình âm dương

Ma chúa theo về chân đại đạo

HỒI THỨ BẢY MƯƠI SÁU

Hành Giả tha về, ma theo tính cũ

Ngộ Năng cũng đánh, quái vẫn tâm xưa

HỒI THỨ BẢY MƯƠI BẢY

Yêu ma lưa ban tinh

Nhât thê bai chân như

HỒI THỨ BẢY MƯƠI TÁM

Nước Tỳ Kheo thương trẻ, khiến âm thần

Điện Kim Loan biết ma, bàn đạo đức

HỒI THỨ BẢY MƯƠI CHÍN

Tìm hang bắt quái gặp Thọ Tinh

Giữa điện dạy vua mừng nhận trẻ

HỒI THỨ TÁM MƯƠI

Gái đẹp thèm lấy chồng, mong được sánh đôi

Ngộ Không bảo vệ thầy, biết ngay yêu quái

HỒI THỨ TÁM MƯƠI MỐT

Chùa Trấn Hải, Ngộ Không biết quái

Rừng Hắc Tùng, đồ đệ tìm thầy

HỒI THỨ TÁM MƯƠI HAI Gái đẹp tìm cách lấy chồng Sư phụ bền lòng giữ đạo
HỒI THỨ TÁM MƯƠI BA Ngộ Không biết rõ đầu đuôi Gái đẹp lại về bản tính
HỒI THỨ TÁM MƯƠI TƯ

Khó diệt nhà sư tròn giác ngộ

Phép vương thành đạo thể theo trời

HỒI THỨ TÁM MƯƠI LĂM

Hành Giả đố kỵ lừa Bát Giới

Ma vương bày mẹo bắt Đường Tăng

HỒI THỨ TÁM MƯƠI SÁU Bát Giới giúp oai trừ quái vật Ngộ Không trổ phép diệt yêu tà
HỒI THỨ TÁM MƯƠI BẢY

Quận Phượng Tiên khinh trời bị hạn

Tôn Đại Thánh khuyến thiện làm mưa

HỒI THỨ TÁM MƯƠI TÁM Thiền đến Ngọc Hoa thi võ nghệ Ba trò xin phép nhận môn đồ
HỒI THỨ TÁM MƯƠI CHÍN

Quái Hoàng Sư hỏng mất hội Đinh ba

Ba đồ đệ đại náo núi Đầu Báo

HỒI THỨ CHÍN MƯƠI

Quái Sư Tử bắt thầy trò Tam Tạng

Tiêu Thiện Tôn thu yêu quái chín đầu

HỒI THỨ CHÍN MƯƠI MỐT
Phủ Kim Bình đêm nguyên tiêu xem xét

Động Huyền Anh Đường Tam Tạng khai cung

HỒI THỨ CHÍN MƯƠI HAI

Ba sư đại chiến núi Thanh Long

Bốn sao vây bắt quái tê giác

HỒI THỨ CHÍN MƯƠI BA

Vườn Cấp Cô hỏi cổ bàn nguồn

Nước Thiên Trúc chầu vua được vợ

HỒI THỨ CHÍN MƯƠI TƯ Bốn sư dự tiệc vườn ngự uyển Một quái mơ mộng tình ái vui
HỒI THỨ CHÍN MƯƠI LĂM Giả hợp chân hình bắt thỏ ngọc Chân âm về chính gặp nguồn thiêng
HỒI THỨ CHÍN MƯƠI SÁU

Khấu viên ngoại mừng đãi cao tăng

Đường trưởng lão không màng phú quý

HỒI THỨ CHÍN MƯƠI BẢY Vàng mang trả gây thành tai họa Thánh hiện hồn cứu thoát cao tăng
HỒI THỨ CHÍN MƯƠI TÁM

Vượn ngựa thục thuần nay thoát xác

Công quả viên mãn gặp Như Lai

HỒI THỨ CHÍN MƯƠI CHÍN

Tám mươi mốt nạn yêu ma hết
Vẹn tròn công quả đạo về nguồn

HỒI THỨ MỘT TRĂM Về thẳng phương Đông Năm thánh thành Phật
LỜI NÓI ĐẦU


Tây du ký là một bộ tiểu thuyết mang tính chất thần thoại và
truyền thuyết dân gian Trung Quốc của nhà văn Ngô Thừa Ân, vào khoảng năm Gia Tĩnh, Vạn Lịch giữa đời Minh. Nhiều nhân vật như Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới… đã đi vào cuộc sống quần chúng và trở thành biểu tượng cho các loại người.

Cho đến nay, Tây du ký đã được dịch ra nhiều thứ tiếng: Nga, Anh, Nhật. v. v… Đặc biệt ở vùng Đông Nam châu Á, nó được quần chúng rất ưa thích.

Trước đây ở nước ta đã có nhiều người dịch Tây du ký ra tiếng Việt. Nhưng qua mỗi lần dịch, tác phẩm bị lược bỏ ít nhiều chi tiết, hoặc dịch nhiều đoạn không sát ý của nguyên tác (có lẽ theo các nguyên bản khác nhau).

Lần này, Nhà xuất bản Văn học chủ trương cho dịch lại Tây du ký một cách đầy đủ hơn. Trong quá trình dịch thuật, dịch giả có tham khảo các bản dịch đã xuất bản trước đây, chủ yếu là bản dịch của Thụy đình - Chu Thiên, hiệu đính Nhà xuất bản Phổ thông Hà Nội, 1960, - bản dịch gần đây nhất. Trong phần dịch thơ, nếu đoạn nào, bài nào của bản dịch cũ dịch tương đối tốt, thì dịch giả lần này không dịch lại, mà lấy nguyên vẹn và đánh dấu hoa thị ngay ở câu mở đầu.

Tuy dịch giả lần này đã có nhiều cố gắng, nhưng không sao tránh khỏi sai sót, rất mong các bạn đọc chỉ giáo thêm.

NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC
LỜI GIỚI THIỆU


Nói đến văn học cổ điển Trung Hoa người ta thường kể: tản
văn bách gia, thơ Đường, từ Tống, kịch Nguyên, tiểu thuyết Minh Thanh. Quả vậy, Minh Thanh (thế kỷ 14 - 19) là thời kỳ phồn vinh của tiểu thuyết, nói cho chính xác là kể truyện kể
[1]
chương hồi

, Có thể thấy ở đây loại truyện lịch sử, căn cứ chút
ít vào sử sách rồi phát triển hư cấu thêm, mà Tam quốc là tác phẩm tiêu biểu; loại truyện anh hùng nghĩa hiệp, viết về cuộc đời các hảo hán phi thường mà Thủy hử là tiêu biểu; loại truyện thần tiên ma quái mà Tây du ký là tiêu biểu; loại truyện thế cố nhân tình mà Hồng lâu mộng là tiêu biểu. Trong kho tang hơn
300 bộ trường thiên tiểu thuyết đó, Tây du ký có một vị trí đặc biệt. Đó là tác phẩm lãng mạn mang sắc thái thần thoại hiếm có trong lịch sử văn học cổ điển Trung Quốc.

Tây du ký ra đời vào khoảng những năm Gia Tĩnh Vạn Lịch triều Minh (thế kỷ 16). Tác giả là Ngô Thừa Ân (1500 - 1581?), người Sơn Dương, phủ Hoài An, nay thuộc tỉnh Giang Tô, tên chữ Nhữ Trung, bút danh Xạ Dương Sơn Nhân, con một nhà buôn nhỏ chuyên bán chỉ màu và đồ thêu, nhưng lại có cái thú tàng trữ sách. Điều đó cũng chẳng có gì kỳ lạ vì vốn dĩ ông nội và cố nội Ngô Thừa Ân đều xuất thân học quan. Trong kho sách gia đình, cậu bé Ngô Thừa Ân đã ngày đêm miệt mài với truyện lịch sử, đặc biệt với các bộ truyền kỳ. Lớn lên, tính khí ngang ngạnh, “bình sinh không để người thương hại”, “trong lòng mài dũa dao trừ tà… buồn không đủ sức” (Nhị lan sưu sơn đồ ca). Ông học giỏi, đọc rộng, “hạ bút thành thơ,… rất thích hài kịch, từng viết nhiều tập ký lừng danh một thời” (Thiên khải Hoài an phủ chí). Tuy đa tài nhưng lận đận trên con đường khoa hoạn, mãi đến năm 43 tuổi, ông mới đỗ “tuế cống sinh” (tức cử nhân),
từ đó về sau còn đi thi hai lần nữa nhưng đều bất thành. Năm 51 tuổi, vì cảnh nhà quẫn bách, ông đến Nam Kinh tìm việc nhưng thân cô thế cô, không toại nguyện. Mãi đến năm 67 tuổi mới được bổ làm thừa lại huyện Trường Hưng, nhưng “không bao lâu nhục nhã vì phải vào luồn ra cúi mà phủi áo bỏ về”. Sau đó ông lại được tiến cử giữ chức Kỷ thiện trong Kinh vương phủ chuyên coi việc lễ nhạc và văn thơ, nhưng được ba năm thì bất đắc chí từ quan về nhà. Từ đây ông chỉ làm bạn với thơ văn, được hơn 10 năm thì mất; thơ văn của ông, người đời sau thu thập lại in thành Xa dương tiên sinh tồn cảo 4 quyển. Ông còn viết bộ Vũ đĩnh chi, cũng là truyện thần tiên ma quái, nhưng vì nghèo túng, lại không con, chẳng ai bảo quản, nên nay thất lạc hết. Tây du ký là bộ tiểu thuyết duy nhất còn giữ lại được của ông, có lẽ hoàn thành vào những năm cuối đời trong nghèo khổ ở quê nhà.

Tây du ký vốn bắt nguồn từ một câu chuyện có thật, nhà sư trẻ đời Đường Thái Tông là Trần Huyền Trang, năm 21 tuổi đã một mình sang Ấn Độ tìm thầy học đạo. Ông ra đi năm 629 đến năm 645 mới trở về, tổng cộng mất 17 năm. Đường đi trên 5 vạn dặm, qua 128 nước lớn nhỏ, đi về mất 4 năm, ở lại Ấn Độ tìm thầy học đạo 13 năm, đặc biệt lưu học những 6 năm ở chùa Na Lan Đà vốn là trung tâm Phật học thời bấy giờ. Khi về nước ông phải dùng 24 ngựa tải, mang theo 657 bộ kinh Phật, 150 Xá lợi tử (tinh cốt Phật), 6 tượng Phật. Ông để ra 19 năm trời, dịch được 75 bộ kinh Phật, cho đến khi mất. Ông còn để lại bộ Đại Đường Tây vực ký 12 quyển, ghi chép đầy đủ lịch sử, địa lý, phong tục tập quán của 128 nước mà ông đã đi qua. Khi ông mất có đến 1 triệu người đưa tang và 3 vạn Phật tử đã dựng lều cư tang gần phần mộ ông.

Câu chuyện có thật đó vốn đã mang màu sắc huyền thoại và được truyền tụng rộng rãi trong dân gian. Lâu ngày nó trở thành
truyền thuyết và được thần thoại hóa. Các nghệ nhân kể chuyện đời Tống đã phát triển thành những câu chuyện hoàn chỉnh nay còn giữ lại trong cuốn Đại Đường Tam Tạng Thủ kinh thi thoại, trong đó đã thấy xuất hiện Hầu hành giả, bóng dáng của Tôn Ngộ Không sau này. Đến đời Nguyên lại xuất hiện bộ Tây du ký bình thoại, so với Thủ kinh thi thoại thì nội dung phong phú hơn, nhân vật nhiều hơn, tình tiết cũng phức tạp hơn. Có thể tìm thấy tất cả những tình tiết quan trọng của Tây du ký trong bộ này. Đó là xét từ nguồn gốc thoại bản (truyện kể). Về kịch, chuyện Tây du ký cũng đã được đưa lên sân khấu khá sớm. Đời Kim có vở Đường Tam Tạng, đời Nguyên có vở Đường Tam Tạng Tây thiên thủ kinh của Ngô Xương Linh. Cuối đời Nguyên đầu Minh có vở Tây du ký tạp kịch của Dương Nội. Ngô Thừa Ân là người tập hợp và gia công cuối cùng của bộ Tây du ký, bởi vì dưới ngòi bút sáng tạo của ông không những tác phẩm có một dung lượng đồ sộ 100 hồi trước kia chưa hề có, mà tính tư tưởng cũng được nâng cao, hình tượng nhân vật trở nên sinh động, đa dạng, có tính cách rõ nét, văn phong uyển chuyển, khúc chiết và trước sau nhất quán.

*

*    *

Tây du ký kể chuyện Tôn Ngộ Không cùng với Trư Bát Giới và Sa hòa thượng phò Đường Tăng sang phương Tây (Ấn Độ ở về phía Tây Trung Quốc). Đường đi gặp biết bao gian nan trắc trở, tổng cộng 81 nạn, cuối cùng đến được xứ sở của Phật tổ, mang kinh Phật truyền bá về phương Đông. Cốt truyện có thể tóm tắt như sau: Từ hồi 1 đến hồi 7, tác giả giới thiệu lai lịch
[2]
Tôn Ngộ Không

. Đó là một con khỉ do một hòn đá tiên hóa
thành. Từ nhỏ y đã thông minh, lanh lợi, dũng cảm, được đàn khỉ tôn làm vua (Mỹ hầu vương). Sau đó y đi tìm thầy học đạo, học được 72 phép biến hóa thần thông. Y náo động long cung,
bắt Long vương nộp gậy thần (thiết bổng) để làm vũ khí, rồi náo động âm ti, xóa tên loài khỉ trong sổ tử để hưởng trường sinh. Long vương và Diêm vương kiện lên Ngọc hoàng, Ngọc hoàng nổ giận sai tiên binh, thiên tướng đánh bắt nhưng không được, bèn theo kế chiêu an phong cho Tôn Ngộ Không chức quan giữ ngựa (Bật mã ôn) trên thiên đình để giữ chân y. Chẳng bao lâu sau biết bị lừa, y lại náo loạn thiên cung, đòi cho được chức Tề thiên đại thánh (thánh bằng trời). Ngọc hoàng thượng đế phải nghe theo. Nhưng rồi tính khí vẫn ngang ngạnh như xưa. Các thần mở tiệc đào tiên mà không mời y, y phá tiệc rồi trốn về động khỉ. Thượng đế phải sai cháu mình là Nhị Lang thần mang “kính chiếu yêu” đuổi bắt mới được, đem xử trảm nhưng dao chém không đứt, phải bỏ vào lò bát quái nung trong 49 ngày đêm cũng không chảy, cuối cùng y phá ra được. Y lại loạn đả thiên cung, đánh cho thiên binh, thiên tướng tả tơi. Thượng đế phải vời Phật tổ Như Lai dùng pháp thuật mới bắt được, đem giam dưới núi Ngũ Hành 500 năm.

Từ hồi 8 đến hồi 12: giải thích nguyên do việc đi thỉnh kinh, giới thiệu lai lịch Huyền Trang và các đệ tử. Quan Âm bồ tát vâng mệnh Phật tổ đi tìm người sang Ấn Độ để lấy kinh Phật truyền bá về phương Đông. Trên đường đến Trường An. Quan
[3]
Âm gặp Sa Ngộ tĩnh

, nguyên là đại tướng lo việc cuốn rèm
cho Thượng đế (Quyển liêm tướng quân), vì làm vỡ đèn lưu li trong Hội bàn đào mà bị đày làm quỷ trên sông Lưu Sa. Quan Âm thu nạp, cho làm đồ đệ đi thỉnh kinh đổi kiếp. Lại gặp Trư
[4]
Bát Giới

, nguyên là Thiên Bồng nguyên soái vì chòng ghẹo
Hằng Nga mà bị đày xuống trần gian làm quái đầu lợn. Chấp nhận lời tỉnh cầu của y, Quan Âm cho làm đồ đệ giúp việc thỉnh kinh để chuộc tội. Lại gặp con rồng trắng bị treo ngược giữa trời
- đó là con trai của Long vương phạm tội chờ ngày xử trảm. Quan Âm xin cho rồi hóa phép thành con ngựa vàng đỡ gót
người đi thỉnh kinh. Lại gặp Tôn Ngộ Không đang bị đè bẹp dưới núi Ngũ Hành. Quan Âm cho phép đi theo hộ vệ người thỉnh kinh để cải tà quy chính. Đến Trường An, Quan Âm tìm được Trần Huyền Trang một hòa thượng chân tu, có thể phó thác sứ mệnh sang phương Tây thỉnh kinh. Vốn là đứa trẻ trôi sông được chùa cứu vớt, Huyền Trang chuyên tâm học đạo, tinh thông Phật pháp, dần dần trở thành nhà sư tiếng tăm lừng lẫy. Quan Âm bèn giao trọng trách “Tây du thỉnh kinh” cho Huyền Trang.

Hồi 13 đến hồi 98: thuật lại quá trình đi thỉnh kinh. Ban đầu có hai người đưa đường Huyền Trang. Nhưng vừa ra khỏi biên giới thì bị hổ và gấu ăn thịt mất. Huyền Trang hết đường lui tới, chỉ biết ngồi khóc. May gặp Tôn Ngộ Không nằm bẹp dưới núi Ngũ Hành đang chờ người thỉnh kinh để được giải thoát. Huyền Trang bèn dùng phép để giải phóng cho y và thu nhận làm đệ tử. Từ đó đường đi mới thuận lợi. Với cây gậy thần trong tay, dùng
72 phép biến hóa thần thông, Tôn Ngộ Không đã tiêu diệt hết mọi yêu ma quỷ quái cản đường. Nhưng Huyền Trang lại rầy la y làm việc sát sinh, vi phạm giới luật nhà Phật. Y bực bội bỏ đi. Quan Âm phải cho Huyền Trang chiếc mũ kim cô để kiềm chế. Khi cần, Huyền Trang chỉ niệm chú là chiếc vành vàng sẽ siết chặt lấy đầu Tôn Ngộ Không làm y đau đớn không chịu được, phải tuân theo lệnh Huyền Trang. Đường đi yêu quái ngày một nhiều. Quan Âm bèn ban cho Tôn Ngộ Không ba cái lông hộ mạng mọc sau gáy, khi cần nhổ một cái rồi lâm râm niệm chú là lập tức biến thành vô số Tôn Ngộ Không; kế đó Huyền trang lại thu nhận ngựa rồng ở suối Ưng Sầu, thu nhận Trư Bát Giới ở động Vân Sơn, thu nhận Sa hòa thượng ở sông Lưu Sa. Đoàn thỉnh kinh đã có cả thảy năm thầy trò, thêm nhiều thuận lợi. Có điều Trư Bát Giới là kẻ hiếu sắc, lười biếng, suýt nữa mắc lừa bốn nữ yêu quái, làm cho đoàn thỉnh kinh một phen lận đận. Y lại xúc xiểm làm cho nội bộ đoàn trở nên lục đục. Một lần Tôn
Ngộ Không đánh chết con Bạch cốt tinh ba lần đổi lốt để đánh lừa Tam Tạng, giữa lúc Tam Tạng bất bình thì y lại nhỏ to khích bác làm nhà sư nổi giận đuổi Tôn Ngộ Không. Tôn Ngộ Không buồn rầu bỏ về động khỉ, nhưng vẫn không cởi được chiếc mũ kim cô. Vắng y, bốn thầy trò Đường Tăng bị yêu quái hãm hại suýt mất mạng. Bất đắc dĩ, Huyền Trang phải sai Trư Bát Giới tìm y trở về. Năm thầy trò lại tiếp tục Tây du. Tôn Ngộ Không lại lần lượt đánh thắng các yêu quái, đấu phép thắng các đạo sĩ. Nhưng gặp con quái một vòi (Độc giác quỷ) dùng bùa phép cướp được cây gậy thần thì y chịu thua; y phải cầu viện Phật tổ mới lấy lại được “thiết bổng”. Y lại phò Đường Tăng vượt qua “nước con gái”, phá được kế cưỡng hôn của bà vua nước này. Rồi đánh thắng “Thiết Phiến công chúa”, lấy được cái quạt ba tiêu để quạt tắt núi lửa ngăn trở đường đi. Cuối cùng năm thầy trò vượt qua tất cả 81 nạn, đến xứ sở Phật tổ tìm thầy học đạo.

Hồi 99 và 100: kể lại quá trình thắng lợi trở về. Năm thầy trò xin được rất nhiều kinh Phật, được bệ kiến Phật tổ. Phật tổ ban thưởng rất hậu rồi dùng phép đưa họ “cưỡi mây” trở về Trung Quốc. Đường Thái Tông cùng Tăng ni Phật tử và dân chúng đã đón tiếp rất trọng thể. Họ bàn giao kinh Phật rồi theo lệnh Phật tổ “cưỡi mây” trở lại xứ Phật. Tùy theo công trạng, Đường Tăng được ban tước Đằng công công đức Phật, Tôn Ngộ Không được cởi mũ kim cô, được ban tước Đấu chiến thắng Phật, các đồ đệ khác đều được ban thưởng. Họ ở lại xứ Phật hưởng phúc muôn đời.

Với một cốt truyện như thế, phải chăng Tây du ký chỉ là truyện hài hước, “đùa cợt với đời” chẳng bao hàm một ý nghĩa
[5]
sâu xa nào cả”

  như Hồ Thích, một học giả tư sản từng nói?
Hoàn toàn không phải như vậy. Một tác giả suốt đời long đong lận đận, luôn luôn bất mãn với hiện thực, nhất định không thể cặm cụi hoàn thành tác phẩm lớn của mình vào những năm cuối
đời mà không nhằm một mục đích nghiêm túc nào. Cứ so sánh khuynh hướng tư tưởng của câu chuyện Tây du ký trong thoại bản và tạp kịch với Tây du ký thì đủ rõ Ngô Thừa Ân không đơn thuần làm công việc sưu tầm và sao chép để tiêu khiển. Dưới ngòi bút của ông, truyện Tây du đã có nhiều thay đổi cơ bản. Có thể thấy từ ba mặt sau:

1) Nhân vật Huyền Trang từ chỗ là nhân vật chủ yếu biến thành nhân vật thứ yếu; ngược lại Tôn Ngộ Không từ địa vị nhân vật hộ tống biến thành nhân vật quyết định thành bại của cuộc Tây du.

2) Câu chuyện thỉnh kinh trở thành thứ yếu so với câu chuyện đấu tranh khắc phục thiên tai nhân họa trên con đường thỉnh kinh. Tư tưởng thuận tông, nhân sinh quan xuất thế trở thành thứ yếu so với tư tưởng phản nghịch, nhân sinh quan nhập thế. Có thể thấy nhà văn viết truyện Tây du là để gửi gắm một tâm sự, thể hiện một lý tưởng, bênh vực một quan niệm nhân sinh chứ quyết không phải chỉ là chuyện đùa vui để tiêu khiển.

Phải chăng “Tây du là điển hình một con người. Tam Tạng điển hình cho lý trí, Tề Thiên điển hình cho sức mạnh, Bát Giới điển hình cho dục vọng. Sa Tăng cho sự lười biếng. Bốn đức tính ấy họp thành con người mà đường đi thỉnh kinh là đường
[6]
đời, lý trí điều khiển được cả”

. Nếu coi đây là ý nghĩa suy
rộng của Tây du ký thì hoàn toàn thuộc quyền mỗi độc giả - một tác phẩm lớn thường có những vang động khác nhau đối với những loại độc giả khác nhau. Nhưng nếu coi đây là giá trị cơ bản của Tây du ký thì hoàn toàn không ổn. Trên thực tế, nó đã tách tác phẩm văn học khỏi bối cảnh xã hội, khỏi hoàn cảnh cụ thế của nhà văn, bởi vậy nó không giải thích nổi tia hồi quang của triều đại chuyên chế nhà Minh còn in đậm nét trong tác phẩm. Một tác phẩm văn học dù lấy đề tài từ trong lịch sử xa xưa, từ cuộc sống những xứ sở xa lạ thì vẫn là sản phẩm của một
tác giả cụ thể. Sống trong một hoàn cảnh cụ thể dù ít dù nhiều, dù gián tiếp, dù trực tiếp, nó vẫn mang hơi thở của thời đại nhà văn đang sống. Huống hồ Ngô Thừa Ân lại là người bất mãn sâu sắc với thời cuộc và thường mượn văn chương để tỏ bày tâm sự. Hiểu Tây du ký là con người với tất cả những thói xấu và khả năng chiến thắng thói xấu của nó, thì cũng chẳng khác gì khẳng định tác phẩm này không cần có quê hương, không cần có năm sinh tháng đẻ, nó treo lơ lửng trên mọi thời gian và không gian. Vả chăng, con đường thỉnh kinh mà tác giả mô tả cụ thể, sinh động, đâu có phải chỉ có cản trở là dục vọng và sự lười biếng; thắng lợi của cuộc Tây du cũng đâu phải chỉ do một mình Tam Tạng quyết định. Cách hiểu này do đó vừa thoát ly hoàn cảnh xã hội đẻ ra tác phẩm, vừa thoát lý nội dung cụ thể của tác phẩm. Đó là một lối suy diễn gượng gạo, mang màu sắc xã hội dung tục.

Thực ra, nội dung tư tưởng của Tây du ký cũng không rõ ràng, dễ nhận thấy như Thủy hử. Nó được thể hiện quanh có kín dáo dưới hình thức ảo tưởng. Nhưng ảo tưởng chứ không phải là loạn tưởng; người đọc vẫn có thể chấp nhận các hình tượng và từ đó suy ra lý lẽ của tác giả. Cũng giống như Thủy hử, Tây du ký trước hết thể hiện sự bất mãn và phản kháng của tác giả với hiện thực đen tối thời Minh. Hai tác phẩm gấn như cùng thời điểm này đều mượn chuyện lịch sử để bày tỏ thái độ đối với đời sống xã hội. Thủy hử lấy chuyện bạo động nông dân đời Tống làm đề tài, Tây du ký mượn chuyện nhà sư đời Đường đi tìm lý tưởng ở một xứ sở khác. Thoạt nhìn, có thể lầm tưởng tính phản kháng của Thủy hử cao hơn. Nhưng thật ra câu chuyện Thủy hử chỉ đóng khung trong phạm vi một triều đại - nông dân đời Tống chống lại vua quan đời Tống. Còn Tây du ký thì đả kích, châm biếm, thậm chí lật nhào toàn bộ những thần tượng trong đời sống xã hội - từ Ngọc Hoàng, Diêm vương, Long vương đến Nho giáo, Lão giáo, Đạo giáo v. v… Mặt đối lập của tác phẩm
vô cùng rộng lớn, tư tưởng phản kháng của tác giả so với Thủy hử có phần sâu sắc hơn. Mặc dù với hình thức ảo tưởng, tác giả tránh được sự xung đột chính diện, giai cấp thống trị nhà Minh
[7]
với chính sách “văn tự ngục”

  khét tiếng không tìm đâu ra lý
do để đàn áp, nhưng nếu đem Thượng đế, Diêm vương, Long vương, Thủy tổ đạo giáo v. v… ra mà phủ định hết thảy, thì cơ hồ mọi thứ trong trời đất đều có thể phủ định được cả. Qua câu chuyện đại náo thiên cung, long cung, địa phủ, các thế lực tối cao trên trời, dưới nước và dưới âm ti đều bị lật đổ, chỉ còn lại các cung điện của hoàng đề trần gian là không bị đụng chạm. Nhưng lẽ nào vua ở trần gian lại giỏi hơn vưa trên trời, vua long cung, vua xứ âm ti? Lẽ nào kẻ bất mãn với thiên đình, long cung và địa phủ lại vừa ý với triều đình trần gian? Lẽ nào con khỉ lại giỏi hơn con người? Đó chính là phương pháp “vẽ rồng không mắt” - tác giả cố ý dành một chỗ trống và đặt một câu hỏi vào đấy bắt mọi người phải trả lời.

Nhưng không phải chỉ có thế. Ở nhiều chỗ trong tác phẩm dấu hỏi đó đã có được câu trả lời. Tác giả dành 7 hồi đầu để ca ngợi hành vi nổi loạn của Tôn Ngộ Không, dẫn mọi người đi đến kết luận: chỉ có phản kháng, đấu tranh mới giải quyết được bất công ngang trái. Tôn Ngộ Không nêu khẩu hiệu: Thay nhau làm vua, sang năm đến lượt ta. Nếu trên lịch sử Trung Quốc không có những cuộc khỏi nghĩa nông dân quy mô lớn, có lúc lật nhào một triều đại, thì không thể tưởng tượng nổi một Tôn Ngộ Không với khẩu khí ngang tàng như vậy. Đó cũng chính là tiếng vang động của phong trào nổi dậy của nông dân đời Minh. Thực tế từ Minh Hiến Tông đến Minh Thánh Tông biết bao cuộc khởi nghĩa nông dân đã nổ ra và nhất định có ảnh hưởng đến tác giả. Mới nhìn qua, tưởng như Tôn Ngộ Không đã quấy phá bừa bãi không có lý do rõ rệt. Kỳ thực đâu phải vậy. Bằng hình thức quanh co, tác giả cho chúng ta thấy nguyên do nổi loạn là hiện
thực đen tối, vua quan thối nát. Thái độ của Ngọc hoàng thượng đế đối với Tôn Ngộ Không là một ví dụ. Vừa nghe lời tâu thiên vị của Long vương và Địa tạng vương đã lật đật hạ chỉ đánh dẹp. Đến chừng nghe Thái bạch kim tinh phân tích lý lẽ lại xuống chiều chiêu an, phong cho Tôn Ngộ Không chức Bật mã ôn hữu danh vô thực để cầm chân. Đến khi Tôn nổi giận bỏ về núi Hoa Quả, Thượng đế sai binh tướng đánh dẹp không nổi, bất đắc dĩ phải phong làm:Tề Thiên đại thánh”. Thái độ hẹp hòi, mềm nắn rắn buông đó, có khác gì cách cư xử của vua quan nhà Minh với viên thừa lại một huyện nhỏ như Ngô Thừa Ân? Rồi sao Mộc lang xuống trần bắt gái, rồi các đệ tử nơi cửa Phật đòi tiền hối lộ người thỉnh kinh. Đó là hiện thực nơi cung trời, nơi cửa Phật, cũng chính là hiện thực xã hội đời Minh. Trong tác phẩm còn biết bao ma quỷ, thú dữ, trùng độc, cũng nham hiểm quỷ quyệt chẳng khác gì con người, nhờ tu luyện giỏi, có con biến thành kẻ quân tử, có con biến thành mỹ nữ, có con thành nhà thuyết giáo. Đó chính là hình bóng bọn cường hào, ác bá, quan lại, văn nhân học sỹ nhan nhản trong đời sống hiện thực.

Tác giả không chỉ dừng lại ở sự châm biếm quanh co. Có thể tác giả đả kích thẳng vào đời sống hiện thực. Trên đường thỉnh kinh, tác giả dựng lên 9 nước trần gian, trong đó nhiều nước vua vô đạo, quan văn võ bất tài. Ví dụ, vua nước Xa Trì tôn ba con yêu quái hóa thành đạo sĩ làm quốc sư, chúng có thể “lên điện không lạy vua, xuống điện không chào chúa”, vua nước Tỳ Khưu thì tin vào thuốc trường sinh luyện bằng 1111 bộ tim gan trẻ con. Tuy tên gọi khác nhau nhưng tình trạng thối nát nói ở đây, so với hiện thực đời Minh cũng chỉ là một.

Tóm lại, Tây du ký trước hết là một tác phẩm phản kháng mạnh mẽ hiện thực đen tối. Diện phản kháng của tác phẩm rất rộng. Đó là tất cả những gì bất công ngang trái, hủ bại và tàn bạo ở trên trời, dưới đất và giữa trần gian. Mũi nhọn của sự
chống đối đó, trước hết nhằm vào hiện thực xã hội thời Minh, một xã hội mà cường quyền và bạo lực thống trị, một xã hội đầy rẫy bất công ngang trái mà chính tác giả là nạn nhân.

Tây du ký còn phản ánh lý tưởng tự do bình đẳng cũng như tinh thần khắc phục khó khăn, chiến thắng thiên tai nhân họa để thực hiện bằng được lý tưởng của nhân dân và tầng lớp thị dân mới trỗi dậy đương thời. Tuy kể chuyện nhà sư đi tìm thầy học đạo, nhưng tác giả không coi dạo Phật như một giải pháp chính trị để xóa sạch bất công ngang trái, để giải phóng con người. Về mặt này, tác giả chịu ảnh hưởng rõ rệt khuynh hướng tư tưởng của các truyền thuyết về chuyện Tây du vốn lưu truyền rọng rãi trong dân gian. Theo dõi thái độ của tác giả đối với hai nhân vật Đường Tăng và Tôn Ngộ Không thì rõ. Dưới ngòi bút của tác giả, Đường Tăng là một hòa thượng ngây thơ, muốn thực hiện lý tưởng song không có biện pháp gì khả thủ. Trái lại, Tôn Ngộ Không với cây thiết bổng trong tay đã mở đường máu để đi tìm lý tưởng. Không làm như y thì không thể đạt mục đích. Nhiều lần nhà sư đã rầy la y về chuyện sát sinh, nhưng đã bất chấp giới luật nhà Phật, và rõ ràng y đúng. Y cũng quy y Phật pháp, cũng mặc áo cà sa, nhưng tư tưởng và hành động của y thì rõ ràng đi ngược hẳn giáo lý nhà Phật. Bởi vậy, đạo Phật ở đây cũng chỉ là biểu tượng của tự do, bình đẳng, bác ái nói chung mà thôi. Đó là tư tưởng chính trị và quan niệm dạo đức của nhân dân được thể hiện dưới cái vỏ tôn giáo. Là “thuốc phiện tinh thần của nhân dân”, mọi thứ tôn giáo đều nói đến tự do, bình đẳng, bác ái. Các thần  tượng  tối  cao  của  các  loại  tôn  giáo  đều  ban  phát  tình thương yêu như nhau cho mọi người, đều mở rộng cửa thiên đường để đón tiếp các linh hồn tội lỗi. Trong xã hội mà cường quyền và bạo lực thống trị, nhân dân vẫn mượn ảo tưởng tự do, bình đẳng, bác ái đó để đối lập với bất công ngang trái trong cuộc đời. Ở chỗ này tác giả đã tiếp thụ quan điểm của nhân dân - những người đã lưu truyền và không ngừng sáng tạo thêm các
truyền thuyết về công cuộc Tây du. Lý tưởng tự do, bình đẳng, bác ái cũng như tinh thần táo bạ, bất chấp mọi khó khăn, gian khổ để thực hiện lý tưởng đó, cũng phản ánh những ước mơ sôi nổi của tầng lớp thị dân mới trỗi dậy thời bấy giờ. Đó là tư tưởng dân chủ sơ khai, hình thành trong thời kỳ các nhân tố kinh tế tư bản chủ nghĩa đã nảy mầm. Lý tưởng mới mẻ cũng như tinh thần năng nổ táo bạo đó, đã tạo nên màu sắc dân chủ ít thấy [8]
trong những tác phẩm trước kia    .

Tuy nhiên, chỗ mới mẻ ấy cũng chình là chỗ tác giả tỏ ra lung túng, có lúc mơ hồ và hỗn loạn. Tác giả không thừa nhận giải pháp của đạo Phật, nhưng lại miêu tả giáo lý nhà Phật như một thứ quyền uy vô thượng. Tôn Ngộ Không đã có lúc đánh phá mọi thần tượng truyền thống, nhưng lại không vượt nổi bàn tay Phật tổ Như Lai. Đó là chỗ mâu thuẫn tư tưởng tác giả. Về mặt này Thủy hử rõ ràng và dứt khoát hơn Tây du ký. Trong Thủy hử, do tư tưởng thuần nhất của tác giả, động cơ và mục đích của cuộc bạo động diễn đạt rõ ràng, sáng sủa. Trong Tây du ký thì nhiều chỗ uẩn khúc, làm cho người đọc có lúc không rõ tác giả tán thành cái gì, phản đối cái gì. Ví dụ: một mặt tác giả thể hiện Đường Huyền Trang và Tôn Ngộ Không như những người tự động hành hương đi tìm chân lý, nhưng mặt khác tác giả lại miêu tả Phật tổ chủ động phái Quan Âm sang Trung Quốc tìm người truyền đạo về phương Đông. Việc đi thỉnh kinh cũng còn được mô tả như là chấp nhận ý muốn của vua Đường Thái
[9]
Tông

. Như vậy việc đi tìm chân lý chỉ là thừa hành mệnh
lệnh của nhà Phật và nhà vua và do đó mọi sự phản kháng đấu tranh đều trở nên vô nghĩa. Một ví dụ khác nêu việc đi thỉnh kinh được hiểu như là hành động tìm kiếm chân lý, thì mục đích của nó phải là phổ biến chân lý để cải tạo hiện thực bất công ngang trái. Nhưng tác giả lại kết thúc câu chuyện ở chỗ họ đưa được kinh Phật về Trung Quốc, rồi nhờ công lao đó mà được
công nhận tu hành chính quả, được gọi sang đất Phật và ở đấy hưởng phúc muôn đời. Đó là một kết thúc không tương xứng với cơ cấu tác phẩm, có phần tùy tiện, làm giảm sút ý nghĩa của tác phẩm. Những chỗ mơ hồ hỗn loạn như thế chứng tỏ tầm tư tưởng hạn chế của tác giả. Tác giả bất mãn với hiện thực, lên tiếng phê phán những bất công ngang trái, theo đuổi lý tưởng tự do, bình đẳng, nhưng lại có tư tưởng vương quyền và chịu ảnh hưởng của đạo Phật. Bởi vậy tác giả không chỉ ra được một phương hướng giải quyết nào thật rõ ràng và sáng sủa. Chỗ mơ hồ và hỗn loạn đó cũng để lại dấu vết rõ ràng trong tư tưởng và hành động của nhân vật chính của tác phẩm: Tôn Ngộ Không.

*

*    *

Trong Tây du ký tác giả tập trung khắc họa tính cách các nhân vật trong đoàn thỉnh kinh. Dưới ngòi bút tác giả, Đường Tăng là một hòa thượng thành tâm sung đạo, bền gan quyết chí theo đòi việc lớn, nhưng đồng thời cũng là một trí thức phong kiến chịu sự ràng buộc của đủ thứ lễ nghi quy tắc, lại ít được tôi luyện trong thực tế cuộc sống, trói gà không chặt, do đó thường lung túng và bó tay trước khó khăn. Tuy xuất hiện với tư cách dẫn đầu đoàn thỉnh kinh nhưng vai trò ông ta không nổi bật, cơ hồ chỉ là nhân vật chiếu ứng để làm rực rỡ thêm Tôn Ngộ Không mà thôi. Trư Bát Giới là một nhân vật được xây dựng rất xuất sắc, đặc biệt là trong yêu cầu cá thể hóa tính cách. Nếu ở Tôn Ngộ Không hầu như chỉ có toàn bản lĩnh của “trượng phu”, “hào kiệt” thì ở Trư Bát Giới chúng ta thấy tất cả những cái bình thường, thậm chí hèn mọn của con người. Được vũ trang bằng cái cào cỏ, y có dáng dấp một nông dân. Y ham lao động, suy nghĩ đơn thuần, nhưng cũng rất tư lợi, thích nhàn nhã, dễ bị cám dỗ bởi sinh hoạt vật chất. Không thể coi Trư Bát Giới là “điển hình của dục vọng”, là “con lợn lòng của loài người”. Hình
tượng Trư Bát Giới đa dạng hơn như thế và do đó lớn hơn thế. Tác giả cũng không có ý định miêu tả y thành nhân vật phản diện, mặc dù y vẫn luôn luôn xuất hiện như một nhân vật hài kịch. Hình tượng rực rỡ nhất trong Tây du ký là hình tượng nhân vật anh hùng nổi loạn Tôn Ngộ Không. Đó là một kiểu hiệp sĩ chống trời. Hành động của họ chỉ là quấy rối và đập phá. Quấy rối và đập phá để xây dựng lên một cái gì không rõ ràng. Do vậy hành động của họ thường mang tính chất bột phát, manh động và vô chính phủ. Họ thường chiến đấu đơn độc, lẻ loi và không tránh khỏi thất bại. Trong hoàn cảnh xã hội cũ khi mà áp bức bóc lột, bất công ngang trái tồn tại phổ biến và được thừa nhận như là đương nhiên không thể khác được, thì những hành động nổi loạn như vậy cũng có ý nghĩa nhất định. Nó phủ nhận hiện thực, kêu gọi phản kháng dự báo bùng nổ. Tôn Ngộ Không là loại hiệp sĩ chống trời kiểu đó. Đại náo thiên cung là truyện ký anh hùng của y. Tây thiên thỉnh kinh là lịch sử xây dựng nghiệp của y. Y không thừa nhận bất kỳ một thứ quyền uy nào. Sau khi học được 72 phép thần thông, rồi xuống long cung đoạt được gậy thần để tự võ trang, sự nghiệp phản kháng, nổi loạn của y bắt đầu. Y xuống âm ti buộc Diêm vương xóa hết tên họ loài khỉ trong sổ tử, rồi đánh lên thiên cung bắt Ngọc hoàng thượng đế phải nhường ngôi và tuyên bố “nếu không nhường thì sẽ quấy rối mãi mãi không có thái bình”. Đó là một nhân vật phản nghịch triệt để dám phủ nhận mọi thứ quyền uy, dám thách thức cả kẻ thống trị tối cao. Về khách quan, hình tượng này phản ánh tinh thần phản kháng vĩ đại của nhân dân. Tuy nhiên sự quấy rối và đập phá của Tôn Ngộ Không hầu như không nhằm một mục đích gì rõ rệt; nói cho chính xác hơn, không nhằm một mục đích xã hội nào rõ rệt. Có lúc chỉ nhạo báng quyền uy, có lúc để thỏa mãn cái tức khí cá nhân. Có thể tưởng tượng: nếu Tôn Ngộ Không đánh đổ thiên đình thật, thì rồi y cũng sẽ bỏ về động khỉ mà không biết làm gì hơn. Ở chỗ này chúng ta thấy được hạn
chế trong lý tưởng xã hội của những người sản xuất nhỏ, nhưng đồng thời cũng thấy được tính chất vô chính phủ, manh động, bột phát của hành động nổi loạn.

Hình tượng Tôn Ngộ Không hiện lên rực rỡ ở 7 hồi đầu, từ hồi 8 trở đi, không mặc áo cà sa, hộ tống Đường Tăng thì hành động của y đã được gán cho một mục đích cụ thể. Y trở thành Tôn Hành Giả phò tá Đường Tăng mà không còn là anh hùng nổi loạn như trước kia nữa. Tác giả tạo cho nhân vật một ý nghĩa mời. Nếu ở các hồi đại náo thiên cung, địa phủ, tác giả tập trung làm nổi bật lòng dũng cảm của y thì trên con đường thỉnh kinh, tác giả tập trung khắc họa mưu trí của y. Y nhận được bất kỳ loại yêu ma quỷ quái nào và tìm cách trừng trị được hết. Phương pháp tốt nhất của y là chui tọt vào bụng đối phương, quấy rối lung tung làm cho kẻ địch chịu không nổi phải khuất phục. Trong cuộc đấu tranh với đủ loại yêu ma quỷ quái, y luôn bền bỉ dẻo dai, thọc sâu tận sào huyệt, vật lộn đến cùng, chưa đạt mục đích thì chưa buông tha. Gặp trắc trở, y luôn lạc quan, không bao giờ khóc lóc như Đường Tăng, hay buông lời chán nản như Trư Bát Giới. Trước sau vẫn thế, có điều Tôn Ngộ Không ngày trước thì ngang tang, không hề mảy may ràng buộc, còn Tôn Ngộ Không sau này thì bị chiếc vành vàng tượng trưng cho giáo lý nhà Phật xiết ngang đầu. Đã bao lần chiếc vành phát huy tác dụng của nó, thậm chí có đến ba lần Đường Tăng đuổi Tôn Ngộ Không, nhưng cuối cùng thầy trò Đường Tăng phải thừa nhận Tôn là người không thể vắng mặt. Nói cách khác, Tôn đã liên tục vi phạm giáo lý nhà Phật để đảm bảo cho thắng lợi của cuộc thỉnh kinh. Y được phong “Đấu chiến thắng Phật”, nghĩa là ông Phật biết đấu tranh và đã chiến thắng. Ở chỗ này, một mặt tác giả khẳng định phẩm chất dám đấu tranh và giỏi đấu tranh của nhân vật, nhưng mặt khác cũng để lộ những mâu thuẫn khó giải quyết trong tư tưởng của mình.
Xét cho cùng, việc quy y Phật pháp của Tôn Ngộ Không là việc đương nhiên, không thể khác được. Điều đó gắn chặt với những mâu thuẫn trong tư tưởng tác giả cũng còn do đề tài tác phẩm quy định. Tác giả để 7 hồi đại náo lên đầu nhằm biểu dương tính cách phản kháng của Tôn, nhưng cuối cùng y phải quy y Phật mới có thể dẫn đến việc thỉnh kinh. Cách giải quyết đó tất nhiên cũng có liên quan với tư tưởng chính thống phong kiến của nhà nho Ngô Thừa Ân.

Dầu sao, Tôn Ngộ Không vẫn là hình tượng rực rỡ của loại anh hùng mà đặc trưng tính cách là phản kháng, nổi loạn, dám đấu tranh và biết đấu tranh. Nó thể hiện những nguyện vọng sâu kín của nhân dân lao động Trung Quốc bao đời nay chịu áp bức bóc lột.

*

*    *

Tây du ký là bộ truyện lãng mạn mang sắc thái thần thoại, khác với Tam quốc, Thủy hử được sáng tác theo phương pháp hiện thực. Đối tượng miêu tả của Tây du ký là thần Phật, yêu quái. Sức tưởng tượng mạnh mẽ của tác giả đưa người đọc vào một thế giới huyền ảo, diệu kỳ. Đọc Tây du ký chúng ta gặp hết việc ly kỳ này đến việc ly kỳ khác, không thể đoán trước được. Mỗi hồi mỗi đoạn đều mới mẻ và hấp dẫn, không chỗ nào giống chỗ nào. Tất nhiên, thế giới huyền ảo đó đã được miêu tả căn cứ vào hiện thực. Tác giả làm cho chúng ta vừa kinh ngạc vừa cảm thấy gần gũi. Điều đó là công phu quan sát, khám phá hiện thực của tác giả. Ví dụ, nếu tác giả miêu tả Tôn Hành Giả (cốt khỉ) thành một nhân vật cuồng vọng, dâm dục (như con lợn) và ngược lại miêu tả Trư Bát Giới (cốt lợn) thành một nhân vật thông minh mau lẹ (như khỉ), thì chắc không ai còn biết tác giả muốn nói gì. Từ câu chuyện lịch sử Đường Tăng trong cuộc Tây du thỉnh kinh đến bộ Tây du ký đồ sộ là cả một quá trình chắp
nối trí tưởng tượng vừa ảo vừa thực của biết bao tác giả vô danh và hữu danh. Tây du ký là một bộ tiểu thuyết lãng mạn vĩ đại, cũng là kho tàng thần thoại quý giá của Trung Quốc.

Khác với chuyện tôn giáo - nơi con người khuất phục trước sức mạnh thần linh. Tây du ký tuy nói chuyệ nhà Phật nhưng lại gần thần thoại với tư cách là phương tiện lý giải xã hội chiến thắng thiên nhiên của con người. Lạc quan, dí dỏm và hài hước là đặc điểm nổi bật trong phong cách nghệ thuật Tây du ký. Tác phẩm này mô tả toàn truyện thần tiên yêu quái, nhưng không hề để lại cho người xem ấn tượng rung rợn, kinh hoàng. Chính tính cách lạc quan, tự tin của nhân vật chủ yếu Tôn Ngộ Không đã quyết định khuynh hướng tác phẩm. Tác giả đã thông qua hành động đùa bỡn, ngôn ngữ hài hước của y để châm biếm, giễu cợt. Ví dụ: vua nước Chu Tử thích thuốc trường sinh, Tôn Ngộ Không đã bốc cho những viên đan tẩm nước đái ngựa. Tôn còn trả lời vua nước Ô Kê “Lão Tôn này nếu chịu làm hoàng đế thì đã ở ngôi khắp thiên hạ, vạn quốc cửu châu rồi. Chỉ quen làm hòa thượng, quen nhàn tản như thế này. Nếu làm vua, phải để tóc dài, mất ăn mất ngủ, nghe biên ải có giặc thì hoang mang sợ hãi, gặp năm đói kém thì lo lắng buồn phiền. Tôn này làm sao chịu nổi? Ông cứ làm vua đi, còn tôi thì cứ làm hòa thượng của tôi vậy”. Đọc những đoạn như thế người ta thấy buồn cười và sau đó thấy việc tham sống cũng như tham quyền cố vị là lố bịch.

Là một bộ trường thiên tiểu thuyết chương hồi, Tây du ký mang đặc điểm kết cấu của loại này. Đó là kiểu kết cấu móc xích, mỗi khâu có ý nghĩa độc lập, đứng riêng ra có thể thành truyện ngắn, nhưng móc nối với nhau trong một dây chuyền thống nhất. Mở đầu là ba truyện đại náo thiên cung, đứa trẻ trôi sông, nằm mộng chém rồng trên sông Kinh Hà, thoạt nhìn như không dính dáng gì lắm với chuyện thỉnh kinh, nhưng lại nhằm
giải thích lai lịch các nhân vật và nguyên do dẫn đến việc đi thỉnh kinh. Cũng vậy, quá trình thỉnh kinh được triển khai trên
81 nạn bao gồm 41 truyện. Những truyện đó cái này dẫn đến cái kia, hoặc giải thích bổ sung cho nhau, không thể thiếu được. Ví dụ: ở hồi 8, Như Lai trao cho Quan Âm ba chiếc vành để đi về phía Đông tìm người sang Tây thỉnh kinh. Người đọc sẽ lại chiếc vành thứ nhất (vành xiết) ở hồi 14 trao cho Đường Tăng khống chế Tôn Ngộ Không, chiếc vành thứ hai (vành cấm) ở hồi
17 để thu phục yêu tinh Gấu đen trên núi Hắc Phong, chiếc vành thứ ba (vành vàng) ở hồi 42 để thu phục Hồng Hài Nhi. Lại như ở hồi 49 có chuyện con rùa thần chở thầy trò Đường Tăng qua sông Thiên Hà và chỉ nhờ Tam Tạng có một điều là gặp Phật tổ thì hỏi hộ xem bao giờ thì loài rùa thoát kiếp. Đó là một chi tiết phục bút nhằm dẫn đến tai nạn 81 ở hồi 99: thầy trò Đường Tăng chỉ lo việc mình, quên mất lời dặn của rùa, nên khi trở về rùa lại chở qua sông, sắp đến bờ, rùa hỏi mới biết rõ sự tình, bèn buồn bực lặn xuống nước, làm cho thầy trò Đường Tăng đều rơi xuống sông và các bộ kinh mang về đều mất trang cuối cùng. Cứ như thế, các mẩu chuyện tưởng như rời rạc đã được xâu chuỗi lại trên chủ đề chung là khắc phục khó khăn trở ngại trên con đường tìm kiếm lý tưởng và trong sự phát triển giao nhau giữa mâu thuẫn trong nội bộ đoàn thỉnh kinh và mâu thuẫn giữa cuộc thỉnh kinh và thiên tai nhân họa. Loại trừ một số phần tử trung lập, một số đoạn ngâm vịnh sa đà, nhìn chung đó là một bộ truyện có kết cấu đồ sộ nhưng chặt chẽ, mạch lạc rõ ràng.

Ngôn ngữ Tây du ký lưu loát, mang màu sắc khẩu ngữ linh hoạt, sáng sủa. Tác giả đã thành công trong yêu cầu cá thể hóa ngôn ngữ nhân vật, đặc biệt là ngôn ngữ của Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới. Ví dụ: khi Tôn Ngộ Không bị Thái Bạch kim tinh dẫn đến yết kiến Ngọc hoàng thượng đế, Ngọc hoàng hỏi: “Kẻ nào là yêu tiên?”. Tôn liền đáp: “Lão Tôn ta đây!”. Bốn tiếng đó đúng là khẩu khí ngang ngạnh xem thường quyền uy của Tôn.
Lại như khi ở núi Vạn Thọ, Đường Tăng hỏi ba đồ đệ ai ăn cắp quả nhân sâm, Trư Bát Giới liền tranh nói trước: “Tôi thật thà, không biết, không hề thấy!”. Nói “tôi thật thà” để đánh tháo thì cũng chỉ là cách nghĩ nông cạn của Trư Bát Giới. Ngôn ngữ phù hợp với cá tính nhân vật như vậy đã thể hiện rõ tính cách nhân vật và làm cho tác phẩm thêm sinh động, đa dạng.

*

*    *

Từ khi ra đời cho đến nay, đã trên bốn thế kỷ, Tây du ký cũng như Tam quốc, Thủy hử được nhân dân Trung Quốc yêu mến và truyền tụng. Nhiều nhân vật như Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới đã đi vào cuộc sống quần chúng trở thành biểu tượng cho các loại người. Đó là vinh quang lớn nhất cũng là niềm an ủi vĩ đại đối với tác giả.

Noi theo Ngô Thừa Ân, hàng loạt tiểu thuyết thần ma yêu quái ra đời: Phong thần diễn nghĩa, Tục tây du, Hậu tây du v. v… nhưng không có tác phẩm nào vượt nổi Tây du ký. Tây du ký là bộ truyện lãng mạn, thành công nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc.

Nó được dịch rất sớm ra tiếng Pháp rồi tiếng Anh, tiếng Nhật, tiếng Nga. Đặc biệt ở vùng Đông - Nam Á nó được quần chúng quen biết và ưa thích giống như Tam quốc, Thủy hử. Ở Việt Nam Tây du ký cũng như Tam quốc, Thủy hử, đã sớm làm quen với bạn đọc như những nhịp cầu nối liền nhân dân lao động hai nước Trung - Việt.

Tháng 12 năm 1987

LƯƠNG DUY THỨ

HỒI THỨ NHẤT


Gốc thiêng ấp ủ, nguồn rộng chảy


Tâm tính sửa sang, đạo lớn sinh


Có bài thơ rằng:

Thuở hoang sơ đất trời chưa tỏ. Chốn mênh mông nào có bóng người. Từ khi Bàn Cổ ra đời.
Đục trong phân biệt, khác thời hỗn mang.

Che chở khắp nhờ ơn trời đất. Phát minh ra muôn vật tốt thay. Muốn hay tạo hóa công dày,
[10]
“Tây du”

 truyện ấy đọc ngay đi nào.

Từng nghe số của trời đất, gồm một trăm hai mươi chín nghìn sáu trăm năm là một nguyên. Một nguyên chia làm mười hai hội, tức mười hai chi: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Mỗi một hội là mười nghìn tám trăm năm. Lại lấy một ngày mà nói: giờ Tý được khí dương, thì giờ Sửu gà gáy. Giờ Dần ánh sáng chưa khắp, thì giờ Mão mặt trời mọc. Giờ Thìn ăn cơm xong, thì giờ Tỵ đã liền kề. Giờ Ngọ mặt trời ở giữa trời, thì giờ Mùi ngả về tây. Giờ Thân là lúc mặt trời lặn ở phương tây. Giờ Tuất là lúc hoàng hôn và giờ Hợi mọi người yên nghỉ. So trong số lớn, đến cuối hội Tuất là lúc trời đất tối tăm mờ mịt, muôn vật ở vào vận bĩ. Vào đầu hội Hợi, đúng lúc đang mờ mịt, người và vật đều chưa có, nên gọi là hỗn độn.
Trải qua bốn nghìn năm trăm năm nữa, hội Hợi sắp hết. Hết vòng lại quay lại từ đầu, chuyển sang hội Tý, trở lại dần dần
[11]
sáng tỏ. Thiệu Khang Tiết

 nói:

“Giữa giờ Tý đông chí, Lòng trời chẳng đổi dời Lúc một dương lay động Vạn vật chưa ra đời”
Đến đây, trời bắt đầu có rễ. Lại trải qua năm nghìn bốn trăm năm, đúng vào hội Tý, những thứ nhẹ trong bay lên, có mặt trời, mặt trăng, tinh tú. Mặt trời, mặt trăng tinh tú (tinh và thần) gọi là tứ tượng. Cho nên nói rằng: trời mở ở Tý. Lại trải qua năm nghìn bốn trăm năm, hội Tý sắp hết, gần sang hội Sửu, thì dần dần rắn chắc. Kinh dịch nói: “Lớn thay đức nguyên của quẻ Càn! Tuyệt thay đức nguyên của kẻ khôn! Vạn vật nhờ đó sinh ra, là thuận theo trời”. Đến đây đất bắt đầu ngưng kết. Lại trải qua bốn nghìn năm trăm năm, đúng vào hội Sửu, những thứ nặng đục ngưng xuống. Có nước, có lửa, có núi, có đá, có đất. Nước, lửa, núi, đá, đất gọi là ngũ hình. Cho nên nói rằng: Đất mở ở Sửu. Lại trải qua năm nghìn bốn trăm năm, hội Sửu hết, hội Dần bất đầu, muôn vật sinh ra. Sách Lịch nói: “Khí trời bay xuống, khí đất bốc lên trời đất giao hòa, muôn vật sinh ra”. Đến đây trời, đất sáng sủa, âm dương giao hòa, Lại trải qua năm nghìn bốn trăm năm, đúng vào hội Dần, sinh người, sinh thú, sinh chim, gọi là tam tài, gồm trời, đất, người định vị. Cho nên nói rằng: người sinh ra ở Dần.

…Nhớ xưa từ thuở Bàn Cổ mới mở mang, đời Tam Hoàng vừa cai trị, đời Ngũ đế định ra nhân luân, bấy giờ thế giới mới chia ra làm bốn châu lớn.

1. Đông Thắng Thần Châu.
2. Tây Ngưu Hạ Châu.

3. Nam Thiệm Bộ Châu.

4. Bắc Câu Lư Châu.

Bộ sách này chỉ nói riêng về Đông Thắng Thần Châu.

Lúc đó ngoài biển mới thấy có một nước. Nước này gọi là nước Ngạo Lai ở sát gần biển lớn. Giữa biển có một ngọn núi đẹp, gọi là núi Hoa Quả. Chính núi này là mạch tổ của mười châu, cội nguồn của ba đảo, đứng sừng sững từ lúc đất trời mới chia trong đục, hình thành từ thuở thế giới vẫn hồng hoang. Đó thật là một ngọn núi quý!

Có bài thơ rằng:

Thế trấn giữa mênh mông, Oai yên nơi bể ngọc.
Triều dâng núi bạc cá vào hang, Sóng tung hoa tuyết rồng về vực Đỉnh cao chót vót góc nam phương. Vách núi nguy nga miền đông hải, Sườn dựng đá cổ quái,
Vách phẳng đỉnh thanh kỳ.

Phượng đẹp hót líu lo, Kỳ lân nhàn nằm khểnh.
Đầu núi gà vàng gáy lanh lảnh. Bên hang bóng rồng lượn vào ra.
Cáo tiên hươu giả quanh quẩn rừng xa, Cây cao chim thiêng hạc đen bay lượn.
Cỏ lạ hoa thơm màu thắm đượm,
















Chính là nơi:

Tùng xanh trắc biếc bóng um tùm. Đào tiên chín ngọt vẻ thơm ngon. Trúc xanh mây lành che vương vấn. Một ngọn suối trong dây mây quấn, Bốn mặt vách cao cỏ mọc xanh.

Cột trời sừng sững dựng giữa trăm sông.

Gốc đất lớn to muôn đời không đổi.

Trên đỉnh ngọn núi này, có một tảng đá tiên cao đến ba trượng sáu thước năm tấc, xung quanh hai trượng bốn thước. Chiều cao ba trượng sáu thước năm tấc cùng hợp với vòng trời ba trăm sáu mươi lăm độ. Xung quanh hai trượng bốn thước, hợp với chính
lịch hai mươi bốn khí. Trên có chín khiếu tám lỗ[12]


hợp với
cửu cung bát quái. Bốn bề không có cây cối rủ bóng. Hai bên phải trái, chỉ rặt cỏ chi cỏ lan quấn quýt lấy nhau. Có lẽ từ khi tảng đá mới sinh ra, đã bám thụ khí thiêng của trời đất, tinh hoa của mặt trời, mặt trăng đã lâu, nên mới linh thông thế. Bên trong tảng đá chứa đựng một bào thai tiên.



Một hôm tảng đá nứt đôi, sinh ra một quả trứng đá tròn, to bằng quả cầu, gặp gió hóa thành một con khỉ đá, đủ cả mặt mũi chân tay. Con khỉ đá liền học bò học chạy, vái lạy bốn phương
[13]
trời làm kinh động cả thượng đế

  lúc ấy đang ngự trị ở điện
Linh Tiêu[14]


cùng các vị tiên. Nhìn thấy tia hào quang chói lọi.
Thượng đế lập tức ra lệnh Thiên lý nhãn, Thuận phong nhĩ, mở cửa Nam thiên xem xét. Hai tướng vâng chỉ ra xem, nhìn nghe đích thực, một lát quay về báo:

- Thần vâng chỉ ra xem xét chỗ có ánh hào quang. Đó là nước Ngạo Lai ở biển Đông, thuộc Đông Thắng Thần Châu. Nơi ấy có ngọn núi Hoa Quả, trên núi có tảng đá tiên đẻ ra quá trứng đá, gặp gió hóa thành một con khỉ đá, biết vái lạy bốn phương, mắt rọi hào quang chiếu sáng tận thiên phủ. Nếu nay cho ăn mồi bằng nước cháo, hào quang sẽ tắt ngay.

Thượng đế rủ lòng nhân từ nói:
- Đó là một vật ở hạ giới, do tinh hoa trời đất hóa sinh ra, có gì là lạ.

Con khỉ ấy sống ở trong núi, đi đi lại lại nhảy nhót nô đùa, tìm ăn cỏ cây, uống nước suối trong, hái hoa rừng, tìm quả núi, làm bạn với lang trùng, kết đàn với hổ báo, thân mật với hươu nai, chan hòa với khỉ vượn, đêm ngủ vách núi non, ngày chơi trong hang động. Thực là:

Trong non không hay năm tháng.

Rét hết chẳng biết tiết xuân.

Một hôm, khi trời nóng bức, khỉ đá cùng với đoàn khỉ đi tránh nóng, cùng nhau đến đùa giỡn dưới bóng thông già.

Từng con nô giỡn. Leo cây vin cành. Hái hoa tìm quả
Nhảy nhót lanh chanh Nào trèo đống cát Nào xây tháp tầng Tìm bắt bươm bướm Chuồn chuồn vồ lanh Con lạy Bồ Tát
Con vái trời xanh Con xe dây sắn Con đan hài vân Tìm bắt chấy rận
Cắn móng tay, chân

Gãi cào xúm xít
Co kéo loanh quanh Nô đùa thỏa thích Trong rừng thông xanh Tắm táp nghịch ngợm Giữa suối trong lành
Lũ khỉ nô đùa một lúc, rồi lại xuống suối tắm mát. Chúng thấy nước suối chảy xiết, sóng bắn tung tóe. Xưa có câu: “Chim có giọng chim, thú có tiếng thú”. Lũ khỉ đều nói:

- Dòng suối này không biết từ đâu chảy đến, nhân chúng ta hôm nay nhàn rỗi, cứ men theo bờ suối, tìm đến tận đầu nguồn của nó chơi đi!

Cả bầy reo hò, đực cái dắt nhau, anh em ríu rít chạy cả lại, men theo bờ suối bò lên núi. Đến đầu nguồn, chỉ thấy một thác nước trắng xóa:

Một dải trắng xóa cầu vồng

Nghìn tám sóng tuyết mịt mùng bay ngang

Vi vu gió biển thổi tràn

Mặt sông soi tỏ vầng trăng thuở nào

Khí lạnh tê buốt non cao

Nước nguồn mát lạnh xanh màu cỏ cây

Thác trong cuồn cuộn đêm ngày

Xa trông nom tựa rèm mây lưng trời.

Bọn khỉ vỗ tay thú vị:

- Nước sâu lắm! Nước sâu lắm! Chỗ này vốn ăn thông xuống chân núi chảy ra tận biển lớn.

Bọn khỉ lại nói:
- Có một việc này, nếu ai chui vào tìm ra đầu nguồn mà mình mẩy không xây xát, chúng ta sẽ tôn làm vua. Nói xong chúng hú vang ba tiếng. Bỗng từ trong bụi rậm, một con khỉ đá nhảy ra lớn tiếng nói:

- Tôi xin đi! Tôi xin đi! Con khỉ đẹp lắm! Thực là:
Tiếng thơm nay đã nổi Thời đến vận hanh thông Có duyên nương chốn ấy. Vua sai vào tiên cung.
Khỉ đá nhắm mắt vươn mình, nhảy phốc một cái vào giữa thác nước, rồi mở mắt ngẩng đầu nhìn, thì ra suối không có nước, thấy rõ ràng một cái cầu. Khỉ đá đứng im, định thần nhìn kỹ, thì ra một cái cầu sắt. Nước dưới gầm cầu chảy vào lỗ đá, khi nước chảy ngược, cửa cầu liền đóng lại. Khỉ đá lại nhảy lên đầu cầu, vừa đi vừa nhìn thấy hình như có nhà cửa, người ở. Thực là một nơi tuyệt diệu! Chỉ thấy:

Rêu xanh xanh từng đám. Mây trăng trắng ngọc ngà Long lanh lớp yên hà,
Cửa nhà hư tĩnh quá! Ghế ngồi hoa nở đỏ Thạch nhũ rủ động sâu Hoa có thắm một mầu Bếp đá còn vết lửa
Trên án thức ăn còn nguyên cả, Giường đá trắng bong thật tuyệt trần
Chậu đá, bát đá đẹp vô cùng Dăm ba khóm trúc xanh mát rượi Hoa mai trắng ngần nở lác đác Tùng xanh cành lá mướt mưa xuân
Chẳng khác chi nhà cửa thường dân.

Xem xét hồi lâu, khỉ đá đi ra giữa cầu, nhìn ngắm hai bên chỉ
thấy có tấm bia đá khắc bằng chữ to[15]


  “núi Hoa Quả, động
[16]
Thủy Liêm”

. Nó mừng quá, vội chạy về, nhắm mắt vươn
mình, nhảy ra khỏi suối nước, cười khanh khách nói:

- Gặp may rồi! Gặp may rồi! Lũ khỉ xúm lại hỏi:
- Trong ấy thế nào? Nước có sâu lắm không? Khỉ đá cười:
- Không có nước, không có nước, chỉ có một chiếc cầu sắt, bên cầu là một cơ nghiệp trời đất xây dựng nên.

Lũ khỉ nói:

- Sao biết đó là một tòa cơ nghiệp? Khỉ đá cười, nói:
- Dòng nước này chảy xói dưới chân cầu, chảy ngược lại thì lấp cửa cầu. Bên cầu có cây cối hoa cỏ, có một tòa nhà đá, trong nhà có hang đá, bếp đá, bát đá, chậu đá, giường đá, ghế đá. Ở giữa có tấm biển đá, khắc hàng chữ “núi Hoa Quả, động Thủy Liêm”. Thực là chốn yên thân của bọn ta. Bên trong động lại rộng rãi, có thể chứa được hàng trăm nghìn người già trẻ. Chúng ta đưa nhau vào đó ở, tránh được khi trời nóng lạnh. Trong ấy:

Chính nơi tránh gió nương mình
Mưa rơi chẳng ngại thân mình lạnh run

Trong này chẳng sợ tuyết sương Ngoài kia sấm nổ, đây thường chẳng nghe Sáng ngời lớp lớp ráng che
Mây lành lững thững đi về quanh hang

Tùng trúc tươi tốt mỡ màng

Hoa thơm cỏ lạ ngày càng thêm xuân

Lũ khỉ nghe xong, thích thú nói:

- Anh đi trước, dẫn chúng tôi vào theo đi! Vào đi! Khỉ đá lại nhắm mắt, nhún mình, nhảy xuống kêu to:
- Tất cả theo ta mau!

Có mấy con khỉ bạo dạn nhảy theo. Những con nhút nhát, co đầu, rụt cổ, vuốt mặt vò tai, la hét một hồi, mới dám nhảy xuống. Nhảy qua đầu cầu rồi, con nào con nấy giật chậu, cướp bát, chiếm bếp, tranh giường, khiêng đi khiêng lại. Thật là giống khỉ hiếu động không lúc nào để yên chân tay. Khuân dọn một lúc, mệt nhoài, chúng mới thôi.

Lúc ấy, khỉ đá ngồi ngay ngắn ở bên trên nói:

- Thưa các vị, người mà bất tín, thì chẳng ra gì. Các vị vừa nói ai tài giỏi, chui ra chui vào, thân thể không việc gì, thì tôn làm vua. Nay ta vào được lại ra được, ra rồi lại vào, tìm thấy được động trời, để chúng ta có cuộc sống yên ổn, ai nấy đều được hưởng phúc có cơ nghiệp, thế mà tại sao không tôn ta làm vua?

Lũ khỉ nghe nói, đều chắp tay cúi đầu, không dám trái lệnh. Chúng bèn theo tuổi chia ban, cùng sụp lạy hô vang:

[17]
- Đại vương vạn tuế!
Từ đó khỉ đá lên ngôi vua, giấu chữ “đá” đi mà xưng là “Mỹ hầu vương”. Có thơ rằng:

Ba dương hòa, nở muôn loài

Đá tiên chứa đựng đất trời tinh hoa

Hầu tinh từ trứng hóa ra

Họ tên đổi khác thật là khéo thay

Trong tàng ẩn tướng có hay?

Vẻ ngoài cũng chẳng thua ai hình hài

Nhân gian kiếp kiếp trò đời

Xưng vua, xưng chúa một thời dọc ngang.

Hầu vương liền chỉ huy một đàn khỉ vượn, khỉ cái, khỉ ngựa, sắp đặt thành quân, thần, tả, sứ, sớm dạo chơi núi Hoa Quả, đêm về ngủ động Thủy Liêm, cùng nhau đồng lòng, chẳng lẫn vào đàn  chim  bay,  không  theo  vào  loài  thú  chạy,  độc  lập  xưng vương, rất là thích thú. Thật là:

Xuân đến thì hái trăm hoa.

Hè về tìm quả quanh nhà bầy ăn

Thu sang đào củ thơm lành, Đông qua đi kiếm hoàng tinh về xài.
Hầu vương hưởng phúc vui vẻ, thoắt đã ba bốn trăm năm. Một hôm, Hầu vương đang cùng bạn bè yến tiệc vui vẻ, bỗng nhiên trở nên phiền não, nước mắt giàn giụa. Lũ khỉ thấy thế sợ hãi sụp lạy, hỏi:

- Đại vương làm sao thế? Hầu vương nói:
- Ta tuy trong lúc vui thích, nhưng có một điều phải lo xa, cho nên phiền não.
Lũ khỉ lại cười, nói:

- Đại vương thực không biết thế nào là đủ. Chúng ta đang ngày ngày hưởng sung sướng ở nơi phúc địa non tiên, thần châu cổ động, không chịu kỳ lân cai trị, phượng hoàng quản lý, lại chẳng bị vua chúa nhân gian câu thúc, tự do tự tại, thực là vô cùng hạnh phúc, việc gì phải lo xa, chuốc lấy phiền não nữa!

Hầu vương nói:

- Ngày nay tuy không phải theo pháp luật của vua chúa, không sợ oai quyền của thú muông, nhưng một mai tuổi già sức yếu, lão Diêm vương vẫn ngấm ngầm quản lý. Một ngày kia chết đi, chẳng hóa uổng công sinh ở thế gian, không được hưởng mãi phúc trời ư?

Lũ khỉ nghe nói như thế, con nào con nấy cúi đầu che mặt khóc thút thít, lo sợ về nỗi vô thường.

Bỗng trong ban bệ, một con vượn lưng thẳng nhảy ra, lớn tiếng thưa rằng:

- Đại vương biết lo xa như thế, vậy là đạo tâm thực đã khai
phát rồi đấy. Hiện nay ngoài năm giống[18]


thì có ba bậc danh
sắc là không bị Diêm vương cai quản.

Hầu vương nói:

- Nhà ngươi có biệt ba bậc ấy không? Con vượn thưa:
- Đó là ba bậc: Phật, tiên và thần thánh, thoát khỏi luân hồi, không sinh không diệt, thọ ngang cùng trời đất, núi sông.

Hầu vương nói:

- Ba bậc ấy ở đâu? Con vượn thưa:
- Họ ở ngay trong thế giới Diêm phủ này[19]


 những nơi động
cổ, núi tiên.

Hầu vương nghe nói, trong lòng thỏa mãn vui mừng nói rằng:

- Ngày mai ta sẽ từ giã các ngươi xuống núi, đi khắp góc biển chân trời, quyết tâm tìm cho được ba đấng ấy, học lấy phép sống mãi không già, để tránh nạn Diêm vương.

Ôi, câu nói đó thúc giục vượt qua lưới luân hồi, làm thành Tề
Thiên đại thánh!

Lũ khỉ vỗ tay tán thưởng nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Ngày mai chúng tôi sẽ vượt núi băng ngàn tìm nhiều loại hoa quả, đặt tiệc lớn tiễn đại vương.

Ngày hôm sau, cả lũ khỉ rủ nhau đi hái đào tiên, lấy quả lạ, tìm thuốc rừng, hoàng tinh, lan thơm, huệ ngát, quả lạ, hoa kỳ, đủ các thức, bày biện chỉnh tề trên bàn đá, ghế đá, cùng với thức nhắm, rượu ngon. Chỉ thấy những:

Anh đào đỏ ửng ngon lành.

Mơ kia chín mọng vị thanh ngọt ngào.

Nhãn tươi, nước ngọt làm sao!

Vải thiều hạt nhỏ quả nào cũng thơm.

Lâm cầm màu biếc tươi nguyên, Từng chùm bứa chín hái chen lá già Lê đầu thỏ, táo trứng gà,
Bổ người giải khát cùng là tỉnh men.

Hạnh đào ngọt tựa quỳnh tương, Mận mềm mơ rắn ăn ngon nhất đời! Thị tròn thơm, sắc vàng tươi,
Dưa hấu ruột đỏ, hạt ngời sắc đen.

Lựu chín nứt, hạt như ken.

Hạt dẻ nhân rắn lại thêm béo bùi.

Pha trà ngân hạnh tuyệt vời!

Dừa tươi, nho chín nấu nồi rượu ngon, Hồng, na, mít, dứa ngát thơm.
Cam, chanh, quýt, mía dâng lên chật bàn.

Thuốc tiên bao thứ trên ngàn.

Sắc trong nồi đá, tiệc càng thêm ngon.

Dù ai sướng nhất thế gian,

Cũng không sánh kịp Hầu vương tiệc này

Lũ khỉ mời Hầu vương ngồi lên trên, còn lại xếp theo thứ tự tuổi tác ngồi ở dưới. Chúng lần lượt dâng rượu, dâng hoa, dâng quả, ăn uống vui vẻ suốt một ngày. Hôm sau, Mỹ hầu vương dậy sớm, truyền lệnh:

- Các con hãy đi lấy một ít cây thông khô, đóng một cái bè, chặt cây tre làm sào chống, nhặt nhạnh ít hoa quả, để ta làm thức ăn đi đường.



Rồi một mình Hầu vương xuống bè, ra sức chèo chống, lênh đênh thẳng hướng biển cả mà đi. Thuận chiều gió nên chẳng bao lâu bè giạt vào địa giới Nam Thiệm Bộ Châu. Chuyến đi này, thật là:

Đạo hưng trời đẻ khỉ tiên,

Rời non thuận gió lênh đênh cưỡi bè.

Học tiên đạo, vượt biển xa,

Bền lòng vững chí ắt là thành công.

Gặp duyên có phúc, có phần,

Bởi tin đắc đạo lòng không lo phiền.

May thay gặp được chân tiên,

Rõ ràng gốc gọn tỏ tường đạo sâu.

Đúng gặp lúc thời vận của Hầu vương đến, nên từ lúc cưỡi bè
ra đi, luôn luôn có gió Đông nam thổi mạnh, đưa bè tới bờ Tây bắc là địa giới của Nam Thiệm Bộ Châu. Hầu vương chống sào đo nước, thấy đã hơi nông, bèn rời bè nhảy lên bờ, chỉ thấy có người đánh cá, bẫy chim, đào sò, phơi muối.

Hắn bèn đến gần giả làm ma quái đùa giỡn, dọa nạt, khiến mọi người sợ hãi, vứt bẫy quăng lưới chạy tán loạn. Hầu vương bắt được một người chạy không kịp, lột lấy quần áo, bắt chước mặc vào người mình, nghênh ngáo đi khắp châu huyện, phố xá, học lễ, học nói, ngày ăn tối ngủ, một lòng dò hỏi đạo Phật tiên thần thánh, tìm phương thuật trẻ mãi không già, nhưng chỉ thấy toàn là hạng đua tranh danh lợi, không có một người lo lắng mệnh thân. Thật là:

Đua chen danh lợi dập dồn

Thức khuya dậy sớm chẳng còn tự do

Mong tuấn mã khi cưỡi lừa.

Làm quan tể tướng, lại mơ vương hầu.

Mệt nhoài cơm áo tranh nhau. Chẳng lo quỷ sứ bắt chầu Diêm vương. Mãi mê vun đắp cháu con.
Nào ai tỉnh giấc tìm đường hồi tâm?

Hầu vương tìm học đạo tiên, không biết ở đâu cả. Ở Nam Thiệm Bộ Châu, sục sạo thành lớn, thấm thoắt đã tám, chín năm. Rồi một hôm đi đến Tây Dương đại hải, nghĩ bụng ngoài biển nhất định có thần tiên. Bèn tự mình đóng bè, vượt qua Tây Hải, thẳng tới địa phận Tây Ngưu Hạ Châu. Hầu vương lên bờ tìm hỏi, chợt nhìn thấy một tòa núi cao xinh đẹp, rừng rậm âm u và chẳng sợ lang sói, hùm beo, trèo lên tận đỉnh núi quan sát. Quả là một ngọn núi tuyệt đẹp:

Nghìn ngọn như giáo dựng.
Muôn tầng tựa bình phong.

Nắng rọi biếc hơi lam. Mưa nhuần sắc núi thẫm. Cổ thụ dây mây quấn.
Bến cũ đường thanh u.

Hoa cỏ lạ xanh rì.

Trúc tùng xanh mươn mướt. Nghìn năm thắm mãi miền đất phúc. Bốn mùa đượm vẻ chốn Doanh Bồng. Ríu rít tiếng chim rừng.
Dạt dào dòng suối lượn. Tầng tầng hang hốc chi lan quấn. Chốn chốn vách non rêu phủ xanh. Nhấp nhô thế núi đẹp như tranh. Hẳn phải có cao nhân ở ẩn.
Đang ngồi xem xét, Hầu vương chợt nghe thấy trong rừng sâu có tiếng người, bèn vội vàng chạy vào rừng, lắng tai nghe biết là tiếng hát.

Hát rằng:

Xem cơ mục cán rìu rồi,

Chặt cây chan chát trên đồi cây xanh.

Cửa hang lững thững mây lành, Bán củi mua rượu thỏa tình say sưa. Đêm thu trời biếc sao thưa,
Gối cây nằm khểnh, hững hờ ngắm trăng.
Vô tư đánh một giấc nồng, Sáng rồi ta lại vào rừng chặt cây. Chiều về một gánh trên vai,
Nghêu ngao giữa chợ đổi vài thúng ngô.

Thời giá vẫn rẻ như xưa

Lường thưng tráo đầu lọc lừa làm chi.

Mặc vinh nhục, kệ thị phi,

Ung dung điềm đạm ta thì sống lâu

Gặp nhau: Phật đạo phép mầu

Bình tâm tĩnh tọa giảng câu “Hoàng đình”

Hầu vương vừa nghe xong, thấy trong lòng phấn chấn nghĩ: “Hóa ra thần tiên ẩn ở đây” vội vàng đi vào bên trong, nhìn kỹ thấy có một người tiều phu đang giơ rìu chặt củi, ăn mặc khác thường:

Đầu đội nón lá mo nang

Mình mặc áo vải sợi bông dệt thành.

Hầu bao bằng lụa tơ tằm, Chân đi hài cỏ đan bằng sợi mây Cây rìu sắt nằm trong tay.
Trên vai một gánh củi gai đỏ hồng.

Đẵn cây chặt củi thong dong, Tiều phu nghề ấy ai bằng được ta?
Hầu vương đến gần nói:

- Xin kính chào lão thần tiên.

Người kiếm củi vội vàng quăng búa, quay người lại đáp lễ:
- Không dám, không dám! Tôi là người vụng về, ăn mặc lôi thôi chẳng dám nhận hai tiếng “thần tiên”.

Hầu vương thưa:

- Ngài không phải thần tiên, thì sao lại nói ra những lời thần tiên như vậy?

Người kiếm củi nói:

- Tôi có nói lời thần tiên nào đâu? Hầu vương nói:
- Khi tôi vừa đến mé rừng, đã nghe thấy ngài nói: “Gặp nhau: Phật đạo phép mầu, bình tâm tĩnh tọa giảng câu Hoàng đình”. Hoàng đình là châm ngôn đạo đức, vậy chẳng phải thần tiên là gì!

Người kiếm củi cười, nói:

- Chẳng giấu gì bác, bài hát đó tên là “Mãn đình phương” của một vị thần tiên dạy cho tôi. Vị ấy là hàng xóm của tôi. Ngài thấy tôi công việc vất vả, lại hay buồn phiền, bèn dạy cho tôi, và dặn rằng: “Khi nào buồn phiền thì hát bài ấy, một là giải trí, hai là hết khổ”. Hôm nay tôi có điều lo lắng, lòng dạ buồn phiền nên mới hát bài ấy, không ngờ bác lại nghe được.

Hầu vương nói:

- Nhà ông ở cạnh thần tiên, sao ông không chịu theo họ tu hành, để học lấy phép trẻ mãi không già, chẳng tốt lắm ư?

Người kiếm củi nói:

- Tôi cả đời khổ cực, từ nhỏ, nhờ ơn cha mẹ nuôi nấng, đến năm tám, chín tuổi mới hơi biết việc đời. Chẳng may bố chết, mẹ ở góa, lại không có anh em, chỉ có một mình tôi, tôi chẳng biết làm gì, chỉ biết sớm tối trông nom mẹ. Giờ đây mẹ tôi già rồi, tôi chẳng dám đi đâu. Ruộng vườn bỏ hoang, ăn mặc chẳng
đủ, hàng ngày chỉ biết kiếm củi đem ra chợ bán lấy mấy đồng, đong vài đấu gạo, mang về thổi cơm nấu nước phụng dưỡng mẹ già. Vì thế, tôi không tu hành được.

Hầu vương nói:

- Nghe lời ông nói, thì quả là người hiếu hạnh quân tử, sau này ắt sẽ gặp điều hay. Bây giờ tôi nhờ ông chỉ giùm cho nơi thần tiên ở, để tôi được đến vái chào.

Người kiếm củi cười:

- Gần thôi, gần thôi. Núi này gọi là “Linh Đài Phương Thôn”. Trong núi có động “Tà Nguyệt Tam Tinh”. Trong động có vị thần tiên tên gọi Tu Bồ Đề tổ sư. Vị sư ấy có rất nhiều đồ đệ, nay vẫn còn khoảng ba bốn chục người tu hành. Nhà bác cứ đi theo con đường mòn này, thẳng hướng Nam khoảng bảy, tám dặm là đến nơi.

Hầu vương nắm tay người kiếm củi, nói:

- Thưa lão huynh, lão huynh làm ơn đưa tôi đến. Nếu tốt lành, tôi không bao giờ quên ơn chỉ dẫn.

Người kiếm củi nói:

- Bác là người hảo hán mà không biết thông biến. Tôi chẳng vừa nói với bác là gì, bác không hiểu ư? Nếu tôi đi với bác, thì bỏ dở việc bán củi của tôi. Mẹ già tôi lấy ai phụng dưỡng? Tôi còn bận kiếm củi, bác cứ đi đi!

Hầu vương nghe nói như vậy, bèn từ biệt người kiếm củi, ra khỏi rừng sâu tìm đường vượt qua sườn núi khoảng độ bảy, tám dặm, quả nhiên nhìn thấy một tòa động phủ. Hầu vương vươn thẳng người lên, nhìn kỹ: Thật là một nơi tuyệt đẹp!

Chỉ thấy:

Ráng mây rực rỡ,
Nhật nguyệt huy hoàng.

Nghìn cây trắc cổ, Muôn đốt trúc vàng,
Nghìn cây trắc cổ, mưa đượm lưng trời xanh mướt mướt. Muôn đốt trúc vàng, khói lồng cửa động về mang mang Ngoài cửa hoa thơm thêu gấm,
Bên cầu cỏ ngọc đưa hương. Chênh vênh vách đá rêu xanh phủ, Chất ngất non cao cổ thụ trường. Hạc tiên hót văng vẳng.
Phượng hoàng bay chập chờn.

Hạc tiên hót, tiếng vang chín chắm xa thẳm: Phượng hoàng lượn, lông màu rực ánh vân quang Ẩn hiện đủ vượn đen hươu trắng.
Ra vào nhiều voi ngọc lân vàng

Ngắm nhìn nơi phúc địa

Thật một chốn thiên đường.

Lại thấy cửa động đóng chặt im phăng phắc không dấu chân người. Hầu vương chợt ngoảnh đầu lại nhìn thấy sườn non có một tấm bia đá cao khoảng hơn ba trượng, rộng hơn tám thước, trên khắc một hàng mười chữ lớn “núi Linh Đài Phương Thôn, động Tà Nguyệt Tam Tinh” Mỹ hầu vương vô cùng phấn khởi nói:

- Người vùng này quả là thật thà chất phác. Đúng là có núi có động như thế!

Hầu vương đứng xem hồi lâu, chẳng dám gõ cửa, rồi trèo lên
ngọn cây thông, hái quả ăn chơi.

Lát sau, chỉ nghe thấy một tiếng kẹt, cửa động mở. Một chú tiểu đổng tử bên trong đi ra, dáng người thanh tú, vẻ mặt khôi ngô, khác hẳn người thường:

Đầu tết hai bím trái đào,

Tay áo lụng thụng gió vào phất phơ.

Mặt mũi lộ vẻ thanh kỳ,

Tầm trông thanh thoát, tướng thì lâng lâng

Khách ngoại vật sống muôn năm, Trẻ thơ thọ mãi ở trong núi rừng.
Bụi trần chẳng bợn đến thân,

Thung dung nào biết tháng năm trôi ngừng.

Tiểu đồng vừa ra khỏi cửa, liền kêu to rằng:

- Kẻ nào nghịch ngợm, quấy rối ở đây thế?

Hầu vương từ trên cây nhảy xuống, đến trước mặt tiểu đồng, lễ phép nói:

- Thưa tiểu đồng, tôi là đệ tử đi tìm học đạo tiêu, đâu dám quấy rối.

Tiểu đồng cười, nói:

- Anh là người đi tìm? Hầu vương thưa:
- Vâng.

Tiểu đồng nói:

- Sư phụ vừa mới đăng đàn giảng đạo, chưa nói rõ nguyên do, đã bảo tôi ra mở cửa. Ngài nói: “Ngoài cửa có kẻ tu hành đến, nên ra đón tiếp, có lẽ là anh chăng?”.
Hầu vương cười, nói:

- Chính tôi, chính tôi! Tiểu đồng nói:
- Anh đi theo tôi.

Hầu vương sửa sang lại quần áo ngay ngắn, theo tiểu đồng đi thẳng vào trong động sâu, nhìn thấy: gác tía lầu son, cửa châu nhà ngọc, tầng tầng lớp lớp cảnh vật cục kỳ u tĩnh. Hầu vương đi thẳng đến dưới đài ngọc, thấy vị Bồ Đề tổ sư ngồi ngay ngắn ở trên, hai bên có ba mươi vị tiểu tiên đứng hầu. Quả là:

Kim tiên đại giác sạch ghê, Phương Tây diệu tướng Bồ Đề tổ sư. Không sinh diệt, đức cao xa,
Thần tròn khí vẹn rất là từ bi.

Chân như bản tính an vi.

Tự nhiên không tịch, tùy nghi biến dời.

Trang nghiêm thọ sánh đất trời, Pháp sư muôn kiếp sáng ngời là đây.
Hầu vương vừa nhìn thấy đã cúi người lạy liên tiếp và nói:

- Thưa sư phụ, thưa sư phụ, đệ tử con lòng thành chầu lễ. Tổ sư nói:
- Nhà ngươi là người ở đâu, mau nói rõ quê quán họ tên rồi hãy lạy.

Hầu vương thưa:

- Đệ tử là người động Thủy Liêm, núi Hoa Quả, nước Ngạo
Lai, thuộc Đông Thắng Thần Châu.

Tổ sư quát mắng ra lệnh:
- Tống cổ nó ra! Thằng này là hạng dối trá quanh co, còn tu hành thành đạo quả sao được!

Hầu vương sợ hãi dập đầu thưa:

- Đệ tử nói thật mà, đâu dám nói dối. Tổ sư nói:
- Mày nói thực thà, mà lại nói Đông Thắng Thần Châu à? Từ nới ấy đến đây cách hai lần biển lớn, một tòa Nam Thiệm Bộ Châu, làm sao mà tới được?

Hầu vương cúi đầu thưa:

- Đệ tử lênh đênh vượt biển, lang thang trên bộ mười mấy năm trời, mới đến được đây.

Tổ sư nói:

- Ừ, đi mãi dần dà cũng đến nơi. Thế tính[20]


người là gì?

Hầu vương đáp:

- Con không có tính. Người ta mắng con, con cũng không giận: đánh con, con cũng không tức, chỉ lạy họ mà thôi, cả đời con không có tính.

Tổ sư nói:

- Không phải là tính tình. Thế cha mẹ nhà ngươi vốn họ gì? Hầu vương đáp:
- Con cũng không có bố mẹ.

Tổ sư nói:

[21]
- Không có bố mẹ thì đẻ ra ở lỗ nẻ chắc?

Hầu vương thưa:

- Con tuy không phải đẻ ra ở lỗ nẻ, nhưng lại từ trong tấm đá
sinh ra. Con chỉ nhớ rằng trên núi Hoa Quả có một tảng đá tiên, năm ấy tảng đá vỡ ra và sinh ra con.

Tổ sư nghe nói, trong dạ mừng thầm, nói:

- Như thế là trời đất sinh thành ra người. Nhà ngươi hãy đứng dậy, đi lại ta xem.

Hầu vương nhảy tót lên, loanh quanh chạy hai vòng. Tổ sư cười, nói:
- Chữ “tôn” bỏ bộ thú bên cạnh đi, còn lại chữ tử và chữ hệ. Tử là con trai, hệ là trẻ nhỏ. Nhà ngươi chính hợp với bản chất của trẻ nhỏ. Vậy đặt cho ngươi là họ “Tôn” nghe!

Hầu vương nghe nói trong lòng vui mừng khôn xiết cúi đầu lạy tạ rằng:

- Hay quá, hay quá! Hôm nay con mới biết có họ. Đội ơn sư phụ từ bi, con đã có họ, xin đặt cả tên cho con để tiện gọi.

Tổ sư nói:

- Trong môn phái ta có mười hai chữ để phân phát đặt tên, đến nhà ngươi là đồ đệ nhóm mười.

Hầu vương nói:

- Mười hai chữ là gì? Tổ sư nói:
- Mười hai chữ là: Quảng, Đại, Trí, Tuệ, Chân, Như, Tính, Hải, Dĩnh, Ngộ, Viên, Giác. Đến lượt ngươi là chữ “ngộ”. Vậy đặt cho nhà ngươi pháp danh là “Tôn Ngộ Không” có được không?

Hầu vương cười, nói:

- Hay quá, hay quá! Từ nay ta sẽ là Tôn Ngộ Không. Chính là:
Hỗn mang mới mở vốn không họ,

[22]
Phá hết mịt mờ: Phải Ngộ Không

Muốn biết Ngộ Không tu hành đắc đạo ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ HAI






[23]
Thấu lẽ bồ đề là diệu lý






[24]
Bỏ ma về gốc ấy nguyên thần


Lại nói Hầu vương đã có tên họ, lấy làm khoái chí nhảy nhót,
đến trước Tổ sư Bồ Đề lạy tạ. Tổ sư bảo mọi người dẫn Tôn Ngộ Không ra ngoài cửa thứ hai, dạy cho các việc quét dọn, cùng cách cư xử, ứng đối. Các tiên vâng mệnh đi ra. Ngộ Không ra ngoài cửa lạy chào mọi người, rồi vào hành lang dọn dẹp chỗ nằm. Sớm hôm sau, cùng các bạn học nói năng, lễ phép, giảng kinh làm đạo, tập việc thắp hương, ngày nao cũng như vậy. Lúc nhàn rỗi, thì quét sân cuốc vườn, vun hoa tỉa lá, gánh nước kiếm củi, việc gì cũng làm đủ. Thấm thoắt ở trong động đã sáu, bảy năm. Một hôm, tổ sư đăng đàn, hội họp các chư tiên lại nghe giảng đạo. Thật là:

Trời hoa rụng, đất sen ngời.





[25]
Tam thừa diệu lý giảng lời tinh thông

Phất trần phe phẩy thong dong.

Lời châu tiếng ngọc vang trong chín miền.

Khi giảng đạo, lúc bàn thiền.

Ba nhà phối hợp, nghĩa liền sáng tinh.

Khai tâm cốt một chữ thành.

Lẽ huyền giác ngộ, tử sinh rõ đường.

Tôn Ngộ Không ngồi nghe giảng, sướng quá đến nỗi xoa tai
vuốt má, mặt mày hớn hở, khoa tay múa chân.

Bỗng bị tổ sư trông thấy, gọi lên bảo:

- Ngươi ngồi trong lớp, tại sao lại điên cuồng nhảy nhót, không nghe ta giảng?

Ngộ Không thưa:

- Con thành tâm nghe giảng, đến những chỗ sư phụ giảng nhiệm mầu quá, lòng vui mừng khôn xiết, không nhịn được, nên có những điệu bộ như vậy, mong sư phụ tha tội.

Sư phụ nói:

- Ngươi đã hiểu chỗ nhiệm mầu, ta thử hỏi ngươi, người đến động này đã bao lâu rồi?

Ngộ không đáp:

- Con lú lẫn đần độn, không biết đã đến đây mấy năm rồi. Con chỉ nhớ những khi trong bếp không có lửa, thường ra sau núi kiếm củi, thấy có một cây đào ngon, con đã bảy lần ăn no đào rồi.

Tổ sư nói:

- Núi ấy gọi là núi Lan Đào. Ngươi đã ăn bảy lần tức là bảy năm rồi. Nay nhà ngươi muốn học đạo gì?

Ngộ Không thưa:
- Chỉ mong sư phụ dạy dỗ, miễn có vị đạo là đệ tử xin học. Tổ sư nói:

[26]
- Trong chữ “đạo” có ba trăm sáu mươi bàng môn

, bàng
môn nào cũng có chính quả, không biết nhà ngươi muốn học môn nào?

Ngộ Không thưa:

- Tùy ý sư phụ, đệ tử nguyện dốc lòng nghe theo.
Tổ sư nói:

-  Ta  dạy  cho  ngươi  đạo  trong  môn  chữ  “thuật”  có  được không?

Ngộ Không hỏi:

- Đạo trong môn chữ “thuật” nghĩa là thế nào? Tổ sư đáp:
- Đạo trong môn chữ “thuật” là cầu tiến phù trợ, bói bằng cỏ
[27]
thi

, để có thể đón lành tránh dữ.

Ngộ Không hỏi:

- Nhưng có thể sống lâu được không? Tổ sư nói:
- Không được! Không được! Ngộ Không nói:
- Thế thì con không học đâu! Không học đâu! Tổ sư lại nói:
-  Thế  thì  dạy  ngươi  đạo  trong  môn  chữ  “Lưu”  có  được không?

Ngộ Không lại hỏi:

- Môn chữ “Lưu” nghĩa là thế nào? Tổ sư nói:
- Trong môn chữ “lưu” là các loại Nho gia, Thích gia, Đạo gia, Âm dương gia, Mặc gia, Y gia, hoặc xem kinh, hoặc niệm
Phật. Đều là loại cầu chân[28]


giảng thành cả.

Ngộ Không lại hỏi:

- Theo môn này có thể sống lâu được không?
Tổ sư nói:

- Không, nếu muốn sống lâu thì chẳng khác gì “trồng cột trong vách”.

Ngộ không nói:

- Thưa sư phụ, con là người thực thà, không hiểu lời nói bóng bẩy, thế nào là “trồng cột trong vách”.

Tổ sư nói:

- Người ta làm nhà, muốn cho vững chãi, thì giữa tường phải dựng cột cái cột. Một khi cái nhà ấy đổ, thì cột kia cũng mục theo.

Ngộ không nói:

- Cứ như lời sư phụ nói thì chẳng được lâu dài, con không học, không học!

Tổ sư nói:

-  Thế  dạy  nhà  ngươi  đạo  trong  môn  chữ  “tĩnh”  có  được không?

Ngộ không lại hỏi:

- Môn chữ “tĩnh” đạt chính quả nào? Tổ sư nói:
- Môn ấy là nhịn ăn, ở hang, thanh tĩnh vô vi, trai giới ngồi
[29]
thiền hoặc phải có công phu tập ngủ, tập đứng, nhập định
tọa quan[30]

Ngộ Không lại hỏi:

- Thế có sống lâu được không? Tổ sư nói:
- Đó cũng như “hòn đất trong lò” thôi.
Ngộ Không cười, nói:

- Sư phụ cứ nói xa xôi, con không hiểu. Thế nào là “hòn đất trong lò”?

Tổ sư nói:

- Như hòn đất đã nặn thành viên gạch để trong lò, tuy đã thành hình, nhưng chưa nung lửa, một khi gặp mưa là bở ra ngay.

Ngộ Không nói:

- Vậy cũng không được lâu dài, con không học. Tổ sư nói:
- Thế thì dạy nhà ngươi đạo trong môn chữ “động” có được không?

Ngộ Không lại hỏi:

- Đạo môn chữ “động” như thế nào? Tổ sư đáp:
- Môn ấy là hữu vi hữu tác, lấy âm bổ dương, kéo cung đạp nỏ, xoa rốn lấy hơi, luyện đan chế thuốc, nấu hồng diên, luyện
thu thạch[31]


lại uống sữa người nữa.

Ngộ Không thưa:

- Thế có sống lâu được không? Tổ sư nói:
- Nếu muốn sống lâu thì khác nào “mò trăng đáy nước”. Ngộ Không nói:
- Sư phụ lại nói xa xôi rồi. Thế nào là “mò trăng đáy nước”? Tổ sư nói:
- Trăng trên bầu trời, bóng trong làn nước, tuy nhìn thấy,
nhưng mò không thấy. Rút cục vẫn là không.

Ngộ Không nói:

- Thế con cũng không học.

Tổ sư nghe đoạn, hừ một tiếng, từ trên đài cao nhảy xuống, tay cầm gậy giới xích, chỉ vào Ngộ Không nói:

- Loài khỉ già kia, đạo này không học, đạo kia không học, còn đòi học cái gì?

Rồi đi đến gõ đầu Ngộ Không ba cái, quay lưng giơ tay đi thẳng vào trong, đóng cửa giữa lại, bỏ mọi người ở ngoài. Cả lớp nghe giảng, ai cũng sợ hãi, đều oán Ngộ Không rằng:

- Đồ con khỉ, hỗn láo vô tích sự, sư phụ truyền đạo cho, tại sao không học, lại dám cãi sư phụ. Phen này làm Phật ý sư phụ, biết bao giờ sư phụ mới lại ra?

Lúc ấy cả bọn đều oán ghét và khinh bỉ Ngộ Không. Nhưng Ngộ  Không  chẳng  tức  giận,  chỉ  vui  cười.  Nguyên  do  Ngộ Không vốn đã ngầm hiểu ý của sư phụ, nên không tranh cãi với chúng bạn, chỉ lặng thinh không nói. Tổ sư đánh ba cái, có nghĩa là bảo phải để ý đến canh ba, chắp tay sau lưng, đi vào bên trong, đóng cửa giữa lại, rồi đi vào lối cửa sau, ở chỗ kín ấy sư phụ sẽ truyền đạo cho.

Cả ngày hôm ấy, Ngộ Không vui đùa cùng chúng bạn trước cửa động Tam Tinh, ngước mắt nhìn trời mãi chẳng thấy tối.

Khi trời vừa hoàng hôn, Ngộ Không đã cùng các bạn vào phòng ngủ, giả vờ nhắm mắt, nín hơi định thần chờ đợi. Trong núi lại không có trống canh, không biết giờ giấc, chỉ tự mình điều hòa hơi thở ra vào qua lỗ mũi mà ước tính. Khoảng giờ tý, Ngộ Không rón rén trở dậy, mặc quần áo, sẽ mở trộm cửa trước, giấu mọi người đi ra ngoài, ngẩng đầu quan sát. Chính là lúc:

Trăng sáng sương trong vắt,
Tám cõi sạch bụi trần. Cây cao chim rừng ngủ. Ngọn suối nước rì rầm. Đom đóm bay thấp thoáng. Cánh nhạn về bầu không. Canh ba giờ đã điểm,
Hỏi đạo, ôi thỏa lòng!

Ngộ Không theo đường cũ đến mé ngoài cửa sau, chỉ thấy cửa nửa khép nửa mở, mừng thầm nói:

- Quả sư phụ chủ ý truyền đạo cho ta, nên mới để ngỏ cửa.

Bèn đến gần, nghiêng mình vào, đi thẳng đến giường nằm của tổ sư, chỉ thấy tổ sư co mình, nằm quay mặt vào trong ngủ. Ngộ Không chẳng dám kinh động, chỉ quỳ xuống ở trước giường. Một lát, tổ sư thức dậy duỗi thẳng hai chân, ngâm nga:

Đạo huyền diệu thực khó thay! Chớ nên quan niệm tu đây là nhàn. Chẳng gặp người giỏi trao truyền.
Cũng đành uổng phí miếng phiền lưỡi khô

Ngộ Không cất tiếng theo:

- Thưa sư phụ, đệ tử quỳ đợi ở đây đã lâu.

Tổ sư nghe thấy tiếng Ngộ Không, vùng dậy, mặc áo, ngồi xếp bằng, quát:

- Con khỉ kia, sao không ra đằng trước ngủ, lại đến chỗ ta ở đằng sau làm gì?

Ngộ Không thưa:

- Hôm qua ở trước đàn, sư phụ có dặn rằng: đến canh ba, đi
lối cửa sau vào, sư phụ sẽ truyền đạo cho. Cho nên con mới dám đến lạy trước giường sư phụ.

Sư phụ nghe nói, trong lòng rất vui mừng, thầm nghĩ rằng:

- Thằng oắt con này quả là do trời đất sinh thành. Nếu không, làm sao đoán nổi ngầm ý của ta.

Ngộ Không lại nói:

- Lúc này chẳng có một ai, chỉ có một mình con, mong tổ sư mở lòng từ bi truyền cho con đạo sống lâu, con không bao giờ dám quên ơn.

Tổ sư nói:

- Nhà ngươi nay đã gặp được duyên, ta cũng vui lòng nói cho. Đã hiểu được ngầm ý của ta, thì lại gần đây nghe cho kỹ, ta truyền cho phép sống lâu mầu nhiệm.

Ngộ Không cúi đầu lạy tạ, quỳ dưới chân giường chú ý lắng tai. Tổ sư nói:

“Kín nhiệm viên thông chân diệu quyết

Sửa tính mệnh, đừng cho ai biết. Tất thảy vẫn là tinh, khí, thân. Cẩn thận giữ gìn chớ lậu tiết. Chớ tiết lậu ra, giữ ở thân,
Nghe ta truyền thụ đạo tăng dần. Khẩu quyết thuộc lòng càng có ích, Ngăn trừ tà dục nhẹ thân tâm.
Nhẹ nhõm thân tâm lòng thấy sáng

Đến chỗ đan đài thưởng ánh trăng.

Ngọc thỏ, kim ô nơi nhật nguyệt.
Rắn rùa quấn quýt chặt vô cùng. Quấn quýt rắn rùa càng thêm vững. Khác nào lửa đỏ trồng sen vàng
Tụ tán ngũ hành tùy sử dụng. Nên công thành Phật với thành tiên.
Lúc ấy, tổ sư nói toạc căn nguyên. Ngộ Không tâm linh phúc đến, nhớ hết khẩu quyết, lạy tạ ân sâu của tổ sư, rồi trở ra lối cửa sau. Chỉ thấy: Phương Đông trời mờ sáng, đường Tây rực ánh vàng, bèn theo đường cũ, đến cửa trước, nhẹ nhàng mở cửa bước vào, ngồi nguyên trên giường, đập thình thình nói:

- Sáng rồi, sáng rồi, dậy thôi!

Mọi người còn đang ngủ say, chẳng hề biết Ngộ Không đã gặp việc may. Ngay ngày hôm ấy Ngộ Không ngấm ngầm giữ gìn, cứ khoảng thời gian từ sau giờ Ngọ đến trước giờ Tý, tự mình điều hòa hơi thở.

Trải qua ba năm nữa, tổ sư lại đăng đàn thuyết pháp cho mọi
người. Bài giảng là “công án tỉ ngữ”[32]


bài luận là “ngoại
[33]

[34]
tượng”

 bao bì

, bỗng tổ sư hỏi:

- Ngộ Không đâu?

Ngộ Không bước lên, quỳ xuống thưa:

- Đệ tử đây. Tổ sư hỏi:
- Nhà ngươi bấy nay đã tu được đạo gì rồi? Ngộ Không thưa:
- Đệ tử dạo này pháp tinh hơi thông, căn nguyên cũng dần dần vững chắc.
Tổ sư nói:

- Đã thông pháp tinh, đã hiểu căn nguyên, đã nhập thân thể, còn phải đề phòng “ba tai hại” nữa.

Ngộ Không nghe nói, trầm ngâm hồi lâu, rồi thưa:

- Sư phụ nói sai rồi. Con thường nghe những bậc đạo cao đức trọng thọ mãi cùng trời đất, thủy hỏa đã vượt, trăm bệnh chẳng sinh thì sao lại còn “ba tai hại” nữa?

Tổ sư nói:

- Đây là một thứ đạo phi thường, cướp cả công tạo hóa, trời đất, lấn cả mây huyền vi của nhật nguyệt, sau khi luyện thành, quỷ thần không dung. Dù có thọ cũng chỉ đến năm trăm năm, sau đó trời sẽ sai sét đánh, cho nên cần phải thấy tinh sáng lòng dự phòng né tranh. Nếu tránh được, thì thọ ngang trời đất. Nếu không tránh được thì đến đây là tuyệt mệnh. Lại sau năm trăm năm nữa, trời giáng hỏa tai thiêu cháy. Thứ lửa đó không phải là lửa trời, cũng không phải là lửa thường, mà là thứ “âm hỏa” từ
huyệt  Dũng  Tuyền[35]


trong  người  đốt  thấu  lên  cung  Nê
[36]
, ngũ tạng cháy thành tro, tứ chi vụn nát, tu hành, khổ
hạnh nghìn năm biến thành hư ảo cả. Lại sau năm trăm năm nữa, trời giáng phong tai thổi bạt. Thứ gió ấy không phải là gió bốn phương Đông, Nam, Tây, Bắc, cũng không phải là thứ gió thu ấm áp, cũng không phải là thứ gió tùng trúc liễu hoa, mà là thứ
[37]

[38]
“bị phong” từ “tin môn”

 thổi vào lục phủ, qua đan điền
xuyên vào chín lỗ[39]


xương thịt tiêu hết, thân thể rời ra. Cho
nên đều phải tránh né cả.

Ngộ Không nghe nói, sợ sởn gai ốc, cúi đầu lạy nói:

- Muốn mong sư phụ rủ lòng thương, truyền cho con phép tránh ba thứ tai hại ấy. Con không bao giờ dám quên ơn.
Tổ sư nói:

- Cái đó cũng không khó, chỉ vì nhà ngươi khác mọi người, nên không truyền được.

Ngộ Không nói:

- Con cũng đầu tròn đội trời, chân vuông đạp đất, cũng có cửu khiếu tứ chi, lục phủ ngũ tạng, có gì khác với mọi người đâu?

Tổ sư nói:

- Ngươi tuy giống người, nhưng so với người thì mặt choắt. Loài khỉ vốn mặt choắt, má lõm, mõm nhọn.
Ngộ Không lấy tay sờ, cười nói:

- Sư phụ không tính cho. Con tuy mặt choắt, nhưng so với người còn hơn có cái túi, cũng có thể bù trừ chứ!

Tổ sư nói:

- Thôi cũng được. Thế ngươi muốn học ban nào? Số Thiên cương có ba mươi sáu bậc biến hóa, số Địa sát có bảy mươi hai bậc biến hóa.

Ngộ Không nói:

- Con muốn biết nhiều thứ, xin học Địa sát biến hóa vậy. Tổ sư nói:
- Nếu thế lại đây, ta truyền khẩu quyết cho.



Rồi ghé tai Ngộ Không nói nhỏ, không biết là diệu pháp gì. Còn Hầu vương, khi một khiếu đã thông, thì trăm khiếu cũng thông, học tập khẩu quyết, tự mình tu luyện, bảy mươi hai phép Địa sát biến hóa đều thuộc làu làu.

Một hôm, tổ sư cùng đồ đệ đi vãn cảnh trước động Tam Tinh. Tổ sư nói:
- Ngộ Không, con đã học thành chưa? Ngộ Không thưa:
- Đội ơn sâu của sư phụ, công quả của đệ tử đã trọn vẹn, có thể bay lên mây được rồi.

Tổ sư nói:

- Con thử bay lên ta xem.

Ngộ Không bèn khoe tài, cất mình lên, đi liền mấy bước, nhảy  lên  khỏi  mặt  đất  năm,  sáu  trượng,  đạp  mây  đi  chừng
khoảng ăn xong bữa cơm, loay hoay lên không cao quá ba dặm, rồi hạ xuống trước mặt tổ sư, chắp tay cung kính thưa:

- Thưa sư phụ, đó là bay lên mây đấy ạ. Tổ sư cười nói:
- Như thế không thể gọi là cưỡi mây được, chỉ là bò trên mây mà thôi. Xưa có câu: “thần tiên sớm chơi Bắc Hải, chiều ở Thương Ngô”, như nhà ngươi nửa ngày không lên nổi ba dặm, gọi là bò trên mây cũng chưa đáng!

Ngộ Không nói:

- Thế nào gọi là “sớm chơi Bắc Hải, chiều ở Thương Ngô?” Tổ sư nói:
- Phàm những người đi mây về gió, buổi sớm ra đi từ Bắc Hải vượt qua Đông Hải, Tây Hải, Nam Hải, rồi lại quay về Thương Ngô. Thương Ngô là quận Linh Lăng ở Bắc Hải. Một ngày đi chơi khắp bốn biển, mới gọi là cưỡi mây chứ!

Ngộ Không nói:

- Như thế thì khó lắm! khó lắm! Tổ sư nói:
- Chẳng có việc gì khó, chỉ sợ ý chí không bền.

Ngộ Không nghe câu nói ấy, bèn cúi đầu lạy tạ nói:

- Thưa sư phụ, sư phụ đã thương con thì thương cho trót, mở lượng từ bi, dạy cho con phép rẽ mây, con quyết không dám quên ơn.

Tổ sư nói:

- Phàm các vị tiên rẽ mây, đều cất chân là bay ngay, nhà ngươi lại không thế. Ta nhìn thấy nhà ngươi đi vài bước rồi mới nhảy lên. Nay ta truyền cho ngươi phép “cân đẩu vân”.
Ngộ Không cúi lạy chờ đợi. Tổ sư lại truyền khẩu quyết cho và nói:

- Đám mây này khi bấm quyết, niệm chân ngôn, rồi nắm hai tay lại, cất mình nhảy lên ngay. Mỗi cân đẩu đi được mười vạn tám nghìn dặm.

Mọi người nghe nói, cười ha hả:

- Ngộ Không may quá! Nếu học được phép này, làm lính đưa
[40]
trát

 thì đến đâu cũng có cơm ăn.

Trời tối, thầy trò ai nấy về động phủ.

Đêm hôm ấy, Ngộ Không vận thân luyện phép, hiểu được phép “cân đẩu vân”.

Từ đấy Ngộ Không chẳng còn gì câu thúc nữa, tiêu dao vui thú trong đạo sống lâu tuyệt vời.

Một hôm, xuân qua hè về, mọi người ngồi dưới gốc tùng trò chuyện hồi lâu, hỏi Ngộ Không rằng:

- Này Ngộ Không, anh tu đạo phép ấy từ bao giờ? Hôm trước sư phụ ghé tai anh nói nhỏ, truyền cho anh phép biến hóa tránh ba thứ tai hại, anh hiểu cả chứ?

Ngộ Không cười:

- Chẳng giấu gì anh em, một là sư phụ truyền thụ, hai là tôi đêm ngày chịu khó tập luyện, nên những phép đó đã nắm được cả.

Mọi người nói:
- Hôm nay đẹp trời, anh thử diễn lại cho chúng tôi xem nào. Ngộ  Không  nghe  nói,  phấn  chấn  tinh  thần,  muốn  khoe
khoang với mọi người bèn nói:

- Các anh thử ra đề mục, muốn tôi biến ra cái gì.
Mọi người nói:

- Biến ra cây tùng xem nào.

Ngộ Không bấm quyết niệm chú, lắc mình một cái, biến thành một cây tùng. Thực là:

Bốn mùa đượm khói xanh tươi,

Sát mây mọc thẳng giữa trời vút cao, Không còn dấu khỉ chút nào,
Dãi dầu sương tuyết đã bao nhiêu ngày.

Mọi người thấy thế, vỗ tay reo ầm lên:

- Con khỉ giỏi quá! Con khỉ giỏi quá!

Không ngờ tiếng ầm ĩ, náo động làm cho sư phụ nghe thấy. Sư phụ vội vàng chống gậy ra cửa hỏi:

- Ai làm gì mà huyên náo lên thế?

Mọi người nghe hỏi, sợ hãi im thít, sửa lại quần áo ngay ngắn, đứng trước tổ sư. Ngộ Không cũng hiện lại bản tướng, đứng lẫn vào trong đám bạn bè thưa:

- Thưa tôn sư, chúng con ở đây hội giảng, không có ai ở ngoài vào làm huyên náo đâu ạ.

Tổ sư tức giận mắng:

- Các ngươi la hét ầm ĩ, không ra thể thống người tu hành. Người tu hành mở miệng ra thì thần khí tán; lưỡi động thì thị phi sinh. Làm sao mà các ngươi cười đùa ở đây?

Mọi người thưa:

- Không dám giấu tôn sư, chúng con thử tài Tôn Ngộ Không biến hóa, bảo anh ấy biến thành cây tùng, quả nhiên biến thành cây tùng. Chúng con khen ngợi reo hò, to tiếng làm náo động đến tôn sư, mong tôn sư tha tội.
Tổ sư nói:

- Thôi các ngươi cút đi! Rồi gọi:
- Ngộ Không, lại đây! Ta hỏi ngươi sử dụng tinh thần thế nào? Biến thế nào ra cây tùng? Công phu ấy có thể đùa cợt trước mặt mọi người sao? Giả sử ngươi thấy người khác có, ắt phải cầu người ta. Người khác thấy ngươi có, ắt phải cầu ngươi. Nếu ngươi sợ tai vạ, ắt phải truyền cho người ta. Nếu không truyền sẽ bị hại, tính mệnh nhà ngươi khó mà giữ nổi.

Ngộ Không cúi đầu, nói:

- Mong tôn sư tha tội! Tổ sư nói:
- Ta cũng không bắt tội nhà ngươi, nhưng nhà ngươi phải đi đi thôi.

Ngộ Không nghe nói, ứa hai hàng lệ, nói:

- Tôn sư bảo con đi đâu? Tổ sư nói:
- Nhà ngươi từ đâu đến thì hãy về đấy! Ngộ Không chợt tỉnh ngộ ra, nói:
- Con từ động Thủy Liêm, núi Hoa Quả, nước Ngạo Lai, thuộc Đông Thắng Thần Châu đến đây.

Tổ sư nói:

- Ngươi mau về đấy mới toàn được tính mạng. Còn ở đây thì quyết không được!

Ngộ Không nhận tội, thưa với tổ sư rằng:

- Con bỏ nhà đã hai mươi năm, tuy được về với con cháu, nhưng nghĩ công ơn của tôn sư sâu nặng chưa báo, không dám
ra đi.

Tổ sư nói:

- Ân nghĩa gì đâu, nhà ngươi đừng gây họa, làm phiền đến ta là được.

Ngộ Không chẳng biết làm thế nào đành cúi lạy từ giã tổ sư, chia tay mọi người. Tổ sư nói:

- Chuyến đi này, hẳn gặp điều không hay, nhà ngươi có gây vạ hành hung cũng không được nói là đồ đệ của ta. Nhà ngươi nói ra nửa lời là ta biết ngay; ta sẽ lột da róc xương, đem thần hồn đày đọa nơi cửu u, muôn kiếp không cất mình lên được!

Ngộ Không thưa:

- Con quyết không dám nói đụng đến tôn sư dù là một tiếng, chỉ nói là tự mình học biết mà thôi.

Ngộ Không từ tạ tổ sư xong, cất mình, bấm quyết, dùng phép “cân đẩu vân” trở về Đông Thắng Thần Châu. Trong giây lát, đã trông thấy động Thủy Liêm, núi Hoa Quả. Mỹ Hầu vương rất vui, tự khen thầm:

Trước đi thân thể nặng nề.

Tu hành đắc đạo nay về nhẹ không.

Ít ai lập chí bền lòng,

Bền lòng tu đạo, đạo bừng sáng soi.

Xưa đi khó vượt trùng khơi,

Nay về lướt gió thảnh thơi nhẹ nhàng

Bên tai lời dặn còn vang,

Biển đông khoảnh khắc đã sang đến bờ.

Ngộ Không từ trên mây hạ xuống, đến thẳng núi Hoa Quả, đang tìm lối đi, bỗng nghe thấy tiếng hạc kêu vượn hót. Tiếng
hạc vang mấy tầng mây biếc, tiếng vượn kêu bi thiết thương tâm. Bèn cất tiếng gọi:

- Các con ơi, ta đã về đây!

Bọn khỉ trong hang đá gốc cây, khóm hoa bụi cỏ, con lớn con bé,  nhảy  ra  hàng  ngàn  hàng  vạn,  vây  xung  quanh  Mỹ  hầu vương, dập đầu thưa rằng:

- Đại vương nỡ lòng đi lâu, bỏ chúng con ở đây. Chúng con mong đại vương như đói khát mong cơm ăn nước uống. Gần đây chúng con bị một con yêu ma hung ác chiếm động Thủy Liêm. Chúng con liều chết quên sống đánh nhau, bị nó cướp hết đồ đạc, bắt đi nhiều con cháu, khiến chúng con ngày đêm mất ngủ, canh giữ cơ nghiệp. May được đại vương về, nếu một năm nữa đại vương không về, thì đến cả động này cũng thuộc về người khác mất.

Ngộ Không nghe xong, trong lòng tức giận nói:

- Con yêu quái nào mà gớm thế! Các con hãy kể kỹ cho ta nghe, ta sẽ tìm nó báo thù.

Lũ khỉ dập đầu thưa:

- Tâu đại vương, con yêu đó tự xưng là Hỗn Thế ma vương, nhà ở mạn phía Bắc.

Ngộ Không hỏi:

- Từ đây đến chỗ nó ở khoảng độ bao nhiêu đường đất? Lũ khí nói:
- Nó đến theo mây, đi theo mù, như gió như mưa, như sấm như chớp, chúng con không biết đường xa hay gần.

Ngộ Không nói:

- Đã như thế, các con đừng sợ, cứ việc vui chơi đợi ta tìm ra nó!
Hầu vương cất mình nhảy vút, dùng phép cân đẩu vân, đến thẳng phía Bắc, nhìn xuống quan sát, thấy một tòa núi cao rất hiểm trở. Thực là:

Núi dựng chon von

Suối vòng thăm thẳm

Suối vòng thăm thẳm thông lòng đất. Núi dựng chon von chọc ráng xanh.
Hai bờ cỏ hoa đua lạ, Mấy chỗ tùng chắc tươi xinh. Bên này dáng rồng uốn lượn. Phía nọ thế hổ ngồi rình. Thấy cả tiền vàng mấy loại.
[41]
Cùng là trâu sắt giữa dòng      .

Chim rừng kêu khắc khoải.

Nắng chiếu phượng vươn cành.

Đá xám xịt, Sóng lăn tăn.
Một vẻ u huyền cổ quái. Hiểm nguy ít thấy sự lành. Hoa nở hoa tàn bao xiết kể,
Như cùng cảnh vật mãi đua tranh. Bốn mùa tám tiết dương im thít, Tổ sơn ba cõi thực đây chăng?
Nuôi dưỡng nên thành: động Thủy Tạng.

Hầu vương đang lặng lẽ quan sát cảnh vật, bỗng nghe tiếng
người nói, bèn đi thẳng xuống núi tìm. Nguyên do trước sườn núi dốc ấy là động Thủy Tạng. Ngoài cửa động có mấy tiểu yêu đang nhảy múa, thấy Ngộ Không chúng vội bỏ chạy.

Ngộ Không quát:

- Đứng lại, ta mượn mồm chúng bay truyền vào những lời ta nói đây: Ta đây là chúa động Thủy Liêm, núi Hoa Quả ở phương Nam. Hỗn Thế ma mãnh nào nhà chúng bay, mấy lần lừa dối ức hiếp con cháu ta, nay ta tìm đến đây để tranh tài cao thấp.

Lũ tiểu yêu nghe nói, vội vàng chạy vào trong động báo:

- Tâu đại vương, tai họa rồi! Ma vương hỏi:
- Tai họa gì? Tiểu yêu thưa:
- Ngoài cửa động có một con khỉ xưng là chúa động Thủy Liêm, núi Hoa Quả. Hắn nói đại vương mấy lần lừa dối con cháu hắn. Nay hắn tìm lại đây để tranh tài cao thấp.

Ma vương cười, nói:

- Ta từng nghe lũ khỉ nói chúng có một vị đại vương xuất gia tu hành, chắc là hôm nay y đến đó. Chúng bay thấy nó ăn mặc thế nào, cầm khí giới gì?

Tiểu yêu thưa:

- Hắn chẳng có khí giới gì, đầu trọc lóc, mặc áo màu hồng, thắt hầu bao vàng, chân đi đôi hài đen, trông chẳng ra tăng, chẳng ra tục, cũng chẳng giống đạo sĩ thần tiên, chân tay không, đứng gọi ngoài cửa động.

Ma vương nghe xong, nói:

- Mang binh khí lại đây cho ta!
Bọn tiểu yêu lập tức mang ra. Ma vương mặc áo giáp trụ, cầm đại đao, cùng lũ yêu ra ngoài cửa, lớn tiếng quát:

- Kẻ nào là chúa động Thủy Liêm?

Ngộ Không vội trừng mắt nhìn, thấy Ma vương:

Đầu đội mũ kim khôi. Chói chang tia nắng rọi. Tấm la bào vai khoác, Gió vờn nhẹ bay tung.
Áo giáp sắt quanh thân, Sợi dây da thắt chặt. Đôi hài hoa tuyệt đẹp, Oai như vị tướng quân.
Lưng rộng chừng mười vòng Thân cao tới ba trượng Ngọn đao trong tay nắm, Lưỡi thép sáng như gương. Tên Hỗn Thế ma vương.
Thật vô cùng hung hãn!

Hầu vương quát:

- Con ma khốn kiếp kia, mắt to thế mà không thấy lão Tôn à? Ma vương trông thấy, cười nói:
- Nhà ngươi cao không đầy bốn thước, tuổi không quá ba tuần, tay không binh khí, mà dám cuồng điên tìm đến ta so tài sao?

Ngộ Không mắng lại:
- Đồ ma quái khốn kiếp có mắt như mù kia! Nhà ngươi cho ta là nhỏ, muốn to nào có khó gì! Nhà ngươi cho ta là không có binh khí, chỉ hai tay ta vươn ra cũng tới mặt trăng, mặt trời. Nhà ngươi đừng sợ, thử nếm một quyền của lão Tôn đây.

Nói đoạn, Hầu vương tung người nhảy vút lên, đánh vào má
Ma vương. Ma vương giơ tay đỡ, nói:

- Nhà ngươi lùn tịt, ta thì cao lớn, nhà ngươi dùng quyền, ta thì dùng đao, dùng đao thì giết được ngươi ngay, nhưng người ta sẽ cười cho. Đợi ta vứt đao, đấu quyền với nhà ngươi!

Ngộ Không nói:

- Nhà ngươi nói chí phải, đáng là hảo hán! Nào lại đây!

Ma vương vào thế đánh ngay. Ngộ Không cũng xông lên, hai bên đánh đỡ, tay đấm chân đá, đánh lộn một hồi. Nguyên do quyền dài chậm hở, quyền ngắn chắc bền. Ma vương bị Hầu vương tóm được sườn, nắm được áo, đánh cho mấy đòn đau. Ma vương tức quá, vớ ngay đao thép, nhắm đầu Ngộ Không bổ xuống. Ngộ Không vội nghiêng mình né tránh. Ma vương chém hụt. Ngộ Không thấy hắn hung dữ, bèn lập tức dùng phép ngoại thân, nhổ một nhúm lông, bỏ vào miệng nhai nát vụn, rồi ngửa mặt phun lên trời, hô “biến”, tức thì hóa ra hai, ba trăm con khỉ con xúm xít xung quanh.



Do Hầu vương học được phép tiên, biến hóa Chân thông, không phép gì là không biết. Sau khi Hầu vương đắc đạo, tám vạn bốn nghìn sợi lông trên người, sợi nào cũng có thể biến hóa được thành vật khác tùy theo ý mình. Lũ khỉ con ấy nhảy nhót lanh lẹ, dao chém không đứt, giáo đâm không thủng. Chúng nhảy trước, lộn sau, xông vào vây kín Ma vương. Con túm, con kéo, con đấm, con đá, túm quần bứt lông, bóp mũi đấm mắt, tung lên lộn xuống, xúm đánh một hồi.

Lúc ấy Ngộ Không cướp được thanh đao của Ma vương, gạt bọn khỉ con ra, nhằm đỉnh đầu Ma vương, chém đứt đôi thành hai mảnh. Đoạn Ngộ Không dẫn chúng vào động, giết sạch yêu ma lớn nhỏ, rồi thu lông về trên người. Lại thấy một số con khác không thu được, chúng là những con bị Ma vương bắt ở động Thủy Liêm trước đó. Ngộ Không nói:

- Chúng bay sao lại đến đây?
Ước chừng dăm ba chục con ứa nước mắt, nói:

- Sau khi đại vương đi tu tiên, chúng tôi hai năm trời bị hắn ức hiếp, bắt chúng tôi đem đi, đồ đạc trong động như chậu đá, bát đá đều bị chúng cướp mất sạch.

Ngộ Không nói:

- Phàm là đồ đạc của ta, chúng bay đều phải dọn về.

Sau đấy, Hầu vương lập tức phóng hỏa, đốt trụi động Thủy
Tạng, rồi cùng lũ khỉ kéo về, nói với chúng rằng:

- Chúng bay đi theo ta! Lũ khỉ nói:
- Thưa đại vương, khi chúng tôi đến đây, chỉ nghe tiếng gió rít bên tai, ào ào hư ảo, rồi tới nơi, nên không biết đường về. Nay làm sao mà về được.

Ngộ Không nói:

- Đó là nó dùng pháp thuật, có khó gì đâu! Nay ta cũng có đủ mọi phép thần thông biến hóa, cũng dùng phép cho mà xem. Chúng bay nhắm mắt lại, đừng sợ!

Hầu  vương  bèn  niệm  thần  chú,  tự  nhiên  một  trận  cuồng phong nổi lên đưa đi, rồi từ trên mây hạ xuống, Hầu vương gọi:

- Các con mở mắt ra!

Lũ khỉ đặt chân xuống đất, nhận ra nhà mình, vui mừng thích chí, chạy theo lối cũ vào động. Bọn khỉ trong động nhất tề kéo ra dắt vào, theo tuổi chia ngôi thứ, lạy tạ Hầu vương, rồi bày tiệc rượu, quả, ăn mừng, hỏi han việc giết yêu ma cứu con cháu. Ngộ Không kể lại đầy đủ, chi tiết, lũ khỉ khen ngợi hết lời:

- Đại vương đi đâu mà học được phép thuật cao cường thế? Hầu vương lại nói:
- Dạo ấy ta từ biệt chúng bay, theo sóng lênh đênh vượt qua Đông Dương đại hải, đến địa phận Tây Ngưu Hạ Châu, thẳng đường đến Nam Thiệm Bộ Châu, học giống người, mặc áo đi giầy, nghênh ngáo lang thang tám, chín năm, vẫn không học được đạo. Sau đó, ta lại vượt Tây Dương đại hải, đến địa phận Tây Ngưu Hạ Châu, hỏi han khắp nơi, may gặp được một lão tổ sư truyền cho ta công quả chân chính, thọ ngang trời đất, pháp môn vĩ đại bất tử trường sinh.

Lũ khỉ khen ngợi, nói:

- Thật là muôn kiếp không gặp được như thế! Ngộ Không lại cười:
- Này lũ nhỏ, lại mừng cho ta có họ nữa chứ! Lũ khỉ nói:
- Đại vương họ gì? Ngộ Không nói:
- Ta nay họ Tôn, pháp danh là Ngộ Không. Lũ khỉ nghe xong, vỗ tay vui mừng nói:
- Đại vương là lão Tôn, chúng tôi là Tôn hai, Tôn ba, Tôn lớn, Tôn bé, một nhà họ Tôn, một nước họ Tôn, một ổ họ Tôn!

Rồi chúng xúm lại cung phụng lão Tôn, nào chậu to bát nhỏ, nào rượu dừa, rượu nho, hoa thơm quả lạ, cả nhà vui vẻ vô cùng. Thật là:

Gồm chung cả họ về một gốc, Chỉ đợi sang tên vào sổ tiên.
Không biết kết quả ra sao, ở cõi này trước sau thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ BA


Bốn biển nghìn non đều sợ phục


Mười loại âm ti thảy xóa tên


Lại nói Mỹ hầu vương về động cũ, giết được Hỗn Thế ma
vương, đoạt được cây đại đao, ngày ngày luyện tập võ nghệ, dạy bọn khỉ nhỏ chặt tre làm gậy, xẻ gỗ làm đao, cắm cờ xí, thổi sáo kèn, khi tiến khi lui, đóng doanh hạ trại, luyện tập đã lâu, bỗng một hôm Hầu vương trầm ngồi ngâm suy nghĩ nói:

- Chúng ta ở đây, chỉ rặt vui chơi, e thành quen thói làm kinh động đến các bậc vua chúa trên đời. Ngộ vua chúa các loài cầm thú nhận thấy điều xúc phạm ấy, cho rằng chúng ta luyện binh làm phản, cất quan đến đánh. Khi ấy chúng ta toàn là gậy tre, đao gỗ, chống lại sao đặng, phải có gươm sắc giáo nhọn mới được. Biết làm thế nào bây giờ?

Lũ khỉ nghe xong, sợ hãi nói:

- Đại vương thực nhìn xa trông rộng, nhưng gươm giáo biết lấy ở đâu được?

Lúc ấy, có bốn con khỉ già, hai con khỉ ngựa đỏ đít, hai con khỉ lưng thẳng chạy đến trước mặt Hầu vương thưa:

- Thưa đại vương, muốn rèn khí giới nhọn sắc cũng rất dễ. Ngộ Không hỏi:
- Dễ thế nào?

Bốn con khỉ đáp:

- Từ chốn núi non chúng ta ở đây, đi về phía Đông, có một khu mặt nước rộng hai trăm dặm, là ranh giới nước Ngạo Lai.
Chỗ giáp giới ấy có một vị quốc vương, trong thành có rất nhiều quân dân, thì ắt hẳn phải có thợ làm đồ đồng sắt bạc vàng. Đại vương đến đó hoặc mua, hoặc thuê đánh các thứ binh khí, về dạy cho chúng tôi để giữ lấy khoảng núi này, thế mới là kế giữ yên lâu dài vậy.

Ngộ Không nghe xong, trong lòng vui mừng nói:

- Chúng bay cứ vui chơi ở đây, đợi ta đi xem sao.

Hầu vương liền dùng ngay phép cân đẩu vân, trong chốc lát đã đến chỗ mặt nước hai trăm dặm, quả nhiên thấy một tòa thành, phố xá chợ búa, nghìn cửa vạn nhà, kẻ đi người lại, tấp nập trong ánh nắng chan hòa. Ngộ Không nghĩ bụng: “Ở đây nhất định có binh khí chế sẵn rồi, đợi xuống mua chỉ được vài cái chẳng thà dùng phép thần thông lấy đi của họ còn hơn”, bèn
[42]
bấm quyết, niệm chú, quay về phương Đông nam

  hít một
hơi, thổi thành một trận gió to, cát đá bay mù mịt, ai nấy đều hoảng sợ.

Thật là:

Sấm nổ rền vang động đất trời Sương mù u ám khắp nơi nơi. Biển Đông sóng vọt cá kình sợ
Rừng núi cây nghiêng hổ rụng rời Buôn bán thuyền bè nay vắng ngắt, Đông vui phố xá tịnh không người Quốc vương vội vàng lui nội tẩm Văn võ lanh chân cũng biến thôi,
Lầu cao ngũ phương long chân móng

Điện ngọc nghìn năm cũng đổ rồi.
Gió thổi bốc lên làm quốc vương nước Ngạo Lai hoảng sợ, phố xá hãi hùng đóng chặt cửa, không ai dám ra đường. Lúc ấy, Ngộ Không mới từ trên mây hạ xuống, vào thẳng cửa triều đình, tìm kho vũ khí, mở cửa ra xem, thấy vô số các loại binh khí: đao, thương, kiếm, kích, búa, giáo, nỏ, cung, soa, mâu, roi, giản… đủ mọi thứ.

Hầu Vương vừa nhìn thấy đã vui lắm, nói;

- Một mình ta sao mang nổi, chi bằng chia pháp thân ta ra mà khuân đi.

Bèn lập tức nhổ mấy sợi lông, bỏ vào mồm nhai vụn, phun ra, niệm chú, hô: “biến”, hóa thành trăm nghìn con khỉ nhỏ, tranh nhau khuân vác. Con khỏe vác dăm bảy cái, con yếu mang hai ba cái, khuân sạch cả kho khí giới. Hầu vương nhảy lên mây, dùng phép hô phong, nổi trận cuồng phong, dẫn lũ khỉ về.

Lại nói lũ khỉ lớn nhỏ đang chơi cả ngoài cửa động, chợt nghe tiếng gió rít, thấy trên lưng trời ríu rít không biết cơ man nào là khỉ, chúng kinh hãi trốn chạy lung tung. Một lát, Hầu vương từ trên mây hạ xuống, thu mây mù, lắc mình thu lông, chất binh khí thành đống trước núi, rồi gọi:

- Lũ nhỏ đâu, lại lĩnh khí giới!

Bọn khỉ nhìn ra, thấy một mình Ngộ Không đứng trên mặt đất bằng phẳng, đều xô cả lại hỏi han. Ngộ Không đem chuyện dùng phép hô phong khuân binh khí kể hết một lượt. Lũ khi khen, lạy, rồi tranh nhau cướp giáo cướp gươm, giành cung giành nỏ, hò hét vui chơi suốt cả ngày.

Hôm sau, Hầu vương lại bày doanh trại như cũ, tập hợp hơn bốn vạn bảy nghìn con khỉ, từ sáng sớm đã làm kinh động các yêu quái muông thú khắp núi. Các loài lang trùng hổ báo, hươu nai, cáo chồn, sư tử, voi, đười ươi, lợn lòi, gấu, bò rừng, sơn dương… cùng đủ loại yêu vương của bảy mươi hai động, đều
đến vái chào, suy tôn Hầu vương làm chúa, hàng năm nộp cống, bốn mùa điểm danh. Có kẻ theo vào hàng ngũ luyện tập, có loài theo mùa nộp lương, chỉnh tề đều đặn. Một tòa núi Hoa Quả kiên cố như thành vàng lưới sắt. Các bộ yêu vương dâng trống vàng, cờ hoa, áo giáp, mũ trận, đi lại nhộn nhịp, ngày nào toàn động cũng luyện võ điểm quân.

Mỹ hầu vương đang lúc vui vẻ, bỗng nói với mọi người:

- Các ngươi gươm nỏ đã thành thạo, võ nghệ đã tinh thông. Phiền nỗi cây đao của ta quá kềnh càng, thô thiển, ta chưa vừa lòng, biết làm thế nào đây?

Bốn con khỉ già bước lên tâu rằng:

-  Đại  vương  đã  là  tiên  thánh,  không  nên  dùng  binh  khí thường. Song chẳng hay đại vương có xuống nước được không?

Ngộ Không nói:

- Từ sau khi ta đắc đạo, có công luyện tập được bảy mươi hai phép địa sát biến hóa, học được phép cân đẩu vân không gì sánh bằng, giỏi cả tàng hình độn thổ, trời cao có lối, đất dầy có đường; bước ra mặt trời, mặt trăng không có bóng; đi vào vàng đá không trở ngại, nước không ướt nổi, lửa không cháy được, thế thì đi đâu mà chả được?

Bốn con khỉ thưa:

- Đại vương đã có phép thần thông như thế, thì bên dưới cái cầu sắt của chúng ta đây, dòng nước thông ra tận Long cung ngoài biển Đông. Đại vương nên xuống long cung tìm lão Long vương, hỏi xin loại binh khí nào cũng có, chắc được vừa ý.

Ngộ Không nghe xong, mừng rỡ nói:

- Để ta đi xem sao!

Hầu vương nhảy đến đầu cầu, dùng phép bế thủy, niệm chú, chui vào làn sóng, rẽ nước thành đường, xuống thẳng đáy biển
Đông. Đương đi, Ngộ Không bỗng thấy một tên quỷ Dạ Xoa đi tuần, tên này giữ lại hỏi:

- Ngài là vị thần thánh nào mà rẽ nước xuống đây? Hãy nói rõ ra để ta báo người ra đón!

Ngộ Không nói:

- Ta là Tôn Ngộ Không, vị thánh trời sinh ra ở núi Hoa Quả, là láng giềng của Long vương nhà ngươi, nhà ngươi không biết à?

Dạ Xoa nghe nói, vội vàng trở về cung Thủy Tinh báo:

- Thưa đại vương, ở ngoài cửa có vị thánh trời sinh ra ở núi Hoa Quả, tên gọi Tôn Ngộ Không, nói là láng giềng của đại vương, sắp đến cung đó.

Long Vương biển Đông là Ngao Quảng vội vàng đứng dậy, cùng với con rồng, cháu rồng, lính tôm, tướng giải, ra cửa đón, nói:

- Xin mời thượng tiên vào.

Ngộ Không vào long cung, thưa chào tử tế. Uống trà xong, Long vương hỏi:

- Thượng tiên đắc đạo bao lâu rồi? Học được những phép tiên nào?

Ngộ Không thưa:

- Tôi từ sau khi sinh ra, xuất gia tu hành, đắc đạo bất sinh bất diệt. Nay đang luyện tập cho con cháu, bảo vệ sơn động, phiền nỗi không có binh khí, nghe nói hiền huynh hưởng phúc nơi cung khuyết nguy nga, chắc có nhiều binh khí thần, nên tôi đến xin một cái.

Long vương nghe vậy, không nỡ chối từ, lập tức sai quân đô ty cá rô mang ra thanh đao lớn dâng lên.
Ngộ Không nói:

- Lão Tôn không biết dùng đao, xin cho thứ khác.

Long vương lại sai thái úy bạch tuộc dẫn lực sĩ lươn khiêng ra một cái cào chín răng.

Ngộ Không nhảy xuống, cầm lấy múa một đường võ, rồi vứt xuống nói:

- Nhẹ quá! Nhẹ quá! Không vừa tay, xin cho thứ khác. Long vương cười nói:
- Thưa thượng tiên, ngài không xem kĩ, chiếc cào này nặng ba nghìn sáu trăm cân đấy!

Ngộ Không thưa:

- Không vừa tay, không vừa tay!

Long vương trong lòng sợ hãi, gọi đến đề đốc cá ngạnh, đổng binh cá chép khiêng ra một cây phương thiên họa kích. Cây kích này nặng bảy nghìn hai trăm cân.

Ngộ Không trông thấy, chạy lại, xách lên, múa mấy vòng, đánh hai miếng, rồi cắm xuống giữa nhà nói:

- Vẫn nhẹ quá! Vẫn nhẹ quá! Long vương càng sợ hãi nói:
- Thưa thượng tiên, trong cung tôi chỉ có cây kích này là nặng nhất, ngoài ra không có thứ nào khác nữa.

Ngộ Không cười, nói:

- Người xưa có câu: “Đừng lo Long vương ở biển không có của báu”, ngài cứ tìm lại xem sao, nếu được chiếc nào vừa ý, tôi xin nhận ngay.

Long vương nói:

- Quả thực không còn thứ gì nữa.
Đang lúc ấy, thì Long bà và Long nữ đứng đằng sau bước lại, nói:

- Thưa đại vương, vị thánh này không phải thường. Trong biển ta còn có một khối sắt thần thiêng để định đáy thiên hà, mấy hôm nay tỏa hào quang chói lọi, khí lành rực rỡ, phải chăng là điềm báo gặp được vị thánh này?

Long vương nói:

- Đấy là khi xưa vua Đại Vũ đi trị thủy, dùng khối sắt ấy để đo sông bể nông sâu, là thứ sắt thần, dùng thế nào được!

Long bà thưa:

- Mặc vị thánh ấy có dùng được hay không, cứ đưa ngài ấy đi, tùy ngài ấy sửa sang thế nào, mang ra khỏi cung là được.

Lão Long vương nghe theo, quay lại nói cho Ngộ Không biết. Ngộ Không nói:

- Xin mang lại đây cho tôi xem. Long vương khoa tay nói:
- Gánh không nổi, khiêng không xong, ngài phải thân đến tận nơi mà xem.

Ngộ Không nói:

- Ở chỗ nào, ngài dẫn tôi đi xem!

Long vương đưa Ngộ Không đến chỗ kho ở giữa biển, đã thấy hào quang chói lọi. Long vương chỉ tay nói:

- Chỗ có ánh hào quang kia kìa.

Ngộ Không vén áo bước tới, sờ mó xem xét, thấy là một cột sắt, to chừng bằng cái đấu, dài hơn hai trượng. Ngộ Không lấy hết sức nhấc lên, nói:

- Hơi to hơi dài, sửa cho nhỏ, ngắn bớt đi mới dùng được.
Vừa dứt lời, thanh bảo bối ấy liền ngắn lại mấy thước, nhỏ đi một vòng. Ngộ Không lại dốc ngược cây gậy, nói:

- Nhỏ đi một chút nữa càng tốt!

Cây bảo bối lại nhỏ đi vài phân. Ngộ Không vô cùng mừng rỡ, cầm ra khỏi kho bể ngắm nghía, thấy cây gậy sắt hai đầu bịt vàng, giữa là đoạn sắt đen, gần chỗ bịt vàng có khắc một hàng chữ “gậy như ý bịt vàng, một vạn ba nghìn năm trăm cân”. Ngộ Không mừng thầm, nói:

- Thứ bảo bối này chính hợp ý ta!

Rồi vừa đi vừa niệm chú, tay đảo ngược cây gậy, nói:

- Nhỏ đi chút nữa càng tốt!

Mang ra ngoài, thì cây gậy chỉ dài độ hai trượng, nhỏ bằng miệng bát.

Ngộ Không dùng phép thần thông múa gậy, rung chuyển cả cung Thủy Tinh, khiến lão Long vương sợ run, rồng con hồn bay phách tán, ba ba, thuồng luồng, tôm, cua… co đầu rụt cổ. Ngộ Không cầm bảo bối trong tay, ngồi giữa cung Thủy Tinh đối diện với lão Long vương, cười nói:

- Xin đa tạ lòng tốt của hiền huynh. Long vương nói:
- Không dám, không dám! Ngộ Không nói:
- Khối sắt này tuy dùng tốt, nhưng còn một điều… Long vương thưa:
- Ngài định nói gì? Ngộ Không nói:
- Khi chưa có khối sắt này thì mặc sao cũng xong, nay có
trong tay rồi, mà trên người không có quần áo tương xứng, thì chẳng ra làm sao! Ngài xem ở đây có bộ giáp nào, tìm cho một bộ, tôi xin đa tạ.

Long vương nói:

- Thứ ấy, ở đây quả thật không có. Ngộ Không nói:
- “Một khách không xin hai chủ”, nhược bằng không có, thì tôi nhất định không ra khỏi cửa đâu.

Long vương nói:

- Phiền thượng tiên sang biển khác, may ra có chăng. Ngộ Không lại nói:
- Không nên đứng núi này trông núi nọ, muôn nghìn lần xin ngài một bộ.

Long vương thưa:

- Ở đây quả tình không có, nếu có tôi xin dâng ngài ngay. Ngộ Không nói:
- Nếu thật không có, thì tôi với ngài thử cây gậy sắt này xem sao!

Long vương hoảng hốt, nói:

- Xin thượng tiên chớ động thủ, chớ động thủ! Để tôi hỏi chỗ em tôi xem có không, sẽ đem dâng ngài.

Ngộ Không nói:

- Em ngài ở đâu? Long vương thưa:
- Em tôi là Ngao Khâm, long vương Nam Hải, Ngao Thuận, long vương Bắc Hải, Ngao Nhuận, long vương Tây Hải.
Ngộ Không nói:

- Lão Tôn này không đi đâu, không đi đâu. Tục ngữ có câu: [43]
“Của một đồng công một nén”
ngắn, cho một bộ là được.

Lão Long vương nói:

, chỉ mong ngài dù dài dù

- Không phiền thượng tiên phải đi đâu. Ở đây tôi có một cái trống sắt, một cái chuông vàng, khi có việc khẩn cấp, thì cứ việc nổi trống, rung chuông, trong nháy mắt là các em tôi đến ngay.

Ngộ Không nói:

- Như vậy cũng được, ngài mau nổi trống, rung chuông đi!

Lập tức, tướng thuồng luồng chạy vào rung chuông, soái ba ba quay ra nổi trống. Một lát, chuông trống vang rền, quả nhiên làm kinh động long vương ba biển, trong giây lát họ đã đến hội đủ cả bên ngoài. Ngao Khâm thưa:

- Thưa đại ca, có việc gì khẩn cấp mà nổi trống rung chuông vậy?

Lão Long vương đáp:

- Các hiền đệ ạ, chẳng nói giấu gì, có một vị thánh nhân trời sinh nào đó trên núi Hoa Quả, trước đến nhận ta là hàng xóm, sau đòi ta cho một thứ binh khí. Ta dâng cây cương xoa thì chê nhỏ quá, đưa cây họa kích thì bảo nhẹ tênh, đưa đến khối sắt thần quý dưới đáy thiên hà thì vị thánh ấy cầm trong tay, trổ tài võ nghệ. Nay vị thánh ấy vẫn ngồi trong cung, đòi ta phải cho áo giáp nữa. Chỗ ta không có, ta phải nổi trống rung chuông, mời các hiền đệ đến. Các hiền đệ xem có bộ áo giáp nào, cho ngài ấy một bộ, để ngài ấy về.

Ngao Khâm nghe nói, nổi giận:

- Anh em ta hãy điểm binh, bắt hắn mới được.
Lão Long vương nói:

- Chớ! Chớ! Cây gậy sắt ấy hắn đánh ai thì toi mạng, đập ai thì nhừ xương, chạm vào thì da rách, gân bong.

Tây Hải long vương là Ngao Nhuận nói:

- Hai anh chẳng thể ra tay với hắn được đâu, chỉ nên mang thứ gì mặc được cho hắn, đưa hắn ra khỏi cửa, rồi dâng biểu tâu với thiên đình, tự trời sẽ giết hắn đi!

Bắc Hải long vương là Ngao Thuận nói:

- Lời ấy chí phải, tôi có một đôi giày vân bằng tơ nõn sen đây. Tây Hải long vương là Ngao Nhuận nói:
- Tôi đang mặc một bộ áo giáp giát vàng đây. Nam Hải long vương là Ngao Khâm nói:
- Tôi có một chiếc mũ cánh phượng nạm vàng đây.

Lão Long vương mừng rỡ, dẫn cả vào cung Thủy Tinh chào hỏi Ngộ Không, dâng những đồ vật ấy. Ngộ Không đội mũ vàng, mặc giáp vàng, đi giày vân rất chỉnh tề, cầm gậy như ý, đi thẳng ra nói với các long vương rằng:

- Phiền quá! Phiền quá!

Long vương bốn biển rất bất bình, bàn nhau viết biểu tâu với
Thượng Đế. Chuyện không nói đến nữa.

Lại nói, Hầu vương rẽ nước, về thẳng chỗ cầu sắt trước nhảy lên bờ, thấy bốn con khỉ già dẫn lũ khỉ đứng đợi ở bên cầu. Chợt trông thấy Ngộ Không nhảy ra khỏi làn nước, mình mẩy không một giọt nước, ánh vàng chói lọi, bước lên cầu. Lũ khỉ quỳ cả xuống:

- Đại vương đẹp quá, đẹp quá!

Ngộ Không mặt tươi hơn hớn, ngồi trên tòa cao, cầm gậy sắt
ở giữa động. Lũ khỉ chẳng kể hay dở xúm xít sờ mó. Chẳng khác chuồn chuồn lay cây sắt, không sao lay chuyển được.

Con nào con nấy lắc đầu lè lưỡi nói:

- Đại vương ơi, cái này nặng lắm! Làm sao đại vương mang nổi?

Ngộ Không đến gần, giơ tay nhấc lên, cười nói với lũ khỉ rằng:

- Vật nào có chủ của vật ấy. Thứ bảo bối này nằm ở trong kho biển không biết mấy nghìn năm rồi, đúng năm nay lại phóng hào quang. Long vương chỉ cho đó là một khối sắt đen, lại bảo rằng nó là vật thần thiêng ở đáy thiên hà, bọn họ khiêng vào không nổi, bảo ta thân đến nơi mà lấy. Lúc ấy, vật báu này dài hơn hai trượng, to bằng cái đấu, ta nhấc lên xem, có ý chê to, nó liền nhỏ lại, lại bảo nhỏ nữa, nó lại nhỏ thêm. Ta vội mang ra chỗ sáng xem, thấy trên có một hàng chữ “gậy như ý bịt vàng, một vạn ba nghìn năm trăm cân”. Các ngươi đứng dậy, để ta bảo nó biến hóa cho mà xem.

Ngộ Không cầm ngược cây gậy trong tay, hô:

- Nhỏ lại! Nhỏ lại!

Tức thì cây gậy nhỏ bằng chiếc kim thêu, có thể giấu kín trong lỗ tai. Bọn khỉ sợ hãi nói:

- Thưa đại vương, đại vương lấy ra coi!

Hầu vương lại lấy trong tai ra, đặt trên lòng bàn tay, hô:

- To ra! To ra!



Lập tức nó lại to ra bằng cái đấu, dài chừng hai trượng. Ngộ Không làm trò rất vui, rồi nhảy lên cầu, chạy ra ngoài động, cầm bảo bối trong tay, trổ phép bắt chước trời đất, ưỡn lưng hô “dài ra”, lập tức người cao muôn trượng, đầu tựa Thái Sơn, lưng như núi lớn, mắt như luồng chớp, miệng như chậu huyết, răng như giáo gươm, cây gậy cầm trong tay trên cao tới ba mươi tầng trời, dưới xuống đến mười tám tầng địa ngục, khiến cho các loài hổ báo lang trùng, quái vật trong núi, cùng yêu vương bảy mươi hai động đều phải dập đầu lạy tạ, nơm nớp lo sợ, phách tán hồn bay. Một lát, Ngộ Không thu phép về, biến cây gậy thành chiếc kim thêu, giấu vào trong tai, rồi trở vào động phủ, yêu vương các động xúm đến lạy mừng.

Ngay buổi ấy, Hầu vương mở cờ gióng trống, gõ mõ khua chiêng, bầy biện của ngon vật lạ, rượu dừa, rượu nho rót tràn chén, cùng bọn khỉ ăn uống hồi lâu, rồi lại thao diễn như trước. Hầu vương phong bốn con khỉ già làm kiện tướng: hai con khỉ
già đỏ đít làm nguyên soái họ Mã, họ Lưu; hai con vượn trắng lưng làm tướng quân họ Băng, họ Ba. Mọi công việc đóng doanh hạ trại, thưởng phạt, đều giao cho bốn kiện tướng trông coi. Còn Hầu vương được an tâm, ngày ngày đi mây về gió, ngao du bốn biển, chơi khắp nghìn non, trổ tài võ nghệ thần thông, tìm tòi, kết giao với anh hùng hào kiệt. Lúc ấy, hội được bảy anh em là: Ngưu ma vương, Giao ma vương, Bằng ma vương, Sư Đà vương, Di Hầu vương và Ngẫu Nhung vương, liên kết với Mỹ Hầu vương thành bảy. Hàng ngày họ giảng văn luận võ, chén tạc chén thù, câu ca điệu múa sớm đến tối về, vô cùng vui vẻ. Thế mới thực gọi là: gật cổ vượt qua ngàn dặm thẳm, quay lưng vút tận tám trăm đường.

Một hôm, Hầu vương giao cho bốn kiện tướng bày yến tiệc ở trong động, mời sáu vương đến đánh chén, giết trâu mổ ngựa, tế trời tế đất, mọi người ăn uống, nhảy múa ca hát một phen say túy lúy. Sau khi tiễn sáu vương đi rồi, Hầu vương khao thưởng các đầu mục lớn nhỏ, rồi ngồi dưới bóng tùng bên cầu sắt, ngủ thiếp đi một lát. Bốn kiện tướng chỉ huy mọi người vây quanh không dám to tiếng.

Trong lúc ngủ, Hầu vương thấy hai người cầm một tờ trát, trên có chữ “Tôn Ngộ Không” đến gần, chẳng nói chẳng rằng trói nghiến lại, điệu linh hồn Mỹ hầu vương đến một tòa thành. Hầu vương dần dần tỉnh rượu, ngẩng đầu xem xét, thấy trên thành có tấm biển sắt, trên có ba chữ to “Cõi u minh”. Mỹ hầu vương chợt tỉnh ra, hỏi:

- Cõi U minh là chốn Diêm vương ở, cớ sao ta lại tới đây? Hai người kia đáp:
- Tuổi thọ nhà ngươi ở dương gian đã hết, hai chúng tôi vâng mệnh đến bắt đi.

Hầu vương nghe xong, bèn nói:
[44]
- Lão Tôn này đã vượt ra ngoài ba cõi

, không còn ở trong
ngũ hành, đâu còn thuộc Diêm vương quản lí nữa. Cớ sao dám hồ đồ đến bắt ta?

Hai quỷ câu hồn ấy cứ một mực lôi kéo Hầu vương đi, làm Hầu vương giận dữ, rút ngay bảo bối trong tai ra, vung lên đánh cho hai quỷ câu hồn nát như tương, rồi tự cởi trói, vác gậy quay vào đánh trong thành, các loại quỷ đầu trâu, mặt ngựa chạy trốn tán loạn. Chúng chạy lên điện Sâm La báo với Diêm vương rằng:

- Thưa đại vương, tai họa, tai họa! Ngoài kia có một ông thiên lôi mặt đầy lông, đánh đến nơi rồi!

Mười Diêm vương hoảng hốt vội vàng sửa sang quần áo chạy ra xem, thấy người ấy mặt mũi hung tợn, bèn bày các ban, rồi gọi lớn:

- Xin thượng tiên cho biết tên là gì? Hầu vương nói:
- Người đã không biết ta, tại sao lại sai người đến bắt ta? Mười Diêm vương nói:
- Không dám, không dám, chắc là chúng bắt lầm đấy. Hầu vương nói:
- Ta vốn thánh nhân trời sinh ra ở động Thủy Liêm, núi Hoa
Quả, tên là Tôn Ngộ Không. Còn các ngươi làm quan chức gì?

Mười diêm vương nghiêng mình nói:

- Chúng tôi là mười minh vương làm vua dưới âm phủ. Ngộ Không nói:
- Phải nói tên ngay, ta mới tha đánh! Mười Diêm vương thưa:
- Chúng tôi là Tần Quảng vương, Sở Giang vương, Tống Đế vương, Ngũ Quan vương, Diêm La vương, Bình Đẳng vương, Thái Sơn vương, Đô Thị vương, Biện Thành vương và Chuyển Luân vương.

Ngộ Không nói:

- Các ngươi đã lên được ngôi vua, là loại người cảm ứng linh hiển, sao lại không biết điều phải trái? Lão Tôn đây học đạo tiên, thọ ngang trời đất, vượt ngoài ba cõi, thoát khỏi ngũ hành, tại sao các ngươi lại sai người đến bắt?

Mười Diêm vương thưa:

- Xin thượng tiên nguôi giận, những người trùng họ, trùng tên trong thiên hạ nhiều lắm, có lẽ bọn quỷ câu hồn bắt lầm chăng?

Ngộ Không nói:

- Ăn nói hồ đồ, hồ đồ. Người ta thường nói: “Quan lầm chứ người sai không lầm”, các ngươi mang ngay sổ sinh tử ra đây cho ta xem!

Mười Diêm vương nghe nói, bèn mời Hầu vương lên điện tra sổ.



Ngộ Không cầm gậy như ý, lên thẳng điện Sâm La, ngồi ngay gian giữa, quay mặt về phía Nam. Mười Diêm vương sai phán quan giữ án lấy sổ ra tra. Vị phán quan không dám chậm trễ, đến ngay phòng làm việc mang ra năm, sáu quyển sổ văn thư và sổ ghi tên mười loại chúng sinh, trình Hầu vương tra hết một lượt.
Trong danh sách các loài khỏa trùng[45]


 loài lông mao, lông vũ,
,
loài côn trùng, loài da vẩy, Hầu vương đều không thấy tên mình. Lại xem đến hồ sơ loài khỉ, nguyên loài khỉ vốn giống người, nhưng không xếp vào chỗ tên người, giống loài khỏa trùng, nhưng không ở vào địa giới nước nào; giống loài thú chạy, mà không thuộc kỳ lân cai quản; giống loài chim bay, mà không thuộc phượng hoàng trông nom. Thấy còn một cuốn sổ khác, Ngộ Không bèn tự mình kiểm tra lấy, đến mãi số hồn một nghìn ba trăm năm mươi mới thấy viết tên Tôn Ngộ Không, là con khỉ đá trời sinh ra, thọ ba trăm bốn mươi mươi hai tuổi thì hết số. Ngộ Không nói:
- Ta cũng không nhớ đã thọ bao nhiêu rồi, giờ chỉ cầm bút xóa tên đi là xong!

Vị phán quan vội vã cầm bút, chấm đẫm mực, Ngộ Không giở sổ, xóa sạch tên các loài khỉ đi, rồi ném sổ xuống đất nói:

- Vậy là xong, từ rày ta không thuộc quyền lũ ngươi cai quản nữa.

Lại nói Hầu vương ra khỏi thành, bỗng vấp vào một đám cây cỏ bị ngã, sực tỉnh dậy, mới biết đó là một giấc mơ, bèn vươn vai ngồi dậy, nghe thấy bốn kiện tướng và lũ khỉ gọi to:

- Đại vương uống nhiều rượu quá, ngủ suốt một đêm mà vẫn chưa tỉnh.

Ngộ Không nói:

- Mới ngủ được một lúc, ta mơ thấy hai người đến bắt ta đi, giải ta đến ngoài cửa thành cõi âm phủ, lúc ấy ta mới tỉnh. Ta bèn trổ phép thần thông, quát mắng đến tận điện Sâm La, cãi nhau với mười diêm vương, bắt mang sổ sinh tử loài chúng ta ra cho xem, hễ thấy họ tên loài chúng ta là xóa đi hết, thế là từ nay chúng ta không thuộc họ cai quản nữa.

Lũ khỉ dập đầu lạy tạ.

Từ đấy lũ khỉ núi không biết già, vì không có tên trong sổ âm
ty.




Mỹ Hầu vương nói xong, bốn kiện tướng đi báo cho yêu
vương các động biết. Họ đều đến lạy mừng. Mấy ngày sau, sáu anh em kết nghĩa lại đến lạy mừng, nghe nói đến chuyện xóa tên trong sổ sinh tử thì ai nấy đều mừng rỡ, ngày ngày tụ tập vui chơi thỏa thích.

[46]
Lại nói trên trời cao, một hôm Thượng đế

  đang ngự họp
các vị tiên văn võ ở điện Linh Tiêu[47]


  bỗng có Khâu Hoằng
,
Tế chân nhân tâu rằng:

- Vạn tuế! Ngoài cửa điện Thông Minh, có Đông Hải long vương Ngao Quảng dâng biểu, xin thiên tôn truyền phán.

Thượng đế truyền lệnh:

- Mời vào!

Ngao Quảng đến dưới điện Linh Tiêu lạy tạ xong, tiên đồng đứng bên đỡ lấy tờ biểu. Ngọc hoàng xem một lượt từ đầu chí cuối biểu. Biểu tâu rằng:

“Thần là Ngao Quảng, tiểu long ở Đông hải, thuộc Đông Thắng Thần Chân dưới cõi Thủy Nguyên, tâu với Đại thiên thánh chúa Ngọc hoàng thượng đế ở nơi cao xanh thăm thẳm rằng: Gần đây có một con yêu quái sinh ở núi Hoa Quả, trú ở động Thủy Liêm, tên gọi Tôn Ngộ Không, lừa dối ức hiếp tiểu thần, xuống thủy cung, đòi binh khí, tác oai tác phúc, đòi cả áo giáp, hung hãn càn rỡ làm kinh động cả mọi loài thủy tộc, xua đuổi cả ba ba thuồng luồng. Long vương Nam Hải nơm nớm lo sợ; Long vương Tây Hải thảm thiết kinh hoàng; Long vương Bắc Hải co đầu hàng phục. Thần là Ngao Quảng phải cúi mình van lạy, dâng cây gậy sắt thần thiêng, mũ vàng cánh phượng cùng hài vân áo giáp, lấy lễ tiễn đưa hắn. Song hắn vẫn khoe võ nghệ, trổ phép thần thông, còn quát tháo om sòm, thật quả chẳng ai địch nổi, rất khó diệt trừ. Nay thần dâng biểu, cúi đầu mong Thượng đế cử thiên binh đi bắt ngay con yêu quái ấy
[48]
khiến cho non biển thanh bình, hạ nguyên
tấu!”

Thượng đế xem xong truyền lệnh:

  yên tĩnh. Cẩn

- Cho Long vương về bể, trẫm sẽ sai tướng đi bắt ngay. Lão Long vương lạy tạ lui ra.
Ở dưới lại có Cát Tiên ông thiên sư tâu:
- Vạn tuế, có Tần Quảng vương ở âm phủ dâng tờ biểu của giáo chủ cõi u minh là Địa Tạng vương Bồ tát.

Thượng đế truyền lệnh cho ngọc nữ tiếp lấy tờ biểu, rồi đọc một lượt từ đầu đến cuối. Biểu rằng:

“Cõi u minh là nơi âm ti dưới đất. Trời có thần, đất có quỷ, âm dương luân chuyển, chim có sinh, thú có chết, sống mái thay nhau, sinh sinh hóa hóa, sinh trai đẻ gái, đó là số tự nhiên, không thể thay đổi được. Nay có con khỉ yêu quái trời sinh ra ở động Thủy Liêm, núi Hoa Quả, tên gọi Tôn Ngộ Không, càn rỡ hung ác không theo phép tắc. Trổ phép thần thông, đánh dạt quỷ yêu âm phủ; cậy giỏi võ nghệ, kinh hoảng mười vị Diêm vương. Làm náo động điện Sâm La, xóa hết tên tuổi trong sổ sinh tử, khiến cho loài khỉ không bị ràng buộc, các loài vượn lại được sống lâu, phá hoại luân hồi, không biết có sống có chết. Bần tăng dâng biểu, mạo muội động đến uy trời, cúi xin sai phái thần linh, hàng phục con yêu quái ấy, chấn chỉnh lại cõi âm dương, đặng âm phủ yên ổn mãi. Cẩn tấu!”

Thượng đế xem xong, truyền lệnh:

- Cho Minh vương trở lại địa phủ, trẫm sẽ sai tướng đi bắt ngay.

Tần Quảng vương lạy tạ, lui ra.

Thượng đế họp các vị tiên văn võ lại, hỏi:

- Con khỉ yêu quái ấy sinh ra đã bao nhiêu năm? Tu hành bao giờ mà có đạo pháp như vậy?

Thượng đế chưa dứt lời, Thuận phong nhĩ từ trong ban tiến ra thưa:

- Đó là con khỉ đá trời sinh ra ba trăm năm trước, lúc ấy coi thường, rồi chẳng biết tu luyện ở đâu bao năm, mà thành tiên, võ
nghệ cao cường[49]


 bắt xóa tên cả ở sổ sinh tử như vậy.
Thượng đế hỏi:

- Vị thần tướng nào có thể xuống hạ giới thu phục nó?

Lời chưa dứt, sao Thái Bạch Trường Canh ở trong ban bước ra, phủ phục tâu:

- Thưa bậc thượng thánh trong ba cõi, phàm loài có “chín
[50]
lỗ”

  đều có thể tu tiên được cả. Loài khỉ ấy thân thể do trời
sinh ra, được mặt trời, mặt trăng chung đúc, đầu đội trời, chân đạp đất, ăn sương uống máu, nay tu thành đạo tiên, tài nghệ phi thường, thì có khác gì người đâu? Thần xin Thượng đế, nghĩ sinh hóa, mở lòng từ bi, xuống một đạo thánh chỉ chiêu an, gọi hắn lên thượng giới, trao cho hắn một chức quan nhỏ nào đó, biên tên hắn vào sổ, ràng buộc hắn ở đây. Nếu hắn tuân mệnh trời, thì sẽ thăng thưởng, nếu hắn trái mệnh trời thì sẽ bị bắt ngay. Như vậy, một là không khó nhọc đến binh tướng, hai là hợp với đạo thu phục các tiên vậy.

Thượng đế vui mừng nói:

- Chuẩn y lời tâu của khanh.

Lập tức sai Văn Khúc tinh soạn chiếu, sai Thái Bạch kim tinh đi chiêu an.

Kim Tinh lĩnh chỉ, ra ngoài cửa Nam Thiên, cưỡi mây lành xuống động Thủy Liêm, núi Hoa Quả, nói với lũ khỉ nhỏ:

- Ta là sứ giả trời sai xuống, có thánh chỉ mời đại vương các ngươi lên thượng giới, mau vào báo ngay cho.

Bọn khỉ con ngoài động lần lượt truyền vào đến trong động:

- Thưa đại vương, ngoài cửa có một ông già, cầm tờ văn thư, nói là có thánh chỉ nhà trời sai xuống, có thánh chỉ gọi đại vương.

Mỹ Hầu vương mừng rỡ, nói:
- Hai ngày nay ta đang nghĩ đến việc lên trời, nay lại có thiên sứ đến mời. Mau mời sứ giả vào đây!

Hầu vương vội vàng sửa sang quần áo cho ngay ngắn, ra ngoài cửa đón.

Kim Tinh vào thẳng bên trong, đứng quay mặt về phương
Nam, nói:

- Tôi là Tây phương Thái Bạch kim tinh, mang thánh chỉ chiêu an của thượng đế, xuống hạ giới mời ngài lên trời để nhận tên ở sổ tiên.

Ngộ Không cười, nói:

- Xin đa tạ lão tinh xuống đây. Và truyền lệnh:
- Các con mau đặt tiệc khoản đãi! Kim Tinh nói:
- Thánh chỉ bên mình, chẳng dám ở lâu, xin mời đại vương cùng đi ngay cho, đợi sau khi vinh thăng rồi, sẽ thung dung đàm đạo.

Ngộ Không nói:

- Đội ơn chiếu cố, không dám chối từ! Tức thì gọi bốn kiện tướng ra, dặn dò:
- Hãy tập luyện con cháu cẩn thận, đợi ta lên trời xem sao, rồi đưa các ngươi cùng lên ở một thể.

Bốn kiện tướng vâng lệnh.

Hầu vương và Kim Tinh nhảy vút lên mây, bay trên không trung. Chính là:

Lên cao thượng phẩm ngôi tiên giới

Tên tuổi ghi trong sổ sách trời.
Chẳng biết Ngộ Không được nhận quan chức gì, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ TƯ


Quan phong Bật mã lòng đâu thỏa


Tên gọi Tề Thiên dạ chẳng yên


Thái Bạch kim tinh cùng Mỹ hầu vương ra khỏi động sâu,
cùng nhau cưỡi mây lên trời. Nguyên phép cân đẩu vân của Tôn Ngộ Không vô cùng nhanh chóng chẳng ai sánh kịp, nên Ngộ Không bỏ Kim Tinh lại sau, đến cửa Nam Thiên trước, Ngộ Không vừa định thu mây tiến vào, bị ngay Tăng Trường thiên vương dẫn bọn họ Bằng, họ Lưu, họ Cẩu, họ Tất, họ Đặng, họ Tân, họ Trương, họ Đào, một đoàn thiên binh vạm vỡ vác giáo gươm kiếm kích, chặn lại ở ngoài cửa, không cho vào, Hầu vương nói:

- Lão Kim Tinh thật là đồ gian trá! Đã mời lão Tôn, sao lại còn cho người cầm giáo gươm chặn lại?

Đang ồn ào, thì Kim Tinh cũng vừa đến. Ngộ Không đỏ mặt tía tai, nói:

- Lão già kia, sao lại lừa ta? Ngươi nói rằng mang chiếu chỉ chiêu an của Thượng đế xuống mời ta, sao lại cho người chặn ta ở ngoài cửa, không cho vào?

Kim Tinh cười, nói:

- Xin đại vương bớt giận, xưa nay ngài chưa từng tới Thiên đường, lại không có tên trong sổ tiên, thiên binh lại vốn không biết ngài, lẽ nào họ để ngài tự tiện vào. Phải đợi hôm nay yết kiến thiên tôn ghi tên vào sổ tiên, được phong quan thăng chức, thì từ đó trở đi, ngài mới tùy tiện ra vào, không ai dám ngăn cản nữa.
Ngộ Không nói:

- Đã vậy thì thôi ta không vào nữa. Kim Tinh lại nắm tay Ngộ Không nói:
- Ngài cùng vào với tôi.

Gần đến cửa trời, Kim Tinh gọi to:

- Thiên tướng, thiên binh cửa trời này hãy mở rộng cửa. Đây là người tiên ở hạ giới, ta vâng lệnh của Thượng đế mời Ngài đến đây.

Tăng Trường thiên vương cùng đoàn thiên binh đều thu binh lui ra. Lúc ấy hầu vương mới tin, cùng Kim Tinh thong thả bước vào. Thật là:

Vừa lên thượng giới

Mới đến thiên đình

Muôn đạo hào quang lồng ráng đỏ

Nghìn tầng khí đẹp nhả mù xanh

Nhìn cửa Nam Thiên thấy:

Dát bằng đá lưu ly xanh thẫm Nạm bằng muôn ngọc cẩm rỡ ràng Hai bên nguyên soái cờ lộng lẫy
Bốn mặt thiên thần giáo sáng choang

Đứng ngoài còn đỡ sợ

Vào trong mới kinh hoàng

Cột lớn chạm long ly quấn quýt

Cầu ngang vẽ hạc phượng nghênh ngang

Nắng rọi chói chang ráng đỏ

Trời cao mù mịt hơi lam
Ba mươi ba nếp thiên cung, nào Hoa Lạc Thái Dương, Ngũ Minh chói chang màu bạc Bảy mươi hai ngôi bảo điện, nào Triêu Vân Lăng Hư, Linh Quan rực rỡ ánh vàng
Đài Thọ Tinh, hoa thơm mấy ngàn năm chẳng héo

Lò luyện thuốc, cỏ lạ hàng vạn kiếp xanh rờn

Lại đến trước lầu Triệu Thánh:

Kẻ áo lụa là tựa sao lấp lánh

Người mũ phù dung như ngọc huy hoàng

Hài châu, trâm ngọc

Thao tía, đai vàng

Ba tiếng chuông ngân, Tam tào dâng biểu trước thềm son. Một hồi trống giục, Ngọc Hoàng triều hội cùng chữ thánh.
Lại đến Linh Tiêu bảo điện:

Then vàng cài cửa ngọc

Chim phượng múa thềm son

Lối dọc đường ngang, chốn chốn bạc vàng chạm trổ; Rèm kia, mái nọ, nơi nơi rồng phượng rập rờn Tiên phi cầm quạt dáng xinh đẹp
Ngọc nữ dâng khăn sắc rất dòn

Thiên tướng đứng hầu oai lẫm liệt

Tiên khanh hộ giá vẻ hiên ngang

Ở chính giữa:

Mâm ngọc lưu ly, bầy đầy ắp thuốc tiên thái ất

Bình quý mã não, cầm chen nhau cây cảnh san hô
Của lạ thiên cung đủ cả Thế gian muôn thuở đừng mơ! Cửa ngọc nhà vàng chen phủ tía
Hoa thơm cỏ lạ thoảng hương đưa Ngọc Thỏ lướt qua phiên triệu hội Kim Ô soi bóng trước thềm vua
Hầu vương có phúc lên thượng giới

Trần gian giũ sạch bụi không mờ

Thái Bạch kim tinh dẫn Mỹ hầu vương đến ngoài điện Linh Tiêu, không chờ chiếu gọi, vào thẳng trước tòa ngự để lạy Thượng đế. Ngộ Không đứng thẳng ở bên cạnh, không thi lễ, chỉ lắng tai nghe Kim Tinh tâu:

- Thần vâng theo thánh chỉ, dẫn yêu tiên vào. Thượng đế buông rèm hỏi:
- Đứa nào là yêu tiên?

Ngộ Không chỉ cúi mình trả lời:

- Chính lão Tôn đây.

Các vị tiên đều cả sợ thất sắc nói:

- Con khỉ dã man kia, tại sao không cúi lạy, lại dám trả lời vô lễ “lão Tôn Đây”? Tội thật đáng chết! Đáng chết!

Thượng đế ra lệnh:

- Tôn Ngộ Không là con yêu tiên ở hạ giới, mới được thành thân người, chưa biết lễ nghĩa nay ta tạm tha tội cho.

Các vị tiên giục:

- Mau lạy tạ ơn đi!

Ngộ Không chỉ nhìn lên, “vâng” một tiếng thật to.
Thượng đế truyền lệnh các vị tiên văn võ, xem đâu thiếu chức quan nào để bổ dụng Tôn Ngộ Không. Vũ Khúc tinh quân đứng bên cạnh bước lên tâu:

- Ở Thiên đình, các cung điện, nha môn đều đầy đủ chức
[51]
quan, chỉ ở Ngự mã giám
nom.

Thượng đế ra lệnh:

  còn đang thiếu một người trông






[52]
- Vậy cho Ngộ Không giữ chức Bật mã ôn      .

Các quan lại giục tạ ơn, Ngộ Không vẫn chỉ nhìn lên, vâng một tiếng thật to.

Thượng đế sai Mộc Đức tinh quân đưa Ngộ Không về Ngự mã giám nhận việc.

Lúc ấy, Hầu vương thích chí lắm, cùng Mộc Đức tinh quân đi ngay. Xong việc, Mộc Đức tinh quân về cung. Ở trại Ngộ Không tập trung cả Giám thừa, Giám phó, Điển bạ, Lực sĩ các quan viên to nhỏ trong trại hỏi han công việc, thấy trại này chỉ có khoảng nghìn con ngựa. Toàn là:

Xích thố, truy phong[53]



toàn giống quý

Ngày phi vạn dặm dễ như chơi Băng mây lướt gió, thần hăng hái Giòn giã vó tung dậy đất trời
Hầu vương kiểm tra sổ sách đếm đủ số ngựa trong trại. Điển bạ coi việc rơm cỏ đầy đủ; lực sĩ giữ việc tắm rửa, đun nấu ăn uống cho ngựa; Giám thừa, Giám phó đôn đốc công việc; Bật mã ngày đêm không ngủ, trông nom ngựa trại. Ban ngày còn chơi đùa được, ban đêm chăm chỉ giữ gìn. Ngựa ngủ, đánh thức cho ăn cỏ; ngựa lồng, nhốt lại trong chuồng. Bầy ngựa thấy Bật
mã ôn là cúp tai dúm vó, nhưng ngược lại, chúng được nuôi dưỡng béo tốt. Thấm thoắt đã hơn nửa tháng. Một hôm rỗi việc, giám quan trong trại bầy tiệc rượu, một là để đón tiếp, hai là để chúc mừng Bật mã ôn.

Đang lúc ăn uống vui vẻ, Hầu vương bỗng đặt chén xuống hỏi:

- Bật mã ôn thuộc hàm quan nào? Mọi người thưa:
- Chỉ có tên trong quan suông như vậy thôi. Hầu vương lại hỏi:
- Chức quan này thuộc phẩm hàm nào? Mọi người đáp:
- Chẳng thuộc phẩm hàm nào cả. Hầu vương nói:
- Không có phẩm hàm thì là to nhất rồi! Mọi người thưa:
- Không to đâu, không to đâu, mà là “chưa liệt vào hàng quan”.

Hầu vương hỏi:

- Thế nào gọi là “chưa liệt vào hàng quan”? Mọi người thưa:
- Nghĩa là hạng bét nhất. Chức quan ấy thấp nhất, bé nhất, chỉ có việc trông ngựa thôi. Tựa như ngài đây, sau khi nhận chức, chăm chỉ cần cù, nuôi ngựa béo tốt, thì người ta chỉ buông một lời khen “tốt”. Còn như để ngựa hơi gầy, thì bị khiển trách ngay. Nhất là để ngựa bị thương tích, thì còn phải chuộc tiền, bị phạt.

Hầu vương nghe xong, bất giác trong đầu bốc hỏa, nghiến
răng căm tức nói:

- Thật là khinh rẻ lão Tôn quá lắm! Lão Tôn này ở động núi Hoa Quả, xưng vua xưng chúa, cớ sao đánh lừa ta đến đây nuôi ngựa? Nuôi ngựa là công việc của hạng vô danh tiểu tốt, ty tiện nhỏ nhen, mà lại dám đem đãi ta sao? Không thèm làm nữa! Không thèm làm nữa! Ta đi đây!

Đoạn, Ngộ Không hừ một tiếng, đạp đổ công án, rút bảo bối trong tai ra, múa tít, nó bỗng to bằng cái bát, uyển chuyển, nhịp nhàng, ra khỏi Ngự mã giám, thẳng đến cửa Nam Thiên. Thiên binh biết Hầu vương có tên trong sổ tiên, là Bật mã ôn, không dám ngăn cản, để mặc Hầu vương ra khỏi cửa trời.

Trong chớp mắt, Hầu vương đã từ trên mây hạ xuống, về núi
Hoa Quả.

Hầu vương nhìn thấy bốn kiện tướng cùng yêu vương các động đang tập luyện binh sĩ, bèn lớn tiếng gọi:

- Các con ơi, lão Tôn đã về đây.

Lũ khỉ ùa cả lại, cúi đầu sụp lạy, rước Hầu vương vào động, mời lên ngôi tòa cao, bày tiệc đón rước. Lũ khỉ nói:

- Xin chúc mừng đại vương. Đại vương lên trời mười mấy năm, nay vinh quy chắc thỏa lòng lắm?

Hầu vương nói:

- Ta mới ở có hơn nữa tháng, làm gì đã mười mấy năm? Lũ khỉ thưa:
- Đại vương ở trên trời chẳng biết thời gian gì cả. Một ngày ở trên trời, bằng một năm ở hạ giới đấy! Xin hỏi đại vương làm quan đến chức gì?

Hầu vương xua tay, nói:

- Không đáng nói. Không đáng nói! Xấu hổ chết người đi
được! Thượng đế không biết dùng người, thấy ta hình dạng thế này, phong ta làm “Bật mã ôn”, làm cái việc nuôi ngựa, chẳng liệt vào hàng quan nào cả. Lúc đầu, ta không biết, cứ nhận chức, nhởn nhơ trong Ngự mã giám. Rồi một hôm hỏi các bạn đồng liêu, ta mới biết chức ấy là ti tiện. Lập tức lão Tôn trong lòng căm tức, hất đổ bàn tiệc, không nhận chức quan, bỏ ra về liền.

Lũ khỉ nói:

- Về hơn chứ! Về hơn chứ! Đại vương làm vua ở nơi phúc địa động núi này, được tôn trọng sung sướng biết chừng nào tội gì phải làm anh nuôi ngựa cho ai.

Rồi lũ khỉ hô:

- Chúng ta mau bày tiệc rượu để đại vương giải phiền! Đang ăn uống vui vẻ, chợt có người báo rằng:
- Thưa đại vương, ngoài cửa có hai Độc giác quỷ vương, xin được gặp.

Hầu vương nói:

- Mời vào.

Quỷ vương quần áo chỉnh tề, bước vào cúi lạy. Mỹ hầu vương hỏi:

- Các ngài đến gặp ta có việc gì? Quỷ vương thưa:
- Nghe tiếng đại vương chiêu hiền đã lâu, nhưng chưa có dịp yết kiến. Nay thấy đại vương được ghi tên vào sổ trời, trở về vẻ vang, chúng tôi đến kính dâng một tấm hoàng bào đỏ chúc mừng, mong đại vương đừng coi chúng tôi hèn hạ, thu dụng cho. Chúng tôi nguyện đem hết sức khuyển mã báo đền.

Hầu vương mừng lắm, khoác hoàng bào lên người, lũ khỉ thích chí chia ban lạy mừng. Hầu vương phong ngay cho hai
Quỷ vương làm Tổng đô đốc tiên phong.

Quỷ vương lạy tạ, rồi lại hỏi:

- Thưa đại vương, đại vương ở trên trời khá lâu, được Thượng đế trao cho chức gì?

Hầu vương nói:

- Thượng đế coi khinh người hiền, phong cho ta chức “Bật mã ôn” hạng bét!

Quỷ vương nghe nói, thưa:

- Đại vương có phép thần thông, sao lại đi nuôi ngựa cho họ? [54]
Có làm đến “Tề Thiên đại thánh

“cũng được ấy chứ!

Hầu vương nghe nói thích chí quá, nói liền mấy tiếng:

- Hay, hay, hay quá!

Liền sai bốn kiện tướng:

- Làm cho ta một lá cờ thêu bốn chữ lớn “Tề Thiên đại thánh” dựng cột treo ngay lên. Từ nay trở đi, chỉ được gọi ta là “Tề Thiên đại thánh”, không được gọi là đại vương nữa. Và truyền ngay cho yêu vương các động đều được biết. Chuyện đến đây không nói nữa.

*

*    *

Lại nói chuyện ngày hôm sau. Thượng đế khai triều, thấy Trương tiên sư dẫn các viên Giám thừa, Giám phó ở Ngự mã giám vào trước thềm son cúi lạy, tâu:

- Vạn tuế! Bật mã ôn mới nhận chức là Tôn Ngộ Không, nhưng hiềm chức quan nhỏ, hôm qua hắn đã bỏ thiên cung đi rồi.

Lúc ấy lại thấy ngoài của Nam Thiên, Tăng trường thiên
vương dẫn một tốp thiên binh cũng vào tâu:

- Bật mã ôn không biết lý do gì, ra khỏi cửa Thiên môn đi rồi. Thượng đế nghe nói, bèn ra lệnh:
- Hai hàng văn võ, ai về chức nấy, trẫm sẽ sai thiên binh đi bắt ngay con yêu quái ấy.

Trong ban, Thác Tháp Lý thiên vương và Na Tra tam thái tử bước ra, tiến lên tâu:

- Vạn tuế! Tiểu thần tuy bất tài, nhưng xin được đi bắt con yêu quái ấy.

Thượng đế cả mừng, phong ngay cho Thác Tháp Lý thiên vương Lý Tịnh làm Hàng ma đại nguyên soái, Na Tra tam thái tử làm Tam hải hội đại thần, lập tức điều binh xuống hạ giới.

Lý thiên vương và Na Tra dập đầu lạy tạ, từ biệt Thượng đế, về ngay bản cung tập hợp ba quân, phong các đầu mục. Lấy Cự Linh Thần làm tiên phong, Ngư Đỗ tướng đi đoạn hậu, Dược Xoa tướng đốc quân, trong giây lát ra khỏi cửa Nam Thiên xuống thẳng núi Hoa Quả, chọn nơi bằng phẳng cắm trại, truyền lệnh cho Cự Linh thần khiêu chiến. Cự Linh thần tuân lệnh, nai nịt chỉnh tề, cầm cây búa tuyên hoa, đến ngoài động Thủy Liêm, thấy ngoài cửa động, rất nhiều yêu ma, đều là các loài lang trung hổ báo khoa thương múa kiếm, nhảy nhót reo hò ầm ĩ.

Cự Linh thần quát:

- Lũ nghiệt súc kia! Mau báo ngay cho Bật mã ôn biết ta là đại tướng trên trời, vâng lệnh Thượng đế đến đây bắt hắn, bảo hắn sớm ra đầu hàng, thì tránh cho lũ bay khỏi bị chết uổng!

Bọn yêu quái chạy dạt vào trong động báo.

- Tai họa rồi! Tai họa rồi! Hầu vương hỏi:
- Tai họa gì?

Bọn yêu quái thưa:

- Ngoài cửa có một vị thiên tướng, gọi đến hàm quan của Đại thánh, và nói “vâng thánh chỉ của Thượng đế đến bắt Đại thánh, bảo sớm ra hàng thì không đụng đến tính mạng của chúng con”.

Hầu vương nghe nói, ra lệnh:

- Đem giáp trụ ra cho ta!

Bên đội mũ kim tía, mặc áo giáp vàng, đi hài vân, tay cầm gậy như ý bịt vàng dẫn quân ra cửa động bày trận. Cự Linh thần giương mắt nhìn thấy Hầu vương:

Mình mặc áo giáp vàng tươi

Đầu mang mụ trụ sáng ngời kim quang

Tay cầm gậy sắt bịt vàng

Hài vân chân xỏ trông càng uy phong

Hai mắt sáng tựa sao băng

Hai tai rủ xuống bạn cùng hai vai

Thần thông tài nghệ tuyệt vời

Tiếng như chuông khánh đất trời vang xa

Rõ ràng Bật mã nhà ta

Mà lòng kiêu ngạo muốn là “Tề Thiên”

Cự Linh thần lớn tiếng quát:

- Loài khỉ kia, có biết ta là ai không? Đại thánh nghe tiếng, vội hỏi:
- Nhà ngươi là thần thiệc ở đâu, lão Tôn không thèm biết, mau mau xưng tên ta nghe!

Cự Linh thần nói:
- Ta biết nhà ngươi là loài khỉ Hồ Tôn dối trá, còn nhà ngươi không biết ta là ai? Ta là Cự Linh thiên tướng, tiên phong của cao thượng thần tiên Thác Tháp Lý thiên vương đây. Nay ta vâng thánh chỉ của Thượng đế, đến thu phục nhà ngươi. Nhà ngươi mau mau sắm sửa hành trang, quy thuận mệnh trời, để tránh cho lũ súc sinh ở núi này khỏi vạ tru di, vì bằng nói nửa lời “không”, thì tức khắc thân thành tro bụi!

Hầu vương nghe nói, cả giận:

- Tên thần hèn hạ kia, chớ có khua môi múa mép. Ta định đãi nhà ngươi một gậy chết tươi, nhưng e không ai về báo. Nay ta tạm tha chết, cho mau quay về báo với Thượng đế rằng: Thượng đế thật không biết dùng người, lão Tôn đây tài năng có thừa, sao dám để ta nuôi ngựa? Nhà ngươi hãy nhìn tên hiệu trên lá cờ của ta kia. Nếu theo đúng tên hiệu đó phong chức cho ta, thì ta không động binh, tự nhiên trời đất hòa bình. Nếu không, nếu không ta sẽ đánh lên tận Linh Tiêu, thì ngai vàng của Thượng đế cũng không được yên đâu!

Cự Linh thần nghe nói, trợn mắt nhìn, quả thấy một cây cờ cao dựng ngoài cửa động, trên cột cắm lá cờ thêu bốn chữ to “Tề Thiên đại thánh” bèn cười nhạt, nói:

- Loài khỉ ngu xuẩn kia, chẳng biết thời thế, dám nhận là “Tề
Thiên đại thánh”, hãy nếm một búa của ta đây!

Đoạn vung búa bổ xuống.

Hầu vương không chút hốt hoảng, vung gậy sắt bịt vàng đón đánh. Thật là một trận tử chiến:

Người nọ gậy như ý

Kẻ kia búa tuyên hoa

Anh hùng gặp gỡ, tài cao thấp

Gậy búa giao nhau, ánh chói lòa
Người nọ thần thông cũng biến hóa

Kẻ kia bẻm mép lẫn ba hoa Trổ phép phun mây và thổi gió Ra tay bão táp với mưa sa
Hầu vương biến hóa vô bờ bến Thiên tướng thần thông cũng chẳng tha Gậy múa tít mù rồng giỡn nước
Búa vung tới tấp phượng xuyên hoa Cự Linh danh tiếng lừng thiên hạ Mà nay tài nghệ phải thua xa
Đại thánh nhẹ nhàng vung gậy sắt

Cự Linh tê dại, vội lui về



Cự Linh thần địch không nổi, bị Hầu vương đánh một gậy
vào đầu, vội vàng giơ búa ra đỡ, bỗng nghe rắc một tiếng, cán búa gãy làm hai đoạn, bèn bỏ chạy thoát thân. Hầu vương cười, nói:

[55]
- Đồ hèn, đồ hèn!

 Ta tha chết cho mày mau về báo tin đi!

Cự Linh thần về đến cửa doanh trại, yết kiến Tháp Thác Lý thiên vương, quỳ xuống ấp úng tâu:

- Bật mã ôn quả thật võ nghệ cao cường, tôi địch không nổi, thua chạy về đây chịu tội.

Lý thiên vương nổi giận quát:

- Nhà ngươi làm nhụt nghệ khí quân ta, lôi ra chém mau! Na Tra thái tử đứng bên cạnh bước ra lạy tạ, thưa:
- Xin phụ vương nguôi giận, tạm thời tha tội cho Cự Linh, đợi con mang quân ra đánh một trận, xem sao đã.

Thiên vương nghe lời con, tạm thời đưa Cụ Linh về doanh trại xét tội sau.

Na Tra thái tử giáp trụ chỉnh tề bước ra ngoài doanh trại, thẳng tới động Thủy Liêm. Lúc ấy Ngộ Không đang thu quân, chợt thấy Na Tra thái tử dũng mãnh xốc tới. Thái tử quả là:

Tóc ngôi vừa chấm trán Món tóc chửa ngang vai Khôi ngô mà lanh lẹn Thanh tú lại anh tài
Chính giống kỳ lân trên thượng giới Thật loài chim phượng quý trên đời Nòi rồng chẳng nét hao phàm tục Tuổi trẻ anh hùng hà kém ai!
Võ nghệ sáu ban thông tỏ hết Thần thông biến hóa đủ mười mươi Ngọc hoàng thượng đế vừa phong tặng “Hải Hội Tam Đàn” chẳng phải chơi!
Ngộ Không tiến đến gần hỏi:

- Chú mày là con cái nhà ai? Xông vào cửa nhà ta có việc gì? Na Tra quát:
- Loài khỉ yêu quái hỗn hào kia, ngươi không nhận ra ta sao? Ta là Na Tra thái tử thứ ba của Thác Tháp Lý thiên vương, nay vâng lệnh Thượng đế đến đây bắt ngươi.

Ngộ Không cười, nói:

[56]
- Thái tử con nít, miệng còn hôi sữa

, chưa ráo máu đầu,
sao dám nói khoác như vậy? Ta tạm tha tính mạng, không thèm đánh. Ngươi hãy nhìn những chữ gì trên lá cờ của ta kia, về tâu với thượng đế rằng: Nếu phong cho ta quan chức ấy thì ta không động binh, tự nhiên quy thuận. Nhược bằng không nghe, ta sẽ quyết đánh đến tận điện Linh Tiêu!

Na Tra ngẩng đầu nhìn, thấy bốn chữ “Tề Thiên đại thánh”, bèn nói:

- Con khỉ yêu quái kia, có mấy thần thông mà dám xưng danh hiệu như vậy? Ngươi đừng sợ, hãy nếm một đường gươm của ta đây.

Ngộ Không nói:

- Ta đứng yên đây, mặc cho ngươi chém.



Na Tra căm giận, hét vang một tiếng “biến” tức thì biến thành ba đầu sáu tay rất hung tợn, tay cầm sáu thứ binh khí: gươm chém yêu, đao bổ yêu, dây trói yêu, chày giã yêu, quả cầu thêu, bánh xe lửa, hùng hùng hổ hổ xông vào đánh.

Ngộ Không thấy thế, giật mình nói:

- Thằng nhóc này mà cũng lắm phép thuật! Chớ có vô lễ! Hãy xem thần thông của ta đây!

Đại thánh bèn hô một tiếng “biến”, liền biến thành ba đầu sáu tay, cầm gậy sắt bịt vàng vung tít, và cũng biến thành ba cây gậy. Sáu tay cầm ba cây gậy đánh đỡ. Trận chiến thật quyết liệt, trời long đất lở:

Sáu tay, Thái tử tuyệt vời

Mỹ hầu vương cũng là loài trời sinh

Hai bên địch thủ kỳ phùng
Bản nguyên gặp gỡ chính tông trận này

Một người vâng lệnh trời sai

Một người - thượng giới phen này phá tung

Gươm chém yêu sắc lạ lùng Đao bổ yêu cũng quỷ kinh thần sầu Dây trói yêu - rắn quấn vào
Chày giã yêu mạnh khác nào hổ lang

Bánh xe lửa lóe chói chang

Quả cầu thêu vút nhịp nhàng, vây quanh

Đại thánh gậy sắt múa nhanh Đón sau đỡ trước, vừa rình lập mưu Hồi lâu chưa rõ thấp cao
Thái tử quyết thắng, bụng nào chịu thôi

Sáu ban võ nghệ tuyệt vời

Thiên biến vạn hóa nhằm người Hầu vương

Hầu vương chẳng sợ, cười vang

Gậy sắt múa tít, đánh sang không ngừng

Biến ra muôn thế tấn công

Như hổ quét gió, như rồng giỡn mây

Ma vương yêu quái đông tây

Kinh hoàng đóng cửa suốt ngày chẳng ra

Đất trời gió nổi mưa sa Gươm thần gậy sắt chạm va ào ào Một bên thiên tướng tài cao
Một bên khỉ quái phép nào có thua!
Đánh nhau quyết liệt có thừa

Ai thắng, ai bại hàng giờ chửa phân

Thái tử và Ngộ Không đều trổ thần thông, đánh nhau đến ba mươi hiệp. Sáu ban võ nghệ của Thái tử thiên biến vạn hóa; cây gậy sắt bịt vàng của Ngộ Không cũng vạn hóa thiên biến, giữa không trung như mưa trút sao sa, không phân thắng phụ. Tôn Ngộ Không vốn lanh tay tinh mắt, đang lúc hỗn chiến, liền nhổ một sợi lông, hô “biến”, lập tức biến thành một Tôn Ngộ Không giả, tay cầm gậy sắt, đánh dứ Na Tra một miếng, còn Tôn Ngộ Không thật, tung người ra phía sau Na Tra, nhằm cánh tay trái, bổ xuống một gậy. Na Tra đang mải dùng phép, nghe tiếng gậy sắt đánh vèo, vội né tránh, nhưng không kịp, bị đánh trúng một gậy, đau quá phải tháo chạy, thu phép thuật cùng sáu thứ binh khí, thua trận chạy về.

Đứng trong trận, Lý thiên vương đã thấy rõ tình hình, vội vàng toan thúc quân trợ chiến. Nhưng không ngờ Thái Tử đã chạy đến trước mặt, run như cầy sấy, nói:

- Thưa phụ vương, Bật mã ôn võ nghệ cao cường, pháp thuật của con cũng không đánh nổi, bị hắn đánh bị thương vào cánh tay.

Thiên vương cả sợ, thất sắc nói:

- Hắn thần thông biến hóa như thế, làm sao thắng được? Thái tử nói:
- Ngoài cửa động, hắn có cắm một lá cờ, trên viết bốn chữ “Tề Thiên đại thánh”, và khoác lác rằng: bảo Thượng đế phong hắn làm “Tề Thiên đại thánh” thì mọi việc xong xuôi hết. Nếu không, hắn sẽ đánh tới điện Linh Tiêu.

Thiên vương nói:

- Nếu như vậy thì tạm thời không đánh nhau với hắn nữa, trở
về Thượng giới tâu rõ, rồi xin thêm quân vây bắt hắn cũng không muộn.

Thái tử bị đau, không thể đánh nhau được, cũng cùng Thiên vương về trời, tâu với Thượng đế. Chuyện không nói nữa.

*

*    *

Hầu vương thắng trận quay về, yêu vương bảy mươi hai động và sáu anh em đều đến chúc mừng. Trong động mở tiệc, ăn uống linh đình. Hầu vương nói với sáu anh em rằng:

- Tiểu đệ đã xứng là “Tề Thiên đại thánh”, anh em cũng nên xưng là “Đại thánh” chứ!

Ngưu ma vương bỗng nói to:

- Hiền đệ nói chí phải. Tôi xưng là “Bình Thiên đại thánh”. Giao ma vương nói:
- Tôi xưng là “Phục Hải đại thánh”. Bằng ma vương nói:
- Tôi xưng là “Hỗn Thiên đại thánh”. Sư Đà vương nói:
- Tôi xưng là “Di Sơn đại thánh”. Di hầu vương nói:
- Tôi xưng là “Thông Phong đại thánh”. Ngẫu Nhung vương nói:
- Tôi xưng là “Khu Thần đại thánh”.

Lúc đó bảy đại thánh tự suy tôn, xưng danh hiệu, ăn uống vui vẻ suốt một ngày rồi mới giải tán.

*
*    *

Lại nói Lý thiên vương cùng Tam thái tử dẫn quân tướng thẳng đến điện Linh Tiêu, tâu rằng:

- Lũ thần vâng thánh chỉ, mang quân xuống hạ giới thu thập yêu tiên Tôn Ngộ Không. Không ngờ nó có thần thông quảng đại võ nghệ cao cường, nên không địch nổi, mong thánh thượng điều thêm quân tiễu trừ.

Thượng đế nói:

- Liệu một con khỉ yêu quái tài nghệ có bao lăm mà phải thêm quân?

Thái tử tiến lại gần tâu:

- Cúi mong thánh thượng tha chết cho tội thần. Con khỉ yêu quái ấy dùng một cây gậy sắt, trước thì đánh bại Cự Linh Thần, sau lại đánh bị thương cánh tay của hạ thần. Ngoài cửa động dựng một cây cờ, trên viết bốn chữ “Tề Thiên đại thánh”. Hắn còn nói rằng phong chức ấy cho hắn, thì hắn bãi binh chịu hàng. Bằng không, thì hắn sẽ đánh lên tận điện Linh Tiêu.

Thượng đế nghe nói, kinh ngạc:

- Con khỉ yêu ấy lại dám ngông cuồng như thế ư? Các tướng hãy mau đi giết nó ngay!

Lúc ấy, Thái Bạch kim tinh, từ trong ban bước ra tâu:

- Con khỉ yêu quái ấy chỉ biết vạ mồm thôi, chứ không biết gì là lễ phép. Nay tăng quân đánh nhau với nó, trước mắt cũng không thắng được, lại mất quân. Chi bằng thánh thượng mở lượng từ bi, xuống chiếu chiêu an, phong nó làm “Tề Thiên đại thánh” nhưng chỉ có chức suông thôi, có quan mà không có lộc là hơn.

Thượng đế nói:
- Thế nào là “có quan không có lộc”? Kim Tinh nói:
- Danh tuy là “Tề Thiên đại thánh”, nhưng không cho làm gì, không cấp bổng lộc, nuôi hắn ở trong vòng trời đất, thu lấy tà tâm của hắn, khiến hắn không sinh lòng ngông cuồng, như thế may ra trời đất mới thanh bình, vũ trụ mới yên ổn được.

Thượng đế nghe lời, nói:

- Trẫm y theo lời tâu của khanh.

Bèn lập tức sai viết chiếu thư giao cho Kim Tinh mang đi.

Một lần nữa Kim Tinh lại ra cửa Nam Thiên, thẳng xuống động Thủy Liêm, núi Hoa Quả xem xét. Lần này khác hẳn lần trước, uy phong lẫm liệt, sát khí đằng đằng, đủ mọi loại yêu quái. Con nào con nấy mang kiếm vác thương, khoa đao múa gậy, hò hét nhảy nhót, vừa thấy Kim Tinh, chúng đã xông vào đánh. Kim Tinh nói:

- Các đầu mục lại đây, phiền các chú vào báo cho Đại thánh biết ta là sứ giả của Thượng đế, mang thánh chỉ xuống đây mời ngài.

Lũ yêu lập tức chạy vào báo:

- Ngoài động có một ông già nói là sứ giả của Thượng đế mang thánh chỉ xuống mơi Đại thánh.

Ngộ Không nói:

- Đến đúng lúc lắm, đúng lúc lắm! Lần trước Kim tinh Thái Bạch xuống mời ta lên thượng giới, tuy quan tước chẳng ra làm sao, nhưng cũng đã được một lần lên trời, biết hết đường đi lối lại ở thiên cung. Lần này xuống chắc là có hảo ý.

Bèn truyền các đầu mục đánh trống mở cờ, dàn thành hàng ngũ đón tiếp. Đại thánh dẫn bọn khỉ, đội mũ mặc giáp, ngoài
khoác áo hoàng bào đỏ, chân đi hài vân, cấp tốc ra ngoài động. Ngộ Không cúi mình thi lễ, cao tiếng nói:
- Mời lão tinh vào, xin ngài tha lỗi cho tôi không kịp đón tiếp. Kim tinh bước vào, đi thẳng vào trong động, đứng ngoảnh
mặt về phía Nam nói:

- Hôm nay nói để Đại thánh rõ, lần trước Đại thánh không thiết chức quan nhỏ, trốn khỏi Ngự mã giám, quan viên lớn nhỏ trong trại cáo tâu việc ấy với Thượng đế Thượng đế truyền lệnh rằng “phàm việc trao quan chức, phải từ thấp lên cao, cớ sao lại hiềm là nhỏ?”. Lúc ấy có Lý thiên vương dẫn Na Tra xuống hạ giới đánh nhau với Đại thánh. Không ngờ Đại thánh thần thông, nên Na Tra bị thua, chạy về trời tâu rằng: “Đại thánh có dựng một cây cờ, muốn làm Tề Thiên đại thánh”. Nhiều võ tướng còn toan đánh nữa. Nhưng lão đây cố sức thanh minh, tâu xin chức ấy cho Đại thánh, để khỏi động binh. Thượng đế nghe theo, bởi thế lão mới đến đây mời Đại thánh.

Ngộ Không cười nói:

- Lần trước ngài đã khó nhọc, lần này lại quá ưu ái, tôi xin cảm tạ, cảm tạ! Nhưng không biết trên trời có hàm quan “Tề Thiên đại thánh” không?

Kim Tinh nói:

- Lão đã tâu Thượng đế chuẩn y hàm quan ấy, thì hôm nay mới dám mang thánh chỉ xuống. Nếu không bằng lòng, Đại thánh cứ bắt tội lão đây là được.

Ngộ Không hớn hở, cố giữ Kim Tinh lại mở tiệc thết đãi, nhưng không được, bèn cùng Kim Tinh cưỡi mây lành, lên thẳng cửa Nam Thiên. Lúc ấy, thiên binh, thiên tướng đều chắp tay nghênh đón. Hai người vào thẳng điện Linh Tiêu, Kim Tinh quỳ lạy tâu:
- Thần vâng chiếu đã dẫn Bật mã ôn Tôn Ngộ Không đến. Thượng đế nói:
- Tôn Ngộ Không lại đây. Lần này triệu nhà ngươi lên cho làm “Tề Thiên đại thánh” quan cao cực phẩm nhưng không được làm việc hồ đồ nghe chưa!

Hầu vương cũng chỉ quay lên “dạ” một tiếng cảm ơn Thượng đế lập tức sai hai quan công cán họ Trương, họ Lỗ dựng ngay ở mé phải vườn Bàn Đào một tòa phủ “Tề Thiên đại thánh”. Trong phủ đặt hai ty: ty An Tĩnh và ty Ninh Thần. Trong các ty đều có tiên lại giúp việc. Lại sai Ngũ đẩu tinh quân dẫn Ngộ Không đến đó nhậm chức, ban cho hai bình rượu ngự, mười bông hoa vàng, để Ngộ Không tâm yên chí định, không làm những việc bậy bạ nữa.

Ngay ngày hôm ấy, Ngộ Không cùng Ngũ đẩu tinh quân đến phủ. Ngộ Không mở bình rượu, cùng mọi người uống cạn. Đưa tinh quân về bản cung rồi, Ngộ Không lấy làm bằng lòng thỏa mãn lắm, mừng vui hớn hở, được hưởng sung sướng ở thiên cung, không còn trở ngại gì cả.

Thật là:

Họ tên ghi rõ sổ trời

Sống lâu mãi mãi, luân hồi chẳng lo

Không biết việc sau thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ NĂM


Loạn vườn đào Đại thánh trộm thuốc tiên


Về thiên cung, các thần bắt yêu quái


Lại nói Tề Thiên đại thánh rút cục vẫn là con khỉ yêu quái,
chẳng hay làm quan to nhỏ, chẳng biết bổng lộc thấp cao, chỉ biết có danh hiệu như thế là được. Tiên lại hai ty trong phủ Tề Thiên sớm tối hầu hạ, Hầu vương chỉ biết ngày ăn ba bữa, đêm đánh một giấc, chẳng bận việc gì, tự do tự tại. Khi rỗi rãi đi chơi các cung, kết giao bè bạn. Thấy Tam thanh xưng là “lão”, gặp Tứ đế gọi “bệ hạ”, cùng với chín diệu tinh, năm phương tướng, hai mươi tám tinh tú, bốn đại thiên vương, mười hai nguyên thần, năm lão ở năm phương, tinh tú khắp trời, và các thần sông Hà, sông Hán, chơi với nhau thân như anh em. Hôm nay chơi phương Đông, ngày mai sang phương Tây, đi mây về gió, chẳng cố định ở nơi nào cả.

Một hôm, Thượng đế khai triều sớm. Hứa Tịnh Dương chân nhân từ trong ban bước ra, dập đầu tâu:

- Nay Tề Thiên đại thánh, rỗi việc rong chơi, kết giao với các tinh tú trên trời, bất kể cao thấp đều xưng hô là bè bạn. E rằng “nhàn cư vi bất thiện”; chi bằng giao cho hắn một việc gì, may ra khỏi sinh rắc rối chăng?

Thượng đế nghe nói, bèn cho gọi Ngộ Không đến. Hầu vương hớn hở đến ngay, thưa:
- Tâu bệ hạ, bệ hạ cho gọi lão Tôn đến chắc có thăng thưởng gì chăng?

Thượng đế noi:
- Trẫm thấy nhà ngươi rỗi rãi công việc, nên trao cho nhà ngươi một việc là tạm trông nom vườn Bàn Đào, sớm tối phải cẩn thận.

Đại thánh mừng rỡ tạ ơn, ngẩng lên “vâng” một tiếng rồi lui ra, vào ngay vườn đào xem xét. Nhưng khi đến vườn, bị một vị thổ thần giữ lại hỏi:

- Đại thánh đi đâu? Đại thánh đáp:
- Ta vâng mệnh Thượng đế, thay ngươi trông giữ vườn đào. Hôm nay ta đến củ soát xem sao?

Vị thổ địa ấy vội vàng thi lễ, gọi ngay một đội lực sĩ trồng cây, lực sĩ gánh nước, lực sĩ tỉa cành, lực sĩ quét vườn ra cúi chào Đại thánh và đưa Đại thánh vào xem vườn, chỉ thấy nơi đây:

Xinh tươi rực rỡ. Mơn mởn rườm rà.
Xinh tươi rực rỡ hoa đầy ngọn; Mơn mởn rườm rà quả trĩu cành. Quả mọng đầu cành hòn gấm rủ,
Hoa ngời quanh ngọn cánh rung rinh.

Hoa khai kết quả nghìn năm chín, Không đông, không hạ, vượt thời gian. Quả chín trước màu da đỏ lựng,
Trái ra sau đài cuống còn xanh.

Mỡ màng phô sắc lục, Óng ánh nổi vân hồng.
Quanh gốc mọc hoa thơm cỏ lạ,
Bốn mùa tám tiết vẫn tươi xanh. Sau trước lâu đài cùng quán các, Ráng chiều mây sớm lượn vây quanh. Đào tiên, Vương Mẫu trồng ra đó,
Chẳng phải Huyền Đô giống dưới trần.

Đại thánh ngắm nghía hồi lâu, hỏi thổ địa rằng:

- Vườn đào này có bao nhiêu gốc? Thổ địa đáp:
- Có ba nghìn sáu trăm cây, đằng trước có một nghìn hai trăm cây, hoa quả nhỏ bé, ba nghìn năm mới chín, người ăn vào sẽ thành tiên, thân nhẹ người khỏe. Ở giữa có một nghìn hai trăm cây, hoa thơm quả ngọt, sáu nghìn năm mới chín, người ăn vào có thể bay bổng lên mây, trẻ mãi không già. Một nghìn hai trăm cây ở phía sau, vỏ vân tím hột vàng lợt, chín nghìn năm mới chín, người ăn vào thọ ngang trời đất, sánh cùng nhật nguyệt.

Đại thánh nghe nói, vui mừng không để đâu hết, đi đếm lại cho rõ số cây đào, củ soát lại những đình, các rồi về phủ. Từ đấy trở đi, cứ dăm ba ngày Đại thánh lại đi ngắm cảnh một lần, không chơi bời, giao du với ai nữa.

Một hôm, thấy trên đầu cành một cây đào già, quả chín quá nửa, Đại thánh bụng muốn nếm thử, ngặt vì thổ địa, lực sĩ cùng quan viên trong phủ Tề Thiên đi theo sát ngay bên cạnh, ăn không tiện. Đại thánh bỗng nảy ra một kế, nói:

- Các ngươi tạm ra ngoài chờ, để ta nằm nghỉ trong đình này một chút.

Mọi người lui ra, Đại thánh bèn cởi mũ áo, trèo lên cây chọn những quả đào chín mọng, hái rất nhiều, ngồi ngay trên cành cây mặc sức ăn kì no, xong lại nhảy xuống, đội mũ mặc áo, gọi
mọi người vào, cùng trở về phủ.

Mấy hôm sau, Đại thánh lại theo kế ấy lấy trộm đào, ăn thỏa thích.

Một hôm, Vương Mẫu bày tiệc, mở “đại hội Bàn Đào” ở cung Dao Trì, bèn sai các tiên nữ áo đỏ, áo xanh, áo trắng, áo đen, áo tía, áo vàng, áo chàm mang làn hoa đến vườn hái quả về bày tiệc. Bảy tiên nữ đến thẳng vườn đào, thấy thổ địa, lực sĩ cùng các quan viên hai ty trong phủ Tề Thiên đứng trong cửa. Bảy tiên nữ đến gần, nói:

- Chúng tôi vâng mệnh Vương Mẫu đến đây hái đào về bày tiệc, mở “hội Bàn Đào”.

Thổ địa nói:

- Tiên nga hãy tạm chờ. Nam nay không giống mọi năm, Thượng đế sai Tề Thiên đại thánh trông nom vườn đào này, phải báo cho ngài biết đã, rồi hãy vào.

Tiên nữ nói:

- Đại thánh ở đâu? Thổ địa nói:
- Đại thánh ở trong vườn, vì ngài hơi mệt nên nằm ngủ trong đình.

Tiên nữ nói:

- Nếu như vậy, phải đi tìm ngài ngay, kẻo lỡ việc.

Thổ địa cùng bảy tiên nữ cùng vào, tìm ở đình hoa không thấy, chỉ thấy mũ áo ở đấy, còn người chẳng biết đi đâu, mà tìm khắp nơi cũng chẳng thấy. Nguyên do là Đại thánh chơi một lúc, ăn mấy quả đào, rồi biến thành một đứa bé cao độ năm tấc, nằm ngủ gọn trên vòm cây rậm rạp um tùm.

Bảy tiên nữ nói:
- Chúng tôi vâng mệnh Vương Mẫu đến đây, giờ tìm không thấy Đại thánh, chẳng lẽ lại về không?

Một quan viên đứng bên cạnh nói:

- Tiên nga đã vâng mệnh đến, bất tất phải rụt rè, Đại thánh nhàn rỗi, quen tính đi chơi. Có lẽ ngài ra ngoài vườn, tụ tập bạn bè ở đâu rồi. Các tiên nữ cứ hái đào đi, chúng tôi nói thay cho cũng được.

Đầu tiên, hái hai làn ở hàng cây đằng trước, rồi hái ba làn ở hàng cây giữa. Đến hàng cây đằng sau, thấy trên cây hoa quả thưa thớt, chỉ còn mấy quả xanh non da phủ lông tơ, bởi những quả chín, Ngộ Không đã ăn sạch rồi. Bảy tiên nữ đưa mắt tìm quanh, chỉ thấy cành phía nam còn một quả nửa hồng nửa trắng. Tiên nữ áo xanh xin cành xuống, tiên nữ áo đỏ hái quả, đoạn thả tay ra, làm cành cây vọt lên. Lúc này Đại thánh biến hình, đang ngủ ở cành ấy, giật mình tỉnh dậy, tức thì hiện rõ nguyên hình, rút gậy sắt bịt vàng trong tai ra, vung lên múa tít, quát hỏi:

- Các ngươi là quái vật ở đâu, mà dám tới đây ăn trộm đào của ta?

Sợ hãi, bay tiên nữ quỳ xuống, thưa:

- Xin Đại thánh nguôi giận, chúng tôi không phải là yêu quái, mà là bảy tiên nữ Vương Mẫu sai đến hái đào tiên mang về mở “hội Bàn Đào”. Lúc mới đến đây, chúng tôi đã hỏi các thần thổ địa trong vườn. Tìm Đại thánh không thấy, e làm chậm lệnh của Vương Mẫu, mà đợi Đại thánh thì biết đến bao giờ, vậy nên chúng tôi cứ hái đào trước, cúi mong Đại thánh tha tội.

Đại thánh nghe xong đổi giận làm vui, nói:

- Xin mời các tiên nữ đứng dậy, Vương Mẫu mở tiệc thì mời những ai?

Tiên nữ thưa:
- Hội này đã có thể lệ từ trước. Khách mời là Tây thiên Phật lão, Bồ tát, Thánh tăng, La hán, Nam cực Quan âm ở phương Nam, Sùng Ân thánh đế ở phương Đông, Tiên ông ở mười ba châu đảo. Bắc cực huyền linh ở phương Bắc. Hoàng cực hoàng giác đại tiên ở phương chính giữa. Đó là Ngũ lão ở năm phương Lại còn Ngũ đẩu tinh quân, các thiện tiên Tam thanh, Tứ đế. Thái ất ở tám động trên; các thần tiên Ngọc hoàng, Cửu lũy. Hải nhạc ở tám động giữa; các địa tiên chư thế, U minh giáo chủ ở tám động dưới. Ngoài ra các tôn thần lớn nhỏ trong các cung, các điện đều nhất tề đến dự “đại hội Bàn Đào” cả.

Đại thánh cười nói:

- Thế có mời ta không? Tiên nữ thưa:
- Không nghe thấy nói đến. Đại thánh nói:
- Ta là Tề Thiên đại thánh, mời lão Tôn này dự, có gì là không được!

Tiên nữ đáp:

- Đó là theo lệ cũ của đại hội, còn năm nay chưa rõ thế nào. Đại thánh nói:
- Các ngươi nói cũng có lý, chẳng trách làm gì, hãy tạm đứng đây, đợi ta đi nghe ngóng, xem có mời lão Tôn không nhé!

Đoạn Đại thánh bấm quyết, nói với các tiên nữ:

- Đứng im! Đứng im!

Đó là phép định thân, khiến cho bảy tiên nữ lờ đờ, ngây dại, đứng im dưới gốc đào. Đại thánh nhảy vút lên mây, bay ra khỏi vườn, thẳng đến Dao Trì. Đang đi, thấy một người:

Một vầng ráng đẹp sáng long lanh,
Năm sắc mây lành bay tuyệt đẹp. Hạc kêu lanh lảnh chín tầng xanh, Cỏ chi rườm rà nghìn lá biếc. Trong mây xuất hiện một ông tiên, Đạo cốt tiên phong nom rất tuyệt. Thần sắc rạng rỡ tựa cầu vồng,
Lưng đeo bùa ngọc không sinh diệt.

Đó là Xích Cước đại la tiên, Đến hội Bàn Đào dự thọ tiết.
Vị tiên ấy vừa giáp mặt thấy Đại thánh, Đại thánh cúi đầu nghĩ kế nói dối vị chân tiên, để lẻn đi dự hội trước, bèn hỏi:

- Lão tiên đi đâu vậy? Đại tiên đáp:
- Đội ơn Vương Mẫu chiếu cố, mời đến dự hội Bàn Đào. Đại thánh nói:
- Lão tiên không biết. Thượng đế thấy tôi có phép cân đẩu vân, nên sai tôi đứng đón năm ngả đường mời các vị hẵng đến điện Thông Minh làm lễ đã, rồi sang dự hội Bàn Đào sau.

[57]
Đại tiên là người thật thà

, tin thật, nói:

- Mọi năm vẫn làm lễ tạ ơn ở cung Dao Trì, năm nay chẳng biết làm sao lại đến điện Thông Minh làm lễ trước, rồi sau mới đến Dao Trì dự hội?

Nhưng chẳng biết làm thế nào, đành cưỡi mây lành quay trở lại điện Thông Minh.

Đại thánh cưỡi mây, niệm chú, lắc mình một cái, biến thành hình tướng Xích Cước đại tiên, đến Dao Trì trước. Chẳng mấy
chốc, đã đến gác ngọc, từ trên mây hạ xuống; nhẹ nhàng rảo bước, vào thẳng bên trong. Chỉ thấy:

Hương quỳnh ngào ngạt, Ráng đẹp vẩn vơ.
Đài dao phô vẻ biếc, Gác ngọc tỏa hơi mờ.
Phượng múa loan vờn hình thấp thoáng,

Hoa vàng nhị ngọc vẻ lưa thưa.

Bên trong bày:

Bình phong chín phượng vờn ráng đỏ, Đôn hoa bát bảo vẽ cầu vồng. Chén ngọc nghìn hoa thắm,
Bàn vàng năm sắc trong.

Trên bàn bày:




Môi vượn cùng tay gấ   [58], Tủy phượng với gan rồng,

Sơn hảo hải vị ăn ngon tuyệt, Quả lạ hoa tươi đẹp lạ lùng!
Cỗ bàn đã bày xong tinh tươm, nhưng chưa có vị tiên nào đến dự. Đại thánh ta xem đếm không xuể. Bỗng một mùi thơm thoảng đưa vào mũi. Đại thánh quay đầu lại, thấy trong hành lang phía tường phải có mấy tiên quan đang nấu rượu, lực sĩ bưng cốt rượu, dẫn mấy đạo nhân xách nước, tiểu đồng nhóm bếp, rửa bình cọ vò, và đã nấu xong một thứ rượu quỳnh tương ngon tuyệt, hương thơm ngạt ngào. Đại thánh không kìm nổi chảy cả nước miếng, muốn đến uống, nhưng chẳng biết làm thế
nào, vì họ ngồi cả đấy, bèn trổ phép thần thông, nhổ mấy sợi lông, bỏ vào mồm nhai nát, niệm chú, hô “biến”, hóa thành mấy con bọ ngủ bò ngọ nguậy trên mặt họ. Mấy người kia bỗng cảm thấy tay chân rã rời, đầu mặt nặng trĩu, mắt nhắm lại, bỏ cả công việc, ngủ tít lúc nào không biết. Đại thánh bèn thu nhặt các thứ của ngon vật lạ, mang vào trong hành lang, mở các vò rượu ra, đánh chén một mẻ no say.



Hồi lâu, khi đã say mềm mới bần thần nghĩ rằng:

- Hỏng rồi, hỏng rồi! Rồi đây khách khứa đến, không lấy làm lạ sao? Họ giữ ta lại thì phiền. Chi bằng quay ngay về phủ đánh một giấc ngủ là hơn!

Đại thánh say quá, xiêu vẹo bước đi, chẳng còn tỉnh táo nữa nên lầm đường, không về phủ Tề Thiên mà lại vào cung Đâu Suất. Đến nơi, Đại thánh mới chợt nhận ra, nói:

- Cung Đâu Suất ở tầng trời thứ ba mươi ba, nơi ở của Thái
Thượng lão quân[59]


  sao ta lại lạc đến đây nhỉ? Thôi được, từ
trước ta vẫn ngưỡng vọng ông này mà chưa đến được, nhân dịp này, thuận đường vào thăm ông một chút cũng hay.

Nói xong, Đại thánh bèn sửa sang quần áo ngay ngắn. Nhưng chẳng thấy Lão Quân, tứ phía không một bóng người. Lúc ấy Lão Quân cùng Nhiên Đăng cổ Phật đang giảng đạo trên đài Chu Lăng, tầng gác thứ ba. Các tiên đồng, tiên tướng, tiên quan, tiên lại đang đứng hầu hai bên nghe giảng. Đại thánh vào thẳng đan phòng tìm hỏi nhưng không gặp, chợt thấy trong lò bếp có lửa, xung quanh lò để năm hồ lô, trong hồ lô đều đựng kim đơn đã luyện xong. Đại thánh mừng rỡ, nói:

- Linh đơn là thứ quý nhất của thần tiên. Lão Tôn từ ngày đắc đạo, nhận rõ được lý trong ngoài giống nhau, vẫn muốn luyện linh đơn cứu người, khốn nỗi về nhà bận rộn. Hôm nay có duyên, gặp được của này, may Lão Quân lại không có nhà, ta nếm thử vài viên xem sao.

Liền dốc tất mấy hồ lô, lấy kim đơn ăn sạch, tựa như ăn đậu rang vậy.

Một lát, thuốc vào rượu tỉnh, Đại thánh nghĩ thầm:

- Hỏng! Hỏng! Tai họa này còn to hơn cả trời, làm kinh động Thượng đế thì tính mệnh ắt khó toàn. Phải đi ngay thôi, đi ngay về hạ giới làm vua khoái hơn!

Đại thánh bèn rời khỏi cung Đâu Suất, không theo đường cũ, mà theo lối cửa Tây, dùng phép tàng hình trốn đi, cưỡi mây về thẳng núi Hoa Quả.

Đến nơi, Đại thánh thấy tinh kì phấp phới, gươm giáo sáng choang. Bốn kiện và yêu vương bảy mươi hai động đang diễn tập võ nghệ. Đại thánh gọi to:

- Lũ nhỏ ơi, ta đã về đây!
Lũ khỉ vứt cả khí giới, quỳ xuống tâu:

- Đại thánh bỏ nỡ lòng chúng tôi đi lâu thế, chẳng chút đoái hoài!

Đại thánh nói:

- Lâu đâu mà lâu!

Vừa nói vừa đi vào thẳng trong động. Bốn kiện tướng thu dọn xong xuôi, dập đầu lạy, thưa:

- Đại thánh ở trên trời một trăm năm, thực giữ chức gì? Đại thánh cười:
- Ta chỉ nhớ quãng độ nửa năm, chứ đâu mà những một trăm năm?

Kiện tướng nói:

- Một ngày trên trời bằng một năm ở hạ giới đấy! Đại thánh nói:
- Đáng mừng là chuyến này được Thượng đế yêu mến, phong ta làm “Tề Thiên đại thánh”, dựng cả phủ Tề Thiên, cùng hai ty An Tĩnh, Ninh Thần, trong ty đặt các quan lại giúp việc. Sau thấy ta vô sự, giao cho ta trông nom vườn Bàn Đào. Mới đây, nhân Vương Mẫu mở “đại hội Bàn Đào”, nhưng không mời ta, thế là ta chẳng cần họ mời, đến trước Dao Trì, chén sạch cả thức ăn tiên, rượu tiên. Ra khỏi Dao Trì, ta say quá, bước xiêu vẹo lạc vào cung của Lão Quân, lại lấy trộm kim đơn trong năm hồ lô chén hết. Ta sợ Thượng đế phát hiện ra bắt tội, nên mới trốn khỏi cửa trời về đây.

Yêu quái nghe nói cả mừng, lập tức bày rượu, quả đón tiếp Đại thánh, rót rượu dừa tràn đầy bát đá dâng lên, Đại thánh nốc một hơi, chép miệng nói:

- Rượu không ngon, không ngon!
Hai tướng Băng, Ba thưa:

- Đại thánh ở thiên cung, uống rượu tiên, ăn thức ăn tiên, nên thấy rượu dừa không ngon nữa. Nhưng người ta thường nói: “Không ngon cũng của quê nhà”.

Đại thánh nói:

- Các ngươi cũng chính là: “Chẳng thân thì cũng cùng quê”. Sáng nay, khi ta ăn uống ở cung Dao Trì, thấy trong hành lang để rất nhiều bình rượu, đều là rượu tiên ngon tuyệt, các ngươi chưa được uống bao giờ, đợi ta đi lấy trộm mấy bình về, để mỗi người uống độ nửa chén, sẽ sống mãi đến già.

Lũ khỉ vui mừng không xiết. Đại thánh lập tức ra cửa động, dùng phép cân đẩu vân và phép tàng hình, lên thẳng hội Bàn Đào. Vào đến cung Dao Trì, thấy mấy người nấu rượu, gánh nước, nhóm bếp vẫn ngủ say chưa tỉnh. Đại thánh bèn cắp nách hai bình, hai tay cầm hai bình, cưỡi mây trở về, hội họp bọn khỉ trong động, tổ chức “hội rượu tiên”, mỗi người uống vài chén, vui vẻ say sưa, chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện bảy tiên nữ bị Đại thánh dùng phép định thân, suốt một ngày mới tỉnh, ai nấy xách làn đào trở về tâu với Vương Mẫu:

- Tề Thiên đại thánh dùng phép giữ chúng con, nên mới về muộn thế này.

Vương Mẫu nói:

- Các ngươi hái được bao nhiêu đào? Tiên nữ thưa:
- Chỉ hái được hai làn đào nhỏ, ba làn đào vừa, rặng cây phía sau thì nửa quả cũng không còn, chắc Đại thánh ăn trộm rồi. Đang lúc chúng con đi tìm Đại thánh, thì bất chợt Đại thánh nhảy xổ ra, hành hung chúng con, lại hỏi tiệc mời những ai.
Chúng con kể việc mở hội Bàn Đào một lượt, thế là Đại thánh dùng phép giữ chúng con lại, và không biết bỏ đi đâu. Mãi đến giờ chúng con mới tỉnh trở về được.

Vương Mẫu nghe nói, lập tức đến gặp Thượng đế tâu rõ mọi việc. Chưa dứt lời; lại thấy một tốp nấu rượu cùng các quan viên vào tâu:

- Chẳng biết kẻ nào đã làm loạn “đại hội Bàn Đào”, uống trộm hết rượu quý và ăn vụng hết cả thức ăn ngon.

Lại có bốn Đại thiên sư vào tâu:

- Có thái thượng đạo tổ đến.

Thượng đế cùng Vương Mẫu vội vã ra đón. Lão Quân làm lễ xong thưa:

- Trong cung của lão đã luyện được một ít kim đơn chín lần luyện, định dâng bệ hạ mở “đại hội Đan Nguyên” nhưng không ngờ bị mất trộm sạch. Nay xin tâu để bệ hạ rõ.

Thượng đế nghe tâu, cả sợ. Một lát, lại có các quan viên trong phủ Tề Thiên dập đầu tâu:

- Tôn đại thánh không giữ chức vụ, bỏ đi chơi từ hôm qua đến nay chưa về, chẳng biết đi đâu.

Thượng đế càng nghi hoặc, lại thấy Xích Cước đại tiên cúi đầu tâu:

- Thần được Vương Mẫu chiếu cố mời đi dự hội Bàn Đào, hôm qua gặp Tề Thiên đại thánh, Đại thánh có nói với thần rằng: Bệ hạ có chiếu chỉ mời chúng tôi đến điện Thông Minh, làm lễ trước rồi đến hội Bàn Đào sau. Thần theo lời đến thẳng điện Thông Minh, chẳng thấy xa giá của bệ hạ đâu cả, vội vàng đến đây đợi hầu.

Thượng đế càng sợ hãi:
- Tên ấy giả mạo truyền chiếu chỉ của ta để lừa khanh. Phải sai ngay Củ Soát linh quan đi điều tra tung tích của nó.

Linh quan vâng mệnh, lập tức ra ngoài đi hỏi khắp nơi, biết rõ tình hình, về tâu:

- Kẻ làm loạn thiên cung chính là Tề Thiên đại thánh. Rồi tâu rõ mọi việc một lượt nữa.
Thượng đế giận lắm, lập tức sai bốn đại thiên vương cùng Lý thiên vương, Na Tra thái tử, điểm hai mươi tám tinh tú, chín diệu tinh quân, mười hai nguyên thần, năm phương yết đế, bốn trực công tào, tinh đẩu đông tây, hai thần nam bắc, ngũ nhạc tứ độc cùng tinh tướng khắp trời, gồm mười vạn thiên binh, cùng mười tám bức thiên la địa võng, xuống hạ giới vây chặt núi Hoa Quả, bắt bằng được Đại thánh về trị tội.



Các tướng lập tức cất quân, rời khỏi thiên cung. Chuyến đi này thật là:
Trời tối mịt mù gió vàng rít

Đất che u ám mây tía bay Chỉ tại khỉ yêu lừa Thượng đế Cho nên thiên tướng phải ra tay Bốn đại thiên vương
Năm phương yết đế

Bốn đại thiên vương quyền thống lĩnh Năm phương yết đế nắm điều binh Lý Thác Tháp trung quân giữ hiệu Ác Na Tra tiền bộ tiên phong
La Hầu tinh dẫn đầu kiểm diện Kế đô tinh đoạn hậu thúc quân Thái âm tinh, tinh thần phấn chấn.
Thái dương tinh soi sáng phân minh.

Ngũ hành tinh anh hùng hào kiệt Cửu diệu tinh đánh giặc liều mình Nguyên thần tinh: Tý, Ngọ, Mão, Dậu Tất thảy đều lực sĩ thiên binh
Phía đông tây: Ngũ ôn, Ngũ nhạc Bên phải trái: Lục giáp, Lục đinh Tứ độc long thần chia trên dưới Nhị thập bát tú đứng như thành
Giốc, Cang, Đê, Phòng làm tổng lĩnh Khuê, Mâu, Vị, Mão gác xung quanh. Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích
Tâm, Vĩ, Cơ toàn tướng lừng danh. Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chuẩn Vung thương múa kiếm, trổ oai thần
Cưỡi mây thẳng xuống nơi trần giới

Hoa quả chân non lập trại doanh.

Có thơ rằng:




Trời sinh khỉ quái biến muôn hình

Trộm rượu, linh đơn xuống động mình.

Hội lớn Bàn Đào mưu phá rối

Binh trời mười vạn bủa vây quanh.

Lúc ấy, Lý thiên vương hạ lệnh cho thiên binh hạ trại, vây kín
núi Hoa Quả, đến con muỗi bay không lọt[60]


  trên dưới giăng
,
mười tám bức thiên la địa võng, rồi sai chín vị ác tinh ra trận. Chín vị lập tức kéo quân đến thẳng cửa động, thấy ngoài cửa động một lũ khỉ lớn nhỏ nhảy nhót, nghịch ngợm. Tinh quân cất tiếng quát:

- Lũ tiểu yêu kia, Đại thánh của chúng bay ở đâu? Chúng ta là thiên thần trời sai xuống bắt tên phản nghịch Đại thánh. Bảo hắn mau mau ra hàng. Nếu nói nửa lời “không”, thì chúng bay cũng bị giết ngay!

Bọn tiểu yêu hoảng hốt, chạy vào bảo:

- Thưa Đại thánh, nguy rồi, nguy rồi! Ngoài cửa có chín vị hung thần, nói là thiên thần trời sai xuống bắt Đại thánh.

Lúc ấy Đại thánh cùng yêu vương bảy mươi hai động, bốn kiện tướng đang chia nhau rượu tiên, nghe báo như vậy vẫn mặc kệ nói:

Sáng nay có rượu cứ say
Dở hay ngoài động ta đây cóc cần.

Chưa dứt lời, bọn tiểu yêu ngoài động lại chạy vào báo:

- Chín vị hung thần hung hăng nói mạnh, thách Đại thánh ra ngoài cửa động.

Đại thánh cười:

- Kệ xác chúng!

Rượu thơ cứ việc say sưa

Công danh chớ hỏi bao giờ thì xong.

Chưa dứt lời, lại có một bọn tiểu yêu vào báo:

- Cha ơi! Chín vị hung thần đã phá cửa, đánh vào rồi! Đại thánh giận lắm, nói:
- Lũ hung thần hèn mạt, thật vô lễ! Ta không muốn dây dưa với chúng, cớ sao lại đến trêu ta!

Lập tức sai Độc giác quỷ vương dẫn yêu vương bảy mươi hai động ra trận. Đại thánh dẫn bốn kiện tướng theo sau.

Một lũ quỷ vương yêu tinh xông ra cửa nghinh địch, bị ngay chín vị ác tinh nhất tề chặn đánh, chững lại chỗ đầu cầu sắt, không sao ra được.

Đương lúc ấy, Đại thánh đến, quát:

- Mở đường ra!

Và rút ngay gậy sắt, vung lên múa tít. Cây gậy dài khoảng hai trượng, đã đánh bật tung, mở được đường. Chín vị Diệu tinh quân không địch nổi, phải rút lui về giữ vững thế trận, nói:

- Tên Bật mã ôn kia không biết đường sống chết! Nhà ngươi phạm vào mười tội ác, trước ăn trộm đào, sau ăn trộm rượu, làm rối loạn đại hội Bàn Đào, lại ăn cắp linh đơn của Lão Quân, lấy trộm rượu ngự mang xuống hạ giới chè chén, tội ác chồng chất
mà không biết sao?

Đại thánh cười, nói:

- Những việc ấy ta đều làm thực, nhà ngươi làm gì nổi ta? Chín vị Diệu tinh quân nói:
- Chúng ta vâng lệnh Thượng đế, mang quân đến đây bắt ngươi hàng phục. Nếu sớm quy hàng thì tránh cho những sinh linh kia thoát chết. Bằng không, bọn ta sẽ san phẳng núi này, phá tan hang động!

Đại thánh giận lắm, hỏi:

- Liệu pháp thuật các ngươi được bao lăm mà khoác lác? Chớ có bỏ chạy, nếm thử một gậy của lão Tôn đây!

Chín vị Diệu tinh quân nhất loạt xông vào. Mỹ hầu vương không mảy may sợ hãi, vung cây gậy sắt bịt vàng, đánh cho chín vị Diệu tinh quân mệt mỏi nhừ tử, ai nấy kéo lê vũ khí, bỏ chạy vào trong trướng giữa trung quân nói với Thác Tháp Lý thiên vương:

- Hầu vương kiêu dũng lắm, chúng tôi không địch nổi, thua chạy về đây.

Lý thiên vương lập tức điều bốn đại thiên vương cùng hai mươi tám tinh tú đem quân lại đánh.

Đại thánh cũng không chút sợ hãi, điều Độc giác quỷ vương, yêu vương bảy mươi hai động cùng bốn kiện tướng ra bày thành trận thế ngay ngoài cửa động. Một trường hỗn chiến thật khủng khiếp:

Gió lạnh hắt hiu, Sương mù man mác.
Bên kia tinh kỳ phấp phới, Phía này gươm giáo sáng choang.
Mũ kim khôi lớp lớp, Áo giáp sắt hàng hàng.
Kim khôi lớp lớp, lấp lánh như khánh bạc trên không Giáp sắt hàng hàng, san sát tựa núi băng ép đất. Đao to bản chớp giật mây bay
Thương cán gỗ mưa tuôn gió bốc.

Kích thiên phương, roi mắt hổ, la liệt như rừng; Kiếm đồng xanh, liềm tứ minh, trận bày chất ngất. Đại thánh vung gậy đánh thiên thần,
Tiến lui uyển chuyển nhanh như cắt.

Chim trời sợ hãi chẳng dám bay, Hổ báo rụng rời chạy biến mất.
Trời đất mịt mờ cát đá bay, Vũ trụ tối tăm tung bụi đất.
Xoang xoảng ầm ầm, động đất trời, Sát sát uy uy, quỷ thần ngất!
Trận đánh kéo dài từ giờ Thìn bày trận, hỗn chiến đến khi mặt trời lặn sau rặng núi phía tây. Độc giác quỷ vương cùng yêu quái bảy mươi hai động đều bị thiên thần bắt sống đem đi hết, chỉ còn bọn kiện tướng cùng lũ khỉ chạy thoát, trốn tít trong đáy Thủy Liêm động. Đại thánh một gậy chọi với bốn đại thiên thần, Lý Thác Tháp và Na Tra thái tử ở trên không. Đánh nhau hồi lâu, Đại thánh thấy trời sắp tối, bèn nhổ một dúm lông, bỏ vào mồm nhai nát, phun ra, hô “biến”, liền biến thành hàng trăm, hàng nghìn Đại thánh cầm gậy sắt bịt vàng, đánh bại cả Na Tra thái tử lẫn năm thiên vương.

Đại thánh thắng trận, thu lông quay về động, đến cầu sắt thầy
bốn kiện tướng dẫn lũ khỉ kéo ra đón. Chúng khóc hu hu ba tiếng, rồi lại cười khà khà ba tiếng. Đại thánh nói:

- Các ngươi thấy ta, vừa khóc vừa cười là cớ làm sao? Bốn kiện tướng thưa:
- Sáng nay chúng tôi dẫn các tướng ra đánh nhau với thiên vương, ma vương bảy mươi hai động và Độc giác quỷ vương đều bị thiên thần bắt mất, chúng tôi trốn thoát được, bởi thế mà khóc. Nay thấy Đại thánh thắng trận trở về không bị xây xát gì, nên chúng tôi cười.

Đại thánh nói:

- Được thua là chuyện thường của nhà binh. Người xưa nói: “Giết địch một vạn, mình tốn ba nghìn”. Huống hồ tướng bị bắt toàn là giống lang trùng hổ báo, cầy cáo hươu nai, giống khỉ chúng ta chưa bị thương một người nào, thì việc gì mà phải buồn phiền! Chúng tuy bị ta dùng phép phân thân đánh lui, nhưng vẫn còn hạ trại dưới chân núi. Chúng ta phải phòng giữ nghiêm ngặt, yên tâm ăn no, ngủ kỹ, giữ gìn sức khỏe. Đợi trời sáng xem ta dùng phép thần thông bắt lũ thiên tướng ấy, báo thù cho mọi người.

Bốn tướng và bọn khỉ mang rượu dừa ra uống vài chén rồi yên tâm đi ngủ. Chuyện không nói gì nữa.

Bốn đại thiên vương thôi đánh thu quân về. Mọi người báo công: người bắt được hổ báo; người bắt được voi, sư tử; người bắt được cầy cáo lang trùng nhưng không ai bắt được một con khỉ nào. Sau đó an doanh hạ trại, khao thưởng tướng soái có công, sắp đặt các tầng thiên la địa võng, cắt cử hiệu lệnh vây chặt núi Hoa Quả, đợi sáng mai lại khai chiến. Người người nhận lệnh, nơi nơi giữ phòng. Thật là:

Khỉ quái tung hoành trời đất sợ,
Chăng vây bủa lưới suốt ngày đêm.

Không biết sau khi trời sáng, đánh nhau thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ SÁU


Quan âm dự hội hỏi nguyên nhân


Tiểu thánh trổ tài bắt Đại thánh


Tạm không nói đến chuyện các thiên thần vây bắt và Đại
thánh vào động nghỉ ngơi vội.

Lại nói chuyện đức Quan Âm bồ tát đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn ở núi Phổ Đà, Lạc Già, ngoài Nam Hải được Vương Mẫu mời dự hội Bàn Đào, bèn cùng với đồ đệ cả là Huệ Ngạn hành giả đến cung Dao Trì, thấy trong cung lạnh lẽo vắng vẻ, bàn tiệc bừa bãi. Có mấy vị tiên nhưng chẳng vị nào ngồi vào chỗ, mà lại túm tụm vào một nơi xì xào bàn tán. Bồ tát và các vị tiên chào hỏi xong, mọi người kể lại sự việc. Bồ tát nói:

- Hội hè chẳng có, chén rượu cũng không, các ngài hãy cùng bần tăng đi yết kiến Thượng đế vậy.

Mọi người vui lòng đi theo. Đến trước điện Thông Minh, đã thấy bốn vị đại thiền sư, Xích Cước đại tiên có mặt ở đấy cả rồi. Mọi người ra đón Bồ tát, kể chuyện Thượng đế đang buồn phiền vì phải điều thêm binh đi bắt yêu quái, nhưng việc chưa xong. Bồ tát nói:
- Tôi muốn yết kiến Thượng đế, phiền các vị vào tâu giúp. Thiền sư Khâu hoàng đế lập tức vào điện Linh Tiêu báo lại,
Thượng đế cho mời Bồ tát vào.

Lúc ấy có cả Thái Thượng lão quân ngồi trên, và Vương Mẫu ngồi phía sau. Bồ tát dẫn mọi người vào lạy Thượng đế, chào Lão Quân và Vương Mẫu, ai nấy đã ngồi đâu vào đấy, Bồ tát mới hỏi:
- Hội Bàn Đào như thế nào rồi? Thượng đế đáp:
- Hội Bàn Đào hàng năm rất vui, năm nay thì bị một con khỉ quái làm loạn, cho nên mới chỉ mời suông mà thôi.

Bồ tát nói:

- Con khỉ quái đó ở đâu ra? Thượng đế nói:
- Con khỉ quái này hóa ra từ quả trứng đá ở núi Hoa Quả, nước Ngạo Lai, thuộc Đông Thắng Thần Châu. Khi mới sinh ra, mắt đã phóng hào quang chiếu tận tới thiên phủ. Do không ngăn ngừa từ đầu để sau này thành tinh, tài nghệ hàng long phục hổ, tự ý xóa cả tên trong sổ sinh tử. Khi ấy, Long vương, Diêm vương đã tâu rõ chuyện, trẫm định cho bắt ngay. Nhưng Trường Canh tinh quân tâu rằng: “Khắp trong ba giới, phàm loài nào có
chín lỗ[61]


đều có khả năng tu luyện thành tiên được”, nên trẫm
mới muốn ra ơn dạy dỗ, gọi hắn lên thượng giới, phong cho chức quan Bật mã ôn Ngự mã giám. Song hắn lại chê quan chức nhỏ, làm loạn thiên cung. Trẫm lại sai Lý thiên vương và Na Tra thái tử đi dụ hàng, xuống chiếu vỗ về, gọi lên thượng giới, phong hắn là “Tề Thiên đại thánh”, hữu chức vô lộc. Nhân lúc rỗi việc, hắn rong chơi khắp nơi. Trẫm lại sợ sinh những chuyện rắc rối, bèn giao cho hắn trông nom vườn đào. Ở đây, hắn cũng không tuân theo phép luật, hễ có quả to trái chín là hắn trộm ăn hết sạch. Đến khi mở hội Bàn Đào, hắn là chức quan không có lộc, không được mời, thế là hắn bầy mưu đánh lừa Xích Cước đại tiên, biến thành Xích Cước giả vào dự hội, ăn vụng hết cả của ngon vật lạ, lại ăn trộm cả tiên đơn của Lão Quân và mấy vò ngự tửu mang về núi cũ, cùng bầy khỉ thưởng thức. Trẫm rất buồn phiền, đã điều động mười vạn thiên binh, căng kín thiên la địa võng vây bắt mà ngày hôm nay chưa thấy tin báo, không biết
thắng bại thế nào?

Bồ tát nghe xong, lập tức dặn Huệ Ngạn hành giả:

- Nhà ngươi mau mau rời khỏi thiên cung, xuống ngay núi Hoa Quả dò xét tình hình, nếu thấy hai bên đánh nhau thì hãy giúp sức, cốt sao mang được tin tức chính xác về báo.

Huệ Ngạn hành giả nai nịt gọn gàng, cầm cây côn sắt, cưỡi mây rời thiên cung đến thẳng núi Hoa Quả, thấy thiên la địa võng căng kín tầng tầng, các cửa doanh đánh chiêng làm hiệu, vây chặt quả núi đến giọt nước cũng không tiết ra được. Huệ Ngạn bèn cất tiếng gọi:

- Thiên binh giữ cửa doanh các ngươi vào báo ngay có Mộc Soa, thái tử thứ hai của Lý thiên vương, đại đồ đệ của đức Quan âm ngoài Nam Hải, hiệu là Huệ Ngạn đến dò xét tình hình.

Ngũ nhạc thần binh ở trong doanh báo ngay bản doanh, bốn tướng Huệ Nhật Thủ, Mão Nhật Kê, Tinh Nhật Mã và Phong Nhật Thỏ lại truyền tin vào dưới trướng, Lý thiên vương bèn phất cờ lệnh, ra lệnh mở thiên la địa võng mời Huệ Ngạn vào. Khi ấy, phương Đông vừa sáng, Huệ Ngạn theo ngọn cờ tiến vào, cúi lạy bốn Đại thiên vương và Lý thiên vương. Lạy xong, Lý thiên vương hỏi:

- Con từ đâu tới? Huệ Ngạn thưa:
- Con theo đức Quan Âm đến dự hội Bàn Đào. Ngài thấy hội tiệc lạnh lẽo, cung điện vắng lạnh, bèn dẫn con và mọi người đến gặp Thượng đế. Thượng đế cho biết cha đã cầm quân xuống hạ giới hàng phục khỉ quái, suốt ngày nay chưa thấy về báo tin, không biết thắng bại ra sao. Bồ tát bèn sai con xuống xem hư thực thế nào.

Lý thiên vương nói:
- Hôm qua, cha đến đây đóng doanh hạ trại, sai chín Diệu tinh quân ra khiêu chiến, bị khỉ quái trổ phép thần thông đánh bại, họ phải chạy về. Sau cha thân chinh cầm quân, hắn cũng dàn thành thế trận. Mười vạn thiên binh của cha đánh nhau với hắn mãi tới buổi chiều, bị hắn dùng “phép phân thân” đánh bại. Khi cha thu quân, chỉ bắt được mấy loài lang trùng hổ báo mà thôi, chứ không hề bắt được nửa con khỉ quái nào. Hôm nay, cha vẫn chưa ra đánh.

Chưa dứt lời, đã thấy ngoài cửa doanh có người vào báo:

- Đại thánh dẫn đàn khỉ đang thách đánh ở bên ngoài.

Bốn đại thiên vương cùng Lý thiên vương, và thái tử bàn việc xuất quân. Mộc Soa nói:

- Thưa cha, đức Bồ tát dặn con xuống đây dò xét tình hình, nếu gặp trận đánh thì phải giúp sức. Nay con tuy bất tài cũng xin ra trận xem Đại thánh thế nào!

Thiên vương nói:

- Con theo đức Bồ tát tu hành đã mấy năm, chắc cũng có nhiều tài nghệ. Nhưng cũng phải chú ý đấy!

Thái tử bèn mặc áo thêu, múa cây côn sắt, nhảy ra ngoài cửa trận lớn tiếng quát:

- Kẻ nào là Tề Thiên đại thánh?

Đại thánh chống thẳng cây gậy Như ý trả lời:

- Chính lão Tôn đây! Nhà ngươi là ai mà dám hỏi ta? Mộc Soa nói:
- Ta là Mộc Soa, thái tử thứ hai của Lý thiên vương, nay là đồ đệ hộ giá của đức Quan Âm bồ tát, pháp danh là Huệ Ngạn.

Đại thánh nói:

- Nhà ngươi sao không ở Nam Hải tu hành, lại đến đây gặp ta
có việc gì?

Mộc Soa nói:

- Sư phụ sai ta ra tìm hiểu tình hình, thấy nhà ngươi cuồng bạo, nên ta ra bắt sống!

Đại thánh nói:

- Nhà ngươi mà dám khoác lác thế à? Chớ có chạy, thử nếm một gậy của lão Tôn đây!

Mộc Soa bình tĩnh như không, múa cây côn sắt đánh lại. Hai người đánh nhau trên sườn núi, ngoài cửa trận rất quyết liệt:

Cùng là gậy đấu gậy, Nhưng chất sắt khác nhau, Và người có giống đâu,
Dù là lính chọi lính. Một người tức Đại thánh, Là Thái ất tán tiên.
Một, đồ đệ Quan Âm, Pháp danh là Huệ Ngạn, Côn sắt nghìn cân nặng, Dồn dập đánh rất hăng. Lục đinh, Lục giáp thần, Trổ thần thông giúp đỡ. Và cây gậy Như ý,
Lấy từ đáy thiên hà, Trấn một vùng biển xa, Có vô biên pháp lực.
Hai đối thủ đấu sức, Biến hóa thật vô cùng. Bên côn múa quay cuồng, Sát sườn, nhanh như gió. Bên cây gậy Như ý,
Đỡ trước và đón sau. Quyết chiến chẳng tha đâu, Không một giây lơi lỏng. Bên cờ bay hùng dũng,
Bên trống đánh thùng thùng Thiên tướng vây mấy tầng Khỉ quái ra từng lũ.
Mây sầu che địa phủ, Sát khí bốc thiên cung. Hôm qua đánh đã hăng,
Hôm nay càng khủng khiếp. Tài Hầu vương thật tuyệt, Mộc Soa thua chạy dài.
Đại thánh đánh nhau với Huệ Ngạn năm, sáu mươi hiệp liền, Huệ Ngạn cánh tay mỏi nhừ, không địch nổi, bèn nhử hờ một cây côn rồi chạy về bản trận. Đại thánh cũng thu quân, hạ trại ngoài cửa động. Chỉ thấy ngoài cửa doanh của thiên vương, thiên binh lớn bé chạy ra đón thái tử, mở đường chạy thẳng về bản trận. Mộc Soa thở hồng hộc nói với bốn thiên vương và Lý Thác Tháp:

- Đại thánh giỏi lắm! Giỏi lắm! Thật là thần thông quảng đại,
con không địch nổi, thua trận chạy về!

Lý thiên vương thấy vậy, trong lòng lo sợ, lập tức viết biểu xin viện binh, và sai Đại Lực quỷ vương, Mộc Soa thái tử trở về thượng giới tâu rõ tình hình.

Hai người không dám chậm trễ, chui ngay ra khỏi thiên la địa võng, cưỡi đám mây lành, trong chớp mắt đã lên tới điện Thông Minh. Bốn đại thiên sư dẫn họ vào điện Linh Tiêu dâng biểu, Huệ Ngạn đến yết kiến Bồ tát. Bồ tát hỏi:

- Nhà ngươi đi dò xét tình hình, thấy thế nào? Huệ Ngạn thưa:
- Con vâng mệnh xuống núi Hoa Quả, gọi mở cửa thiên la địa võng, vào yết kiến phụ thân, thưa với người chuyện sư phụ sai con đi. Phụ thân con nói: “Hôm qua đánh nhau với khỉ quái một trận, mà chỉ bắt được các loài hổ, báo, voi, sư tử, không hề bắt được một con khỉ nào”. Hai cha con đang nói chuyện, thì khỉ quái lại thách đánh. Con xin ra trận, múa côn sắt đánh nhau với hắn năm, sáu mươi hiệp, con không địch nổi, phải bỏ chạy về bản doanh. Vì vậy phụ thân con mới sai con và Đại Lực quỷ vương về đây cầu cứu.

Bồ tát cúi đầu nghĩ ngợi.

Lại nói chuyện Thượng đế mở tờ biểu, thấy nói xin cứu viện, bèn cười gằn nói:

- Bực thật! Con khỉ quái đó mà lắm mưu trí đến thế sao? Hắn dám địch lại cả mười vạn thiên binh! Bây giờ Lý thiên vương lại xin cứu viện nữa, thì lấy đâu ra thiên binh mà giúp?

Vừa dứt lời, Quan Âm chắp tay thưa rằng:

- Xin bệ hạ yên tâm, bần tăng xin cử một vị thần có thể bắt được con khỉ đó.

Thượng đế hỏi:
- Cử vị thần nào? Bồ tát thưa:
- Đó là người cháu của bệ hạ, tên là Hiển Thánh Nhị Lang chân quân, hiện ở cửa sông Quán thuộc Quân Châu, đang được hưởng cúng tế nơi hạ giới. Trước đây, vị thần ấy đã giết trừ được sáu loài yêu quái, lại thêm có anh em Mai Sơn và một nghìn hai trăm thảo đầu dưới trướng thần thông biến hóa. Họ chỉ thích điều động chứ không thích gọi đến. Bệ hạ hãy sai viết một tờ chiếu điều binh, sai vị thần ấy giúp sức, là có thể bắt được khỉ quái.

Thượng đế nghe lời, lập tức truyền viết tờ chiếu điều quân, và sai Đại Lực quỷ vương mang đi.

Quỷ vương tiếp chỉ, lập tức cưỡi mây đến thẳng cửa sông
Quán, trong chốc lát đã tới miếu Nhị Lang chân quân.

Quỷ sứ canh cửa chạy vào báo:

- Có sứ giả nhà trời mang chiếu chỉ tới.

Nhị Lang cùng mọi người ra đón, đoạn đốt hương mở tờ chiếu ra đọc. Tờ chiếu viết:

“Con khỉ quái núi Hoa Quả là Tề Thiên đại thánh làm loạn, ăn trộm đào tiên, rượu ngự, linh đơn, phá rối hội Bàn Đào. Trẫm đã sai mười vạn thiên binh, căng mười tám bức thiên la địa võng bao vây đánh bắt, nhưng chưa thắng nổi.

Vậy nay điều cháu cùng các anh em kết nghĩa đến ngay núi Hoa Quả giúp sức tiễu trừ. Khi nào thành công sẽ có trọng thưởng.”

Nhị Lang mừng lắm, nói:

- Xin sứ giả cứ về, tôi xin vác đao đi giúp ngay!

Quỷ vương bèn trở về tâu lại. Chuyện không nói đến nữa.
Nhị Lang gọi ngay sáu anh em Mai Sơn gồm bốn thái úy là Khang, Trương, Diêu, Lý và hai tướng quân Quách Thân, Trực Kiện. Mọi người tề tựu đông đủ trước điện, Nhị Lang nói:

- Vừa rồi Thượng đế có sai bọn ta tới núi Hoa Quả để diệt trừ khỉ quái. Giờ các anh em cùng đi cả với tôi.

Mọi người đều hăng hái ra đi. Nhị Lang lập tức điểm thần binh bản bộ, mang ưng dắt chó, khoác nỏ đeo cung, cưỡi trận cuồng phong, trong chớp mắt đã vượt qua Đông Dương đại hải, đến thẳng núi Hoa Quả. Mọi người thấy thiên la địa võng căng kín tần tầng, không sao vào được, bèn cất tiếng gọi:

- Các thần tướng giữ thiên la địa võng nghe đây: Ta là Nhị Lang Hiển Thánh chân quân được Thượng đế điều xuống để bắt khỉ quái, hãy mau mau mở cửa cho ta vào.

Một lát sau, các vị thần truyền tin qua từng tầng cửa vào trong. Bốn đại thiên vương và Lý thiên vương ra cả ngoài cửa doanh đón tiếp. Chào hỏi xong, Nhị Lang hỏi chuyện đánh nhau thắng bại thế nào. Các thiên vương kể lại đầy đủ sự việc. Nhị Lang cười nói:

- Tiểu thánh đến đây, ắt phải đấu phép thần thông với hắn. Vậy các vị phải cuốn thiên la địa võng lại, chỉ cần bủa vây cẩn mật bốn phía, để tôi đấu võ với hắn. Nếu thua, các vị không cần phải đánh giúp, đã có các anh em tôi giúp sức rồi. Nếu thắng, cũng không cần các vị buộc trói, đã có các anh em tôi ra tay. Chỉ xin Thác Tháp thiên vương sử dụng chiếc kính chiếu yêu đứng trên không trung, phòng khi hắn thua trận chạy trốn nơi nào, thì kính chiếu soi rõ ràng, đừng để hắn chạy thoát.

Thiên vương ai nấy dàn ra bốn góc, thiên binh thì dàn thành thế trận.

Nhị Lang dẫn bốn vị thái úy, hai tướng quân, kể cả bản thân là bảy anh em ra trước trận khiêu chiến, dặn dò các tướng ở lại
giữ doanh trại cẩn thận, tập hợp bọn chim ưng chó săn, thảo đầu thần sẵn sàng đợi lệnh. Nhị Lang đến ngoài động Thủy Liêm, thấy đàn khỉ đã bày thành thế trận đàng hoàng và ở giữ trung quân, dựng một lá cờ to, trên đề bốn chữ “Tề Thiên đại thánh”. Nhị Lang tức giận bèn quát:

-  Loài  yêu  quái  khốn  kiếp  kia,  tại  sao  dám  xưng  là  “Tề
Thiên”?

Sáu anh em Mai Sơn nói:

- Đừng hỏi han nữa, gọi hắn ra đánh nhau thôi!

Bọn khỉ đứng ngoài cửa động, trông thấy Nhị Lang vội vàng chạy về báo. Hầu vương lập tức rút cây gậy sắt bịt vàng, mặc áo giáp vàng, đi đôi hài vân, đội mũ vàng tía, bước ra ngoài cửa trận, ngẩng đầu quan sát, thấy tướng mạo Nhị Lang thanh tú lạ lùng. Thực là:

Hình dung thanh tú uy nghi, Mắt sáng lấp lánh, tai thì rủ vai. Đầu đội mũ phượng ba ngôi,
Mình mặc áo vũ vàng tươi một màu.

Hài vàng, quần cũng vàng au, Ngang lưng đai ngọc tươi màu hoa thêu. Cây cung đeo tựa trăng treo,
Ngọn giáo ba mũi sáng theo tay cầm.

Từng phá núi cứu mẫu thân,

Từng giương cung bắn phượng hoàng Thoa La.

Tám yêu giết, tiếng vang xa, Mai Sơn sáu vị cũng là anh em. Cao thượng chẳng nhập sổ tiên,
Tự hào về chốn Quán Giang làm thần.

Xích thành hiển hiện anh linh,

Thần thông biến hóa tên rành Nhị Lang.

Đại thánh trông thấy bật cười, rút cây gậy sắt bịt vàng ra, lớn tiếng quát:

- Nhà ngươi là tiểu tướng ở đâu, mà dám cả gan tới đây khiêu chiến?

Nhị Lang quát lại:

- Nhà ngươi có mắt như mù, không nhận ra ta sao? Ta là cháu ngoại của Thượng đế, sắc phong là Chiêu Huệ Linh Hiển Vương Nhị Lang đó. Nay ta vâng lệnh Thượng đế đến đây bắt con khỉ Bật mã ôn làm loạn thiên cung. Nhà ngươi vẫn chưa biết sắp chết sao?

Đại thánh nói:

- A, ta nhớ ra rồi. Trước đây, em gái của Thượng đế nhớ tiếc phàm trần, xuống hạ giới lấy chồng là Dương Quân, sinh được một người con trai, người ấy từng dùng búa bổ vỡ núi Đào Sơn. Đó là nhà ngươi đấy hử? Ta muốn mắng nhà ngươi mấy câu, nhưng ta với ngươi không oán thù gì. Ta định nện cho nhà ngươi một gậy, nhưng lại tiếc tính mạng nhà ngươi. Thôi, đồ nhãi ranh hãy cút về đi, và gọi bốn đại thiên vương ra đây mau!

Nhị Lang nghe xong, bừng bừng tức giận, nói:

- Đồ khỉ quái khốn kiếp, chớ có vô lễ! Nếm thử một đao của ta đây!

Đại thánh nghiêng mình tránh, rồi vung gậy sắt đánh lại. Hai người đánh nhau rất dữ dội:

Chiêu Huệ Nhị Lang thần, Tề Thiên Tôn đại thánh,
Một người kiêu ngạo lắm, Lừa đánh Mỹ hầu vương.
Một người chẳng phải thường, Tài ngang bậc lương đống. Hai bên vừa giáp trận,
Đều đã đánh rất hăng. Trước chẳng biết nông sâu, Nay mới hay nặng nhẹ.
Gậy sắt như rồng múa, Giáo thần tựa phượng bay. Đỡ đông và gạt tây,
Đón sau và đánh trước. Phía bên này giúp sức, Có anh em Mai Sơn.
Phía bên kia lệnh truyền, Là bốn tướng Lưu, Mã. Cờ bay và trống gõ,
Ai nấy dốc một lòng. Tiếng thét, tiếng chiêng rung, Ai nấy đều nức dạ.
Đao hai lưỡi biến hóa, Đánh đỡ thật tuyệt vời. Gậy sắt quý nhất đời,
Múa vờn tranh phần thắng.

Sơ hở là mất mạng,
Lầm lỡ ắt rơi đầu.



Nhị Lang đánh nhau với Đại thánh liền ba trăm hiệp không phân thắng bại, bèn trổ hết thần uy, lắc mình một cái, tức thì người cao muôn trượng, mặt xanh, răng nhọn, tóc đỏ, hai tay cầm một ngọn giáo thần ba mũi hai lưỡi, trông tựa đỉnh núi Hoa Sơn, vô cùng hung dữ, nhắm đầu Đại thánh bổ xuống. Đại thánh cũng sử dụng thần thông, biến thành người giống hệt Nhị Lang từ thân người đến mồm miệng, cầm gậy Như ý bịt vàng, khác nào trên cây cột chống trời trên đỉnh Côn Lôn, chặn ngay Nhị Lang thần lại, khiến cho hai nguyên soái Mã, Lưu run như cầy sấy, phất cờ không nổi; hai tướng Băng, Ba sợ chết khiếp, múa đao không xong. Ở bên ngoài trận, sáu tướng Khang, Trương, Diêu, Lý, Quách Thân, Trực Kiện truyền hiệu lệnh, thả các thảo đầu thần sang bên động Thủy Liêm, tung chim ưng chó săn, giương cung đặt nỏ, nhất tề xông vào đánh giết. Đáng thương thay, bốn kiện tướng khỉ quái chạy tan tác, hai ba nghìn tiểu yêu
bị bắt sống! Số còn lại quẳng gươm vứt giáo, ném giáp buông cung, bỏ chạy tán loạn, kêu khóc như ri, rúc vào núi, chui vào hang, khác nào chim ngủ sợ mèo hoang, sao tung đầy trời rộng. Mấy anh em thắng trận, chuyện không nói đến nữa.

Lại nói chuyện Nhị Lang và Đại thánh dùng phép thuật biến hóa pháp thân của mình to lớn như trời đất. Hai bên đang đánh nhau, Đại thánh bỗng thấy khỉ quái trong trận của mình sợ hãi chạy tan tác, đâm ra hoang mang, thu vội pháp thân, cầm gậy co người bỏ chạy. Nhị Lang thấy Đại thánh bỏ chạy, bèn đuổi theo quát:

- Chạy đi đâu? Hàng mau thì ta tha chết cho!

Đại thánh không dám đánh trả, chỉ ra sức chạy. Chạy đến gần cửa động lại bị bốn thái úy Khang, Trương, Diêu, Lý và hai tướng quân Quách Thân, Trực Kiện nhất tề dẫn quân chặn lại quát:

- Con khỉ khốn kiếp! Chạy đi đâu?

Đại thánh sợ quá, chân tay luống cuống, vội biến cây gậy sắt thành cái kim theo bé xíu giấu trong tai, rồi lắc mình một cái, biến thành con chim sẻ, bay đậu trên ngọn cây. Sáu anh em Mai Sơn ngơ ngơ ngác ngác, tìm khắp mọi nơi không thấy, đều kêu ầm cả lên:

- Con khỉ biến mất rồi! Con khỉ biến mất rồi! Đang lúc ầm ĩ thì Nhị Lang đến, hỏi:
- Các anh em đuổi nó tới đâu thì không thấy? Mọi người thưa:
- Chúng tôi vừa mới vây bọc hắn ở đây, thì đã không thấy rồi.

Nhị Lang trợn tròn đôi mắt phượng quan sát, thấy Đại thánh biến ra con chim sẻ, đậu trên ngọn cây, bèn thu pháp thuật, bỏ cung đặtg giáo, lắc mình một cái, biến thành một con chim ưng,
tung cánh bay lên đánh. Đại thánh thấy vậy bèn vỗ cánh bay đi, biến thành một con quạ to bay vút lên trời. Nhị Lang thấy vậy, cũng lại vỗ cánh một cái, biến thành một con hạc biển, bay chui qua đám mây xông vào mổ. Đại thánh bèn sà xuống chui vào lòng suối, biến thành một con cá lặn sâu vào làn nước. Nhị Lang đuổi tới bờ suối thì không thấy tăm hơi Đại thánh đâu cả, trong bụng nghĩ thầm:

- Con khỉ này chỉ có thể chui xuống nước, biến thành loài tôm cá nào đó. Để ta biến hóa lừa nó.

Bèn biến thành một con ngư ưng bơi tung tăng nơi cuối dòng đợi bắt Đại thánh. Đại thánh đã biến ra một con cá thuận dòng đang bơi xuống, bỗng thấy một con chim giống con chim cắt mà lông lại xanh, giống con cò mà trên đầu lại không có mào dài, giống con hạc mà chân lại không đỏ, bèn nghĩ bụng:

- Đúng là Nhị Lang biến thành, đợi bắt ta rồi.

Thế là Đại thánh vội vã quay đầu, quẫy đuôi một cái rồi bỏ chạy. Nhị Lang trống thấy, nói:

- Con cá quẫy đuôi kia trông như cá chép mà đuôi không đỏ, như cá diếc mà không có vẩy hoa, như cá rô mà đầu không có chấm, như cá mè mà mang không có ngạnh. Tại sao nó vừa trông thấy ta đã bỏ chạy ngay? Chắc hẳn là con khỉ biến thành đây.

Bèn đuổi theo mổ một phát. Đại thánh vội vàng lặn sâu xuống nước, biến thành con rắn nước bơi vào bờ rồi chui vào bụi cỏ. Nhị Lang mổ không trúng lại thấy động nước và thấy một con rắn chuồn đi, biết ngay đó là Đại thánh, vội vàng quay mình biến thành một con hạc màu tro cổ dài nghêu, thò cái mỏ nhọn hoắt tựa hai mũi kim xông tới mổ con rắn. Rắn lại nhảy một phát, biến thành một con chim giẽ ngơ ngác đậu trên đám cỏ lác. Nhị Lang thấy Đại thánh biến ra loài đê tiện như vậy, chim giẽ
là loài chim đê tiện đa dâm nhất trong các loài chim, bất kể quạ, ưng, loan, phượng, nó đều đạp mái bừa, vì vậy Nhị Lang không thèm tới gần, hiện ngay bản tướng, chạy đi lấy cung tên lại bắn. Đại thánh nhân cơ hội ấy, nhảy ngay lên sườn núi, nằm rạp xuống và biến thành một ngôi miếu thổ địa! Miệng há ra làm cửa, răng biến thành cánh cửa, lưỡi biến thành Bồ tát, mắt biến thành cửa sổ, chỉ còn cái đuôi chẳng biết giấu vào đâu, bèn biến thành một cái cột cờ dựng sau phía miếu.

Nhị Lang đuổi lên bờ, không thấy con chim bị đuổi đâu cả, chỉ thấy một ngôi miếu nhỏ, bèn căng cặp mắt phượng nhìn kĩ, thấy cột cờ dựng phía sau miếu, thì cười nói:

- Con khỉ đây rồi! Hắn lại lừa ta lần này sao? Ta đã từng thấy nhiều đền miếu, nhưng không thấy ngôi miếu nào mà cột cờ lại dựng ở đằng sau cả. Hẳn là yêu quái này bày trò, lừa ta bước vào là nó cắn chết tươi ngay. Nhưng ta đâu có vào? Để ta đấm một phát vào cửa sổ, rồi đạp một phát vào cánh cửa!

- Hỏng! Hỏng! Cánh cửa là răng của ta, cửa sổ là mắt của ta, nếu hắn đạp vào răng, đấm vào mắt thì còn gì là đời!

Bèn chồm lên như hổ vồ, nhảy vút lên không trung, rồi không thấy đâu nữa.

Nhị Lang đang chạy ngược chạy xuôi tìm kiếm, chợt thấy bốn thái úy và hai tướng quân kéo đến hỏi:

- Anh đã bắt được Đại thánh chưa? Nhị Lang cười, nói:
- Con khỉ vừa biến ra ngôi miếu lừa ta. Ta đang định đấm vào cửa sổ, đạp vào cánh cửa, thì vụt một cái, hắn lại biến đâu mất hút. Lạ quá! Lạ quá!

Mọi người kinh ngạc, tìm kiếm khắp bốn phía, nhưng vẫn chẳng thấy tông tích đâu cả. Nhị Lang nói:
- Các anh em cứ tuần tra canh gác ở đây, để tôi đi tìm nó.

Bèn nhảy vút lên mây, đứng giữa tầng không, thì thấy Lý thiên vương cùng Na Tra thái tử đang giơ cao kính chiếu yêu lên soi. Nhị Lang hỏi:

- Thiên vương đã soi thấy Hầu vương chưa? Thiên vương đáp:
- Chưa thấy. Tôi đang soi tìm nó đây.

Nhị Lang kể lại chuyện thi tài đấu phép và chuyện bắt đàn khỉ, rồi nói:

- Nó biến ra ngôi miếu, tôi đang định đánh, thì nó lại biến mất dạng.

Lý thiên vương nghe nói, nâng kính chiếu yêu soi khắp bốn phương, rồi cười khà khà bảo:

- Ngài Nhị Lang ơi, mau lên! Con khỉ dùng phép tàng hình thoát ra khỏi vòng vây, về cửa sông Quán Giang của ngài rồi.

Nhị Lang nghe nói, lập tức cầm lấy ngọn giáo thần, đuổi theo về Quán Giang.

Lại nói chuyện Đại thánh chạy tới cửa sông Quán Giang, lắc mình một cái, biến thành người giống hệt Nhị Lang, dừng đám mây, nhảy xuống đi thẳng vào miếu. Bọn quỷ phán không nhận ra, con nào con nấy dập đầu đón tiếp. Đại thánh ngồi xuống [62]
chính giữa, xem xét công việc. Thấy Lý Hổ dâng tam sinh      ,
Trương Long xin bát phúc, Triệu Giáp đưa đơn cầu con trai, Tiểu Bính xin chữa bệnh… Đang làm việc, bỗng có người vào báo:

- Lại có ngài Nhị Lang nữa đến.

Lũ quỷ phán vội vàng nhìn lên, giật mình kinh sợ. Nhị Lang hỏi:
- Có thằng Tề Thiên đại thánh nào vừa mới vào đây không? Lũ quỷ phán thưa:
- Không có đại thánh nào cả, chỉ có một người giống ngài đang giải quyết công việc trong miếu.

Nhị Lang bèn xông ngay vào. Đại thánh trông thấy, hiện nguyên hình, nói:

- Ngài Nhị Lang đừng gây lôi thôi nữa, miếu này đã thuộc về họ Tôn rồi.

Nhị Lang lập tức múa cây giáo ba mũi hai lưỡi, nhằm mặt Đại thánh đâm liền. Đại thánh nghiêng người tránh, đoạn rút cây kim thêu ra, múa mấy vòng, cây gậy to như miệng bát, rồi xông vào đánh lại. Hai người hò hét đánh nhau ra tới cửa miếu khói mây mù mịt, vừa đi vừa đánh, dần dần lại tới núi Hoa Quả. Ở đấy có bốn đại thiên vương đang canh giữ rất nghiêm ngặt. Bọn thái úy Khang, Trương ra đón Nhị Lang, rồi cùng hợp nhau lại vây chặt lấy Đại thánh. Chuyện không nói nữa.



Lại nói chuyện Đại Lực quỷ vương sau khi điều được Nhị Lang và sáu anh em Mai Sơn đi bắt yêu quái, bèn trở về thượng giới tâu rõ tình hình. Thượng đế đang cùng Quan Âm, Vương Mẫu và các vị thần tiên trò truyện trong điện Linh Tiêu. Thượng đế hỏi:

- Đã sai Nhị Lang đi đánh, mà sao hôm nay không thấy về báo nhỉ?

Quan Âm chắp tay thưa:

- Bần tăng xin mời bệ hạ cùng đạo tổ ra cửa Nam Thiên xem hư thực thế nào?

Thượng đế nói:

- Phải đấy.

Lập tức sai mang xa giá cùng đạo tổ, Quan Âm, Vương Mẫu cùng các vị thần tiên đến cửa Nam Thiên. Các thiên binh lực sĩ
đã tề chỉnh đón rước. Mở cửa nhìn ra xa, mọi người đã thấy thiên binh chăng kín thiên la địa võng khắp bốn mặt, Na Tra và Lý thiên vương đứng trên tầng không đang soi kính chiếu yêu. Nhị Lang đang vây chặt Đại thánh vào giữa, đánh nhau quyết liệt. Bồ Tát nói với Lão Quân:

- Bần tăng tiến cử Nhị Lang thần quả là thần thông quảng đại. Ngài ấy đã vây chặt Đại thánh, nhưng vẫn chưa bắt được hắn. Để tôi giúp ngài ấy một tay, quyết bắt bằng được hắn.

Lão Quân hỏi:

- Bồ tát bắt hắn bằng thứ binh khí nào? Bồ tát đáp:
- Tôi định đem bình dương liễu ném xuống đánh con khỉ, dẫu nó không chết cũng đánh cho ngã để Tiểu thánh Nhị Lang dễ bề bắt lấy.

Lão Quân nói:

- Bình của Bồ tát bằng sứ, ném trúng người nó thì được, nếu ném không trúng người, mà trúng vào cây gậy sắt của nó thì vỡ mất. Bồ tát khoan ra tay vội, để Lão Quân tôi giúp Tiểu thánh lập công.

Bồ tát hỏi:

- Đạo tổ có dùng binh khí gì không? Lão Quân đáp:
- Có chứ, có chứ!

Lão Quân bèn vén tay áo lên, lấy ở cánh tay trái ra một cái vòng, rồi nói:

- Thứ binh khí này từ Kim cương luyện thành, lại được tôi đem về luyện thêm, nên có đầy đủ linh khí, biến hóa không lường, lửa nước không hại được, lại có thể khuôn được mọi vật,
nên đặt tên là “vòng kim cương”, hoặc “khuôn kim cương”. Trước kia, khi đi qua cửa Hàm Cốc, hóa người thành Phật, thực may nhờ có nó. Có vật này sớm tối phòng thân rất tiện. Bây giờ để tôi ném vòng này xuống đánh hắn cho.

Nói xong, Lão Quân từ cửa trời đi ra, nhanh vùn vụt đến thẳng núi Hoa Quả, nhằm đúng đầu Hầu vương ném xuống. Hầu vương đang mải mê đánh nhau với bảy vị thánh, không ngờ có một thứ binh khí từ trên trời rơi xuống đúng đỉnh đầu, khiến Đại thánh đứng không vững, ngã quay ra. Đại thánh vội bò dậy định chạy bị ngay con chó của Nhị Lang chồm tới cắn vào bọng chân, làm Đại thánh lại ngã lăn ra. Đại thánh mắng:

- Đồ vô ơn! Mày không đi hại ông chủ nhà mày, mà lại đi cắn lão Tôn hả?

Nói xong, lật người định bò dậy, nhưng không nổi, bị ngay bảy vị thánh nhất loạt xông vào đè chặt, lấy thừng trói nghiến lại, dùng móc xiên vào xương bả vai, không thể biến hóa được nữa.

Lão Quân thu lại vòng kim cương, mời Thượng đế, Quan Âm, Vương Mẫu cùng các vị tiên trở về điện Linh Tiêu. Ở dưới, bốn đại thiên vương cùng Lý thiên vương cũng thu binh khí, nhổ trại rồi đến gặp Nhị Lang, chúc mừng thắng trận. Mọi người nói:

- Đây là công của Tiểu thánh đấy! Nhị Lang nói:
- Cũng là nhờ hồng phúc của Thượng đế, oai quyền của các thần, chứ còn tôi có công gì đâu?

Bốn thái úy Khang, Trương, Diêu, Lý nói:

- Huynh trưởng bất tất phải nói nhiều, hãy áp giải khỉ quái lên thượng giới, yết kiến Thượng đế, và xin chờ lệnh xét xử.

Nhị Lang nói:
- Các hiền đệ vì chưa được nhập sổ tiên của thiên đình, nên không được lên yết kiến Thượng đế đâu. Để hắn cho thiên giáp thần binh áp giải. Ta cùng các thiên vương lên thượng giới đợi chiếu chỉ, còn các hiền đệ chỉ huy quân lính dọn dẹp sạch sẽ quả núi này xong, thì cứ trở về Quán Giang trước. Đợi ta báo công lĩnh thưởng trở về, sẽ mở tiệc cùng vui.

Bốn thái úy, hai tướng quân vâng lời. Nhị Lang và mấy vị thần thắng trận, ca khúc khải hoàn, cưỡi mây lên thẳng thượng giới. Chẳng mấy chốc họ đã đến bên ngoài điện Thông Minh.

Thiên sứ vào tâu:

- Bốn đại thiên vương đã bắt được khỉ quái là Tề Thiên đại thánh đến chờ lệnh.

Thượng đế ra lệnh cho Đại Lực quỷ vương cùng các thiên binh áp giải Đại thánh tới đài trảm yêu, chém đầu băm xác. Thật là:

Ngông cuồng nên gặp hình oan khốc, Anh hùng khí phách cũng tiêu ma.
Cuối cùng, không biết tính mạng Đại thánh ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ BẢY

Đại thánh trốn khỏi lò bát quái Hầu vương giam dưới núi Ngũ Hành Phú quý công danh,
Số duyên đã định Chính đại quang minh Lọc lừa nên tránh
Phúc quả dành cho người lương thiện, Hành vi cuồng vọng trời tha đâu, Nhãn tiền chưa gặp, gặp mai sau, Hỏi Đông quán vì sao,
Mà nay nhiều tai ách?

Chỉ tại kiêu căng khinh trời đất, Dưới trên bất kể loạn cương thường.
Lại nói chuyện Tề Thiên đại thánh bị thiên binh áp giải đưa
đến đài trảm yêu, trói chặt vào cột hàng yêu, đao chém, búa bổ, kiếm xỉa, giáo đâm, mà thân thể không hề xây xát. Nam Đẩu tinh quân lệnh cho các thần ở bộ Hỏa, phóng lửa đốt cũng không cháy. Lại sai các thần ở bộ Lôi lấy roi sét đánh, cũng chẳng đứt một  sợi  lông.  Đại  Lực  quỷ  vương  cùng  mọi  người  tâu  lên Thượng đế:

- Muôn tân thánh thượng, không biết Đại thánh học được phép hộ thân ở đâu, mà bọn thần dùng dao chém, búa bổ, sét đánh, lửa thiêu, thân thể hắn cũng không mảy may thương tổn.
Vậy làm thế nào bây giờ?

Thượng đế nghe xong, nói:

- Nó đã như vậy, các khanh xem nên xử trí thế nào? Thái Thượng lão quân thưa:
- Con khỉ ấy ăn đào tiên, uống rượu ngự, xơi cả linh đơn. Năm vò rượu thuốc ngâm của thần cũng bị nó tu hết vào ruột. Nó lại luyện thân thể bằng thứ lửa tam muội nữa, nên người tựa một khối kim cương rắn chắc, không vật gì hại được. Hay là để thần mang nó về bỏ vào lò bát quái, đốt nó bằng thứ lửa văn vũ mà thần thường dùng để luyện linh đơn, thì người nó nhất định sẽ biến thành tro bụi.

Thượng đế nghe nói, lập tức sai thần Lục đinh Lục giáp giải Đại thánh đến cho Lão Quân. Lão Quân vâng lệnh liền đem đi luôn. Một mặt, Thượng đế cho triệu Nhị Lang hiển thánh vào, thưởng cho trăm đóa hoa vàng, trăm vò rượu ngự, trăm hạt linh đơn, cùng mọi thứ, ngọc ngà gấm vóc, mang về chia cho mấy anh em cùng hưởng. Nhị Lang tạ ơn Thượng đế, rồi trở về cửa sông Quán Giang. Chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện Lão Quân, về tới cung Đâu Suất, cởi dây trói rút móc xương, ném Đại thánh vào trong lò bát quái, sai đạo nhân coi lò và tiểu đồng quạt lò châm lửa đốt. Nguyên lò này gồm tám cung của các quẻ: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Đại thánh chui ngay vào nằm dưới cung Tốn. Tốn là gió, có gió thì không có lửa. Nhưng chỉ bị gió thổi khói vào nên đôi mắt đen bị đỏ tấy lên, thành ra mắc bệnh đau mắt. Vì vậy còn gọi Đại thánh là “mắt lửa ngươi vàng”.

Thời gian thấm thoắt, chẳng mấy chốc đã được bốn mươi chín ngày, đủ số ngày luyện. Một hôm, Lão Quân mở lò lấy linh đơn. Đại thánh khi ấy hai tay đang che mắt, nước mắt giàn giụa; bỗng nghe thấy trên miệng lò có tiếng động, bèn căng mắt nhìn,
thấy có ánh sáng, tức thì co người nhảy vút ra ngoài, hét vang một tiếng, đạp đổ lò bát quát, rồi chạy vụt đi. Viên sĩ đạo coi lò, tiểu đồng đốt lò cùng các thần Lục đinh, Lục giáp chạy vào túm chặt lấy, bị Đại thánh đạp cho mấy phát ngã lăn cả ra, Đại thánh lúc này hung hăng tựa mãnh hổ trán trắng, điên cuồng như con rồng một sừng. Lão Quân xông vào túm, cũng bị Đại thánh đá một phát, ngã lăn chiêng, cố chạy thoát thân. Đại thánh rút ngay cây gậy Như ý trong tai ra đón gió múa loang loáng, cây gậy to lại như cũ, rồi bất kể hay dở, phá phách thiên cung một lần nữa. Đại thánh đánh tơi bời, khiến cho chín Diệu tinh quân phải đóng chặt cửa, bốn Thiên vương thì không biết chạy trốn phương nào, Đại thánh thật là tuyệt vời! Có bài thơ làm chứng rằng:

Hỗn mang thân thể hợp tiên thiên. Muôn kiếp nghìn đời cũng tự nhiên. Mờ mịt vô vi hòa Thái ất,
Như như bất động gọi sơ huyền. Linh đơn chẳng phải trong lò luyện, Sống mãi ngoài đời ấy bản tiên
Biến hóa vô cùng còn biến hóa,

[63]
Tam quy ngũ giới vẫn là hơn      .

Lại có bài thơ rằng:

Linh quang một điểm thấu tầng mây, Cây gậy sắt kia thực thế này,
Hoặc ngắn, hoặc dài tùy sử dụng, Dọc ngang ngang dọc mặc vần xoay
Lại có bài thơ nữa rằng:

Khỉ đây đạo thể hợp tâm người,
Tuy khỉ nhưng lòng nghĩ đến nơi, Đại thánh dẹp trời đâu chuyện giả, Quan phong “Bật mã” há vui cười? Tâm viên ý mã hai loài ấy,
Trói chặt ngay vào chớ lỏng lơi. Muôn nẻo về nguồn theo một lý Rừng sâu tu luyện học Như Lai.
Lần này, Đại thánh bất kể trên dưới, múa gậy sắt đánh Đông phá Tây, không một vị thần nào dám đối địch. Khi Đại thánh đánh tới điện Thông Minh và điện Linh Tiêu, may có vị tá sứ của Hựu Thánh chân quân là Vương Linh Quan đang giữ điện, thấy Đại thánh tung hoành ngang dọc, bèn rút cây roi vàng xông đến ngăn lại, nói:

- Con khỉ khốn kiếp chạy đi đâu? Có ta ở đây, chớ có ngông cuồng!

Đại thánh chẳng thèm nói, múa gậy đánh luôn. Vương Linh Quan cũng vung roi đánh lại. Hai người đánh nhau dữ dội trước điện Linh Tiêu:

Trung lương dũng cảm tiếng thơm đồn, Lửa đất đốt trời tiếng sạch trơn. Xấu tốt thấp cao nay gặp gỡ,
Anh hùng hào kiệt quyết giành hơn. Roi vàng, gây sắt vung loang loáng, Chính trực vô tư chí chẳng sờn. Người này thái ấp ngôi tôn kính,
Kẻ nọ Tề Thiên khỉ cõi phàm. Gậy sắt, roi vàng sao tuyệt diệu,
Đều là binh khí chốn cung tiên, Ngoài điện Linh Tiêu phô võ nghệ, Khoe tài ai nấy đáng lời khen.
Kẻ nọ dõi lừa toan quấy phá, Người này ra sức giữ bình an,
Đánh nhau quyết liệt không nhường nhịn, Ai thắng ai thua khó đoán phân.
Hai người đánh nhau không phân thắng bại. Hựu Thanh chân quân lại sai tướng tá mang giấy tới Lôi phủ điều ba mươi sáu lôi thần đến vây chặt, và cùng xông vào đánh Đại thánh. Đại thánh không chút sợ hãi, múa cây gậy Như ý đỡ phải đánh trái, che trước chặn sau. Được một lát, các lôi thần mang đủ các loại binh khí đao, thương, kiếm, kích, roi, giản, búa rìu… vây đánh Đại thánh càng ráo riết hơn. Đại thánh bèn lắc mình một cái, biến thành ba đầu sáu tay, biến cây gậy Như ý thành ba cây, sáu tay cầm ba cây gậy, bay múa đánh nhau giữa vòng vây, loang loáng vù vù khác nào bánh xe quay tít. Các lôi thần không dám tới gần. Thật là:

Gậy sắt múa tít sáng ngời,

Xưa nay nổi tiếng ai người học qua?

Lửa thiêu chẳng bén tới da, Nước kia cũng chịu, dìm ta nổi nào. Ngọc ma ni sáng một màu,
Thân người giáo, mác, gươm, đao cũng quằn.

Thiện ác cũng chính ở mình,

Nhãn tiền báo ứng rành rành cho xem!

Thiện thời thành Phật, thành tiên,
Ác! - lông thú với sừng liền mọc ngay.

Thiên cung đại náo phen này, Thiên binh thần tướng bó tay chịu lùi.


Khi ấy, các thần đã dồn được Đại thánh vào một góc, nhưng không thể nào đến gần, hò hét loạn xị làm kinh động tới Thượng đế. Thượng đế bèn sai ngay Du Dịch linh quan và Dực thánh chân quân sang phương Tây mời Phật tổ tới bắt yêu quái.

Hai thánh vâng lệnh tới thẳng bảo sái Lôi Âm ở núi Linh Sơn. Hai người chào hỏi bốn vị Kim cương và tám vị Bồ tát xong, và nhờ họ vào thưa với Phật tổ. Mấy vị Kim cương, Bồ tát vào trước đài sen báo tin. Như Lai cho mời vào. Hai vị thánh lạy đức Phật ba lạy, rồi đứng hầu dưới đài.

Như Lai hỏi:

- Thượng đế có việc gì mà phiền hai thánh tới đây?
Hai thánh thưa:

- Trước đây có một con khỉ sinh ra từ núi Hoa Quả, giỏi phép thần thông biến hóa, tụ tập lũ khỉ quấy phá khắp nơi. Thượng đế đã xuống chiếu dụ phong chức “Bật mã ôn”. Song hắn chê chức quan nhỏ, bỏ về. Thượng đế sai Lý thiên vương, Na Tra Thái tử đi đánh mà không bắt nổi. Ngài lại xuống chiếu chiêu an, phong hắn làm “Tề Thiên Đại thánh”, chỉ có chức quan nhưng không có bổng lộc, và sai hắn trông nom vườn đào tiên. Ở đây, hắn ăn trộm đào, rồi đến cung Dao Trì ăn vụng thức ăn, uống trộm rượu ngự, phá rối hội vui. Hắn lại lẻn tới cung Đâu Suất, ăn cắp linh đơn của Lão Quân, rồi bỏ thiên cung mà đi. Thượng đế lại sai mười vạn thiên binh đi bắt mà không nổi. Về sau đức Quan Âm bồ tát tiến cử Nhị Lang chân quân cùng mấy anh em kết nghĩa đi đánh. Hắn biến hóa đủ kiểu. May nhờ có Lão Quân ném vòng kim cương trúng người, lúc ấy Nhị Lang mới bắt nổi, và giải hẳn lên thượng giới. Thượng đế sai mang đi chém. Nhưng đao chém, búa bổ, lửa thiêu, sét đánh, người hắn chẳng mảy may xây xát. Lão Quân xin đem về đốt hắn trong lò bát quái. Bốn mươi chín ngày sau, mở lò ra, hắn lại nhảy ra đánh dạt thiên binh, đánh thốc đến bên ngoài điện Thông Minh và điện Linh Tiêu. Ở đây, hắn bị viên tá xứ của Hựu Thành chân quân là Vương Linh Quan, cùng ba mươi sáu lôi thần chặn lại và vây chặt, nhưng không sao tới gần hắn được. Tình hình đang rất khẩn cấp, vì vậy, Thượng đế sai chúng tôi đi mời Như Lai đến cứu giá ngay.

Nghe xong, Như Lai nói với các vị Bồ tát:

- Các vị ở nhà giữ Phật đường yên ổn, chớ gây rối loạn ngôi thiền, để ta đi diệt ma cứu giá.

Đoạn, Như Lai gọi hai vị tôn giả là A Nan và Ca Diếp cùng đi, rời chùa Lôi Âm, đến thẳng điện Linh Tiêu. Khi tới nơi, mọi người nghe thấy tiếng reo hò vang động của ba mươi sáu lôi thần đang đánh nhau với Đại thánh.
Phật tổ ra lệnh:

- Các lôi thần hãy dừng tay, mở vòng vây, gọi Đại thánh ra đây để ta hỏi hắn có những phép gì?

Các tướng liền lui ra. Đại thánh cũng thu phép, hiện nguyên hình, bước tới trước mặt Phật tổ, vẻ giận dữ ngông nghênh lớn tiếng quát.

- Nhà ngươi là thiện sĩ phương nào mà dám tới đây ngăn cản việc binh đao, lại còn hỏi ta cái gì?

Như Lai cười nói:

- Ta là Phật A Di Đà, Thích Ca Mâu Ni tôn giả ở thế giới Tây phương cực lạc. Nghe tin nhà ngươi ngông cuồng nơi hoang dã, mấy lần quấy phá cả thiên cung. Vậy ta hỏi nhà ngươi sinh trưởng ở nơi nào? Tu hành đắc đạo bao giờ mà dám ngang ngược thế?

Đại thánh đáp:

- Ta đây:

Đất trời dưỡng dục khỉ tiên,

Núi Hoa Quả chính là miền quê hương, Động Thủy Liêm ấy nhà riêng,
Tìm thầy học đạo lẽ huyền sáng thông.

Trường sinh phép ấy nhập lòng, Muôn hình biến hóa thần thông rõ ràng. Chỉ vì chật đất trần gian,
Muốn lên thượng giới chiếm làm cơ ngơi.

Lẽ đâu ở mãi ngôi trời?

Đế vương hạ giới bao đời đổi thay.

Ai mạnh là chủ xưa nay,
Anh hùng là tớ nhường ngay cho rồi!

Phật tổ nghe xong, cười khà khà, nói:

- Nhà ngươi chẳng qua chỉ là con khỉ thành tinh, cớ sao dám dối trá định cướp ngôi chí tôn của Thượng đế? Thượng đế tu hành từ nhỏ, trải qua một nghìn bảy trăm năm mươi kiếp. Mỗi kiếp là mười hai vạn chín nghìn sáu trăm năm. Nhà ngươi tính xem. Thượng đế phải tu hành bao nhiêu năm mới được hưởng cái đạo lớn vô cực ấy? Thế mà nhà ngươi mới từ súc sinh lên làm người, sao dám khoác lác như vậy. Thật không đáng làm cái giống người, thế nào cũng chết non chết yểu! Nhà ngươi hãy sớm quy y đi, đừng có ăn nói lếu láo nữa. Chỉ e gặp tay thủ địch lợi hại hơn, trong khoảnh khắc, tính mạng nhà ngươi tan tành, thì đáng tiếc cho đời nhà ngươi lắm!

Đại thánh nói:

- Thượng đế tuy tu luyện lâu năm, nhưng cũng không nên ngồi mãi ngôi ấy. Thường có câu: “Làm vua phải luân chuyển, sang năm đến lượt ta”. Nên bảo hắn dọn đi, nhường lại thiên cung cho ta, thì ta thôi. Nếu không, ta còn quấy phá, không bao giờ yên ổn được.

Phật tổ nói:

- Ngoài phép trường sinh, biến hóa ra, nhà ngươi còn có tài gì mà đòi chiếm thiên cung?

Đại thánh nói:

- Tài nghệ ta nhiều lắm! Ta có bảy mươi hai phép biến hóa, vạn kiếp sống mãi không già, lại biết cả phép cân đẩu vân nữa. Mỗi cân đẩu vân đi được một vạn tám nghìn dặm. Như thế ta không đáng ngồi ngôi trời sao?

Phật tổ nói:

- Ta đánh cuộc với nhà ngươi, nếu nhà ngươi có tài nhảy một
cân đẩu vân ra khỏi được lòng bàn tay phải của ta, thì nhà ngươi thắng. Khi ấy, không phải dùng đến binh khí đánh nhau làm gì nữa. Ta mời Thượng đế sang Tây phương ở với ta, nhường Thiên cung lại cho nhà ngươi. Nếu không ra khỏi bàn tay ta, thì nhà ngươi cứ về hạ giới làm yêu quái, tu luyện thêm vài kiếp nữa, rồi lên đây mà tranh giành.

Đại thánh nghe nói, cười thầm:

- Như Lai sao ngốc thế! Mỗi cân đẩu vân của Lão Tôn đi được một vạn tám nghìn dặm, bàn tay của ông ta vuông tròn không đầy một thước, thì có gì là khó mà ta không nhảy qua được.

Bèn vội vàng nói:

- Được! Ngài có dám thi ngay bây giờ không? Phật tổ nói:
- Được, được!

Bèn xòe bàn tay phải ra, trông như cái lá sen. Đại thánh cất gậy, vận thần thông, co người nhảy lên đứng giữa lòng bàn tay của Phật tổ, và nói:

- Ta đi đây!

Bạn xem, Đại thánh vút đi như một luồng ánh sáng chớp mắt đã không thấy bóng dáng đâu nữa. Phật tổ phóng cặp mắt tuệ quan sát, thấy Đại thánh đi vun vút như chiếc xe gió không dừng ở chỗ nào. Đang đi, Đại thánh bỗng thấy năm cây cột thịt đỏ hồng, chống đỡ một vầng khí xanh, bèn nói:

- Nơi đây đã là tận cùng rồi. Phen này quay về, có Như Lai làm chứng, điện Linh Tiêu nhất định sẽ là nơi ta ngự trị.

Lại tính toán rằng:

- Khoan đã, ta phải đánh dấu vào thì mới nói chuyện với Như
Lai được.



Bèn nhổ một sợi lông, thổi tiên khí, hô “biến”, tức thì biến thành một cây bút đẫm mực, đề một hàng chữ lớn vào cây cột giữa: “Tề Thiên Đại thánh đã tới đây chơi một lần”. Viết xong, Đại thánh thu lông, rồi bất kể là làm bẩn nơi tôn nghiêm, đái một bãi ngay dưới chân cây cột thứ nhất xong xuôi chuyển cân đẩu vân, về thẳng nơi trước, đỗ xuống lòng bàn tay Như Lai, nói:

- Ta đã đi và trở về đây. Ngài bảo ngay Thượng đế nhường
Thiên cung cho ta.

Như Lai mắng luôn:

- Ta còn nắm được ít nước đái của loài khỉ đây này! Nhà ngươi, đã từng ra khỏi bàn tay ta đâu!

Đại thánh nói:
- Ngài đâu có biết! Ta đã đi tới cùng đường rồi, thấy có năm cây cột thịt đỏ hồng, chống đỡ một vầng khí xanh, ta cũng đã viết chữ đánh dấu ở đó. Ngài có dám cùng ta đi xem không?

Như Lai nói:

- Không cần đi, nhà ngươi cứ cúi đầu xuống mà nhìn.

Đại thánh tròn xoe đôi mắt lửa ngươi vàng cúi xuống xem, bỗng thấy ngón tay giữa bàn tay phải của Phật tổ có hàng chữ “Tề Thiên Đại thánh đã tới đây chơi một lần”. Dưới kẽ ngón trỏ và ngón cái có mùi nước đái khỉ khai khai. Đại thánh giật mình, nói”

- Sao lại thế này? Ta viết hàng chữ này vào cây cột chống trời, tại sao bây giờ lại thấy trên ngón tay Phật tổ nhỉ? Hay hắn có phép thuật gì biết trước chăng? Không tin được! Không tin được! Để ta lại đi một lần nữa!

Đại thánh vội vàng tung người nhảy vút đi, nhưng bị ngay Phật tổ lật bàn tay túm chặt lấy, mang ngay ra ngoài cửa Tây Thiên, biến năm ngón tay thành năm quả núi: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, gọi là núi Ngũ Hành, nhẹ nhàng đè chặt Đại thánh xuống dưới. Các lôi thần cùng A Nan, Ca Diếp, ai nấy chắp tay khen ngợi:
- Giỏi quá! Giỏi quá! Thực là:

Năm nao trứng đã nở thành người, Lập chí tu hành cũng đến nơi.
Muôn kiếp rong chơi nơi thắng cảnh, Một giây biến đổi đã tong đời.
Dối trên lừa dưới lòng ngông bạo, Nhục thánh trộm đơn loạn lẽ trời.
Quen thói làm càn nay quả báo. Biết ngày rào thoát, hỡi trời ơi!
Phật tổ Như Lai trừ xong loài khỉ quái, bèn gọi A Nan, Ca Diếp trở về Tây phương cực lạc. Lúc ấy, có hai vị thần Thiên Bồng, Thiên Hựu vội chạy ra ngoài điện Linh Tiêu gọi:

- Xin mời Như Lai thư thư một chút, có xa giá của Thượng đế sắp tới.

Phật tổ nghe tiếng, quay đầu nhìn. Một lát thấy xe loan bát cảnh, lọng báu cửu quang, nhã nhạc vang lừng, cờ quạt phấp phới, mùi hương ngát thơm. Thượng đế bước tới trước mặt Phật tổ cảm tạ:

- Nhờ có pháp lực của Như Lai, nên yêu quái đã bị diệt trừ. Dám mong Như Lai nán lại thêm một ngày, để mời các vị tiên đến mở tiệc cảm tạ.

Như Lai chẳng dám chối từ, chắp tay nói:

- Bần tăng được Đại thiên tôn gọi tới đây, chứ có pháp lực gì đâu? Chính là nhờ hồng phúc của Thiên tôn và các thần, đâu dám phiền đến Thượng đế phải cảm tạ.

Thượng đế ra lệnh sai các lôi thần ở bộ Lôi chia nhau đi mời các vị thần tiên ở tam thanh, tứ ngự, ngũ lão, lục ty, thất nguyên, bát cực, cửu diệu, thập đô, cùng đến dự hội để tạ ơn Phật tổ. Thượng đế lại sai bốn đại thiên sư, cửu thiên tiên nữ mở rộng cửa các cung khuyết, cung Thái Huyền, quán Động Dương, mời Như Lai ngồi trên đài Thất bảo, sắp xếp vị trí các ban, bày đủ các món gan rồng, tủy phượng, rượu ngự, đào tiên…

Một  lát  sau,  thấy  các  vị  Nguyên  Thủy  thiên  tôn  ở  Ngọc Thanh, Linh Bảo thiên tôn ở Thái Thanh, các vị Chân quân, Tinh quân, Tả phù, Hữu bật, Thiên vương, Na Tra… cờ quạt rực rỡ, lọng phướn huy hoàng kéo đến. Mọi người mang các thứ
ngọc ngà châu báu, quả lạ hoa thơm đến dâng lên Phạt tổ và thưa rằng:

- May nhờ có pháp lực vô biên của Như Lai thu phục khỉ quái. Hôm nay, đức Đại Thiên tôn bày tiệc mời chúng tôi dự, bày tỏ long biết ơn đối với Phật tổ. Vâyh xin Phật tổ đặt tên cho hội này, có được không ạ?

Như Lai nhận lời, nói:

- Hôm nay đặt tên, thì nên đặt tên là “Đại hội Yên Trời”. Mọi người ai nấy đồng thanh nói:
- “Đại hội Yên Trời”, tuyệt quá! Tuyệt quá!

Nói xong, ai nấy ngồi vào chỗ, hoa tung đàn gẩy, chén chuốc ly mời. Thực là một đại hội rất vui. Có bài thơ làm chứng rằng:

Hội đào trước bị Khỉ ngăn, Nay trời mở hội gấp trăm hội đào, Kiệu rồng, xe phượng dập dìu,
Tràng phan, cờ quạt ánh hào long lanh.

Nhạc tiên thánh thót bổng trầm. Tiếng đàn, tiếng sáo bay gần bay xa. Thần tiên vui họp một nhà,
Bể yên sóng lặng vui ca thánh triều.

Mọi người say sưa vui hội. Bỗng thấy Vương Mẫu dẫn một đoàn tiên nga, tiên nữ hát múa, thướt tha bước tới trước mặt Phật tổ cúi lạy và thưa rằng:

- Trước đây hội Bàn Đào bị khỉ quái quấy phá. Nay nhờ đại pháp lực của Như Lai diệt trừ khỉ quái, mở hội Yên Trời, chúng tôi chẳng có vật gì đáng tạ ơn cả, xin tự tay hái mấy quả đào tiên to nhất kính dâng Phật tổ.
Thật là:




Vàng vàng đỏ đỏ ngát hương bay, Hấp dẫn muôn đời thứ quả này. Giống lạ Vũ Lăng đâu sánh được; Quả tiên Thiên phủ chính loài đây. Mỡ màng vân tía nhân gian hiếm, Hạt nhỏ vị thanh quý bấy nay.
Có phúc được ăn, ôi tuyệt diệu!

Sống lâu muôn tuổi chẳng ai tày.

Phật tổ chắp tay cảm tạ Vương Mẫu. Vương Mẫu lại sai đoàn tiên nữ, tiên nga hát múa, để các vị thần tiên thưởng thức.

Thật là:

Ngan ngát hương bay khắp điện, Tưng bừng nhị hé hoa cười.
Kim khuyết ngọc kinh nhộn nhịp, Của ngon vật lạ đầy vơi
Từng người chúc trời muôn tuổi, Từng cặp chúc nhau ngàn đời. Cho dù biến non dời đồi,
Từ nay hết sợ, cứ vui.

Vương Mẫu đang điều khiển đoàn tiên nữ, tiên nga múa hát, mọi người vừa xem được một lát, bỗng lại thấy:

Một làn hương lạ thoảng bay. Khắp nhà tinh tú vui say giật mình, Thần tiên, Phật tổ chén ngừng,
Mọi người ngẩng mặt xem chừng là ai.

Một cụ già hiện giữa trời,

Cỏ chi tay nắm sắc ngời long lanh.

Hồ lô đựng thuốc linh đơn

Sổ báu ghi chép ngàn năm tuổi trời, Trong động mặc sức vui chơi,
Trong bầu ngày tháng sống đời tự do

Mười châu, bốn biển gần xa, Thanh nhàn mặc sức la cà đó đây Hội bàn đào mấy phen say.
Tỉnh ra cảnh vật chẳng thay đổi gì

Đầu, tai lớn, thân lùn tì,

Ở phương Nam cực, tên thì Thọ Ông.

Thọ Tinh đến nơi, cúi lạy Thượng đế xong, bèn đến yết kiến
Như Lai, cảm tạ rằng:

- Vừa qua, tôi nghe nói khỉ quái đã bị Lão Quân đưa đến cung Đâu Suất đốt trong lò bát quái, tưởng là thiên cung đã được bình an. Không ngờ hắn lại trốn thoát. May nhờ có Như Lai diệt trừ được. Nghe tin Thượng đế mở hội khoản đãi cảm tạ Phật tổ, nên tôi đến đây, chẳng có vật gì quý hiếm, gọi là có mấy thứ cỏ chi tía, ngó sen biếc, cùng kim đơn kính dâng.

Có bài thơ rằng:

Ngó biếc, đan vàng hiến Thích Ca, Sống lâu như thể cát Hằng Hà. Thanh bình vui mãi tam thừa gấm, Khỏe mạnh an khang cứu phẩm hoa,
Võ tương cửa này là pháp chủ, Sắc không trời ấy chính tiên gia. Khắp trong trời đất xưng là Tổ
Sáu trượng thân vàng phúc thọ xa!

Như Lai mừng rỡ cảm ơn. Thọ Tinh ngồi vào chỗ rót rượu vào chén uống tự nhiên. Bỗng lại thấy có Xích Cước đại tiên bước vào, đi tới trước mặt Thượng đế cúi lạy rồi đi lại phía Phật tổ cảm tạ rằng:

- Nhờ có pháp lực vô biên của Phật tổ diệt trừ được khỉ quái, tôi chẳng có gì làm phẩm tạ ơn, gọi là có mấy quả lê vân, táo đỏ kính dâng.

Có bài thơ rằng:

Lê táo thơm lừng của đại tiên, Kính dâng Phật tổ thọ vô biên. Đài sen thất bảo như ban thạch, Tòa báu thiên kim tựa gấm viền.
Thọ sánh trời đất nguyện kính chúc, Phúc ngang sông bể nức trung kiên.
Phúc thọ đời đời là Phật tổ,

Tây phương cực lạc hưởng riêng miền.

Như Lai sung sướng cảm ơn, rồi gọi A Nan, Ca Diếp thu nhận lễ vật, đoạn bước tới trước mặt Thượng đế cảm tạ. Mọi người đang uống rượu vui vẻ, bỗng có viên linh quan đi tuần chạy vào báo:

- Bẩm, Đại thánh lại thò đầu ra. Phật tổ nói:
- Không sao, không sao!
Và rút trong tay áo ra một tờ giấy, trên có sáu chữ vàng “Úm- ma-ni-bát-mê-hồng đưa cho A Nan dặn mang đi dán lên đỉnh núi. A Nan vâng lệnh cầm đạo bùa, ra khỏi cửa trời, đến thẳng đỉnh núi Ngũ Hành, dán chặt đạo bùa vào tảng đá bốn cạnh vuông vức. Quả núi tức thì mọc rễ khép liền lại, chỉ để một lỗ thông hơn. Đại thánh bị quả núi đè chặt, chỉ thở được, và chân tay thò ra cựa quậy được mà thôi. A Nan trở về báo:

- Đã dán xong ạ.

Như Lai bèn cáo từ Thượng đế và các vị thần cùng hai tôn giả ra khỏi cửa trời. Lúc ấy, ngài lại phát tâm từ bi, niệm thần chú, gọi cả Thổ địa, Thần kỳ, cùng Ngũ phương Yết đê dặn canh giữ núi Ngũ Hành, thấy khi nào Đại thánh đói thì cho ăn viên sắt, khát cho uống nước rỉ đồng, đợi bao giờ hết hạn tai ách, tự khắc có người đến cứu.

Thật là:

To gan, khỉ quái phản trời,

Như Lai hóa phép, khỉ thời thua ngay

Khát, rỉ đồng uống cho đầy

Đói ăn viên sắt tháng ngày sớm trưa.

Thượng đế đày đọa xót xa,

Thân tuy thê thảm mệnh kia còn dài.

Anh hùng thoát nạn rồi đây.

Có ngày bái Phật phương Tây lên đường.

Lại có bài thơ rằng:

Cậy mình tài giỏi xưng hùng, Hàng long phục hổ vẫy vùng tứ tung. Trộm đào, trộm rượu thiên cung.
Ban ơn, trời nhận vào cùng sổ tiên.

Quen thói ác, thân bị lèn,

Song le căn thiện Phật hiền vẫn thương

Bao giờ thoát khỏi tai ương,

Ấy ngày sư thánh nhà Đường sinh ra

Cuối cùng không biết đến năm nào, tháng nào, Đại thánh mới thoát được tai nạn, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ TÁM

Phật tổ tạo kinh truyền cực lạc Quan Âm vâng mệnh đến Tràng An Thử hỏi cửa thiền:
Học cầu vô số,

Cuối cùng già yếu luôn luôn Mài gạch làm gương, Tích băng làm gạo.
Mê lầm đã được bao năm? Biển rộng bị nuốt bởi sợi lông. Tu di bị nạp vào hạt cát.
Mỉm cười ông đầu đà sắc vàng… Ngộ thì siêu tam thừa, thập địa [64] Ngưng trệ thì lục đạo, tứ sin   [65]
Ai nghe hiểu,

Bên bờ thôi nghĩ viễn vông. Dưới cây không bóng râm.
Tiếng cuốc kêu, ai hay xuân nhỉ?

Đường Tào Khê hiểm trở, Mây non Thứu xa xăm.
Nơi ấy tin người thân vắng tanh.
Bờ sông cao nghìn tầng, Nở hoa sen năm lá,
Điện cổ rèm buông hương thoảng nhẹ, Thời thế này,
Biết rõ từ cội nguồn,

Chỉ có Long vương tam bảo. Bài từ này tên là “Tô Vũ mạn”,
Lại nói chuyện đức Phật tổ Như Lai, từ biệt Thượng đế, về thẳng bảo sái Lôi Âm, đã thấy ba nghìn vị Phật, năm trăm vị A La hán, tám vị Kim Cương, cùng nhiều vị Bồ Tát, mọi người cầm tràng phan, lọng báu, cỏ lạ hoa thơm, sắp hàng ở trong rừng Bà La Song núi Linh Sơn đón tiếp. Như Lai dừng đám mây lành bước xuống nói với mọi người rằng:

- Ta đem:

Mắt tuệ bát nhã, Nhìn thấu xa gần. Suy đến ngọn nguồn, Thảy đều tịch diệt. Chẳng có gì hết, Thảy đều hư không. Khỉ quái trừ xong, Việc này ai biết.
Có danh bắt đầu từ sống chết, Pháp tướng rành rành, chẳng sai nào!
Nói xong, phóng luồng ánh sáng xá lị thành bốn mươi hai chiếc cầu vồng trắng đầy khắp bầu trời, thông suốt Nam, Bắc.
Mọi người trông thấy, ai nấy chắp tay đảnh lễ. Được một lát, Phật tổ tụ đám mây lành, ngồi ngay ngắn trên tòa sen thượng phẩm. Ba nghìn vị Phật, năm trăm vị La hán, tám vị Kim cương, bốn vị Bồ tát chắp tay bước tới gần lạy chào, rồi hỏi:

- Kẻ nào động thiên cung, phá quấy hội Bàn Đào là ai vậy? Như Lai đáp:
- Kẻ đó là một con khỉ quái sinh ra ở núi Hoa Quả, tội ác tày trời không sao nói hết, thiên binh thần tướng không sao hàng phục nổi. Dù Nhị Lang có bắt được hắn, Lão Quân dùng lửa thiêu đốt hắn, nhưng cũng chẳng ăn thua. Khi ta tới, hắn còn đang đứng giữa vòng vây của các lôi thần giương oai diễu võ, biến hóa thần thông. Ta bèn ngăn cuộc đánh nhau lại, hỏi lai lịch hắn. Hắn trả lời rằng: Giỏi thần thông tài biến hóa, lại có phép “cân đẩu vân” đi một lần được mười vạn tám nghìn dặm. Ta bèn cùng hắn đánh cuộc, hắn nhảy không thoát khỏi bàn tay ta, bị ta giữ lại, biến năm ngón tay thành núi Ngũ Hành, nhốt hắn vào đấy. Rồi Thượng đế cho mở hết cửa cung vàng điện bạc, tổ chức “Đại hội Yên Trời” khoản đãi ta. Sau đó ta xin từ biệt ra về.

Mọi người nghe nói mừng rỡ, khen ngợi hết lời. Sau khi cảm tạ Phật tổ xong, ai nấy thứ tự lui ra, rồi người nào việc ấy, vui hưởng đạo trời. Thực là:

Khí đẹp đầy Thiên Trúc, Ánh hồng rọi Thế Tôn. Ngôi đệ nhất Tây phương, Ở cửa vô pháp tướng.
Mời trái là khỉ vượn, Dâng hoa ấy hươu nai. Phượng hót, loan múa vui,
Hạc tiên, rùa chúc thọ.

Vui Kỳ viên tịnh thổ, Hưởng Sa giới long cung. Từng giờ hoa nở hồng, Từng ngày quả chín đỏ. Tập luyện chân tĩnh tọa, Tu chính quả tham thiền.
Không diệt cũng không sinh, Không tăng và không giảm, Yên hà tùy lai vãng,
Nóng lạnh mặc thời gian.

Lại có bài thơ rằng:

Đi đi đến đến thung dung,

Lòng không lo sợ, dạ không ưu phiền

Vui miền cực lạc Tây thiên,

Đại thiên chốn ấy dường quên tháng ngày

Phật tổ ở khu bảo sái Lôi Âm núi Linh Sơn. Một hôm, ngài gọi các vị Phật, La hán, Yết đế, Bồ tát, Kim cương, Tỳ kheo, tăng ni đến, và bảo rằng:

- Từ ngày ta diệt trừ được khỉ quái, giúp trời được yên ổn đến nay, sống trong cảnh giới chẳng biết có năm tháng, nhưng ở trần gian có lẽ đã đến năm trăm năm rồi. Hôm nay đúng ngày rằm tháng bảy, ta có một chiếc bồn rất quý, trồng đủ trăm giống hoa lạ, nghìn thứ quả hiếm, nay muốn cùng các vị thưởng hội “Vu lan bồn”, nên chăng?

Mọi người chắp tay đảnh lễ Phật tổ ba lần, xin vâng lệnh.
Như Lai sai A Nan, Ca Diếp mang những thứ hoa thơm, quả lạ trong bồn ra phân phát cho mọi người. Ai nấy cảm động rồi dâng thơ cảm tạ.

Bài thơ phúc viết rằng:

Phúc tinh chiếu rọi Thế Tôn, Nguồn phúc lai láng viên tròn sâu xa. Phúc đức tựa đất bao la,
Phúc duyên lồng lộng như là trời cao.

Ruộng phúc giống tốt làm sao, Biển phúc sóng dậy ào ào quanh năm. Phúc ấm đầy đặn muôn phần,
Phúc tăng vô hạn năm năm, đời đời.

Bài thơ lộc viết rằng:

Lộc nặng như non phượng hót mừng, Lộc theo thời thịnh chúc trường canh. Lộc thêm muôn lộc thân thêm khỏe,
Lộc hưởng nghìn chung nước thái bình.

Bổng lộc như trời càng vững chãi, Bổng danh tựa biển mãi trong xanh. Lộc ân mãi mãi lòng ghi tạc,
Tước lộc vô biên vạn nước vinh.

Bài thơ thọ viết rằng:

Thọ tinh kính chúc Như Lai, Cõi thọ lồng lộng từ nay mở rồi. Quả thọ thơm ngát tinh khôi,
Hoa thọ tươi thắm cắm đài hoa sen Thơ thọ thanh nhã diệu huyền, Nhạc thọ êm ái triền miên cõi lòng. Mệnh thọ dài tựa núi sông,
Sánh ngang trời đất muôn trùng dài lâu!

Các vị Bồ tát dâng thơ chúc mừng xong, và mời Như Lai giải thích rõ về nguồn gốc căn bản của đạo. Như Lai bèn hé mở miệng lành, phô diễn đại pháp, tuyên dương chính quả, giảng rõ tam thừa diệu điển, ngũ uẩn lăng nghiêm. Khi ấy, trên trời có rồng vàng bay lượn, lất phất mưa hoa. Thực là:

Lòng Thiền trăng sáng chiếu nghìn song

Chân tính trời cao soi vạn khoảnh.

Như Lai giảng pháp xong, lại nói với mọi người rằng:

- Ta xem trong bốn đại bộ châu, chúng sinh thiện ác có khác nhau: Người Đông Thắng Thần Châu tôn trời kính đất, tâm khí thanh sảng. Người Bắc Câu Lư Châu tính thích sát sinh, ăn nói hồ đồ, tình sơ tính vụng; chẳng được việc gì. Người Tây Ngưu Hạ Châu thì không tham không giết, dưỡng khí nuôi thần, tuy chưa được vào bậc thượng chân, nhưng mọi người được hưởng thọ. Duy có người Nam Thiệm Bộ Châu tham dâm gây họa, hay giết hay tranh, chính là nơi đánh nhau cãi cọ, ác độc thị phi. Nay ta có ba tạng chân kinh có thể khuyên họ làm việc thiện.

Các vị Bồ tát nghe nói chắp tay đảnh lễ, bước tới gần toa sen hỏi rằng:

- Phật tổ có ba tạng chân kinh nào? Như Lai đáp:
- Ba tạng chân kinh của ta, một là Pháp tạng, bàn về trời; hai là Luận tạng bàn về đất; ba là Kinh tạng độ cho ma quỷ. Ba tạng
gồm ba mươi lăm bộ, cả thảy một vạn năm nghìn một trăm bốn mươi quyển. Đó là kinh tuy luyện chân tâm, cửa vào cõi thiện, mà ta muốn truyền sang phương Đông. Khốn nỗi chúng sinh nơi đó ngu xuẩn hủy báng chân ngôn, không biết yếu chỉ trong pháp
môn của ta, coi thường cả chính tông du già[66]


- Nay làm sao
có được một người có pháp lực sang phương Đông tìm một thiện tín, bảo người ấy chịu đựng gian khổ, vượt qua muôn núi nghìn sông, đến chỗ ta cầu lấy chân kinh, để lưu truyền bên phương Đông mãi mãi, khuyến hóa cho chúng sinh, thì đó là một phúc duyên cao rộng như núi, việc thiện sâu như bể vậy đó. Có ai dám chịu đi một chuyến không?

Khi ấy, Quan Âm bồ tát bước tới gần đài sen, lạy Phật tổ ba lạy, rồi nói:

- Đệ tử bất tài, xin sang phương Đông tìm người lấy kinh. Mọi người ngẩng đầu nhìn, thấy vị Bồ tát ấy:
Bốn đức tròn viên mãn, Thân vàng tỏa sáng thông. Chuỗi ngọc biếc rủ cạnh, Vòng thơm đeo bên mình. Tóc mây uốn đen lánh,
Đài thêu thắt ngang lưng. Bào trắng, khuy ngọc bích, Mây lành che quẩn quanh. Quần gấm, dây vàng óng, Khí đẹp phủ quanh thân.
Lông mày - vầng trăng khuyết, Mắt - vì sao long lanh.



















Vậy nên:

Mặt ngọc tươi roi rói, Môi đỏ thắm tuyệt trần. Bình cam lồ đầy ắp,
Cắm cành dương liễu xanh Độ chúng sinh thoát nạn, Rất từ bi hiền lành.



Giữ núi Thái Sơn Coi miền Nam hải. Độ người khổ ải
Nghìn thánh nghìn thiêng, Muôn kêu muôn ứng Lòng lan vui trúc khóm, Tinh huệ quý mây thơm.
Đó là vị chúa từ bi ở Lạc Già sơn,

Chính là đức Quan Âm sống nơi Triều Âm động. Như Lai trông thấy, trong lòng mừng rỡ nói:
- Người khác đi không xong. Phải là Quan Âm tôn giả thần thông quảng đại đi mới xong được.

Bồ tát hỏi:

- Đệ tử sang phương Đông chuyến này, Phật tổ có dặn dò gì không?

Như Lai đáp:

- Chuyến đi này phải đi trên mặt đường, không được đi tít trên tầng mây. Mắt cần phải để ý sông núi, ghi nhớ kỹ càng đường sá xa xôi thế nào mà ân cần dặn dò lại cho người lấy
kinh. Song e rằng vị thiện tín ấy khó đi, ta đưa cho Bồ tát năm thứ bảo bối này.

Lập tức sai A Nan, Ca Diếp lấy ra một chiếc áo cà sa gấm, một cây gậy tích trượng chín vòng đưa cho Bồ tát và bảo:

- Tấm áo cà sa và cây gậy này đưa cho người lấy kinh dùng. Nếu người ấy kiên tâm đến được đây, mặc tấm áo cà sa của ta, thì thoát khỏi luân hồi; cầm gậy tích trượng của ta thì không bị hãm hại.

Bồ tát cảm tạ nhận lấy. Như Lai lại sai mang ra ba cái vòng, đưa cho Bồ tát và dặn rằng:

- Bảo bối này gọi là “Khẩn cô nhi”, tuy ba cái giống nhau nhưng công dụng khác nhau. Ta lại có ba bài “Kim khẩn cấm” nữa. Nếu trên đường gặp phải yêu ma có phép thần thông biến hóa, đệ tử hãy khuyên hắn học đạo, đi theo người lấy kinh làm đồ đệ. Nếu hắn không chịu sai khiến, thì chụp cái vòng ấy lên đầu hắn, cái vòng sẽ mọc rễ cắm chặt vào thịt, mỗi khi niệm câu thần chú, là hắn sẽ đau đầu nhức mắt, đầu óc cứ như bị vỡ tung ra, bắt hắn phải chịu làm môn đệ của ta ngay.

Bồ tát nghe xong vui mừng lạy Phật tổ lui ra, và gọi ngay Huệ Ngạn hành giả đi theo mình. Huệ Ngạn dùng một cây côn sắt nặng một nghìn cân, làm một đại lực sĩ hàng phục yêu quái, luôn luôn ở bên cạnh Bồ tát. Bồ tát gói tấm áo cà sa gấm cất vào tay nải, đưa cho Huệ Ngạn giữ, còn mình cất vòng kim cô vào trong người, tay cầm gậy tích trượng, cùng Huệ Ngạn hai người đi thẳng xuống núi Linh Sơn. Chuyến đi này có hai việc:

Phật tử trở về theo bản nguyện, Kim Thiền trưởng lão đến chiêu đàn.
Bồ tát xuống đến chân núi đã thấy có vị Kim Đính đại tiên ở Ngọc Chân quán ra cửa quán đón tiếp, mời Bồ tát vào uống trà. Bồ tát không dám dừng lại lâu, nói:
- Nay tôi vâng lệnh Như Lai sang phương Đông tìm người đi lấy kinh.

Đại tiên hỏi:

- Người lấy kinh bao giờ mới tới? Bồ tát đáp:
- Chưa biết. Ước chừng hai, ba năm mới tới chăng.

Bèn từ biệt Đại tiên, vút đi trong đám nửa mây nửa mù, ghi nhớ kỹ đường sá. Có bài thơ làm chứng rằng:

Đường xa muôn dặm tìm tòi,

Được người xứng đáng mệnh trời trao cho.

Tìm người thực khó khăn ghê,

Suốt đời suy tính không hề ngẫu nhiên.

Đạo truyền nào phải quàng xiên, Nói ra tiết lậu hư truyền ai tin. Hết lòng vì đạo cầu hiền,
Rồi đây hẳn có nhân duyên gặp người.

Hai thầy trò đang đi, bỗng nhìn thấy một giải ba nghìn dặm
[67]
nước yếu

. Đấy là dòng sông Lưu Sa. Bồ tát nói:

- Đồ đệ này, nơi này khó đi quá. Người lấy kinh mình trần mắt thịt, làm sao mà qua được?

Huệ Ngạn nói:

- Thưa sư phụ, người thấy dòng sông này dài bao nhiêu? Bồ tát đứng mây quan sát. Chỉ thấy:
Phía Đông liền sa mạc, Phía Tây sát nước Phiên.


















































Chỉ thấy:

Ô Qua ở phía Nam, Thát Đát liền mạn Bắc.
Đường xa tám trăm dặm dằng dặc, Dưới trên dài ngàn vạn dặm xa Nước cuộn xoáy trôi đi.
Sóng tung cao chất ngất Nước mênh mông bát ngát, Tiếng vang mười dặm xa. Bè tiên khó vượt qua,
Lá sen chìm chẳng nổi

Cỏ mục lềnh bềnh trôi bến bãi, Mây vàng bảng lảng chiếu đê dài Khách buôn vắng bóng người, Thuyền chài không một lá.
Bãi vắng đàn nhạn đỗ, Bờ xa vượn hú dài



Ngổ tía rau dừa cảnh hắt hiu,

Bèo trắng thoảng hương xanh ngắt ngắt.

Bồ tát đang quan sát, bỗng từ giữa dòng nước vang lên một tiếng ầm. Một yêu quái rẽ nước nhảy vọt lên, trông rất dữ tợn:

Xanh chẳng ra xanh, Đen chẳng ra đen, Mặt mày tối om,
Dài chẳng ra dài,
Ngắn chẳng ra ngắn, Thân cẳng đỏ sẫm. Cặp mắt thì lóng lánh, Tựa ngọn đèn bếp tro.
Miệng một chiếc sừng thò, Tựa con dao hàng thịt. Răng nanh như kiếm tuốt. Tóc đỏ quạch rối tung. Quát một tiếng vang lừng, Rẽ nước lao vun vút.


Yêu quái tay cầm bảo trượng, xông lên bờ định bắt Bồ tát. Huệ Ngạn vung cây gậy hồn thiết chặn lại, và hét lớn:

- Chớ chạy!
Yêu quái vung bảo trượng đánh luôn. Hai người đánh nhau bên bờ sông Lưu Sa rất quyết liệt, và thật đáng sợ:

Mộc Soa múa gậy sắt, Biến hóa trổ thần thông. Yêu quái vung bảo trượng, Hung hăng tỏ anh hùng.
Hai con rắn bạc bờ sông múa, Một cặp thần tăng vách đá vờn.
Một kẻ oai trấn Lưu Sa phô bản lĩnh.

Một người ra sức bảo vệ Quan Âm lập chiến công

Kẻ này cưỡi sóng vượt gió, đất trời mù mịt, Người kia thổi mù phun mây, nhật nguyệt tối sầm. Cây gậy hàng yêu dữ dội như hổ trắng rời non
Cây gậy hỗn thiết khủng khiếp tựa rồng vàng cuốn gió

Người này đến tìm rắn vạch cỏ, Kẻ kia ra đuổi cắt phá tùng.
Đánh nhau đến nỗi:

Trăng sao cũng tối sầm, Đất trời càng thảm đạm.
Một kẻ ở lâu miền nước yếu lòng đầy uất hận, Một người vừa ra khỏi Linh Sơn lập chiến công đầu.
Hai bên qua lại đánh nhau đến mấy chục hiệp, không phân thắng bại. Lúc ấy, yêu quái mới gạt cây gậy sắt của Huệ Ngạn ra, rồi hỏi:

- Nhà ngươi là Hòa thượng ở đâu mà dám tới đây giao chiến với ta?
Mộc Soa đáp:

- Ta là thái tử thứ hai của Thác Tháp Lý thiên vương tên gọi Mộc Soa, hiệu là Huệ Ngạn hành giả, giờ đây bảo vệ sư phụ sang phương Đông tìm người lấy kinh. Nhà ngươi là yêu quái nào mà dám to gan cản đường?

Lúc ấy yêu quái mới tỉnh ngộ, nói:

- Ta nhớ ra rồi, ngài theo Quan Âm ở Nam Hải tu hành trong rừng trúc tía cơ mà, sao bây giờ lại tới đây?

Mộc Soa nói:

- Sư phụ ta đứng bên bờ sông kia kìa!

Yêu quái nghe nói, dạ dạ luôn mồm, cất cây bảo trượng, để cho Mộc Soa dắt đi. Trông thấy Quan Âm, yêu quái sụp lạy rồi nói:

- Kính xin Bồ tát tha tội tôi xin thưa chuyện. Tôi thực không phải là yêu quái, mà là Quyển Liêm đại tướng trông coi xe loan ở điện Linh Tiêu. Do trong hội Bàn Đào, tôi lỡ tay đánh vỡ chiếc chén bằng ngọc lưu ly, nên bị Thượng đế phạt, sai đánh tám trăm roi và bắt đày hạ giới biến thành hình dạng xấu xí thế này đây. Thượng đế lại ra lệnh cứ bảy ngày một lần, đâm ngọn phi kiếm vào ngực hơn một trăm nhát, nên mới khổ não thế này. Tôi đói khát không chịu nổi, chẳng biết làm thế nào, nên cứ khoảng hai ba ngày, đành phải nhảy ra ngoài làn nước, bắt người đi đường ăn thịt. Không ngờ hôm nay vô ý gặp phải Bồ tát đại từ, đại bi.

Bồ tát nói:

- Nhà ngươi mắc tội ở thiên đình bị đày xuống đây, mà còn mắc tội giết người, thì thật tội càng thêm nặng. Nay ta vâng lệnh Phật tổ, sang phương Đông tìm người lấy kinh, sao nhà ngươi không gia nhập pháp môn của ta, quy y thiện quả, theo người
lấy kinh làm đồ đệ, sang phương Tây lễ Phật cầu kinh? Ta sẽ bảo không để phi kiếm đâm vào nhà ngươi nữa, và khi nào thành công, ta sẽ tâu Thượng đế miễn tội cho, phục lại chức cũ. Nhà ngươi thấy thế nào?

Yêu quái nói:

- Tôi xin nguyện một lòng quy y chính quả. Nói xong, yêu quái bước tới gần nói thêm:
- Kính thưa Bồ tát, tôi ở khúc sông này đã ăn thịt không biết bao nhiêu người. Trước đây, đã có mấy người đi lấy kinh qua đây, họ đều bị tôi ăn thịt tất. Phàm đầu lâu của những người bị tôi ăn thịt, tôi vứt cả xuống sông Lưu Sa, chúng đều chìm nghỉm xuống đáy. Thứ nước này, đến chiếc lông ngỗng cũng không nổi được. Duy chín chiếc sọ của những người lấy kinh cứ nổi lềnh bềnh trên mặt nước, không sao chìm được. Tôi lấy làm lạ lắm, bèn xâu chúng lại thành một chuỗi, lúc rỗi rãi đem ra chơi nghịch. Lần này, chỉ sợ người lấy kinh không tới được đây, thì lỡ cả sự nghiệp của tôi mất.

Bồ tát nói:

- Lẽ nào lại không tới? Nhà ngươi cứ đeo chuỗi đầu lâu ấy vào cổ, đợi khi người lấy kinh tới sẽ có việc dùng ngay.

Yêu quái nói:

- Được như vậy, xin vâng theo lời chỉ giáo của Bồ tát.

Bồ tát bèn xoa đầu yêu quái làm lễ thụ giới, lấy chữ Sa làm họ, ban cho một pháp danh là Sa Ngộ Tĩnh. Lúc ấy, yêu quái đã được vào hàng Sa môn rồi, bèn tiễn đưa Bồ tát qua sông, và tu tâm sửa tính, không giết hại người nữa, một lòng đợi người đi lấy kinh.

Bồ tát từ biệt yêu quái xong, cùng Mộc Soa tiếp tục lên đường sang phương Đông. Đi được ít lâu, lại gặp một trái núi
cao. Đỉnh núi ác khí phủ mù mịt, không sao trèo lên được. Hai người đang định cưỡi mây vượt qua, thì bỗng nhiên một trận cuồng phong nổi lên, một con yêu quái xông ra, hình thù rất hung dữ. Chỉ thấy:

Bèo cám bê bết quanh mồm,

Tai như chiếc quạt, mắt tròn vàng hoe.

Răng nanh nhọn hoắt gớm ghê! Mõm dài há ngoác đỏ khè đến kinh. Mũ kim khôi ánh lung linh,
Áo giáp lấp lánh, quanh mình thắt dây.

Đinh ba chín mũi cầm tay,

Bên vai lủng lẳng một cây cung dài.

Oai như Thái tuế trên trời,

Hiên ngang dữ tợn thần, người dám đương?



Yêu quái xông ngay tới, bất kể hay dở, phóng ngọn đinh ba đâm luôn Bồ tát. Mộc Soa gạt ngay ngọn đinh ba ra, quát lớn:

- Yêu quái khốn kiếp, chớ có vô lễ! Hãy nhìn cây gậy đây! Yêu quái quát lại:
- Hòa thượng muốn chết phỏng? Hãy nhìn ngọn đinh ba đây!

Hai bên xông xáo đánh nhau, tranh giành phần thắng ở ngay dưới chân núi. Trận đánh rất quyết liệt:

Yêu ma dũng mãnh, Huệ Ngạn tài năng. Gậy sắt nhằm đầu bổ. Đinh ba nhè mặt đâm.
Gió cuộn bụi tung trời đất tối, Cát bay đá lở quỷ thần kinh.
Đinh ba chín mũi kêu xoang xoảng, Gậy sắt đen sì múa rập rình.
Một người là thiên vương thái tử, Một kẻ là nguyên soái thần linh. Một người ở Phổ Già làm hộ pháp,
Một kẻ xuống động núi làm yêu tinh. Đánh nhau quyết liệt tranh cao thấp, Thắng bại hai bên khó đoán rành.
Hai người đang mải đánh nhau, Quan Âm đứng trên không trung ném bông hoa sen xuống, tách hai cây đinh ba và bảo trượng ra. Yêu quái thấy vậy, sợ hãi hỏi:

- Nhà ngươi là hòa thượng ở đâu mà dám tới đây giở ngón
“Nhỡn tiên hoa” ra dọa ta?

Mộc Soa nói:

- Đồ quái vật người trần mắt thịt kia! Ta là đồ đệ của Bồ tát ở Nam Hải. Bông sen ấy chính do sư phụ ta ném xuống đấy, nhà ngươi không nhận ra sao?

Yêu quái nói:

- Bồ tát ở Nam Hải à? Có phải là đức quan Thế Âm cứu khổ, cứu nạn phải không?

Mộc Soa nói:

- Không phải ngài thì còn là ai nữa?

Yêu quái nghe xong, vội vàng quẳng cây đinh ba, cúi rạp đầu xuống lạy, nói:

- Thưa lão huynh, Bồ tát đang ở đâu, phiền ngài dẫn tôi đến yết kiến!

Mộc Soa ngẩng đầu chỉ tay, nói:
- Ngài ấy kia kìa!

Yêu quái hướng về phía Bồ tát sụp lạy, nói:

- Kính xin Bồ tát tha tội! Tha tội!

Bồ tát từ trên đám mây hạ xuống, bước tới gần yêu quái hỏi:

- Nhà ngươi là con lợn rừng, lợn dại thành tinh ở đâu mà dám tới đây cản đường ta?

Yêu quái thưa:

- Tôi không phải là lợn rừng, cũng không phải là lợn dại. Tôi vốn là Thiên bồng nguyên soái ở Thiên Hà, do say rượu trêu ghẹo Hằng Nga, nên bị Thượng đế đánh cho hai ngàn roi, đày xuống hạ giới. Linh tính còn đi tìm nơi đầu thai, không ngờ lầm đường, chui lầm vào bụng con lợn nái, nên mới biến thành hình dạng xấu xí thế này. Tôi bực mình cắn chết lợn mẹ và cả đàn lợn con, chiếm ngọn núi này, ăn thịt người qua ngày. Không ngờ hôm nay phạm phải Bồ tát. Mong Bồ tát tha tội cứu vớt cho!

Bồ tát hỏi:

- Núi này gọi là núi gì? Yêu quái thưa:
- Núi Phúc Lăng ạ. Trong núi có một căn động, gọi là động Vân Sạn. Trước đây, động này do nàng Noãn Nhi Thư cai quản. Nàng thấy tôi có chút võ nghệ, mời làm gia trưởng, cho ở gởi rể luôn. Chưa đầy một năm, nàng chết. Cả cơ ngơi này đều thuộc về tôi. Ngày qua tháng lại, chẳng có cách gì nuôi thân, tôi đành lại ăn thịt người cho qua ngày như cũ. Muôn ngàn lần xin Bồ tát tha tội cho.

Bồ tát nói:

- Người xưa nói: “Muốn có tiền đồ, chớ bỏ lỡ tiền đồ”. Nhà ngươi đã phạm tội ở thiên đình, nay lại không chịu sửa lòng
hung ác, gây tội giết người. Đó chẳng phải là hai tội đều đáng trừng phạt cả một thể ư?

Yêu quái nói:

- Tiền đồ với tiền đạc! Cứ theo lời ngài, bảo tôi nuốt gió mà sống ư? Người ta thường có câu: “Theo phép quan thì nhừ đòn, theo phép Phật thì đói mòn” là gì. Thôi thôi! Chi bằng cứ bắt người qua đường, ăn thịt những cô nàng béo nung núc, dù có bị hai tội, ba tội, nghìn tội, vạn tội cũng cóc cần!

Bồ tát nói:

- “Người có lòng thiện, trời cũng theo về”. Nhà ngươi chịu quy y chính quả ắt có chỗ nuôi thân. Đời có năm loài ngũ
[68]
cốc

, đủ để cứu đói, việc gì phải ăn thịt người mà sống?

Yêu quái nghe nói, như chợt tỉnh giấc mộng, nói với Bồ tát:

- Con muốn theo về đường ngay, nhưng hiềm vì đã mắc tội với trời, không kêu van được nữa!

Bồ tát nói:

- Ta vâng lệnh Phật tổ sang phương Đông tìm người đi lấy kinh. Nhà ngươi nên theo người lấy kinh làm đồ đệ sang phương Tây một chuyến, lập công chuộc tội, ắt sẽ thoát khỏi tai nạn.

Yêu quái mừng rỡ rối rít nói:

- Vâng ạ! Vâng ạ!

Bồ tát bèn xoa đầu thụ giới cho yêu quái, lấy đặc điểm thân
[69]
hinh đặt họ là Trư

. Và đặt pháp danh là Trư Ngộ Năng. Từ
đấy, yêu quái vâng lệnh quy y, ăn chay niệm Phật, đoạn tuyệt
ngũ huân, tam yếm[70]


 một lòng đợi người đi lấy kinh.
,

Bồ tát cùng Mộc Soa từ biệt Ngộ Năng, lại tiếp tục lên đường, vút đi trong khoảng nửa mù nửa mây. Đang đi, bỗng thấy có một
con rồng ngọc bay trên tầng không cất tiếng gọi. Bồ tát đến gần hỏi:

- Nhà ngươi là loài rồng nào mà bị chịu tội ở đây? Con rồng thưa:
- Tôi chính là con trai Tây Hải long vương là Ngao Nhuận, chỉ vì nghịch lửa làm cháy viên ngọc minh châu trên nóc điện, bị phụ vương tôi tâu lên thiên đình, Thượng đế khép tôi vào tội ngỗ ngược, phạt treo tôi ở đây, đánh ba trăm roi không biết ngày nào sẽ giết, mong Bồ tát cứu mạng cho.

Quan  Âm  nghe  xong,  cùng  Mộc  Soa  lên  thẳng  cửa  Nam Thiên. Hai vị thiên sứ họ Khâu, họ Trương vội vàng ra đón, hỏi rằng:

- Hai ngài đi đâu? Bồ tát đáp:
- Bần tăng cần vào yết kiến Thượng đế một chút.

Hai vị thiên sứ vội vàng vào báo. Thượng đế xuống thềm đón tiếp. Bồ tát cúi lạy xong, thưa chuyện:

- Bần tăng vâng lệnh Phật tổ sang phương Đông tìm người đi lấy kinh, giữa đường gặp một con rồng phạm tội, bị treo ngược. Vậy tới đây tâu xin với Thượng đế tha cho tội chết, trao cho bần tăng, để bần tăng bảo nó làm ngựa đỡ đần người đi lấy kinh.

Thượng đế nghe xong, lập tức ra lệnh ân xá, sai thiên tướng cởi trói và trao cho Bồ tát. Bồ tát tạ ơn lui ra.

Con rồng cúi đầu lạy tạ cảm ơn Bồ tát cứu mạng, nghe theo lời Bồ tát sai khiến. Bồ tát thả con rồng xuống khe sâu, đợi người đi lấy kinh tới, biến thành con ngựa bạch, sang phương Tây lập công. Chú rồng nhỏ nghe lời, giấu mình trong khe sâu, chuyện không nhắc tới nữa.
Bồ tát dẫn Mộc Soa hành giả vượt qua ngọn núi, tiếp tục lên đường sang phương Đông. Đi được một lát, bỗng thấy muôn đạo hào quang, nghìn tia khí đẹp phóng ra. Mộc Soa nói:

- Sư phụ ạ, chỗ hào quang phát ra kia là núi Ngũ Hành, Như
Lai có dán một đạo bùa yểm ở đấy.

Bồ tát nói:

- Tề Thiên đại thánh quấy rối hội Bàn Đào, đại náo thiên cung ngày xưa, nay bị giam giữ ở đấy đấy.

Mộc Soa nói:

- Thế ạ, thế ạ!

Thầy trò bèn cùng nhau trèo lên đỉnh núi ngắm nghía đạo bùa, thấy trên đạo bùa có sáu chữ “úm-ma-ni-bát-mê-hồng”, cứ lưu luyến mãi không thôi, rồi làm một bài thơ. Thơ rằng:

Trái đạo công, buồn cho khỉ quái, Cứ hung hăng cậy giỏi làm càn. Hội đào phá phách nát tan,
Nơi cung Đâu Suất linh đan ăn liều. Mười vạn binh không sao dẹp nổi, Chín tầng trời tiếng nức gần xa.
Từ khi bị Phật nhốt cho,

Tấm thân biết đến bao giờ lập công?

Hai thầy trò, trò chuyện, làm kinh động đến Đại thánh. Đại thánh bị đè dưới chân núi, lớn tiếng nói:

-            Người nào đứng trên đỉnh núi ngâm thơ bêu xấu ta đó?

Bồ tát nghe tiếng, bèn đi thẳng xuống chân núi xem sao, thấy ở dưới vách đá, có Thổ địa, Sơn thần, Thiên tướng trông coi Đại
thánh. Mọi người chạy tới đón tiếp Bồ tát, dẫn Bồ tát đến trước mặt Đại thánh. Hóa ra Đại thánh bị giam trong một cái hộp đá, miệng nói được, nhưng người không cựa quậy được. Bồ tát hỏi:

- Người họ Tôn kia, có nhận ra ta không?

Đại thánh giương đôi mắt lửa ngươi vàng, cao tiếng nói:

- Nhận ra chứ! Ngài là quan Thế Âm bồ tát đại từ đại bi, cứu khổ, cứu nạn ở núi Phổ Già ngoài Nam Hải chứ gì! Ngài làm ơn cứu tôi với! Tôi bị giam ở đây tháng ngày đằng đẵng, không một người thân quen thăm hỏi. Bồ tát từ đâu đến đây?

Bồ tát nói:

- Ta vâng mệnh Phật tổ sang phương Đông tìm người lấy kinh. Hôm nay đi qua đây, cố nán lại thăm nhà ngươi một chút.

Đại thánh nói:

- Như Lai đánh lừa tôi, giam tôi ở quả núi này năm trăm năm nay rồi, mà không sao cựa quậy được. Muôn nghìn lần mong Bồ tát mở lòng từ bi cứu lão Tôn với!

Bồ tát nói:

- Nghiệp chướng nhà ngươi còn nặng lắm. Chỉ sợ cứu cho nhà ngươi ra, nhà ngươi lại gây họa, thành ra lại làm một điều ác.

Đại thánh nói:

- Tôi biết hối lỗi rồi. Mong Bồ tát mở lòng từ bi, mở đường đi, tôi xin dốc lòng tu hành.

Thế mới gọi là:

Một ý nghĩ nảy sinh, Cả đất trời đều biết. Thiện ác mà không báo,
Thành ra thiên vị sao?

Bồ tát nghe xong mừng lắm, nói với Đại thánh rằng:

- Kinh Phật có nói: “Nói ra một lời thiện thì ngoài nghìn dặm cũng ứng theo. Nói ra một lời ác, thì ngoài nghìn dặm cũng chống lại”. Nhà ngươi đã có tâm như thế, thì hãy đợi ta sang nước Đại Đường, tìm một người đi lấy kinh, ta sẽ bảo người ấy cứu nhà ngươi. Nhà ngươi nên theo người ấy làm đồ đệ, giữ giáo Già lam, vào pháp môn ta, tu thành chính quả. Nhà ngươi thấy thế nào?

Đại thánh đáp liến thoắng:

- Vâng ạ! Vâng ạ! Bồ tát nói:
- Đã có thiện quả, vậy để ta đặt cho một pháp danh. Đại thánh nói:
- Tôi đã có pháp danh là Tôn Ngộ Không rồi. Bồ tát mừng lắm, nói:
- Vừa rồi ta có thu phục được hai người, cũng đặt tên bằng chữ “Ngộ”. Nay nhà ngươi tên cũng có chữ “Ngộ”, hợp với bọn họ quá! Thôi, thôi ta cũng không cần phải dặn dò gì thêm nữa. Ta đi đây!

Thực là:

Đại thánh sáng lòng, theo Phật giáo

Bồ tát quyết chí, cầu thần tăng.

Bồ tát cùng Mộc Soa rời khỏi chốn này, tiếp tục sang phương Đông. Chẳng mấy chốc đã tới Tràng An, kinh đô nước Đại Đường, hai người bèn thu cất mây mù hạ xuống, biến thành hai nhà sư lang thang ghẻ lở đi vào trong thành. Lúc ấy trời đã xế tà. Đi đến một cái chợ to ven đường, thấy một ngôi miếu Thổ địa,
hai người bước vào trong miếu khiến cho Thổ địa, quỷ binh run bắn, sợ hãi. Bọn họ biết là Bồ tát, bèn cúi rạp đầu lạy và mời vào miếu. Thổ địa lại cấp báo cho thần hoàng, xã lệnh, cùng thần ký các đền miếu ở Tràng An hay biết. Mọi người đều đến yết kiến Bồ tát, và nói:

- Kính chào Bồ tát. Mong Bồ tát tha tội đón tiếp chậm trễ cho chúng tôi.

Bồ tát nói:

- Các ngươi chớ có tiết lộ một ly tin tức ra ngoài! Ta vâng lệnh Phật tổ đến đây tìm người đi lấy kinh, mượn ngôi miếu của các ngươi ở tạm vài hôm, khi nào tìm được vị chân tăng thì đi thôi.

Các vị thần, đâu trở về đấy. Thổ địa sang tạm miếu Thành hoàng ở nhờ, nhường miếu cho hai thầy trò ẩn náu.

Cuối cùng, không biết tìm được người nào đi lấy kinh, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ CHÍN


Trần Quang Nhị nhậm chức gặp nạn


Sư Giang Lưu phục thù báo ơn


Nói về thành Tràng An vùng Thiểm Tây, là nơi trải bao đời đế
vương đã đóng đô. Từ các đời Chu, Tần, Hán đến nay, ba châu hoa như gấm, tám sông chảy quanh thành. Thật là một nơi danh thắng. Khi ấy, đúng vào năm vua Thái Tông nhà Đường lên ngôi, đổi niên hiệu là Trinh Quán năm đầu. Vào năm Kỷ Tỵ, nhà vua trị vì được đúng mười ba năm, thiên hạ thái bình, tám phương tiến cống, bốn biển xưng tôi.

Một hôm, vua Thái Tông khai triều, hội họp các quan văn võ. Mọi người làm lễ triều bái xong, thừa tướng Ngụy Trưng bước ra tâu rằng:

- Ngày nay thiên hạ thái bình, tám phương phẳng lặng, theo phép cổ, nên mở khoa thi, tuyển chọn hiền sĩ, sử dụng nhân tài, giúp nước thịnh trị.

Vua Thái Tông nói:

- Lời tâu của khanh phải lắm!

Bèn sai treo bảng chiêu hiền, yết thị truyền khắp thiên hạ rằng:

“Các phủ, châu, huyện, bất kể là quân hay dân, hễ có học Nho đọc sách, sáng hiểu văn nghĩa, tinh thông ba trường, đều được đến Tràng An ứng thí”.

Bảng này về đến vùng Hải Châu, có một người họ Trần, tên
Ngạc, tự là Quang Nhị, nhìn thấy bảng treo lập tức về nhà nói
với mẹ là Trương Thị rằng:

- Triều đình ban bố bảng vàng[71]






 xuống chiếu khắp các nơi,
,
mở khoa thi kén chọn hiền tài. Ý con muốn ra thi, may ra được chút chức quan thì cha mẹ vinh hiển, thân mình nổi danh, vợ con phong ấm, xóm làng vẻ vang. Ấy là chí nguyện của con, vậy xin phép mẹ cho con đi.

Bà mẹ nói:

- Con là người đọc sách. Sách có nói: “Nhỏ đi học, lớn thực hành”, đúng là như vậy. Nhưng dọc đường con phải cẩn thận. Có thi đỗ, cũng nên về sơm sớm.

Quang Nhị bèn dặn dò người nhà, rồi thu xếp hành lý, từ biệt mẹ, lên đường đi thi. Đến Tràng An, đúng lúc trường thi mở cửa, Quang Nhị vào trường làm bài thi, và thi đỗ. Lại tiếp tục vào thi Đình làm ba bài văn sách, được vua Đường thân hạ bút phê cho đỗ Trạng nguyên, được cưỡi ngựa đi chơi phố ba ngày.

Một hôm, Quang Nhị đi chơi tới cửa nhà thừa tướng Ân Khai Sơn. Thừa tướng có một cô con gái tên là Ôn Kiều, lại có tên nữa là Mãn Đường Kiều, chưa gả bán cho ai, đang dịp ở trên lầu cao ném cầu kén rể. Khi Quang Nhị đi qua dưới lầu, tiểu thư nhìn thấy, biết chàng là nhân tài xuất chúng, lại vừa đỗ Trạng nguyên tân khoa, trong lòng vui lắm, bèn ném ngay quả cầu thêu xuống, trúng vào giải mũ của Quang Nhị. Thế là kèn sáo nổi lên dìu dặt, mười mấy nàng thị tì chạy xuống, túm lấy cương ngựa của Quang Nhị dắt về phủ thừa tướng làm lễ thành hôn. Thừa tướng và phu nhân lập tức bước ra khỏi nhà khách, cho mời tân khách đến làm lễ cưới, gả tiểu thư cho Quang Nhị. Hai vợ chồng lễ tạ trời đất, đáp lễ nhau xong, rồi vào lạy tạ bố mẹ vợ. Thừa tướng sai bày tiệc ăn uống vui vẻ đến tối. Sau đó chàng và nàng dắt tay nhau vào phòng loan.

Sáng sớm hôm sau, vua Thái Tông ra ngự ở điện Kim Loan,
các quan văn võ vào chầu đông đủ. Vua Thái Tông hỏi:

- Vị Trạng nguyên tân khoa là Trần Quang Nhị nên bổ chức quan gì?

Thừa tướng Ngụy Trưng tâu:

- Thần kiểm tra các châu quận, chỉ còn Giang Châu là thiếu chức quan, xin bệ hạ ban cho chức ấy.

Vua Thái Tông bèn trao cho Quang Nhị chức tri phủ Giang Châu, và lệnh cho phải thu xếp lên đường ngay, không được lỡ hạn.

Quang Nhị tạ ơn lui ra, trở về phủ thừa tướng, bàn bạc với vợ, từ biệt bố, mẹ vợ, rồi hai vợ chồng lên đường đi Giang Châu nhậm chức.



Hai người rời Tràng An lên đường vào lúc cuối xuân, gió ấm vờn liễu biếc, mưa nhẹ điểm hoa hồng. Trên đường đi, hai vợ
chồng tạt qua nhà lạy tạ mẹ già.

Bà mẹ nói:

- Mẹ mừng cho con thi đỗ, lại đưa cả vợ về. Quang Nhị nói:
- Nhờ hồng phúc của mẹ, con đã thi đỗ Trạng nguyên, được nhà vua thưởng cho đi chơi phố. Khi con đi qua cửa nhà thừa tướng họ Ân, gặp ngay quả cầu thêu rơi trúng đầu, thế là con được thừa tướng rủ lòng thương, gả con gái cho. Triều đình lại trao cho con chức tri phủ Giang Châu, nay con về nhà đón mẹ cùng đi.

Bà mẹ mừng rỡ thu xếp hành lý cùng đi với con. Đi được mấy hôm, đến điếm Vạn Hoa, họ nghỉ ở nhà Lưu Tiểu Nhị. Đột nhiên bà Trương Thị mắc bệnh. Bà nói với Quang Nhị rằng:

- Mẹ thấy trong người khó chịu quá, hãy ở lại đây nghỉ ngơi vài ngày rồi lại đi.

Quang Nhị vâng lời.

Sớm hôm sau, có một người rao bán một con cá chép vàng ngay trước cửa điếm. Quang Nhị bỏ một quan tiền ra mua, định làm thịt cho mẹ ăn, bỗng thấy mắt con cá nhấp nháy, thì lấy làm lạ lắm, nói:

- Nghe nói con cá, con rắn nào mắt nhấp nháy là những con vật phi thường.

Bèn hỏi người đánh cá:

- Con cá này bác đánh được ở đâu? Người đánh cá đáp:
- Tôi đánh được ở sông Hồng Giang, cách phủ này mười lăm dặm.

Quang Nhị bèn mang ngay con cá đến sông Hông Giang thả
xuống cứu con cá sống, rồi trở về điếm nói lại chuyện đó cho mẹ biết. Bà mẹ nói:

- Phóng sinh là một việc tốt. Mẹ vui lòng lắm. Quang Nhị nói:
- Mẹ con mình trọ ở đây đã ba hôm rồi, hạn quan gấp lắm, con định sáng mai lên đường, không biết trong người mẹ đã khỏe hẳn chưa?

Bà mẹ nói:

- Mẹ thấy còn mệt lắm. Trời lại oi bức, e rằng đi thì bệnh nặng thêm. Hay là con cứ thuê cho mẹ một căn buồng để mẹ ở lại đây. Hai con cứ đi trước, đợi sang thu mát mẻ thì đến đón mẹ vậy.

Hai vợ chồng bàn bạc thuê một căn phòng, để lại ít tiền cho mẹ dùng, rồi chào mẹ xin đi trước.

Đường đi vất vả, đêm nghỉ ngày đi, chẳng mấy chốc đã tới bến đò sông Hồng Giang. Hai lái đò Lưu Hồng, Lý Bưu ghé đò vào bờ đón tiếp. Cũng vì kiếp trước Quang Nhị chưa trả hết nợ, nên bây giờ mới gặp phải nạn oan gia, Quang Nhị sai người hầu mang hành lý xuống đò, rồi hai vợ chồng cùng bước xuống sau. Lưu Hồng liếc thấy Ân tiểu thư mặt như trăng rằm, mắt như sóng thu, môi thắm anh đào, lưng ong liễu biếc, thực là vẻ đẹp chim sa cá lặn, nguyệt thẹn hoa nhường, nên động lòng lang muốn chiếm đoạt, bèn cùng với Lý Bưu tính kế. Chúng đẩy thuyền tới chỗ vắng vẻ, đợi lúc đêm khuya thanh vắng giết chết người hầu, rồi đánh chết Quang Nhị quẳng xác xuống sông. Nàng Ân tiểu thư thấy chồng bị đánh chết, định đâm đầu xuống dòng nước tự tử. Lưu Hồng ôm chặt lấy nói:

- Nàng nghe ta thì mọi sự êm đẹp! Nếu không nghe thì một nhát dao là người đứt làm hai đoạn ngay!
Tiểu thư nghĩ ngợi chẳng còn cách nào khác, đành phải tạm nghe theo Lưu Hồng. Thằng giặc ghé đò vào bờ nam, giao đò lại cho Lý Bưu, rồi mặc áo mũ của Quang Nhị, cầm văn bằng, đưa tiểu thư đến Giang Châu nhậm chức.

Lại nói chuyện xác những người hầu bị Lưu Hồng giết chết theo dòng trôi đi, chỉ có xác Trần Quang Nhị chìm xuống đáy sông nằm im bất động. Quỷ Dạ Xoa đi tuần ở cửa sông Hồng Giang nhìn thấy, phóng như bay về long cung, đúng lúc Long vương lên điện, bèn báo rằng:

- Hiện ở cửa sông Hồng Giang có kẻ nào đánh chết một người học trò, xác chìm xuống đáy sông.

Long vương sai mang thi thể vào đặt ở trước mặt, nhìn kỹ rồi nói:

- Người này chính là ân nhân cứu ta đây, làm sao bị người mưu hại nhỉ? Thường có câu: “Lấy ơn trả ơn”. Nay ta phải cứu sống người này để đền ơn cũ mới được.

Bèn viết ngay một tờ điệp văn sai quỷ Dạ Xoa đến thẳng Hồng Châu đưa cho Thành hoàng, Thổ địa, đòi mang ngay hồn phách người học trò đến để cứu mạng. Thành hoàng, Thổ địa bèn gọi tiểu quỷ trao hồn phách Quang Nhị cho Dạ Xoa mang đi. Dạ Xoa mang hồn phách Quang Nhị về cung Thủy tinh yết kiến Long vương. Long vương hỏi:

- Chàng học trò họ tên là gì? Người vùng nào mà tới đây bị người giết chết.

Quang Nhị cúi lạy, thưa:

- Tên tôi là Trần Ngạc, tự là Quang Nhị, người huyện Hoằng Nông, thuộc Hải Châu. Vừa qua, tôi đỗ Trạng nguyên, được nhà vua bổ chức tri phủ Giang Châu. Tôi và vợ tôi lên đường đi nhậm chức. Tới bến sông này thì đi đò. Không ngờ tên lái đò là Lưu Hồng mưu cướp vợ tôi, đánh chết tôi, vứt xác xuống sông.
Xin đại vương cứu mạng cho!

Long vương nghe xong, nói:

- À, ra thế đấy. Tiên sinh ạ, con cá chép vàng mà ngài cứu sống ngày nào chính tôi đấy. Ngài chính là ân nhân cứu mạng tôi, nay ngài gặp nạn, lẽ nào tôi lại không cứu?

Bèn sai đặt thi thể Quang Nhị vào một nơi, cho vào miệng một viên ngọc “định nhan” để thân thể khỏi hủy hoại, đợi khi khác hoàn hồn báo thù. Sau đó Long vương lại bảo với Quang Nhị rằng:

- Chân hồn của ngài nay hẵng tạm giữ chức Đô lãnh trong thủy phủ tôi nhé!

Quang Nhị cúi đầu vâng mệnh. Đoạn Long vương mở tiệc khoản đãi Quang Nhị, chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện Ân tiểu thư căm giận thằng giặc Lưu chỉ muốn lột da xé xác nó ra, nhưng hiềm một nỗi là đang có mang, chưa rõ trai gái, vạn bất đắc dĩ đành phải tạm thời miễn cưỡng đi theo thằng giặc. Chẳng bao lâu, họ đã tới Giang Châu, nha lại lính tráng trong phủ đều ra đón tiếp. Sau đó quan viên trong phủ bày tiệc khoản đãi. Lưu Hồng nói:

- Kẻ học sinh này tới đây chỉ hoàn toàn trông cậy vào sự giúp đỡ của các ngươi cả.

Các quan trong phủ nói:

- Quan lớn là bậc khôi nguyên tài giỏi, ắt là coi dân như con, giản chinh nhẹ hình, quan viên trong phủ như chúng tôi cũng có phần nhờ, hà tất phải khiêm tốn quá thế?

Tan tiệc, mọi người ra về.

Ngày tháng thấm thoát, một hôm, Lưu Hồng mắc việc quan phải đi xa, tiểu thư ở lại trong phủ nhớ mẹ, nhớ chồng, ngồi lặng ở đình hoa than thở. Bỗng nhiên nàng thấy thân thể mệt mỏi,
bụng đau dữ dội, mắt mũi tối sầm, ngã lăn ra đất, lát sau sinh hạ được một đứa con trai. Lúc ấy, bên tai nàng có giọng nói văng vẳng:

- Mãn Đường Kiều, nàng nghe ta dặn đây! Ta là Nam cực tinh quân, vâng lệnh Quan Âm bồ tát, mang đến cho nàng đứa trẻ này. Sau này tiếng tăm nó lừng lẫy, không phải hạng tầm thường đâu. Thằng giặc Lưu trở về, sẽ hãm hại đứa trẻ, nàng phải hết lòng giữ gìn mới được. Chồng nàng đã được Long vương cứu sống, sau này vợ chồng sẽ được đoàn tụ, mẹ con sẽ được quây quần, và rửa được mối thù này. Hãy nhớ kỹ lời ta dặn. Tỉnh mau! Tỉnh mau!

Nói xong, Tinh quân đi ngay. Tiểu thư tỉnh dậy, từng lời, từng lời, nhớ rõ mồn một, ôm chặt lấy đứa con không biết làm thế nào. Thế rồi, bỗng nhiên, Lưu Hồng trở về, vừa trông thấy đứa con, đã toan đem dìm chết. Tiểu thư nói:

- Bây giờ trời đã tối rồi, để sáng mai vứt ra sông

May sao, sáng hôm sau, Lưu Hồng bỗng nhiên có việc quan khẩn cấp phải đi xa ngay. Tiểu thư nghĩ bụng:

- Nếu để khi thằng giặc về, thì tính mạng đứa trẻ nguy mất, chi bằng cứ thả đứa trẻ trôi sông sớm, sống chết có mệnh, may mà trời thương, có người cứu vớt, đem về nuôi nấng, thì sau này mẹ con sẽ được gặp nhau…

Lại sợ sau này không nhận ra con mình, tiểu thư bèn cắn đứt ngón tay, lấy máu viết một lá thư kê khai tỷ mỷ họ tên cha mẹ, quê hương bản quán, lại cắn đứt một vết nhỏ trên ngón chân út bàn chân trái của đứa con để đánh dấu, lấy chiếc áo lót mình bọc đứa trẻ lại, nhân lúc vắng người, ẵm con ra ngoài cửa nha môn. Cũng may là nha môn gần bờ sông, đến bờ sông, nàng khóc lóc một lúc lâu, rồi toan thả đứa bé xuống sông. Bỗng thấy một tấm ván trôi sát vào bờ, nàng vội vàng ngẩng mặt lên trời cầu khấn,
rồi đặt đứa bé lên tấm ván, lấy dây buộc lại, cài lá thư vào trong ngực đứa bé, đoạn đẩy tấm ván ra xa, mặc cho tấm ván trôi về đâu, rồi nuốt nước mắt trở về. Chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện đứa bé nằm trên tấm ván, thuận dòng trôi đến chân chùa Kim Sơn thì dừng lại. Vị trưởng lão chùa Kim Sơn là Hòa Thượng Pháp Minh, một bậc chân tu mộ đạo, đã học được diệu quyết trường sinh. Đang ngồi tham thiền, Hòa thượng bỗng nghe thấy tiếng trẻ khóc, và thấy tâm mình xao xuyến, bèn chạy ra bờ sông quan sát và trông thấy một tấm ván dạt vào bờ, trên đó có một đứa bé đang nằm. Trưởng lão vội vàng xuống vớt lên. Ngài lại tìm thấy cả lá thư viết bằng máu, nên biết rõ lai lịch đứa bé, bèn giấu tên bố mẹ đặt cho nó, và đặt tên là Giang Lưu, nhờ người nuôi nấng. Bức thư viết bằng máu được Hòa thượng giấu kín.

Thời gian thấm thoát, ngày tháng thoi đưa, chẳng mấy chốc Giang Lưu đã mười tám tuổi, trưởng lão bèn cắt tóc đi tu, đặt pháp danh là Huyền Trang. Huyền Trang từ ngày làm lễ thụ giới, bền lòng tu đạo.

Một hôm, vào dịp cuối xuân, mọi người đang ngồi giảng kinh tham thiền, bàn cãi nhau về lễ đạo vi diệu dưới bóng cây. Một Hòa thượng rượu thịt bị Huyền Trang gạt bỏ hết lời lẽ này đến lời lẽ khác bèn tức tối, mắng rằng:

- Đồ nghiệt súc, cha mẹ chẳng có, họ tên chẳng hay kia, định làm quỷ ở đây chắc!

Huyền Trang bị mắng nhiếc như vậy, bèn vào chùa, nước mắt giàn giụa, quỳ xuống hỏi sư phụ:

- Người ta sinh ra ở trong vòng trời đất, bẩm thụ khí âm dương, ngũ hành, đều là do cha sinh mẹ dưỡng cả. Có lẽ nào là người ở trên đời lại không có cha mẹ sao?

Huyền Trang hỏi vặn mãi sư phụ về họ tên và cha mẹ mình.
Trưởng lão nói:

- Nếu con thực muốn tìm cha mẹ thì hãy đi theo ta vào phương trượng.

Huyền Trang bèn đi theo sư phụ vào phương trượng, Trưởng lão bèn lấy ra một chiếc tráp nhỏ giấu trên xà nhà, mở ra, lấy bức huyết thư, và chiếc áo lót mình đưa cho Huyền Trang. Huyền Trang mở thư đọc mới hiểu rõ hết họ tên cha mẹ va sự việc oán cừu của gia đình mình. Đọc xong thư, Huyền Trang khóc, nằm lăn ra đất nói:

- Mối oan thù này của cha mẹ mà không biết báo thì không đáng làm người. Mười tám năm nay, con không hề biết tên cha mẹ, đến hôm nay mới biết. Thân con nếu không được sư phụ cứu vớt nuôi nấng, thì đâu có ngày nay? Mong sư phụ cho phép con đi tìm cha mẹ, sau đó con lại xin đầu đội bát nhang, dựng thêm đền miếu, báo đền ơn sâu của sư phụ.

Sư phụ nói:

- Con hãy đi tìm cha mẹ con đi, và mang theo cả bức huyết thư và chiếc áo này, làm nhà sư đi quyên giáo, đến thẳng tư thất nha môn ở Giang Châu thì mới có thể gặp mẹ con được.

Huyền Trang vâng lời sư phụ, đóng vai một hòa thượng đi quyên giáo, đến thẳng Giang Châu. Vừa vặn lúc Lưu Hồng có việc phải đi xa, và cũng là lòng trời run rủi cho mẹ con được gặp gỡ, nên Huyền Trang cứ đến thẳng cửa tư thất nha môn quyên giáo.

Ân tiểu thư, đêm hôm trước nằm mơ thấy trăng khuyết lại tròn, bèn nghĩ thầm:

- Mẹ chồng thì chẳng có tin tức gì, chồng thì bị giặc cướp giết hại, còn đứa con thì mình đành phải thả trôi sông rồi. Nếu con ta có người cứu vớt nuôi nấng, thì nay đã mười tám tuổi. Hoặc giả ngày nay trời xui khiến cho gặp gỡ cũng chưa biết chừng…
Đang suy nghĩ mông lung, bỗng nàng nghe thấy tiếng niệm kinh ở ngoài cửa, và có tiếng gọi liên tiếp “quyên giáo”, bèn chạy ra hỏi:

- Ngài ở đâu tới? Huyền Trang thưa:
- Bần tăng là đồ đệ của trưởng lão Pháp Minh chùa Kim Sơn. Tiểu thư nói:
- Ngài là đồ đệ của vị trưởng lão chùa Kim Sơn ạ, vậy xin mời ngài vào nha.

Đoan tiểu thư sai dọn cơm chay mời nhà sư. Trong lúc ấy, tiểu thư chăm chú quan sát nhà sư, thấy lời nói, cử chỉ của nhà sư giống chồng mình như đúc, bèn bảo bọn thị tỳ lui ra, rồi hỏi:

- Ngài xuất gia từ nhỏ hay lớn tuổi mới xuất gia? Họ tên là gì? Cha mẹ còn thọ cả chứ?

Huyền Trang thưa:

- Tôi chẳng phải xuất gia từ nhỏ, cũng chẳng phải lớn tuổi mới xuất gia. Chuyện của tôi nói ra thì oan to bằng trời, thù sâu như bể! Cha tôi bị người giết hại, mẹ tôi bị cướp chiếm đoạt. Sư phụ tôi là trưởng lão Pháp Minh bảo tôi cứ đến thẳng tư thất nha môn Giang Châu mà tìm mẫu thân.

Tiểu thư hỏi:

- Mẹ ngài họ gì? Huyền Trang thưa:
- Mẹ tôi họ Ân, tên là Ôn Kiều. Cha tôi họ Trần, tên là Quang Nhị. Tên lúc nhỏ của tôi là Giang Lưu, pháp danh là Huyền Trang.

Tiểu thư nói:
- Ôn Kiều là mẹ đây. Nhưng con có bằng chứng gì không?

Huyền Trang vừa nghe tiếng mẹ, vội vàng quỳ xuống khóc thảm thiết:

- Mẹ ơi, mẹ không tin, thì con có bức huyết thư và chiếc áo đây.

Ôn Kiều cầm lấy xem, thấy quả là đúng, thế là hai mẹ con ôm nhau khóc. Bỗng tiểu thư nói:

- Con phải đi ngay đi. Huyền Trang nói:
- Mười tám năm trời, con chẳng biết bố mẹ là ai, nay vừa mới gặp mẹ, mà sao mẹ lại đuổi con đi ngay sao?

Tiểu thư nói:

- Con ơi, con phải khẩn cấp đi ngay thôi, thằng giặc Lưu về bây giờ thì tính mạng con nguy mất. Ngày mai mẹ giả ốm, nói là năm ngoái có hứa cúng nhà chùa một trăm đôi hài sãi, mẹ sẽ đến chùa của con làm lễ. Lúc ấy, mẹ con mình sẽ nói chuyện.

Huyền Trang vâng lời, từ biệt mẹ.

Lại nói chuyện từ sau khi Ân tiểu thư gặp được con, trong lòng mừng mừng sợ sợ. Bỗng một hôm tiểu thư bị ốm, không ăn uống được, cứ nằm liệt trên giường, Lưu Hồng trở về, hỏi nàng nguyên do, nàng đáp:

- Thuở nhỏ, thiếp có phát nguyện cúng một trăm đôi giày sãi cho nhà chùa. Năm hôm trước, thiếp nằm mộng thấy một hòa thượng tay cầm dao nhọn đến đòi, tỉnh dậy thấy trong người khó chịu.

Lưu Hồng nói:

- Việc nhỏ mọn ấy sao không nói sớm?

Bèn lên ngay công đường bảo hai viên nha lại họ Vương, họ
Lý, truyền lệnh cho trăm họ trong thành Giang Châu, trong năm ngày, mỗi nhà phải nạp một đôi hài sãi.

Mọi nhà đều y hẹn nộp đủ. Tiểu thư nói với Lưu Hồng:

- Hài sãi đủ rồi, gần đây có chùa nào có thể đến làm lễ phát nguyện không nhỉ?

Lưu Hồng nói:

- Giang Châu có hai chùa Kim Sơn và Tiêu Sơn, tùy nàng muốn tới chùa nào cũng được.

Tiểu thư nói:

- Từ lâu thiếp nghe nói chùa Kim Sơn đẹp lắm, nay muốn tới chùa này.

Lưu  Hồng  bèn  gọi  hai  viên  nha  lại  Vương,  Lý  sửa  soạn thuyền bè. Tiểu thư cùng mấy người tâm phúc bước xuống thuyền. Người lái đò đẩy thuyền ra, chèo thẳng tới chùa Kim Sơn.

Lại nói chuyện Huyền Trang trở về chùa, gặp trưởng lão Pháp Minh, kể hết đầu đuôi câu chuyện. Trưởng lão mừng lắm. Mấy hôm sau, có một thị tỳ đến chùa báo rằng có người đến chùa làm lễ. Sư sãi trong chùa đều ra cổng đón tiếp. Tiểu thư vào trong chùa, lạy đức Quan Âm, lập đàn chay, sai thị tỳ đặt lễ vật vào khay mang lên bàn thờ. Tiểu thư dâng hương làm lễ xong, mời trưởng lão Pháp Minh phân phát cho các tăng ni. Khi các nhà sư đã ra cả rồi, pháp đường không còn một ai, Huyền Trang mới bước tới quỳ xuống trước mặt tiểu thư. Tiểu thư bảo Huyền Trang cởi giày ra xem, quả nhiên thấy ngón chân út bên trái có vết sẹo nhỏ. Thế là hai người lại ôm nhau khóc, rồi lạy tạ cảm ơn công nuôi dưỡng của trưởng lão. Trưởng lão Pháp Minh nói:

- Nay mẹ con dù được gặp gỡ, e rằng gian tặc biết, vậy cũng nên mau mau về sớm đi, kẻo tai vạ.
Tiểu thư nói:

- Con ơi, mẹ đưa con chiếc vòng thơm này, con hãy tới Hồng Châu ở mé Tây Bắc, cách đây chừng một nghìn năm trăm dặm. Vùng ấy có ngôi điếm Vạn Hoa. Bà Trương Thị có khi còn trọ ở đó. Đấy là bà mẹ sinh ra bố con vậy. Mẹ lại viết cho con một bức thư nữa, con hãy đến thẳng kinh đô nhà Đường, ở bên trái điện vàng có nhà thừa tướng Ân Khai Sơn, đó là nhà ông ngoại sinh ra mẹ đấy. Con dâng thư của mẹ cho ông ngoại con, kêu với ông tâu lên vua Đường mang ngay binh mã đến Giang Châu bắt giết thằng giặc, báo thù cho bố con, có thế mới cứu được cả mẹ nữa. Bây giờ mẹ chẳng dám ở lâu, sợ thằng giặc trách mẹ về chậm.

Nói xong bèn rời chùa lên thuyền trở về.

Huyền Trang khóc lóc, trở về chùa thưa với sư phụ, rồi từ biệt sư phụ đến thẳng Hồng Châu. Tới điếm Vạn Hoa, chàng hỏi với chủ điếm là Lưu Tiểu Nhị:

- Ngày xưa, có bà cụ mẹ của Trần quan lớn trọ ở đây. Nay bà cụ còn khỏe không?

Lưu Tiểu Nhị thưa:

- Bà cụ trước có trọ điếm tôi, về sau mắt bị mù, ba bốn năm chẳng có tiền trả tiền thuê nhà cho tôi, rồi bà cụ dời về trú ở trong ngôi nhà đổ ở cửa Nam, ngày ngày vào phố ăn mày sống qua ngày. À mà vị quan lớn ấy đi bao lâu rồi, chẳng hề có tin tức gì cả, không biết cớ làm sao?

Huyền Trang nghe xong, lập tức dò đến ngôi nhà đổ ở cửa
Nam tìm bà. Bà cụ nói:

- Tiếng anh giống tiếng đứa con tôi là Trần Quang Nhị quá! Huyền Trang nói:
- Cháu không phải là Trần Quang Nhị. Cháu chính con trai
của bố cháu là Trần Quang Nhị đây. Tiểu thư Ôn Kiều là mẹ của cháu.

Bà cụ hỏi:

- Bố mẹ cháu sao không đến? Huyền Trang thưa:
- Bố cháu bị kẻ cướp giết chết, mẹ cháu bị kẻ cướp cưỡng làm vợ rồi.

Bà cụ lại hỏi:

- Thế cháu làm sao biết được mà tới đây tìm bà? Huyền Trang thưa:
- Mẹ cháu bảo cháu đến tìm bà. Mẹ cháu còn đưa cho cháu một bức thư và một chiếc vòng thơm nữa.

Bà cụ cầm lá thư và chiếc vòng rồi òa lên khóc thảm thiết:

- Con ơi, chỉ tại công danh mà con tới nông nỗi này. Mẹ cứ tưởng con bội nghĩa vong ơn, có ngờ đâu là con bị người mưu hại. May nhờ có lòng trời thương xót, không nỡ làm tuyệt giống con tôi, hôm nay còn có đứa cháu tới đây tìm bà nó.

Huyền Trang hỏi:

- Mắt bà làm sao mà mù vậy? Bà cụ đáp:
- Tại bà nhớ bố cháu quá suốt ngày mong ngóng, chẳng thấy bố cháu lại, bà khóc nhiều quá nên mắt lòa đi.

Huyền Trang bèn quỳ xuống, ngẩng mặt lên trời cầu khấn:

- Huyền Trang tôi mười tám tuổi, mối thù của cha mẹ chưa trả được, nay vâng lời mẹ đi tìm bà mong Trời, Phật thương xót, chứng giám lòng thành, cứu cho bà tôi hai mắt lại sáng sủa như cũ!
Khấn xong, chàng lại lấy lưỡi đánh mắt cho bà cụ. Trong giây lát, hai mắt bà cụ lại mở được, sáng lại như xưa.

Bà cụ ngắm nghía chú tiểu rồi nói:

- Đúng là cháu bà, giống bố Trần cháu như đúc!

Bà cụ vừa mừng vừa thương. Huyền Trang đưa bà nội ra khỏi căn nhà nát, trở về điếm Vạn Hoa, tính tiền thuê một căn buồng cho bà ở, rồi đưa thêm cho bà một ít tiền và dặn dò:

- Cháu đi độ một tháng sẽ quay lại đón bà.

Nói xong, Huyền Trang tạm biệt bà nội, lên thẳng kinh thành, tìm đến phủ Ân thừa tướng ở mé đông hoàng thành, nói với lính canh cổng:

- Tiểu tăng là thân thích, đến thăm tướng công.

Lính canh vào bẩm cho thừa tướng biết. Thừa tướng nói:

- Ta không có quan hệ họ hàng với nhà sư nào cả. Phu nhân nói:
- Đêm qua thiếp mộng thấy con gái Mãn Đường Kiều về thăm nhà. Hay là con rể mình có tin tức gì chăng?

Thừa tướng bèn cho mời nhà sư trẻ vào nhà khách. Nhà sư vừa trông thấy thừa tướng và phu nhân đã lăn ra đất khóc lạy, rồi rút từ trong người ra một lá thư đưa cho thừa tướng. Thừa tướng mở thư đọc hết một lượt, bỗng òa lên khóc thảm thiết. Phu nhân hỏi:

- Tướng công có việc gì vậy? Thừa tướng đáp:
- Đứa trẻ này là cháu ngoại của chúng ta đó. Con rể ta là Trần Quang Nhị bị cướp giết chết, con gái ta là Mãn Đường Kiều bị cướp cưỡng chiếm làm vợ.
Phu nhân nghe xong cũng nức nở khóc mãi. Thừa tướng nói:

- Phu nhân chớ buồn phiền nữa. Ngày mai vào chầu, tôi sẽ tâu hết cho chúa thượng rõ, rồi tự cầm quân, báo thù bằng được cho con rể.

Ngày hôm sau, thừa tướng vào chầu, tâu với vua Đường:

- Con rể thần là Trạng nguyên Trần Quang Nhị, cùng vợ đến Giang Châu nhậm chức, bị tên lái đò là Lưu Hồng đánh chết, chiếm con gái thần làm vợ, giả mạo con rể thần, làm quan từ bấy đến nay. Thật là tai họa ghê gớm của gia đình thần, xin bệ hạ cho mang quân tới tiểu trừ giặc cướp.

Vua Đường nghe xong, vô cùng phẫn nộ, lập tức sai mang sáu vạn quân ngự lâm, giao cho Ân thừa tướng thống lĩnh đi diệt giặc cướp. Thừa tướng vâng lệnh lui ra, đến giáo trường điểm binh, rồi nhắm hướng Giang Châu thẳng tiến. Đoàn quân ngày đi đêm nghỉ, chẳng mấy chốc đã tới Giang Châu. Binh mã của Ân thừa tướng đóng trại ở bờ Bắc. Ngay đêm hôm ấy, thừa tướng sai mang thẻ bài gọi hai viên đồng tri và phán châu ở Giang Châu đến, nói rõ cho họ biết sự việc, và lệnh cho họ mang binh tới giúp. Khi ấy quân sĩ nhất loạt vượt sông sang bờ bên kia. Trời chưa sáng rõ, nha môn của Lưu Hồng đã bị vây chặt. Lưu Hồng còn đang mơ mơ màng màng, bỗng nghe tiếng pháo nổ ran, trống chiêng inh ỏi, quan quân đã ập vào tư thất. Lưu Hồng không kịp trở tay, đã bị bắt sống. Thừa tướng thừa lệnh giải Lưu Hồng ra pháp trường và truyền lệnh cho quân sĩ đóng trại ở ngoài thành.

Thừa tướng vào thẳng nha môn, ngồi ở gian giữa rồi sai mời tiểu thư ra gặp mặt. Tiểu thư muốn ra song nghĩ thẹn với cha, nên định treo cổ tự tử. Huyền Trang nghe tin, vội vàng chạy vào cởi dây cứu mẹ xuống, đoạn quỳ xuống thưa với mẹ:

- Con và ông ngoại mang binh mã tới đây báo thù cho cha.
Nay giặc đã bị bắt, mà tại sao mẹ lại đi tìm cái chết? Mẹ mà chết, con còn sống làm gì nữa?

Thừa tướng cũng trở vào khuyên giải. Tiểu thư nói:

- Con nghĩ: “Gái chính chuyên chỉ có một chồng”. Chồng con đã bị giặc giết, con còn mặt mũi nào mà theo giặc? Chỉ vì cái thai trong bụng, nên con đành nhẫn nhục sống thừa. Nay may mắn cháu đã khôn lớn, lại được cha mang binh tới báo thù cho chồng con, con còn mặt mũi nào nhìn thấy cha nữa, chỉ còn cái chết báo tạ chồng con mà thôi!

Thừa tướng nói:

- Điều đó cũng không phải vì cơn thịnh suy mà đổi tiết, mà chỉ là bất đắc dĩ mà thôi, có gì phải hổ thẹn!

Rồi hai cha con ôm nhau khóc nức nở. Huyền Trang cũng sùi sụt mãi không thôi. Thừa tướng gạt nước mắt nói:

- Mẹ con chớ nên buồn phiền nữa. Nay ta đã bắt được tên giặc thù, phải đi xét xử.

Bèn đi ra ngay pháp trường. Đúng lúc viên đồng tri Giang Châu cũng sai quân tuần tiễu bắt được tên Lý Bưu giải tới. Thừa tướng mừng lắm, sai lính ngục áp giải Lưu Hồng, Lý Bưu tới, nọc ra đánh mỗi tên một trăm gậy lớn, bắt khai khẩu cung, nói rõ duyên do giết chết Trần Quang Nhị năm nào, rồi sai mang Lý Bưu đóng đanh vào con lừa gỗ, đẩy ra chợ, xả thịt làm nghìn mảnh, bêu đầu thị chúng. Lai sai đưa Lưu Hồng tới bến đò sông Hồng Giang - nơi năm nào hắn giết chết Trần Quang Nhị. Thừa tướng, tiểu thư, Huyền Trang, ba người đến cả bến sông, lập bàn thờ, mổ bụng moi gan Lưu Hồng tế Quang Nhị, sau đó châm lửa đốt bài văn tế đi.

Ba người nhìn xuống dòng sông khóc lóc thảm thiết làm kinh động đến thủy phủ. Lại có tên quỷ Dạ Xoa đi tuần tra dưới nước mang tờ văn tế dâng lên trình Long vương. Long vương xem
xong, lập tức sai nguyên soái ba ba đi mời Quang Nhị đến.

Long vương nói:

- Xin chúc mừng ngài! Hôm nay có phu nhân, công tử và nhạc phụ của ngài đến cả bờ sông tế ngài. Bây giờ tôi xin trả lại hồn để ngài về dương gian, và xin tặng ngài một viên ngọc như ý, hai viên ngọc tẩu bàn, mười tấm lụa, một chiếc đai ngọc minh châu gọi là để tiễn chân. Hôm nay chắc là vợ chồng, mẹ con gia đình ngài sẽ được đoàn viên gặp gỡ.

Quang Nhị cảm tạ không ngớt. Long vương hạ lệnh cho quỷ Dạ Xoa mang thi thể Quang Nhị tới cửa sông để trả lại hồn. Quỷ Dạ Xoa vâng lệnh đi ngay.

Lại nói chuyện Ân tiểu thư khóc lóc tế chồng một hồi xong, lại định nhảy xuống sông tự tử. Huyền Trang hoảng hốt giữ chặt lấy mẹ. Đang lúc bối rối, bỗng mọi người nhìn thấy một xác người nổi trên mặt nước, trôi dạt vào bờ. Tiểu thư vội vàng chạy lại gần xem, nhận ra ngay đó là xác của chồng mình, thế là nàng khóc nấc lên thảm thiết. Mọi người chạy xô cả lại, thấy Quang Nhị tay chân duỗi ra, thân thể dần dần cử động, rồi đột nhiên ngồi dậy. Mọi người vô cùng kinh ngạc, sợ hãi. Quang Nhị mở to mắt, nhìn thấy Ân tiểu thư, bố vợ là Ân thừa tướng và một nhà sư trẻ đang đứng gần mình khóc, bèn hỏi:

- Mọi người làm gì ở đây vậy? Tiểu thư thưa:
- Chàng trước đây bị giặc cướp giết hại, sau đó thiếp sinh hạ được đứa con đây. May nhờ trưởng lão chùa Kim Sơn nuôi nấng lớn khôn, nó đi tìm thiếp. Thiếp bảo nó đi tìm ông ngoại. Ông biết chuyện tâu lên triều đình, thân mang binh tới bắt được thằng giặc, thiếp vừa sai mổ bụng moi gan tế tôn vị chàng rồi chẳng biết vì sao chàng lại hoàn hồn sống lại được.

Quang Nhị nói:
- Hồi nào tôi cùng nàng trọ ở điếm Vạn Hoa, tôi có mua được một  con  cá  chép  mình  vàng  bèn  thả  xuống  sông  cho  sống. Không ngờ con cá ấy là Long vương xứ này. Khi giặc cướp giết vứt xác tôi xuống sông, ngài bèn cứu tôi, vừa rồi lại sai trả lại hồn cho tôi được sống lại. Ngài còn tặng tôi một ít báu vật nữa, tôi có mang theo bên người đây. Tôi thật không ngờ nàng đã sinh được đứa con trai và được cả nhạc phụ báo thù cho. Thật là hết ngày khổ tận đến thì cam lai, không còn gì vui bằng!

Các quan nghe chuyện Trần Quang Nhị sống lại đều tới chúc mừng. Thừa tướng sai đặt tiệc ăn mừng cảm ơn các viên quan sở thuộc, rồi nhổ trại đem binh về. Khi tới điếm Vạn Hoa, thừa tướng truyền lệnh đóng quân nghỉ lại. Quang Nhị và Huyền Trang đến Lưu Gia điếm tìm bà Trương Thị. Bà cụ đêm ấy mộng thấy cây khô nở hoa. Sáng ra, sau nhà chim khách hót véo von giục giã, bà cụ thầm nghĩ:

- Hay là cháu mình trở lại chăng?

Vừa lúc ấy, đã thấy bố con Quang Nhị từ ngoài cửa bước vào. Nhà sư trẻ chỉ tay nói:

- Bà nội con kia kìa!

Quang Nhị nhìn thấy mẹ già, vội vàng quỳ xuống lạy. Mẹ con ôm nhau khóc lóc hồi lâu, kể lể chuyện xưa hết một lượt, đoạn tính toán trả tiền trọ cho Tiểu Nhị, rồi lên đường về thẳng kinh đô. Đến phủ thừa tướng, vợ chồng Quang Nhị, bà cụ và Huyền Trang cùng vào yết kiến phu nhân. Phu nhân vui mừng khôn xiết, dặn dò người hầu bày tiệc ăn mừng.

Thừa tướng nói:

- Bữa tiệc hôm nay nên đặt tên là “Hội đoàn viên”. Rồi cả nhà ăn uống chuyện trò vui vẻ.
Sớm hôm sau, vua Đường khai triều. Ân thừa tướng bước ra
tâu rõ câu chuyện cho vua Đường biết, và tiến cử Trần Quang
Nhị là người tài dùng được vào việc lớn.

Vua Đường đồng ý với lời tâu, thăng cho Quang Nhị chức Học sĩ giúp việc tại triều đình. Còn Huyền Trang quyết chí tu hành, được đưa tới chùa Hồng Phúc tu đạo.

Từ đây, Ân tiểu thư được xênh xang hạnh phúc, Huyền Trang lại được trở về chùa Kim Sơn báo đáp trưởng lão Pháp Minh.

Sau này, không biết sự thể sẽ ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ MƯỜI


Lão Long vương vụng kế phạm phép trời


Ngụy thừa tướng gởi thư nhờ âm sứ


Tạm gác chuyện Quang Nhị nhậm chức và Huyền Trang tu
đạo lại.

Lại nói chuyện ven bờ sông Kinh Hà, phía ngoài thành Tràng An, có hai người hiền. Một người làm nghề đánh cá, tên gọi Trương Tiêu; một người làm nghề kiếm củi, tên gọi Lý Định. Hai người tuy không phải tiến sỹ bậc đăng khoa, nhưng cũng là hạng học hành nơi thôn dã. Một hôm, trong thành Tràng An, củi trên vai bán hết, cá trong giỏ bán xong, hai người đưa nhau vào quán rượu, uống được nửa tuần, hơi men chuếnh choáng, hai người bèn mỗi người cầm một cút rượu, men theo bờ sông Kinh Hà, lững thững ra về.

Trương Tiêu nói:

- Anh Lý này, tôi nghĩ những kẻ tham danh, vì danh uổng mạng; những kẻ hám lợi, vì lợi vong thân. Hưởng lộc như ôm cọp mà ngủ, chịu ơn như nuôi rắn trong tay. Xem ra họ chẳng bằng chúng ta, non xanh nước biếc mặc sức rong chơi, ăn uống thanh đạm tùy theo duyên phận.

Lý Định nói:

- Anh Trương nói chí lý lắm! Nhưng nước biếc của anh không bằng non xanh của tôi được.

Trương Tiêu nói:

- Non xanh của anh không bằng nước biếc của tôi thì có! Có
bài từ “Diệp luyến hoa”[72]


làm chứng đây:


Thuyền con một lá giữa dòng, Giọng Tây Thi vút bổng trầm vang xa. Lợi danh rửa sạch lòng ta,
Cỏ thơm tìm hái, quên lo quên phiền.

Vui tìm cò cốc dập dềnh, Càng vui có vợ con mình kế bên. Đánh giấc ngủ khi sóng êm,
Chẳng vinh, chẳng nhục, chẳng phiền, chẳng lo.

Lý Định nói:

- Nước biếc của anh bằng làm sao non xanh của tôi được! Cũng có bài từ “Diệp luyến hoa” làm chứng đây:

Hoa thông rải khắp đường ngàn, Tiếng oanh ríu rít như đàn như ca. Xuân về hoa thắm lá tơ,
Kìa hè lại đến, ngày giờ trôi mau.

Và nay thu đã bắt đầu,

Cúc thơm vàng rực một màu lòng ta.

Ơ kìa, đông đến rồi à?

Bốn mùa vui thú tự do thanh nhàn.

Người đánh cá hỏi:

- Non xanh của anh bằng sao được như nước biếc của tôi. Nơi đây có bao nhiêu của ngon vật lạ. Có bài từ “Giá cô thiên” làm chứng đây:

Vui miền sông nước kiếm ăn,
Thung dung gác mái ta nằm thảnh thơi.

Ba ba, cua tía ăn hoài,

Tôm hùm, cá chép ta ngồi say sưa.

Lúc củ niễng, lúc măng lô,

Còn thêm củ ấu sớm trưa thỏa lòng.

Nào sen ngó, nào rau cần,

Còn bao thứ lạ muốn dùng có ngay!

Người kiếm củi nói:

- Nước biếc của anh không bằng non xanh của tôi được. Ở đây cũng có bao của ngon vật lạ. Có bài từ “Giá cô thiên” làm chứng đây:

Sườn non đỉnh núi chênh vênh,

Túp lều thấp thoáng, nhà mình là đây.

Ba ba đâu sánh cáo cầy,

Cua tôm sao sánh thịt nai, thịt gà?

Nay măng trúc, mai thanh trà, Mận, đào, mai, hạnh thật là thơm ngon. Nào lê, nào táo ngát hương,
Hoa thơm cỏ lả núi non thiếu gì?

Người đánh cá nói:

- Non xanh của anh thật sự không thể bằng nước biếc của tôi được. Có một bài từ “Thiên tiên tử” đây:

Núp trong một lá thuyền con,

Giữa miền khói sóng chẳng phiền chẳng lo.

Buông câu thả lưới sớm trưa,
Đời đạm bạc vẫn đậm đà tình sâu.

Vợ chồng khuya sớm bên nhau, Cùng đàn con nhỏ lau nhau mui thuyền. Được cá đem bán Tràng An,
Mua luôn cút rượu nhắm tràn say sưa.

Áo tơi đắp, ngắm sông thu,

Khò khò đánh giấc chẳng lo chẳng phiền.

Vinh hoa phú quý nhân gian,

Mặc đời giành giật chẳng thèm bận tâm.

Người kiếm củi nói:

- Nước biếc của anh vẫn không thể bằng non xanh của tôi được. Cũng có bài từ “Thiên tiên tử” đây:

Chân non một túp lều tranh, Cúc, mai, tùng, trúc bạn gần bạn xa. Trèo non tìm kiếm củi già,
Ai người cần đến thì ta bán chừ.

Đem tiền uống rượu say sưa,

Be sành bát vại sớm trưa khề khà.

Say rồi nằm gốc thông già, Vô tâm ngủ tít, xá gì nhục vinh!
Người đánh cá nói:

- Anh Lý ơi, trong núi của anh đâu có khoan khoái thú vị như trên mặt nước của tôi được. Có bài từ “Tây giang nguyệt” làm chứng đây:

Hoa liêu rọi ánh trăng tà,
Lá lau gió thổi đung đưa xạc xào. Trời xanh, sông nước xanh theo,
Muôn sao nhấp nháy trời cao chuyển vần.

Cá to sa lưới hàng đàn,

Cắn câu cá diếc cả đàn tranh nhau.

Mang về nấu rán, ngậy sao! Giang hồ cười ngạo ai nào bằng ta?
Người kiếm củi nói:

- Anh Trương ơi, trên mặt nước của anh không thể nào khoan khoái, thú vị như trong núi của tôi được. Cũng có một bài từ “Tây giang nguyệt” làm chứng đây:

Đường đầy lá rụng cành khô, Núi đây trúc héo xác xơ úa vàng. Dây leo chằng chịt dọc ngang,
Cắt về làm chão, làm quang hơn thừng.

Củi du, củi liễu đầy rừng,

Cành thông, cành trắc khô cong bạt ngàn.

Gánh về phòng tiết đông hàn,

Đổi rượu, chuốc thịt uống tràn say sưa.

Người đánh cá nói:

- Trong núi của anh tuy cũng khá đấy, nhưng không thể u nhã bằng nước biếc của tôi được. Có bài từ “Lâm giang tiên” làm chứng đây:

Thuyền con đủng đỉnh chiều tà, Đêm khuya gác mái vang xa câu hò. Áo tơi đêm nguyệt thanh kỳ,
Chim âu lặng lẽ bay đi bay về.

Thanh nhàn vắng vẻ hả hê,

Mặt trời đứng bóng giấc hòe chưa tan.

Tự do, tùy tùy tâm,

Quan trong triều cũng chẳng bằng được ta!

Người kiếm củi nói:

- Nước biếc của anh tuy u nhã nhưng non xanh của tôi còn u nhã hơn kìa. Cũng có bài từ “Lâm giang tiên” làm chứng đây:

Rừng thu xanh ngắt bốn bề,

Dắt rìu gánh củi, chiều về thảnh thơi.

Hoa rừng cài tóc hương bay, Vén mây tìm lối, cửa sài trăng lên. Vợ con tíu tít quanh bên,
Giường tre gối gỗ giấc yên tuyệt trần.

Táo lê thơm ngát đầy mâm,

Rượu vừa nấu, thú trần gian nào bằng!

Người đánh cá nói:

- Những điều đó đều thú vị, đều là kế sinh nhai của cả hai chúng ta, nhưng anh không có được những lúc thanh nhàn khoái trá như tôi được. Có bài thơ làm chứng đây:

Khi nhàn ngắm hạc bay cao,

Cắm thuyền ven bãi, gác chèo nghỉ ngơi.

Vợ chồng mang lưới ra phơi, Bảo con xe lại cho dài dây câu. Lòng êm sóng cũng êm theo,
Thân nhàn gió cũng vui reo thanh nhàn.

Áo tơi nón lá xênh xang,

Còn hơn áo tía đai vàng nhà quan.

Người kiếm củi nói:

- Lúc thanh nhàn của anh không thể khoái trá bằng lúc thanh nhàn của tôi được. Cũng có bài thơ làm chứng đây:

Ngước trông mây trắng lang thang, Một mình khép cửa thanh nhàn nghỉ ngơi. Dạy con mấy chữ xong rồi,
Khách vào ta lại ngồi chơi ván cờ.

Khi vui chống gậy ngâm thơ, Hứng lên đàn dạo tiếng tơ bổng trầm. Áo gai, dép cỏ nhẹ thân,
Thung dung non nước ai bằng được ta.

Trương Tiêu nói:

- Anh Lý Định ạ, hai chúng ta thật là:

Tâm đầu ý hợp ngâm nga,

Lọ cầu chén ngọc khay ngà làm chi!

Có điều từ chương mà ai nấy tự làm thì cũng chẳng hiếm. Chi bằng hai chúng ta thử làm mấy câu thơ liên hoàn xen kẽ nhau nêu cái thú câu cá, kiếm củi xem sao!

Lý Định nói:

- Lời anh nói chí lý lắm! Mời anh ngâm trước đi nào.

Thế rồi Trương Tiêu ngâm, và hai người nói tiếp nhau ngâm nga:

Thuyền cắm giữa bao la khói sóng,
Nhà dựng nơi thăm thẳm rừng sâu.

Thú sao nước ngập chân cầu,

Đẹp sao mây sớm trắng mầu sườn non.

Cửu long môn cá tôm tùy rán, Củi núi rừng tùy bán tùy đun. Tuổi già quăng lưới độ thân,
Củi kia cũng đủ nuôi mình sống vui. Nằm cửa thuyền ngắm đôi nhạn lượn, Tựa cây rừng nghe tiếng gà gô.
Tranh giành chẳng phải phận ta, Thị phi danh lợi giành cho mọi người. Bên bãi vắng lưới phơi như giấm,
Hòn đá mài rìu trắng như gương.

Một mình câu dưới ánh trăng,

Một mình kiếm củi giữa rừng vắng tanh. Cá đổi rượu, vợ chồng chuếnh choáng, Củi bán, đi cạn chén cùng con.
Nghêu ngao giữa khoảng mênh mông, Tiếng ca bay vút giữa rừng âm u. Quây quần tán bạn bè chày lưới, Xúm xít vui bằng hữu núi non.
Ngày vui cua luộc, tôm rang, Tháng vui vịt rán, gà hầm phong lưu. Rót chén nước vợ mời tình tứ,
Gọi ăn cơm tiếng vợ ngọt ngào.
Sáng ra khua đẩy mái chèo,

Chiều về gánh củi bán rao phố phường.

Mưa rơi, khoác tơi chùng bắt cá, Gió thổi, vung rìu phá cây khô. Trốn đời giả tiếng ngu si,
Mai danh ẩn tích mũ ni bịt đầu.

Trương Tiêu nói:

- Anh Lý ạ, tôi vừa mạn phép ngâm trước rồi. Bây giờ đến lượt anh ngâm trước đi, để tôi ngâm nối theo nào.

Thế rồi Lý Định ngâm, và hai người nối tiếp nhau ngâm nga:

Kẻ sơn dã ngạo cười trăng gió, Lão ngư ông đây đó giang hồ. Thanh nhàn tùy phận tự do,
Thị phi mặc thế, âu ca thái bình. Đêm trăng sáng nhà tranh ngon giấc, Trời về chiều nhẹ khoác áo tơi.
Quên đời bạn với tùng, mai,

Vui lòng bạn với mấy loài cò, giang. Danh với lợi chẳng màng trong dạ, Thị với phi mặc bỏ ngoài tai.
Sớm chiều một chén rượu say, Qua ngày ba bữa cơm thời rau dưa. Hai bó củi kiếm thừa tiền gạo,
Một cần câu rau cháo cũng xong.

Mài rìu dặn trẻ lúc nhàn,
Lưới kia vá lại khuyên con cần cù. Mùa xuân đến liễu tơ mừng thấy, Lúc việc nhàn lau sậy ngắm xem. Hè về tránh nắng dựng dàn,
Tháng sáu tránh nóng lên ngàn vui chơi.

Tiết sương giáng, gà lôi đem luộc, Ngày trùng dương, cua béo nấu canh. Đông về đánh giấc ngon lành,
Mặt trời đứng bóng thỏa tình say sưa.

Chốn rừng núi ngao du tùy ý, Miền sông hồ vui thú tùy tâm.
Hái củi là thú nhà tiên,

Buông câu cao khiết thế gian ai bằng. Đường vào ngõ hoa rừng ngan ngát, Nẻo mui thuyền dào dạt sóng xanh. Yên thân đừng mộng tam công,
Lòng yên vững quá tòa thành quy mô.

Thành mười dặm còn lo then khóa, Chức tam công nhớp nhúa lời tâu.
Vui non vui nước thanh cao,

Thần minh trời đất lòng nào quên ơn.

Hai người ngâm nga thơ phú, rồi lại cùng nhau làm thơ liên cú xong, đi tới đoạn đường rẽ, vái chào từ biệt nhau.

Trương Tiêu nói:

- Anh Lý ơi, đi đường phải giữ gìn nhé! Trong núi dễ gặp hổ
lắm. Ngộ nhỡ sảy ra điều gì thật là “sáng mai đầu phố vắng người bạn thân” đấy!

Lý Định nghe xong, bổng nổi giận hầm hầm, nói:

- Đồ chết dẫm nhà anh! Bạn bè tốt chết thay cho nhau còn được, thế mà tại sao anh lại rủa tôi? Tôi mà bị hổ ăn thịt, thì nhà anh cũng chết chìm đáy sông!

Trương Tiêu nói:

- Tôi đấy à? Có đến kiếp sau mới chìm được. Lý Định nói:
- Trời gió mưa bất chợt, người họa phúc khôn lường. Tại sao anh dám bảo đảm là vô sự?

Trương Tiêu nói:

- Anh Lý ơi tuy anh nói như thế, nhưng mà anh không lường trước được. Còn tôi lúc nào cũng lường trước được, nên nhất định không xảy ra sự cố gì.

Lý Định nói:

- Anh quanh năm kiếm ăn trên mặt nước, lênh đênh dập dềnh, cực kỳ nguy hiểm, làm sao mà lường trước được?

Trương Tiêu nói:

- Anh không hiểu được đâu. Ở phố cửa Tây thành Tràng An này có một ông thầy bói. Hằng ngày tôi biếu ông ta một con cá chép vàng, và nhờ ông ta bói cho một quẻ. Tôi cứ theo vị trí trong quẻ bói mà quăng lưới, trăm lần trúng cả trăm. Hôm nay tôi lại đi xem. Ông ta bảo tôi hãy quăng lưới ở mé Đông cửa sông Kinh Hà, buông câu ở bờ phía Tây thì nhất định khi về thu được đầy ắp tôm cá. Ngày mai vào thành, có tiền mua rượu, lại xin được trò chuyện cùng ông anh nhé!

Nói xong, hai người từ biệt nhau.
*
*    * [73]
Thật là “tai vách mạch rừng”

. Nguyên ở thủy phủ sông
Kinh Hà có một tên quỷ Dạ Xoa đi tuần miền sông nước. Hắn nghe được câu nói “trăm lần trúng cả trăm”, bèn lập tức quay trở về Thủy Tinh cung báo với Long vương rằng:

- Nguy to! Nguy to! Long vương hỏi:
- Nguy to gì?

Quỷ Dạ Xoa thưa:

- Thần đi tuần đến bờ sông, nghe thấy hai người đánh cá, kiếm củi trò chuyện với nhau. Lúc chia tay; lời họ nói rất đáng sợ. Người đánh cá nói rằng: ở phố cửa Tây thành Tràng An, có một ông thầy bói, đoán rất giỏi. Mỗi ngày hắn biếu ông thầy bói một con cá chép vàng, và nhờ ông thầy xem cho một quẻ, bảo hắn vị trí quăng lưới, trăm lần trúng cả trăm. Nếu cứ để tình trạng này kéo dài, thì các loài thủy tộc bị bắt hết sao? Lúc ấy lấy ai trang điểm cho thủy phủ, lấy ai cưỡi sóng, vượt gió giúp đỡ uy lực cho đại vương nữa?

Long vương nghe nói, nổi giận đùng đùng, tuốt gươm ra, định đến ngay thành Tràng An giết chết người thầy bói. Nhưng bọn con rồng, bề tôi tôm, sĩ khanh cua, nguyên soái cá mòi, quan thiếu khanh cá diếc, thái tể cá chép cùng bước cả ra tâu:

- Xin đại vương nguôi giận. Thường có câu: “Lời nói thoảng qua tai, chớ nên tin chắc”. Đại vương đi chuyến này, tất phải nổi gió mưa giúp đỡ, e như vậy sẽ làm kinh động đến trăm họ ở Tràng An, thượng thiên quở trách. Chi bằng đại vương giấu kín tông tích, biến hóa khôn lường, biến thành một người tu sĩ, đến thẳng thành Tràng An, dò xét một phen. Nếu quả có tên thầy bói
như thế, thì lúc ấy giết hắn cũng không muộn. Nếu không có, thì chẳng hóa ra là giết lầm người vô tội sao?

Long vương nghe lời, quăng gươm, và chẳng cần nổi gió to mưa lớn nữa, rẽ nước, lên bờ, lắc mình một cái, biến thành một người tu sĩ áo trắng. Thật là:

Vẻ mặt tuấn tú, Dáng người cao thanh. Bước đi ngay ngắn, Thung dung dịu dàng. Ngôn từ Khổng Mạnh, Lễ độ Chu Văn.
Áo the mẫu ngọc, Khăn lượt văn nhàn.
Long vương rảo bước dặm mây, thẳng đến phố cửa Tây thành Tràng An đã thấy một bọn người xúm xít, ồn ào. Trong bọn họ có một người cất giọng oang oang, hùng hồn: “Bản mệnh thuộc long, xung khắc với người mệnh thuộc hổ. Dần, Thân, Tỵ, Hợi tuy là hợp cục, nhưng rằng hôm nay lại phạm sao Thái Tuế”.

Long vương nghe nói, biết đấy là nhà ông thầy bói bèn bước tới, rẽ mọi người ra, nhìn vào trong nhà. Chỉ thấy:

Tứ phía bày châu báu, Khắp nhà xếp lụa là. Bình sứ cắm cành hoa,
Đỉnh đồng hương thơm ngát. Tranh Vương Duy treo khắp, Hình Quỷ Cốc trên tòa.
Nào mực, nghiên Đan khê,
Ngòi bút như sương giọt. Đây tập số Quách Phác, Kia quyển kinh bí truyền. Sáu hào đã thuộc lòng, Tám quẻ cũng thông thạo. Địa lý lại tài giỏi,
Thấu hết việc quỷ thần. Tý, Ngọ an rất nhanh, Các vòng sao nhớ kỹ. Việc vị lai, quá khứ,
Trong bụng như trăng rằm.

Nhà ai bại, ai hưng, Như thần minh sáng tỏ. Việc cát hung đoán rõ, Việc sinh tử đoán hay. Mở mồm gió mưa bay, Hạ bút quỷ thần sợ. Biển đề rõ tên họ:
Viên Thủ Thành tiên sinh.

Người này là ai? Đó là người chú của quan Khâm thiên giám đài Viên Thiên Cương, tên là Viên Thủ Thành. Tiên sinh tướng mạo thật khôi ngô, kỳ vĩ, dáng người thật đẹp đẽ, đoan trang, tiếng  tăm  vang  khắp  nước,  đoán  giỏi  nhất  Tràng  An.  Long vương bước vào cửa, họ vái chào nhau xong, tiên sinh mời Long vương ngồi trên, đoạn sai tiểu dồng dâng trà rồi hỏi:

- Ngài tới hỏi về việc gì hả?
Long vương thưa:
- Nhờ thầy xem cho một quẻ bói về việc nắng mưa thế nào? Tiên sinh lập tức gieo quẻ rồi đoán rằng: Mây trùm đỉnh núi,
mù quấn rừng cây. Nếu xem việc mưa thì đúng sáng mai sẽ có mưa.

Long vương hỏi:

- Sáng mai thì mưa vào giờ nào? Lượng mưa bao nhiêu thước tấc?

Tiên sinh đáp:

- Sáng mai, giờ Thìn mây kéo, giờ Tỵ sấm nổi, giờ Ngọ mưa rơi. Mưa đến giờ Mùi thì tạnh, lượng mưa là ba thước ba tấc bốn mươi tám giọt.

Long vương cười, nói:

- Lời đoán không phải chuyện đùa đâu. Nếu sáng mai có mưa. Mưa đúng thời gian, số lượng như ngài đoán, thì tôi xin biếu ngài năm mươi lạng vàng. Nếu sai, thì tôi nói thực với ngài: tôi sẽ phá cửa hàng, đập biển, đuổi ra khỏi Tràng An, không cho ở đây mê hoặc dân chúng nữa.

Tiên sinh vui vẻ nói:

- Điều đó tùy ngài. Mời ngài về, sáng mai mưa tạnh ta lại gặp nhau.

Long vương từ biệt người thầy bói, rời Tràng An, trở về thủy phủ. Thủy thần lớn bé chạy tới đón tiếp, hỏi:

- Đại vương đi tìm người thầy bói thế nào? Long vương đáp:
- Có, có. Cũng có gặp một lão thầy bói nói lếu láo. Ta hỏi hắn bao giờ mưa. Hắn nói ngày mai mưa. Hỏi hắn mưa vào giờ nào và lượng mưa bao nhiêu? Hắn nói giờ Thìn mây kéo, giờ Tỵ
sấm nổi, giờ Ngọ mưa rơi, giờ Mùi mưa tạnh, lượng mưa là ba thước ba tấc bốn mươi tám giọt. Ta bèn cùng hắn đánh cuộc: nếu hắn đoán đúng, ta sẽ tạ năm mươi lạng vàng, nếu sai, ta sẽ phá nhà, tống cổ hắn đi, không cho ở thành Tràng An mê hoặc dân chúng nữa.

Mấy loài thủy tộc cười, nói:

- Đại vương là Đô tổng quản tám con sông, đại Long vương coi việc mưa. Chỉ có đại vương mới biết chuyện mưa nắng, thế mà tại sao hắn lại ăn nói hồ đồ như thế! Lão thầy bói ấy nhất định sẽ thua cuộc! Nhất định sẽ thua cuộc!

Lúc ấy con rồng, cháu rồng, sĩ khanh cua, cá, mọi người còn đang vui vẻ bàn tán, bỗng nghe thấy có tiếng gọi từ trên không trung:

- Long vương sông Kinh Hà nhận chiếu chỉ!

Mọi người ngẩng đầu nhìn lên, thấy một lực sĩ áo vàng, tay bưng chiếu chỉ của Thượng đế, bước thẳng vào thủy phủ. Long vương sợ hãi, vội vàng sửa lại mũ áo ngay ngắn, đốt hương nhận chiếu chỉ xong. Vị lực sĩ áo vàng lại bay lên không trung trở về. Long vương lạy tạ, rồi mở tờ chiếu ra xem. Tờ chiếu viết:

Lệnh Tổng đốc tám sông, Nổi sóng ran chớp giật. Sớm mai làm mưa gấp, Tưới gắp thành Tràng An.
Tờ chiếu còn ghi rõ thời gian, số lượng hoàn toàn khớp với lời đoán của người thầy bói, khiến cho Long vương hồn bay phách lạc. Một lát sau, Long vương tỉnh lại, nói với các loại thủy tộc:

- Trần gian mà cũng có người tài giỏi, thấu hết việc trời đất đến như vậy. Ta thua cuộc mất rồi!
Quân sư cá mòi tâu:

- Đại vương cứ yên tâm. Muốn thắng hắn thì có gì là khó. Thần có một kế mọn có thể bịt mồm hắn lại.

Long vương hỏi kế gì, quân sư nói:

- Ta làm mưa sai thời điểm, bớt đi mấy giọt, thế là lời đoán của lão thầy bói không đúng, thì sợ gì không được cuộc hắn? Và khi ấy phá nhà, đập biển, tống cổ hắn ra khỏi Tràng An có khó gì?

Long vương nghe xong, không còn lo lắng gì nữa.

Ngày hôm sau, Long vương chỉ huy bác gió, ông sấm, cậu mây, mẹ chớp kéo thẳng đến bầu trời thành Tràng An. Long vương thi hành lệnh chậm lại, đến giờ Tỵ mới đùn mây, giờ Ngọ mới phát sấm, giờ Mùi mới làm mưa, giờ Thân thì cho tạnh, và chỉ cho mưa có ba thước bốn mươi giọt, đổi chậm một giờ và bớt đi ba tấc tám giọt nước. Làm mưa xong, Long vương hạ lệnh cho các tướng rút quân, còn mình dừng mây bước xuống, biến thành một người tu sĩ áo trắng, đến thẳng phố cửa Tây thành Tràng An, xông vào nhà Viên Thủ Thành, chẳng nói năng gì, cứ thế đập nát vụn cả tấm biển, nghiên mực… Còn Viên tiên sinh cứ  điềm  nhiên  ngồi  yên  trên  ghế,  chẳng  nói  năng  gì.  Long vương còn cầm cả tấm cánh cửa toan đánh, và mắng rằng:

- Đồ yêu quái nói bừa chuyện họa phúc mê hoặc chúng sinh kia! Bói toán lung tung, nói năng xằng bậy! Nhà ngươi nói thời điểm mưa và lượng mưa sai loét cả, mà lại còn nghễu nghện ngồi cao thế kia? Biết điều cút đi cho sớm thì ta tha tội cho!

Thủ Thành vẫn ngồi yên chẳng chút sợ sệt, ngửa mặt lên trời cười lạt mà rằng:

- Ta không sợ! Không sợ! Ta không có tội gì sất. Chỉ có nhà ngươi mới bị tội đáng chết thôi. Người khác, thì nhà ngươi giấu được, chứ làm sao giấu được ta? Ta biết rồi, nhà ngươi chẳng
phải là tu sĩ, mà là Long vương Kinh Hà. Nhà ngươi làm trái sắc chỉ của Thượng đế, đổi thay thời điểm, bớt số lượng mưa, phạm vào luật trời. Nhà ngươi khó mà tránh khỏi lưỡi đao nơi trảm long đài, thế mà còn dám ở đây chửi ta sao?

Long vương nghe nói, sợ hãi vô cùng, khắp người nổi gai ốc, vội vàng quẳng cánh cửa, sửa lại sống áo, quỳ xuống lại tiên sinh nói:

- Xin tiên sinh bớt giận. Vừa rồi tôi chỉ có ý đùa bỡn thôi, có ngờ đâu đùa quá hóa thật, phạm vào luật trời, chẳng biết làm thế nào, mong tiên sinh cứu tôi với! Nếu không, chết tôi cũng không tha tiên sinh đâu.

Thủ Thành nói:

- Tôi không cứu nổi ngài đâu tôi chỉ có thể mách cho ngài một con đường sống.

Long vương nói:

- Mong tiên sinh chỉ giáo cho. Thủ Thành nói:
- Ngày mai, vào quãng giờ Ngọ ba khắc, ngài sẽ bị giải tới cho vị tào quan là Ngụy Trưng xử chém. Vậy muốn sống chỉ có cách đến cầu ngay với vua Đường Thái Tông mới xong. Ngụy Trưng là thừa tướng của vua Đường, nếu nhà vua thể tất nhân tình, thì ngài mới được vô sự.

Long vương nghe xong, nuốt nước mắt cáo từ. Chẳng mấy chốc, mặt trời đã lặn về tây, vầng trăng đã mọc. Chỉ thấy:

Quạ mỏi, sương rơi, núi tím nhòa, Người đi tìm quán nghỉ đường xa. Bến sông nhạn lượn, sao thưa thớt, Thôn vắng đèn khêu, ánh nhạt nhòa.
Khói bếp lững lờ, sân vắng vẻ, Giấc mơ mờ ảo, bóng người qua. Lan can lay động chùm hoa thắm, Thánh thót đồng hồ đêm vắng xa.
Long vương Kinh Hà không về thủy phủ, mà cứ đứng ở trên không trung, đợi đến quãng giờ Tý lúc nửa đêm, thu mây dọn mù, bước thẳng vào cửa hoàng cung.



Lúc ấy, vua Đường đang ngủ, mơ thấy mình đi ra ngoài cửa cung, lững thững ngắm hoa thưởng nguyệt. Long vương bèn biến thành hình người, bước tới quỳ xuống, thưa:

- Bệ hạ cứu tôi với! Cứu tôi với! Thái Tông hỏi:
- Nhà ngươi là ai? Trẫm sẽ cứu cho.
Long vương đáp:

- Bệ hạ là chân long, còn thần là nghiệp long. Thần do bị phạm vào luật trời, sắp bị bề tôi hiền của bệ hạ là tào quan Ngụy Trưng xử chém, nên thần đến đây cầu cứu. Mong bệ hạ cứu thần với!

Thái Tông nói:

- Ai chứ Ngụy Trưng xử thì trẫm cứu được. Ngài cứ yên tâm mà về.

Lại nói chuyện Thái Tông sau khi tỉnh mộng, trong bụng vẫn nhớ như in. Chẳng mấy chốc đã nghe thấy tiếng trống canh năm điểm ba tiếng. Vua Thái Tông thiết triều, hội họp các quan văn võ. Chỉ thấy:

Hoa khói vờn gác phượng, Hương thơm ngát lầu rồng.
Mây bay nhẹ như bông, Ánh dương soi lấp lánh.
Vua tôi sánh Nghiêu, Thuấn, Lễ nhạc tựa Hân, Chu.
Đèn quan, quạt cung nga, Sắc màu trông lộng lẫy. Điện Kỳ Lân, Khổng Tước, Vẻ rực rỡ huy hoàng.
Tiếng vạn tuế ngân nga, Đuốc hoa nghìn dặm sáng. Đức vua khai triều sớm, Trăm quan tới lạy mừng.
Hoa nở hương thơm lừng, Liễu bay, đàn réo rắt. Rèm trân châu đẹp nhất, Móc vàng cuốn thật cao.
Cửa Long phượng lối vào, Nơi vua dừng xa giá. Quan văn mặt tuấn tú,
Quan võ dáng hiên ngang. Ven đường chia thứ ban, Trước thềm phân cao thấp. Muôn nghìn vẻ lộng lẫy, Trường tồn với đất trời.
Các quan làm lễ triều hạ xong, ai nấy ngồi vào chỗ. Vua Đường mắt phượng mày ngài, nhìn khắp một lượt, thấy trong đám quan văn có Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối, Từ Thế Tích, Hứa Kính Tông, Vương Khuê. Hàng võ quan có Mã Tam Bảo, Đoàn Chí Hiền, Ân Khai Sơn, Lưu Hồng Kỷ, Hồ Kính Đức, Tần Thúc Bảo. Ai nấy trông uy nghi oai vệ. Chỉ thấy vắng mỗi thừa tường Ngụy Trưng. Vua Đường gọi Từ Thế Tích đến bảo:

- Đêm qua trẫm có một giấc mộng kỳ lạ: Trẫm mộng thấy một người bước tới trước mặt trẫm sụp lạy, xưng là Long vương Kinh Hà, phạm vào luật trời sắp bị tào quan Ngụy Trưng xử chém, đến cầu cứu với trẫm. Trẫm đã nhận lời. Hôm nay, trong ban chỉ thiếu có Ngụy Trưng là cớ sao nhỉ?

Thế Tích thưa:

- Bệ hạ đã nhận lời trong giấc mộng rồi, thì hãy cho gọi Ngụy
Trưng vào chầu, đừng để cho ngài ấy đi đâu nữa. Qua ngày hôm
nay thì chắc cứu được Long vương.

Vua Đường mừng lắm, lập tức truyền lệnh cho gọi Ngụy
Trưng vào triều.

Lại nói chuyện thừa tướng Ngụy Trưng ở trong phủ, đêm xem thiên văn, đang lúc hương bay ngào ngạt, bỗng nghe thấy tiếng hạc kêu trên chín tầng trời thẳm, thì ra là một vị thiên sứ mang sắc chỉ của Thượng đế sai đúng giờ Ngọ ba khắc, chém Long vương Kinh Hà ở trong mộng. Thừa tướng lại tạ ơn trời, trai giới tắm gội sạch sẽ, ở nguyên trong phủ mài thanh kiếm tuệ, vận động nguyên thần, cho nên không vào chầu vua được. Bỗng có quan Đương giá mang thánh chỉ đến triệu, Ngụy Trưng sợ hãi bàng hoàng, xong không dám trái lệnh vua, bèn vội vàng sửa lại mũ áo, theo quan vào chầu. Đến trước thềm son, Ngụy Trưng dập đầu cúi lạy, xin tha tội. Vua Đường nói:

- Ta miễn tội cho khanh.

Khi ấy, các quan vẫn chưa lui chầu, nhà vua bèn truyền lệnh cuốn rèm tan chầu, chỉ lưu lại một mình Ngụy Trưng, cho ngồi xe kim loan, cùng vào nội điện. Nhà vua bàn kế yên nhà định nước với Ngụy Trưng xong, thì đã đến cuối giờ Tỵ đầu giờ Ngọ, bèn sai cung nhân mang bàn cờ ra nói:

- Trẫm cùng hiền khanh chơi một ván.

Các cung phi bày bàn cờ trên ngự án. Ngụy Trưng tạ ơn, rồi ngồi chơi cờ với vua Đường. Hai người lần lượt đi nước cờ, bày thành thế trận, đúng như Kinh Lạn Kha nói:

“Đạo đánh cờ, quý ở chỗ nghiêm túc, cẩn thận. Người cao cờ, đánh ở trung tâm. Người thấp cờ, đánh ở bên cạnh. Người trung bình, đánh ở các góc. Đó là phép thường trong đạo đánh cờ vậy. Phép đánh cờ có nói: Thà thua một quân, chứ không để mất thế chủ động. Đánh bên trái, phải nhìn bên phải. Đánh phía trước phải nhìn phía sau. Có khi đánh trước mà lại sau, có khi
đánh sau mà lại trước, hai bên liên lạc, không được tách rời. Thế rộng nhưng không nên quá thưa: thế dày nhưng không nên quá chặt. Cố giữ quân để cầu sống, không bằng thí quân để thắng cờ. Cầu vô sự mà đi nước rời, không bằng bổ sung bền thế trận. Người nhiều ta ít, trước phải bảo tồn. Người ít ta nhiều, cần căng trận thế. Người khéo thắng không tranh, người khéo trận không đánh, người khéo đánh không thua, người khéo thua không loạn. Phàm đánh cờ, trước hết phải đàng hoàng, cuối cùng dùng mẹo lạ mà giành thắng. Phàm bên địch vô sự mà giữ thế là có ý tấn công, bỏ quân nhỏ mà không cứu tất là có chí lớn. Những kẻ thò tay đi ngay là đồ vô mưu, ứng phó không suy nghĩ là tìm thất bại. Kinh Thi nói: “Nơm nớp sợ hãi, như xuống vực sâu”, là như vậy đó”.

Có bài thơ rằng:

Bàn cờ là đất, quân là trời, Tạo hóa âm dương thật tuyệt vời. Đến chỗ huyền vi thông biến ấy, Lạn Kha kinh ấy cũng trò chơi.
Vua tôi hai người ngồi đánh cờ đến khoảng giờ Ngọ ba khắc, chưa xong một ván, Ngụy Trưng bỗng nhiên nằm phủ phục xuống án, thiu thiu ngủ tít. Thái Tông cười nói:

- Hiền khanh vất vả nhọc mệt vì giang sơn xã tắc, nên bất chợt buồn ngủ.

Nói xong cứ mặc cho Ngụy Trưng ngủ, không đánh thức. Một lát sau, Ngụy Trưng tỉnh dậy, cúi rạp xuống đất thưa:

- Thần thật đáng tội chết! Đáng tội chết! Vừa rồi ngủ mê man không biết gì, mong bệ hạ tha tội khinh mạn cho thần.

Thái Tông nói:

- Khanh có tội kinh mạn gì đâu! Cho khanh đứng dậy, xóa
ván cờ này đi, ta cùng khanh chơi ván khác.



Ngụy Trưng tạ ơn, vừa cầm lấy quân cờ trong tay toan bày ván khác, bỗng nghe thấy ngoài cửa có tiếng huyên náo, rồi thấy bọn Tần Thúc Bảo, Từ Mậu Công xách một chiếc đầu rồng máu me đầm đìa đến trước mặt nhà vua tâu:

- Muôn tâu bệ hạ, bể cạn sông khô còn thấy, chứ việc lạ lùng này thì chưa từng thấy bao giờ!

Thái Tông và Ngụy Trưng đứng lên hỏi:

- Con vật này ở đâu thế? Thúc Bảo, Mậu Công thưa:
- Ở ngã tư ngoài phố, cách đây chừng nghìn bước về phía Nam, thấy một cái đầu rồng này từ trên mây rơi xuống. Hạ thần tâu lên bệ hạ rõ.

Vua Đường thất kinh, hỏi Ngụy Trưng:
- Thế này là thế nào?

Ngụy Trưng quay người sụp lạy, thưa:

- Thần vừa nằm mộng chém nó xong. Vua Đường nghe xong sợ hãi nói:
- Hiền khanh vừa ngủ thiếp đi, thân thể chân tay không hề nhúc nhích, trong tay lại không có đao kiếm, làm sao chém được con rồng?

Ngụy Trưng thưa:

- Tâu chúa công, thần tuy thân thể bên cạnh chúa công, chơi cờ với chúa công, rồi chợp mắt mơ màng ra đi. Thần mơ thấy mình cưỡi mây, tinh thần mạnh mẽ, bay tới trảm long đài. Ở đây thần đã thấy con rồng bị thiên binh giải tới, thân thể bị trói chặt. Thần nói:

- Nhà ngươi vi phạm luật trời, đáng tội chết. Ta vâng mệnh trời xử chém nhà ngươi.

Con rồng nghe nói sợ hãi cụp vuốt co người cam chịu tội chết. Thần lấy tinh thần, vén tay áo bước tới vung đao chém. Tiếng đao nghe đánh phập một tiếng, đầu rồng đã lìa khỏi cổ.

Thái Tông nghe nói, trong lòng vừa mừng vừa sợ. Mừng là vì có Ngụy Trưng là bề tôi giỏi. Trong triều có hào kiệt, lo gì giang sơn chẳng vững bền? Sợ vì trong giấc mộng, mình đã hứa cứu Long vương, không ngờ Long vương vẫn bị xử chém. Vua Thái Tông đành phải lấy lại tinh thần, ra lệnh cho Thúc Bảo mang đầu rồng bêu ngoài chợ, hiểu dụ dân chúng Tràng An, sau đó ban thưởng cho Ngụy Trưng. Các quan đều tan triều.

Chiều hôm ấy, vua Đường về cung điện trong lòng lo lắng. Nghĩ đến con rồng trong giấc mộng khóc lóc thảm thiết, cầu xin cứu mạng, ngờ đâu sự việc sảy ra, không tránh khỏi tai nạn. Đang nghĩ ngợi, thấy thân thể, tinh thần mệt mỏi. Khoảng canh
hai đêm ấy, bỗng nghe thấy tiếng kêu khóc ngoài cửa cung, Thái Tông càng thêm kinh sợ. Đương lúc thiu thiu ngủ thiếp đi, bỗng thấy Long vương Kinh Hà, tay bưng một cái đầu rồng máu me đầm đìa, gọi to:

- Đường Thái Tông, trả mạng ta đây! Trả mạng ta đây! Hôm qua chính mồm nhà ngươi nhận lời cứu ta, tại sao hôm nay lại sai tào quan nhân chém đầu ta? Ta sẽ đi kiện với Diêm vương cho mà xem! Đi kiện cho mà xem!

Nói xong, Long vương túm chặt lấy Thái Tông, làm ầm ĩ, om sòm, mãi không chịu buông tha. Thái Tông tắc họng chẳng nói được gì, mồ hôi vã ra ướt thấm lưng. Đương lúc chẳng biết phân giải ra sao, bỗng thấy ở phía chính Nam, hương thơm ngào ngạt, mây đẹp quấn quanh, một vị nữ chân nhân xuất hiện trên tầng không, tay cầm cành dương liễu phất nhẹ một cái, lập tức con rồng không đầu kia khóc lóc ủ rũ bỏ đi thẳng về phía Tây bắc. Nguyên đó là đức Quan Âm bồ tát, vâng lệnh Phật tổ, sang phương Đông tìm người lấy kinh. Ngài đang nghỉ trong miếu Thổ địa ở kinh thành Tràng An, đang đêm nghe thấy tiếng ma khóc quỷ gào, bèn tới nơi đuổi con rồng nghiệp chướng, cứu thoát vua Đường. Con rồng bèn đi thẳng xuống âm ty tâu với Diêm vương, chuyện không nói nữa.

Lại có chuyện Thái Tông tỉnh dậy, vội kêu toáng lên:

- Có ma! Có ma!

Làm cho các hoàng hậu ở ba cung, các phi tần trong sáu điện, và bọn thái giám cận thần run rẩy sợ hãi, suốt đêm không sao chợp mắt được.

Chẳng mấy chốc, trống canh năm đã điểm. Các quan văn võ vào chầu vua đều đứng đợi cả ngoài cửa. Đợi đến lúc trời sáng rõ, vẫn không thấy nhà vua ra khai triều, mọi người bồn chồn sợ hãi. Mãi tới khi mặt trời đã lên bằng con sào, mới có chiếu chỉ
ban ra rằng:

“Lòng trẫm không vui, cho các quan được miễn chầu”.

Thấm thoát đã bảy tám ngày trôi qua, mọi người lo lắng đang định vào cung vấn an. Bỗng lại có chiếu chỉ của thái hậu với quan thái y vào cung bốc thuốc, thế là mọi người đứng lại ở ngoài cửa đợi tin tức. Một lát, quan thái y đi ra, mọi người xúm lại hỏi thăm bệnh tình nhà vua thế nào.

Quan thái y nói:

- Mạch của hoàng thượng không đều, hư rồi lại sắc, nói mê lảm nhảm gặp ma. Bắt mạch thấy đập mười cái lại dừng, ngũ tạng không còn khí, may lắm chỉ được bảy ngày nữa là cùng.

Mọi người nghe nói, sợ hãi biến sắc mặt. Đang lúc mọi người bàng hoàng lo sợ, bỗng có chiếu chỉ vời Từ Mậu Công, Hộ Quốc Công, Uất Trì Cung vào chầu. Ba người lập tức vào thẳng nội cung sụp lạy, chờ lệnh. Thái Tông nghiêm sắc mặt, gượng nói:

- Các hiền khanh ạ, trẫm mười chín tuổi đã cầm quân, đánh đông dẹp bắc, trải qua bao vất vả gian nan, chưa từng gặp ma quỷ bao giờ, thế mà bây giờ lại gặp ma!

Uất Trì Cung thưa:

- Bệ hạ mở cơ dựng nghiệp, đã giết bao nhiêu mạng còn sợ gì ma quỷ?

Thái Tông nói:

- Khanh không tin sao? Ở ngoài nội cung của trẫm cứ tối là có ma quỷ khóc gào, ném gạch ném ngói, không tài nào ngăn được. Ban ngày thì thôi, đến đêm lại thế.

Thúc Bảo thưa:

- Bệ hạ cứ yên tâm. Đêm nay, thần cùng Kính Đức xin giữ
cửa, xem có ma mãnh gì không.

Thái Tông bằng lòng. Mậu Công lạy tạ lui ra. Chiều hôm ấy, hai người nai nịt gọn ghẽ, cầm gươm xách búa, đừng canh giữ ngoài cửa cung. Trông họ thật oai hùng:

Mũ kim khôi sáng loáng, Áo giáp bóng vẩy rồng. Kinh hộ tâm mây vờn, Chiếc đai thêu ráng đẹp.
Một người mắt phượng, nhìn trời tinh tú sợ, Một người mắt tròn lấp lánh ánh trăng mờ. Họ vốn là anh hùng, hào kiệt công thần xưa,
Muôn thuở làm môn thần, ngàn năm xưng họ quỷ.

Hai vị tướng quân đứng canh gác suốt đêm, chẳng thấy một con ma nào cả. Đêm ấy, Thái Tông ngủ ngon vô sự. Sáng ra, nhà vua cho gọi hai người vào, thưởng cho rất hậu, và nói:

- Trẫm từ hôm mắc bệnh tới nay, không đêm nào ngủ được. Đêm nay, nhờ oai lực của hai tướng quân, nên trẫm mới được ngủ yên. Bây giờ, các khanh hãy về nghỉ đến tối lại hộ mệnh trẫm.

Hai tướng lạy tạ lui ra. Hai ba đêm liền như vậy, Thái Tông được ngủ yên ổn. Chỉ có điều nhà vua ăn uống sút kém, nên bệnh vẫn nặng thêm. Nhà vua không nỡ để hai tướng khó nhọc mãi, bèn cho gọi Thúc Bảo, Kính Đức cùng Phòng Huyền Linh và Đỗ Như Hối vào cung dặn dò:

- Mấy hôm nay trẫm được ngủ yên, nhưng không nỡ để hai tướng Tần, Hồ khó nhọc suốt đêm, trẫm muốn cho gọi thợ vẽ giỏi, vẽ ảnh truyền thần chân dung hai tướng quân dán ngoài cửa, để đỡ vất vả cho hai người, các khanh thấy thế nào?
Các quan vâng lệnh, chọn ngay hai người thợ vẽ giỏi, vẽ chân dung hai tướng Tần, Hồ dán ngoài cửa. Mấy đêm ấy Thái Tông cũng được ngủ yên.

Song được dăm hôm, lại nghe tiếng gạch ngói ném loảng xoảng ở cửa Hậu tể. Sáng ra, nhà vua cho gọi các quan vào, nói:

- Mấy hôm nay, ở phía cửa trước bình yên vô sự. Đêm qua, ở phía cửa sau lại có tiếng loảng xoảng làm trẫm sợ quá!

Mậu Công bước ra, tâu:

- Cửa trước không yên thì sai Kính Đức, Thúc Bảo canh gác, nếu cửa sau không yên, hãy sai Ngụy Trưng giữ gìn.

Thái Tông bằng lòng, truyền lệnh cho đêm nay Ngụy Trưng giữ cửa sau. Ngụy Trưng vâng lệnh, đêm ấy quần áo chỉnh tề, cầm thanh bảo kiếm chém rồng, đứng gác ở cửa Hậu tể, trông thật xứng đáng là bậc anh hùng, hào kiệt.

Khăn lụa biếc xanh đầu vấn, Bào gấm đai ngọc quanh thân. Tay áo gió bay phất phới, Trông oai hơn cả linh thần. Chân xỏ hài thâm đen bóng, Tay cầm lưỡi kiếm sáng xanh. Hai mắt tròn xoe lấp lánh,
Ma quỷ nào dám tới gần.

Suốt đêm ấy tới sáng, cửa trước cửa sau bình yên vô sự, chẳng có ma quỷ nào cả. Tuy vậy, bệnh tình nhà vua ngày càng nặng thêm. Một hôm, Thái Hậu xuống chiếu cho gọi các quan vào bàn việc tang ma. Thái Tông cho vời Từ Mậu Công vào dặn dò việc lớn của quốc gia, định việc thác cô như Lưu Bị ngày xưa. Dặn dò xong, tắm gội thay quần áo, đợi giờ tạ thế. Ngụy
Trưng đứng bên cạnh, vội vàng nắm lấy áo rồng thưa:

- Bệ hạ cứ an tâm, thần có một cách giữ cho bệ hạ trường thọ. Thái Tông nói:
- Bệnh đã vào tới cao hoang là nguy lắm rồi, sống làm sao được mà giữ?

Ngụy Trưng nói:

- Thần có lá thư nhờ bệ hạ khi xuống âm ty chuyển cho vị phán quan ở Phong Đô tên là Thôi Giác.

Thái Tông hỏi:

- Thôi Giác là ai? Ngụy Trưng thưa:
- Thôi Giác là vị quan hầu giá đức Thái thượng hoàng, trước kia ông ấy đã từng giữ chức lệnh ở Từ Châu sau thăng chức Thị lang Bộ Lễ, lúc còn sống giao du với thần rất thân mật, nay mất đi, được giữ chức phán quan có nhiệm vụ giữ sổ sinh tử ở Phong Đô. Hiện nay thần vẫn thường hay gặp ông ta trong giấc mộng. Chuyến này, bệ hạ trao bức thư cho ông ta, ông ta nghĩ tới bổn phận làm tôi, chắc sẽ tha cho bệ hạ trở về.

Trao cho hồn phách về đương thế, Trả lại long nhan đến đế đô.
Thái Tông nghe xong, cầm lấy bức thư bỏ vào tay áo rồi nhắm mắt tắt thở. Sáu cung, ba điện, hoàng hậu, phi tần, thái tử, cùng các quan ở hai ban văn võ đặt linh cữu ở điện Bạch Hổ, rồi làm lễ phát tang. Chuyện không nhắc tới nữa.

Cuối cùng không biết Thái Tông hoàn hồn như thế nào. Xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ MƯỜI MỘT
Chơi âm phủ Thái Tông về trần Dâng quả bí Lưu Toàn gặp vợ
Có bài thơ rằng:

Ngày tháng trăm năm tựa bóng câu, Đời người, bọt nước khác gì đâu. Sớm còn thắm đỏ đôi gò má.
Chiều đã bạc phơ nửa mái đầu.

Giấc điệp tàn rồi, đời ảo cả. Cuốc kêu da diết hãy quay đầu, Xưa nay làm phúc đều tăng thọ, Ở thiện trời thương, lọ phải cầu.



Lại nói hồn phách Thái Tông mờ mịt chập chờn ra khỏi lầu
Ngũ Phượng, chỉ thấy quân ngự lâm[74]


mời xa giá ra ngoài đi
săn. Thái Tông vui vẻ nghe lời, phiêu diêu đi luôn. Được một lúc lâu, không thấy người ngựa đâu cả, chỉ còn lại một mình lang thang nơi đồng hoang nội cỏ. Đang lúc hoảng hốt không tìm thấy đường, thì nghe bên kia có người gọi to:

- Hoàng đế Đại đường, lại đây, lại đây!

Thái Tông ngẩng đầu lên nhìn, thấy người ấy: Đầu đội mũ sa thâm, Lưng đeo đai tê giác,
Đầu mũ sa thâm bay phấp phới, Lưng đai tê giác nổi vân vàng. Tay nắm hốt ngà ngưng ráng đẹp
Mình choàng bào gấm ánh như gương. Chân xỏ đôi giầy hoa, đi mây về gió. Tay cắp sổ sinh tử, ghi sự sống còn. Món tóc quanh tai bay lõa xõa.
Chòm râu bên mép mọc hiên ngang. Lúc sống, nhà Đường làm tể tướng, Bây giờ giữ án giúp Diêm vương.
Thái Tông đi sang phía đó, người ấy vội quỳ xuống bên đường, tâu:

- Mong bệ hạ tha tội cho thần không kịp nghênh đón. Thái Tông hỏi:
- Nhà ngươi là ai, có việc gì đến đây lạy trẫm? Người kia thưa:
- Nửa tháng trước, ở điện Sâm La, thần thấy Long Vương Kinh Hà kiện bệ hạ đã hứa cứu mạng cho mà cuối cùng hắn vẫn bị giết. Vì vậy Tần Quảng vương điện thứ nhất lập tức sai quỷ
sứ đi mời bệ hạ xuống để ra tam tào[75]


đối án. Thần biết việc
đó, nên đến đây đợi đón. Không ngờ hôm nay đến chậm, mong bệ hạ tha tội.

Thái Tông nói:

- Nhà ngươi họ tên là gì? Giữ chức quan gì? Người kia thưa:
- Lúc còn sống, thần hầu hạ bên cạnh xa giá tiên quân, trước giữ chức lệnh ở Tử Châu, sau thăng chức thị lang Bộ Lễ, họ Thôi tên Giác. Nay giữ chức phán quan coi việc án ở Phong Đô dưới âm ty.
Thái Tông mừng lắm tiến lại gần, nắm tay Thôi Giác nói:

- Phiền tiên sinh đi xa khó nhọc. Vị quan thân cận của trẫm là Ngụy Trung có thư gửi tiên sinh, may quá lại gặp tiên sinh ở đây.

Vị phán quan tạ ơn, hỏi thư đâu. Thái Tông bèn móc thư trong tay áo ra đưa. Thôi Giác nhận lấy, bóc ra xem. Thư viết:

“Hiền đệ là Ngụy Trung, cúi đầu dâng thư. Kính thưa Thôi đại huynh giữ án ở đại đô:
- Nghĩ đến việc kết giao ngày xưa, hình ảnh, tiếng nói của đại huynh vẫn như còn đó. Thế mà thấm thoắt đã mấy năm, chẳng được nghe lời dạy bảo. Thường chỉ vào những ngày tuần tiết, bày chút lễ mọn tế đăng, không biết đại huynh có chứng giám cho  không?  Nhưng  đại  huynh  vẫn  quyến  luyến  không  rời, thường tới thăm hỏi trong giấc mộng. Chính vì vậy tôi mới được biết đến bậc huynh trưởng đã được thăng quan tiến chức. Khốn nỗi âm dương cách biệt, mỗi người một phương, không được gặp mặt.

Nay lúc Văn Hoàng đế Thái Tông bỗng nhiên từ trần, chắc sẽ phải ra tam tào đối án, vậy thế nào cũng gặp huynh trưởng. Cúi mong huynh trưởng nghĩ đến tình nghĩa cũ, giúp đỡ cho ít nhiều, tha cho nhà vua về dương thế. Thế là huynh trưởng hết lòng yêu hiền đệ vậy. Hiền đệ sẽ xin hậu tạ.

Thư nói không hết lời”.

Vị phán quan xem xong thư, vui vẻ nói:

- Việc Ngụy nhân tào nằm mơ chém Long vương, thần cũng đã biết, và khen ngợi hết lời. Thần vẫn nhớ ơn ông ấy giúp đỡ con cháu thần, nay đã có thư gửi tới, thì bệ hạ cứ yên tâm, thần sẽ đưa bệ hạ về dương gian, lại lên ngôi báu.

Thái Tông cảm tạ.
Hai người đang nói chuyện, bỗng thấy hai tiểu đồng áo xanh tay cầm cành phan, lọng báu gọi to:

- Diêm vương có lệnh mời.

Thái Tông bèn cùng Thôi Giác và hai tiểu đồng rảo bước đi lên. Chợt nhìn thấy một tòa thành, trên cổng thành treo một tấm biển lớn viết một hàng bảy chữ vàng: “Cửa Quỷ Môn, U Minh động phủ”. Tiểu đồng áo xanh đung đưa cành phan, dẫn Thái Tông vảo trong thành, cứ dọc theo phố mà đi. Thái Tông nhìn thấy cả tiên chủ Lý Uyên, anh là Kiến Thành, em là Nguyên Cát, tiến lại gần mình nói:

- Thế Dân đến đây rồi, Thế Dân đến đây rồi!

Thế là Kiến Thành, Nguyên Cát túm lấy đòi mạng, Thái Tông không kịp trốn, bị họ giữ lại. May có Thôi phán quan gọi một con quỷ sứ mặt xanh răng lợn đuổi bọn Kiến Thành, Nguyên Cát đi, Thái Tông mới thoát. Đi khoảng mấy dặm, thấy một tòa lầu ngói xanh trông rất tráng lệ, thật là:

Phấp phới muôn tầng ráng đẹp, Ẩn hiện nghìn lớp mây hồng. Hồi nhà đắp hình đầu quái thú,
Mái nhà năm lớp ngói Uyên ương. Cửa đông mấy hàng đinh vàng, đỏ. Then cài bạch ngọc dát thanh ngang. Cửa sổ lờ mờ hơi khói tỏa,
Rèm thưa thấp thoáng ánh đèn buông.

Lâu đài cao ngất tầng mây biếc, Hành lang bằng phẳng rộng thênh thang. Đỉnh thú hương bay xông áo ngự,
Lụa là, đèn thắp, sáng mơ màng.

Bên này lố nhố quỷ đầu thú, Phía nọ loăng quăng mặt sói lang, Đưa ma tiếp quỷ thẻ vàng đổi.
Dẫn phách gọi hồn, đợi đến phiên.

Âm ty thường gọi là đây vậy, Điện Sâm La đó, chỗ Diêm vương.
Thái Tông đang ngắm nhìn, bỗng thấy phía hành lang bên kia, tiếng vòng ngọc leng keng, hương thơm kì dị, bên ngoài là hai đôi đèn nến, mười vị Diêm vương bước xuống thềm từ đằng sau tiến lại. Mười vị đó là: Tần Quảng vương, Sở Giang vương, Tống  Đế  vương,  Ngọ  Quang  vương,  Diêm  La  vương,  Bình Đẳng  vương,  Thái  Sơn  vương,  Đô  Thị  vương,  Biện  Thành vương và Chuyển Luân vương. Ra khỏi điện Sâm La, họ đều cúi mình chào đón Thái Tông. Thái Tông khiêm tốn, không dám đi trước. Mười vị Diêm vương nói:

- Bệ hạ là vua trên trần, chúng tôi là vua dưới âm, chức trách chia ra làm vậy, không nên khiêm nhường quá!

Thái Tông nói:

- Trẫm là kẻ có tội dưới cờ, đâu dám bàn chuyện âm, dương, người, quỷ!

Nhưng từ chối mãi không được, Thái Tông đành đi trước, vào thẳng điện Sâm La, cùng mười vương thi lễ xong, chia ngôi chủ khách ngồi xuống.

Lát sau, Tần Quảng vương chắp tay đứng dậy, nói:

- Long vương Kinh Hà tố cáo bệ hạ đã hứa cứu cho, sau lại giết hắn là cớ sao?

Thái Tông thưa:
- Trẫm có nằm mơ thấy Long vương cầu cứu thực bụng muốn cứu hắn. Không ngờ hắn phạm tội đáng chết, bị tào quan của trẫm là Ngụy Trung xử trảm. Trẫm đã triệu Ngụy Trung vào cung đánh cờ, chẳng hay Ngụy Trung đã chém hắn trong giấc
mộng. Đó là sự hiển linh nhiệm màu[76]


của quan nhân tào, và
cũng do Long vương phạm tội đáng chết nữa, đâu có phải là lỗi của trẫm.

Mười Diêm vương nghe xong, cúi đầu đáp lễ nói:

- Trước khi Long vương ra đời, trong sổ tử của Nam Đẩu tính đã ghi rõ hắn bị giết bởi tay nhân tào. Chúng tôi đã biết trước việc đó. Nhưng hắn đã đến đây biện bạch, nên phải mời bệ hạ xuống đây để ra tam tào đối án. Chúng tôi đã đưa hắn vào vòng luân hồi, chuyển sinh kiếp khác rồi. Nay phiền bệ hạ xuống đây nhọc mệt, mong bệ hạ bỏ qua cho tội đòi gọi.

Nói xong, sai ngay vị phán quan mang sổ sinh tử lại trình, xem tuổi thọ của nhà vua ở dương thế được bao nhiêu năm. Phán quan họ Thôi vội quay vào ty phòng, mang cuốn sổ hưởng lộc trời của vua chúa các nước trong thiên hạ ra xem xét lại một lượt, thấy ghi Thái Tông hoàng đế nhà Đại Đường, thuộc Nam Thiệm Bộ Châu hết sổ năm Trinh Quán thứ mười ba. Thôi phán quan giật mình, vội vàng lấy bút chấm đẫm mực viết thêm hai
[77]
nét vào chữ nhất

 rồi đưa sổ ra trình. Mười Diêm vương soát
lại một lượt từ dầu, thấy ghi ở dưới tên Thái Tông là ba mươi ba năm, bèn thất kinh hỏi:

- Bệ hạ lên ngôi được mấy năm rồi? Thái Tông thưa:
- Trẫm lên ngôi đến nay là mười ba năm. Diêm vương nói:
- Bệ hạ hãy yên tâm đừng lo nghĩ, bệ hạ còn hai mươi năm
hưởng thọ ở trần gian nữa kia. Lần này xuống đây đối chất minh bạch rồi, bây giờ xin mời bệ hạ trở lại trần thế.

Thái Tông nghe nói, cúi mình cảm tạ. Mười Diêm vương sai Thôi phán quan, Chu thái úy đưa Thái Tông về trần. Thái Tông ra khỏi điện Sâm La, còn giơ tay hỏi mười Diêm vương rằng:

- Những người già trẻ trong cung của trẫm thọ, yểu thế nào? Mười Diêm vương đáp:
- Đều thọ cả, chỉ e em gái nhà vua, tuổi thọ không bền. Thái Tông lạy tạ thưa:
- Trẫm về dương thế chẳng có quà gì kính biếu, chỉ có mấy quả bí mà thôi.

Mười Diêm vương mừng lắm, nói:

- Dưới chúng tôi có đủ bí đao, dưa hấu, chỉ thiếu bí ngô thôi. Thái Tông nói:
- Trẫm về sẽ gửi ngay, gửi ngay! Hai bên vái chào từ biệt.
Thái úy cầm một cành phan dẫn hồn đi trước, Thôi phán quan theo sau bảo vệ Thái Tông ra khỏi âm ty. Thái Tông ngước mắt nhìn, thấy không phải đường cũ, bèn hỏi vị phán quan:

- Đường này sai rồi chăng? Phán quan thưa:
- Không sai đâu. Ở âm ty như vậy đấy. Chỉ có đường đi không có lối về. Nay đưa bệ hạ ra qua đường chuyển luân hồi, một là để bệ hạ tham quan âm phủ, hai là giúp cho bệ hạ chuyển kiếp siêu sinh.

Thái Tông chỉ còn biết đi theo hai người dẫn đường mà thôi. Đi  được vài dặm, thấy một tòa núi cao, mây che u ám, mù
phủ tối tăm, Thái Tông hỏi:

- Thôi tiên sinh, đây là núi nào? Phán quan thưa:
- Đó là núi Bối Âm ở âm phủ. Thái Tông giật mình, nói:
- Trẫm làm sao đi qua được? Phán quan thưa:
- Bệ hạ cứ yên tâm, đã có thần dẫn lối.

Thái Tông run rẩy lật đật, bám theo sát hai người, lên đến đỉnh núi, ngẩng đầu nhìn, chỉ thấy:

Hình thế gập ghềnh và hiểm trở Dốc như đỉnh Thục với non Lu Chẳng phải non cao trên dương thế Thực là núi hiểm dưới âm ty
Gai góc um tùm che quỷ quái Cheo leo vách đá giấu yêu ma Bên tai chim thú đều im bặt Đầy đường chỉ thấy quỷ đi về Gió âm hiu hắt thần binh thổi Khí độc bủa giăng quỷ sứ phi
Nhìn khắp thấp cao không cảnh đẹp

Ngó ra sau trước rặt hồn ma.

Ở đây đủ cả:




Nào núi, nào động

Nào đèo, nào khe
Có điều:




Núi không cỏ mọc Đèo không người qua Khe không nước chảy Động không mây về Vách non đầy quỷ quái Chân núi rặt yêu ma Trong động toàn quỷ dại Dưới khe ẩn hồn tà

Trước núi sau non, mặt ngựa đầu trâu gào loạn xị

Che tay úp mặt, cô hồn quỷ đói khóc hu hu

Phán quan đòi mạng, vội vội vàng vàng truyền tín phiếu

Thái úy bắt hồn, hò hò hét hét chuyển văn thư

Bọn thừa sai, đông như kiến cỏ

Lũ quỷ bắt đặc tựa mây mù.

Nhờ sự bảo vệ của Phán quan, Thái Tông ra khỏi Bối Âm sơn. Sau đó, lại đi qua nhiều nha môn, nơi nào cũng nghe thấy tiếng khóc rền rĩ inh tai, ghê hồn láng sự. Thái Tông lại hỏi:

- Đây là chỗ nào? Phán quan thưa:
- Đây là mười tám tầng địa ngục ở đằng sau Âm Sơn. Thái Tông hỏi:
- Mười tám tầng ấy là gì? Phán quan đáp:
- Bệ hạ nghe thần nói đây.
Ngục Điếu Cân, ngục U Uổng, ngục Hỏa Khanh vắng vẻ quạnh hiu, buồn rầu phiền não, toàn những người lúc sống, gây nhiều ác nghiệp, nên sau khi chết đều phải chịu tội ở đây.

Ngục Phong Đô, ngục Bạt Thiệt, ngục Bát Bĩ, thút thít khóc than, thê lương thảm thiết, chỉ vì bất trung bất hiếu trái lẽ trời, miệng Phật dạ sói, nên sa xuống ngục này.

Ngục Ma Nhai, ngục Đối Đảo, ngục Xa Băng, thịt rách da toang, bẻ răng rạch miệng, chỉ vì tâm địa mờ ám, cư xử bất công, ăn nói điêu toa, hãm hại người khác.

Ngục Hàn Băng, ngục Thoát Xác, ngục Trừu Trường, mặt bẩn đầu bù, mày nhăn mắt hõm, đều là hạng lường thưng trào đấu, lừa dối người dân, thành thử tai ương lụy đến thân.

Ngục Du Oa, ngục Hắc Ám, ngục Đao Sơn, nơm nớp sợ run, hãi hùng thảm thiết, đều là do hùng bạo ức hiếp người lương thiện, nay phải rụt cổ xo vai, chịu khổ vô cùng.

Ngục  Huyết  Trì,  ngục  A  Tỵ,  ngục  Xứng  Can,  lột  da  róc xương, cắt gân bẻ cẳng, cũng chỉ vì giết người cướp của, hại cả súc sinh, đầy đọa muôn đời không giải thoát, trăm luân vạn kiếp chẳng vươn mình. Người nào người nấy gông cùm khóa chặt, thừng chão quấn lằn, lại có lũ quỷ tóc đỏ, quỷ má đen, vác kiếm ngắn thương dài, quỷ đầu trâu, quỷ mặt ngựa mang dùi đồng búa sắt. Chúng đánh cho mặt mày thâm tím, máu chảy ròng ròng, van đất kêu trời chẳng ai cứu vớt. Vậy nên:

Người đời chớ có dối lừa nhau Sáng suốt quỷ thần giấu dễ đâu Lành dữ cuối cùng đều báo ứng Rành rành chẳng trước ắt là sau. Thái Tông nghe nói, vô cùng sợ hãi.
Đi được một lúc, lại thấy một toán lính quỷ, mỗi đứa đều cầm
một cành phan, quỳ xuống ven đường thưa:

- Sứ giả Kiều Lương đến đón.

Phán quan ra lệnh cho lui, dẫn Thái Tông qua cầu vàng. Thái Tông nhìn thấy bên kia có một cây cầu bạc, trên cầu có mấy người hiền lương, trung hiếu, thẳng thắn, công bằng, đi trên cầu cũng có tràng phan dẫn đưa. Nhìn phía khác lại thấy có một cây cầu, gió lạnh thấu xương, máu sôi cuồn cuộn, tiếng khóc than văng vẳng không dứt. Thái Tông hỏi:

- Chiếc cầu này tên là gì? Phán quan đáp:
- Tâu bệ hạ, đó gọi là cầu Nại Hà. Người về dương gian, cần phải nhớ kĩ. Dưới cầu ấy đều là:

Nước chảy băng băng

Đường đi hiểm trở Như dải lụa vắt qua sông Như lò than lên thượng giới Âm khí lạnh thấu xương
Giá tanh thốc đầy mũi

Sông dâng cuồn cuộn, ngược xuôi chẳng một bóng thuyền

Đầu rối chân không, lại qua toàn loài nghiệt quỷ.

Cầu dài vạn dặm, rộng chỉ ba gang, Trăm thước chiều cao, sâu nghìn dặm thẳm. Trên không tay vịn, dưới có quỷ rình.
Gông cùm đè nặng, lên cầu chênh vênh.

Bên cầu thần binh trông dữ tợn. Dưới sông hồn ác khổ vô cùng.
Cành cây móc đầy áo xanh đỏ, Vách núi giam cầm loại bất lương. Rắn đồng, chó sắt tranh nhau cắn. Sa xuống Nại Hà chẳng lối lên.
Có bài thơ rằng:

Thường nghe quỷ khóc với thần gào, Sông máu dâng trào sóng vút cao. Vô khối đầu trâu cùng mặt ngựa, Hung hăng trấn giữ Nại Hà Kiều.
Đang lúc nói chuyện, mấy sứ giả Kiều Lương lại quay về. Thái Tông trong lòng lo sợ, cúi mặt than thầm, lẳng lặng đi theo Phán quan, Thái úy qua sông Nại Hà quái ác, cõi khổ huyết hồn. Đến trước thành Uổng Tử, lại nghe thấy tiếng người ồn ào huyên náo, gọi rõ ràng “Lý Thế Dân đến rồi, Lý Thế Dân đến rồi”. Thái Tông nghe gọi ruột gan rụng rời, thấy một lũ ma quỷ cụt chân gãy tay, không đầu không cổ bước ra chặn đường, thét:

- Trả tính mạng ta đây! Trả tính mạng ta đây!

Sợ quá, Thái Tông co dúm người lẩn tránh, chỉ dám gọi:

- Thôi tiên sinh, cứu ta với. Phán quan nói:
- Tâu bệ hạ, bọn họ là hai khối sáu mươi tư giặc cỏ bảy mươi hai nơi, là hồn ma của các vương tử, đầu mục, bị nghiệp oan chết uổng, lang thang khắp nơi nương tựa, chẳng được siêu sinh, chẳng có tiền nong tiêu xài, rặt là bọn cô hồn quỷ đói, bệ hạ cho chúng một ít tiền thì tôi mới cứu được.

Thái Tông nói:

- Trẫm tay không tới đây, làm gì có tiền!
Phán quan nói:

- Tâu bệ hạ, trên trần gian có một người gửi một số vàng bạc ở âm phủ. Bệ hạ đứng tên đặt tờ văn tự, tôi có thể đảm bảo, vay ông ấy một kho, cấp phát cho lũ quỷ đói ấy, thì mới đi qua được.

Thái Tông hỏi:

- Người ấy là ai? Phán quan đáp:
- Người ấy ở phủ Khai Phong, tỉnh Hà Nam, họ Tướng tên Lương, có mười ba kho vàng bạc ở đây, bệ hạ vay, về dương gian trả cũng được.

Thái Tông bằng lòng, tình nguyện đứng tên, làm văn tự giao cho Phán qua đi vay một kho vàng, nhờ Thái úy cấp phát cho hết. Phán quan còn dặn dò lũ quỷ rằng:

- Số bạc này chúng bay chia nhau cho đều, rồi buông ra để Hoàng đế Đại Đường đi. Tuổi thọ của ngài còn dài, ta vâng lệnh mười Diêm vương đưa ngài về trần. Đến dương gian, ngài sẽ lập đàn chay “đại hội thủy lục” tế độ cho chúng bay được siêu sinh, chớ có sinh sự nữa.

Bọn quỷ được chia vàng bạc, lại nghe nói như vậy, đều ngoan ngoãn rút lui. Phán quan sai Thái úy vẫy cành phan, dẫn hồn đưa Thái Tông ra khỏi thành Uổng Tử, lên con đường bằng phẳng sáng sủa, phơi phới ra về.

Đi được một lúc lâu, đến chỗ “sáu đường luân hồi” lại thấy người cưỡi mây thì mình mặc áo tiên, kẻ được ghi tên vào sổ lưng đeo ấn cá vàng, các loại người tăng ni đạo lục, các loài thú chạy chim bay, các loại quỷ quái hèn hạ đều cuồn cuộn đi vào đường luân hồi, loại nào đi vào đường của loại ấy. Thái Tông hỏi:

- Thế này là thế nào?
Phán quan thưa:

- Bệ hạ bụng dạ sáng suốt hẳn là nhớ rõ để về kể cho người dương thế biết. Đây gọi là “Sáu đường luân hồi”. Người nào làm việc thiện được hóa lên đường tiên. Người nào thủy chung, siêu sinh vào đường quý. Người nào hiếu hạnh, tái sinh vào đường phúc. Người nào công bằng sinh lại vào đường người. Người hay làm phúc, chuyển sinh vào đường giàu. Người độc ác, chìm đắm xuống đường quỷ.

Thái Tông nghe nói, gật gù than rằng:

Đúng thay, thật đúng thay!

Ở lành quả gặp hay. Lòng lành thường tha thiết, Đường đẹp mở ra ngay. Đừng có làm điều ác,
Hẳn ít chuyện chông gai. Đừng bảo không báo ứng.
Quỷ thần đã an bài.

Phán quan đưa Thái Tông thẳng tới cửa “đường quỷ siêu sinh” rồi lạy tạ, nói:

- Tâu bệ hạ, đây là nơi xuất đầu, thần xin từ biệt, còn có Chu thái úy sẽ dẫn bệ hạ đi một đoạn nữa.

Thái Tông cảm tạ, nói:

- Tiên sinh phải lặn lội khó nhọc quá! Phán quan thưa:
- Bệ hạ về dương thế, phải nhớ lập đàn chay “đại hội thủy lục” để độ cho những oan hồn vô chủ, chớ có quên đấy! Dưới âm ty không tiếng oán hờn, thì trên dương thế mới được hưởng
phúc thái bình. Phàm những việc ác, nhất nhất phải sửa đổi đi, và khuyên bảo người đời làm việc thiện, như vậy con cháu bệ hạ mới được lâu dài, non sông mới bền vững.

Thái Tông nghe theo tất cả, từ biệt Thôi phán quan, theo Chu thái úy đi vào cửa. Thái úy thấy trong cửa có con ngựa Hải Lựu, yên cương đủ cả, vội mời Thái Tông lên ngựa, còn mình đi bên cạnh bảo vệ. Ngựa phi như bay, thoắt đã tới bờ sông Vị Thủy, thấy một đôi cá chép vàng tung tăng giỡn sóng, Thái Tông thấy hay hay, kìm ngựa ngắm mãi không thôi.

Thái úy nói:

- Xin bệ hạ đi nhanh lên một chút, cho kịp giờ thìn vào thành. Thái Tông mải xem, không chịu đi, bị Thái úy tóm chân quát:
- Bệ hạ không đi còn đợi gì?

Tõm một cái, Thái Tông từ mình ngựa ngã xuống sông Vị
Thủy. Thế là thoát khỏi âm ty, trở về dương thế.

Lại nói lúc ấy, triều đình nhà Đường có các quan văn võ Từ Mậu Công, Tần Thúc Bảo, Hồ Kính Đức, Đoàn Chi Hiên, Mã Tam Bảo, Trình Giảo Kim, Cao Lễ Liêm, Lý Thế Tịch, Phóng Huyền Linh, Đỗ Như Hối, Tiêu Vũ, Phó Dịch, Trương Đào Nguyên, Trương Sĩ Hành, Vương Khuê, cùng hai ban văn võ bảo vệ Đông cung thái tử cùng hoàng hậu, phi tần, cung nga, thị nữ đều có mặt ở điện Bạch Hổ làm lễ cử ai. Một mặt bàn việc xuống chiếu báo tang, hiểu dụ thiên hạ, và muốn dựng thái tử lên ngôi. Lúc ấy, Ngụy Trung đứng bên cạnh, thưa:

- Các vị hãy thư thả, không nên, không nên! Làm kinh động
trăm họ[78]


sợ sinh việc bất trắc. Hãy đợi thêm một ngày nữa,
nhà vua chắc sẽ sống lại.

Hứa Kính Tông đứng dưới bước ra, nói:
- Ngụy thừa tướng nói sai rồi. Người xưa nói: “Nước đổ khó hót, người chết không về”. Tại sao ngài lại nói những lời trống rỗng, mê hoặc lòng người, chẳng ra thể thống như vậy!

Ngụy Trung nói:

- Chẳng giấu gì Hứa tiên sinh, tôi thuở nhỏ có học thuật tiên, suy xét chẳng lầm, đoán rằng nhà vua quyết không chết.

Đang trao đổi bỗng nghe thấy trong áo quan có mấy tiếng kêu to:

- Dìm chết ta sao? Dìm chết ta sao?

Văn võ bá quan thất kinh, hoàng hậu, phi tần khiếp đảm, ai nấy:

Mặt xanh như tàu lá, Lưng nhũn tựa tơ mềm.
Thái tử chân run, chống gậy không nổi; Quan thị bạt vía, quẳng cả mũ rơm.
Phi tần ngã sấp, khác nào gió lốc vặn chùm hoa; Cung nữ ngả nghiêng, tựa trận mưa rào chồi biếc, Các quan sợ hãi, xương nhũn gân tê;
Như dại như mê, chân tay lẩy bẩy Đài đám ma chẳng khác chùa nghiêng Điện Bạch Hổ như cây cầu gãy.
Lúc ấy, cung nhân chạy tứ tung, chẳng ai dám đến gần linh cữu. May có Từ Mậu Công chính trực, Ngụy thừa tướng uy nghi, Tần Quỳnh can đảm, Kính Đức dạn dày, bước đến đỡ lấy quan tài, gọi:

- Bệ hạ có điều gì chưa yên lòng, cứ nói với chúng thần, không nên tác quái làm kinh sợ gia tộc.
Ngụy Trung nói:

- Không phải tác quái đâu! Bệ hạ hoàn hồn sống lại đó. Mang ngay khí giới lại đây!

Khi mở được nắp quan tài ra, quả nhiên thấy Thái Tông ngồi ở trong, vẫn còn kêu:

- Dìm chết ta à? Ai cứu ta đấy?

Bọn Mậu Công đỡ Thái Tông dậy, nói:

- Bệ hạ tỉnh lại đừng sợ. Có chúng thần ở đây hộ giá. Lúc ấy vua Đường mới mở mắt, nói:
- Trẫm vừa mới bị tai nạn: Thoát khỏi nạn quỷ âm ty, lại gặp họa vùi thân đáy nước.

Các bề tôi thưa:

- Bệ hạ yên tâm đừng sợ, có tai nạn sông nước nào đâu? Vua Đường nói:
- Trẫm đang cưỡi ngựa đến bờ sông Vị Thủy, thấy đôi cá đùa giỡn, thì bị Chu thái úy lừa, hất trẫm ngã ngựa lăn xuống sông, suýt nữa chết đuối.

Ngụy Trung nói:

- Bệ hạ còn chưa giải hết tử khí.

Vội sai ngay Thái y viện dâng mấy thang thuốc an thần, và sửa soạn cơm nước. Thái Tông uống liền hai ba thang mới bình phục, tỉnh táo như thường.

Kể từ khi vu Đường chết đi, vừa đúng ba ngày ba đêm rồi lại trở về dương thế làm vua. Có bài thơ làm chứng rằng:

Muôn thuở non sông đổi mấy lần, Bao phen thành bại cuộc đua tranh. Chu, Tần, Hán, Tấn bao trò lạ,
Ai giống vua Đường tử lại sinh.

Khi ấy, trời đã về chiều, mọi người mời vua về nội tẩm, rồi ai nấy giải tán.

Sáng hôm sau, mọi người trút bỏ đồ tang, thay xiêm áo hoa. Người đội mũ đen mặc bào đỏ; kẻ đeo giải tía, bài vàng, đứng đợi tuyên chiến ngoài triều. Lại nói Thái Tông từ hôm uống thuốc an thần, ăn liền mấy thang cháo, được bề tôi đỡ vào nội tẩm, đêm ấy ngủ ngon, tinh thần sảng khoái, đến sáng mới dậy, trông thật uy nghi:

Đầu đội mũ xung thiên, Mình khoác long bào đỏ. Bụng thắt đai ngọc lam, Chân đi đôi hài nhỏ,
Tướng mạo đường đường, bậc nhất triều đình; Lẫm liệt oai phong, hôm nay lại tỏ.
Quả đúng là vua họ Lý, chết đi sống lại, Hoàng đế Đại Đường, lạc đạo thanh bình
Vua Đường lên điện Kim Loan, hội họp hai ban văn võ. Các quan tung hô vạn tuế xong, theo thứ tự chức tước chia ban. Nhà vua truyền lệnh:
- Ai có việc gì thì xin vào tâu, không có việc gì thì lui triều. Phía bên Đông có bọn Từ Mậu Công, Ngụy Trung, Vương
Khuê, Đỗ Như Hồi, Phòng Huyền Linh, Viện Thiên Cương, Lý
Thần Phong, Hứa Kính Tông; bên Tây có bọn Ân Khai Sơn, Lưu Hồng Cơ, Mã Tam Bảo, Đoàn Chí Hiên, Trình Giảo Kim, Tần Thúc Bảo, Hồ Kính Đức, Tiết Nhân Quý cũng nhất tề bước ra, phủ phục trước thèm ngọc trắng tâu:
- Giấc mộng hôm qua của bệ hạ sao lâu mới tỉnh vậy? Thái Tông nói:
- Hôm qua nhận được lá thư của Ngụy Trung, trẫm biết là hồn trẫm ra khỏi điện, rồi thấy quân ngự lâm mời trẫm đi săn. Đang đi thấy người, ngựa mất hút. Lại thấy cả tiên quân cùng anh em trẫm hò hét đòi mạng. Đang lúc gay go, thấy một người đội mũ, mặc áo thâm, chính là phán quan Thôi Giác quát đuổi anh em trẫm đi. Trẫm đưa thư của Ngụy Trung cho ông ấy xem. Lại thấy một người mặc áo xanh, cầm cành phan dẫn trẫm vào điện Sâm La, ngồi cùng với mười vị Diêm vương. Các ngài kể lại chuyện Long vương Kinh Hà vu cáo trẫm hứa cứu hắn mà hắn vẫn bị giết. Trẫm trần tình lại một lượt. Các ngài nói đã đối án ở tam tào rồi, và sai quan giữ sổ sinh tử kiểm tra số tuổi thọ trên trần của trẫm. Thôi phán quan dâng sổ lên. Diêm vương xem trẫm được hưởng lộc trời là ba mươi ba năm, nay mới được mười ba năm, còn những hai mươi năm nữa. Thế là các ngài tức khắc sai Chu thái úy, Thôi phán quan đưa trẫm về. Trẫm chia tay với mười Diêm vương và có hứa biếu bí tạ ơn. Ra khỏi điện Sâm La, nhìn xuống âm ty thấy những kẻ bất trung, bất hiếu, phi lễ, phi nghĩa, hủy hoại thóc gạo, lừa bịp dối trá, lường thưng tráo đấu, trộm cắp, dâm tà, chịu đủ nhục hình như: xay, đốt, giã, róc thịt, treo cổ, muôn hình muôn vẻ, không sao xem hết. Lại vào thành Uổng Tử thấy vô số oan hồn đều là giặc cỏ ở sáu mươi tư nơi khói bụi, linh hồn ở bảy mươi hai nơi phản loạn, chặn đường đi của trẫm. May có Thôi phán quan giúp đỡ, mách vay một kho vàng bạc của một vị Tướng ở Hà Nam, phân phát cho các oan hồn, mới đi thoát được. Thôi phán quan dặn dò cặn kẽ trẫm về dương thế, phải dựng đàn chay “đại hội thủy lục”, siêu độ cho những cô hồn vô chủ ấy, rồi từ biệt trẫm. Tới “sáu đường luân hồn”, Chu thái úy mời trẫm lên ngựa. Ngựa phi như bay tới bờ sông Vị Thủy, trẫm nhìn thấy một đôi cá đùa giỡn trên mặt
nước. Đang mải mê xem, bị Thái úy tóm chân hất trẫm xuống nước. Thế là trẫm hoàn hồn.

Các quan nghe nói, ai nấy vui mừng chúc tụng nhà vua, rồi truyền bảo khắp nơi, quan viên các phủ, huyện trong cả nước dâng biểu chúc mừng tới tấp.

Chuyện không nói nữa.

Lại nói vua Thái Tông xuống chiếu đại xá cho các tội nhân trong thiên hạ, xét lại những kẻ tội nặng trong ngục. Lúc ấy, thẩm quan kiểm tra những tội nhân mà Bộ Hình đã khép vào tội xử chém, xử treo cổ, hơn bốn trăm người dâng lên. Thái Tông tha cho về nhà từ biệt cha mẹ, anh em, dặn dò con cháu, rồi đúng ngày này sang năm lại ra tòa chịu tội. Bọn tù tạ ơn lui ra. Lại treo bảng phát chẩn cho những người cô đơn, kiểm tra số cung nữ già trẻ, có ba nghìn người, thả ra cho đi làm vợ lính.

Từ đấy, trong ngoài đều yên. Có bài thơ làm chứng rằng:

Vua nước Đại Đường công đức to, Đạo hơn Nghiêu Thuấn vạn dân no, Tử tù bốn trăm cho thoát ngục, Cung nữ ba ngàn thả tự do.
Thiên hạ trăm quan mừng thượng thọ, Triều đình văn võ chúc tung hô.
Lòng lành hẳn được trời xanh giúp, Mười bảy đời truyền phúc ấm dư.
Vua Thái Tông thả cung nữ, thả tử tù rồi, lại làm một bài chế, treo bảng thông báo khắp thiên hạ.

Bài chế viết:

Trời đất mênh mông, nhật nguyệt sáng soi rõ rệt,
Vũ trụ bát ngát, đất trời chẳng tựa kẻ gian. Lòng dạ sói lang, báo ứng ngay tại nhãn tiền. Ở ăn lành hiền, gặp may chẳng chờ hậu thế.
Trăm mưu ngàn kế, chẳng bằng giữ gốc làm người, Muôn khóe kiếm lời, sao bằng tùy duyên tiết kiệm.
Từ đấy, trong thiên hạ ai cũng làm điều thiện.

Thái Tông lại một mặt treo bảng cầu hiền, tìm người xuống âm ty dâng bí: một mặt xuất vàng bạc trong kho, sai Ngục quốc công Hồ Kính Đức mang đến phủ Khai Phong, Hà Nam tìm nhà Tướng Lương trả nợ.

Bảng treo được vài ngày, có một người đến xin nhận việc đi dâng bí. Người ấy quê ở Quận Châu, họ Lưu tên Toàn, nhà giàu ức vạn. Một hôm, chỉ vì người vợ là Lý Thúy Liên đứng cửa rút cây thoa vàng bố thí nhà sư, bị Lưu Toàn mắng mấy câu là không giữ đạo làm vợ, tự tiện ra cửa. Thúy Liên tức quá, chịu không nổi, thắt cổ tự tử, để lại đứa con bé bỏng đêm ngày kêu khóc. Lưu Toàn không chịu nổi cảnh ấy, chẳng kể tính mạng, cơ nghiệp, con cái, tình nguyện xin đem cái chết đi dâng bí, đến ra mắt vua Đường.

Vua Đường truyền lệnh đưa Lưu Toàn vào quán Kim Đình, đầu đội hai quả bí, tay áo giắt tiền vàng, miệng ngậm vị thuốc.

Lưu Toàn ngậm thuốc độc mà chết. Linh hồn đội bí đến cửa quỷ môn. Quỷ sứ giữ cửa hỏi:

- Nhà ngươi là ai mà dám đến đây? Lưu Toàn thưa:
- Tôi vâng mệnh hoàng đế Thái Tông nhà Đại Đường xuống dâng bí lên mười vị Diêm vương dùng.

Quỷ sứ vui mừng đưa Lưu Toàn vào.
Lưu Toàn vào điện Sâm La, ra mắt Diêm vương, dâng bí lên, tâu:

- Tôi vâng mệnh vua Đường, từ nơi xa xôi đến dâng bí để báo ơn khoan hồng của mười vị Diêm vương.



Diêm vương mừng lắm, nói:

- Hoàng đế Thái Tông thật là một người tín nghĩa. Rồi nhận bí, và hỏi họ tên quê quán người dâng bí. Lưu Toàn thưa:
- Tiểu nhân quê ở Quận Châu, họ Lưu tên Toàn. Vì vợ là Lý thị tự tử, để lại con nhỏ chẳng ai chăm nom, tiểu nhân bèn tình nguyện bỏ nhà lìa con, quên mình báo nước, đi dâng bí giúp vua Đường, để tạ ơn sâu của các đại vương.

Mười Diêm vương nghe nói, lập tức sai tra xét vợ Lưu Toàn là Lý thị. Quỷ sứ dẫn ngay Lý thị vào điện Sâm La để hai vợ
chồng gặp nhau. Vợ chồng giãi bày tâm sự, và tạ ơn mười vị
Diêm vương.

Diêm vương lại kiểm tra sổ sinh tử, thấy vợ chồng Lưu Toàn đều được hưởng thọ lên tiên, bèn sai quỷ sứ đưa về.

Quỷ sứ tâu rằng:

- Lý Thúy Liên ở âm phủ đã lâu, thể xác đã mất thì hồn nhập vào đâu được?

Diêm vương nói:

- Em gái vua Đường là Lý Ngọc Anh vừa mới chết, nhà ngươi mượn thể xác ấy, mà hoàn hồn cho nàng về.

Quỷ sứ vâng mệnh, đưa ngay hai vợ chồng Lưu Toàn ra khỏi âm ty về dương thế.

Chưa biết vợ chồng Lưu Toàn sống lại ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ MƯỜI HAI


Vua Đường lòng thành mở đại hội


Quan Âm hiển thánh hóa Kim Thiền


Lại nói quỷ sứ dẫn vợ chồng Lưu Toàn ra khỏi âm ty theo làn
gió âm quấn quýt, đến thẳng kinh đô Tràng An. Quỷ sứ dẫn linh hồn Lưu Toàn vào trong quán Kim Đình, đưa hồn Thúy Liên vào nội cung. Lúc ấy công chúa Ngọc Anh đang đi chơi trên đám rêu xanh, dưới bóng cây, bỗng bị quỷ sứ đẩy mạnh một cái, ngã lăn ra đất. Chúng bắt ngay hồn của Ngọc Anh đưa đi, đẩy linh hồn Thúy Liên vào thân thể Ngọc Anh, rồi quay về âm ty. Chuyện không nói nữa.


Lại nói thị tỳ lớn nhỏ trong cung thấy Ngọc Anh ngã chết, vội vàng chạy tới điện Kim Loan tâu với Tam cung hoàng hậu.

- Công chúa nương nương ngã chết rồi. Hoàng hậu sợ hãi, vào báo với Thái Tông. Thái Tông nghe nói gật đầu than:
- Chuyện này ta biết trước rồi. Ta từng hỏi mười Diêm vương rằng: “Già trẻ có thọ không?”. Các ngài nói: “Thọ cả, chỉ em gái vua yểu mệnh thôi!”. Nay quả như lời.

Mọi người trong cung đều thương khóc, chạy cả đến gốc cây xem xét, thấy công chúa còn đang thoi thóp. Vua Đường nói:

- Đừng khóc! Đừng khóc! Làm nàng sợ. Đoạn bước tới nâng đầu nàng dậy, gọi:
- Ngọc Anh! Hiền muội tỉnh lại đi! Tỉnh lại đi! Công chúa bỗng trở mình, gọi:
- Phu quân chầm chậm cho, chờ thiếp với! Thái Tông nói:
- Hiền muội! Anh đây mà! Công chúa bèn vùng dậy.
- Nhà ông là ai mà dám giữ tôi? Thái Tông nói:
- Ta là vua, là anh trai, và cả chị dâu của hiền muội đây mà. Công chúa nói:
- Tôi đâu có anh, có chị là nhà vua, hoàng hậu. Nhà tôi họ Lý, tên tôi là Lý Thúy Liên, chồng tôi họ Lưu tên Toàn. Chúng tôi đều là người ở Quận Châu. Ba tháng trước đây, tôi rút cây thoa vàng bố thí cho một nhà sư, bị chồng tôi mắng là tự tiện ra cửa, không giữ đạo làm vợ. Tôi ức quá, bèn rút dải lụa trắng treo cổ
lên xà nhà tự tử, bỏ lại hai con nhỏ, ngày đêm kêu khóc. Nay chồng tôi vâng mệnh vua Đường xuống âm ti dâng bí, Diêm vương thấy thế thương tình tha cho vợ chồng tôi về trần. Chồng tôi đi nhanh, tôi đi chậm, theo không kịp, bị vấp ngã. Các ông thật vô lễ, chẳng rõ họ tên mà dám giữ tôi lại?

Thái Tông nghe xong, nói với mọi người:
- Có lẽ em ta ngã mê man bất tỉnh, nên nói lảm nhảm đấy! Bèn sai quan Thái y bốc thuốc, và dìu Ngọc Anh vào cung. Vua  Đường đang ở trong điện, chợt có quan coi xa giá vào
tâu:

- Vạn tuế, người dâng bí là Lưu Toàn sống lại, hiện đang đứng ngoài cửa khuyết đợi lệnh.

Vua Đường cả kinh, vội vàng sai triệu Lưu Toàn vào. Lưu
Toàn vào phủ phục trước thềm son. Thái Tông hỏi:

- Việc dâng bí thế nào? Lưu Toàn thưa:
- Thần đội bí đến cửa quỷ môn, vào điện Sâm la, ra mắt mười vị Diêm vương, dâng bí lên, và trình bày đầy đủ lòng cảm tạ ân cần của bệ hạ. Diêm vương mừng lắm, khen hoàng đế Thái tông là người tín nghĩa.

Vua Đường nói:

- Ở âm ty ngươi còn thấy những gì nữa? Lưu Toàn thưa:
- Thần không được đi xa, chẳng thấy gì cả. Diêm vương chỉ hỏi thần quê quán, họ tên. Thần đem chuyện vợ tự tử, thần bỏ nhà bỏ con, xin đi dâng bí kể lại một lượt. Diêm vương vội vàng sai quỷ sứ dẫn vợ thần đến gặp ở điện Sâm La. Một mặt tra cứu sổ sinh tử, rồi nói vợ chồng thần đều được thọ lên tiên, bèn sai
quỷ sứ đưa về. Thần đi trước, vợ thần theo sau, thật may được trở về trần gian. Nhưng không rõ vợ thần về đâu.

Vua Đường sợ hãi hỏi:

- Diêm vương có nói vợ nhà ngươi thế nào không? Lưu Toàn thưa:
- Diêm vương không nói gì. Chỉ nghe quỷ sứ nói: “Lý Thúy Liên chết lâu rồi, thể xác đã nát”. Diêm vương bảo: “Em gái vua Đường là Lý Ngọc Anh vừa mới chết. Cho Thúy Liên mượn thể xác Ngọc Anh mà nhập hồn vào”. Thần không biết em gái vua Đường là ai, nhà cửa ở đâu và chưa đi tìm được.

Vua Đường nghe xong, mừng lắm, nói với các quan:

- Khi chia tay với Diêm vương, trẫm có hỏi chuyện trong cung. Các ngài nói già trẻ đều thọ cả, chỉ e có người em gái chết non mà thôi. Vừa rồi, em gái trẫm là Ngọc Anh bị ngã chết ngay dưới gốc cây, trẫm vội vàng đỡ dậy, giây lát tỉnh lại, miệng gọi: “Chàng ơi, đi chậm một tý đợi thiếp cùng đi với”. Trẫm cho rằng nàng bị ngã mê man, nói lảm nhảm. Trẫm lại hỏi tỉ mỉ, thì nàng trả lời y hệt như Lưu Toàn vậy.

Ngụy Trưng thưa:

- Em gái bệ hạ bỗng nhiên chết ngay, trong giây lát tỉnh lại, nói ra những điều như thế. Chính là người vợ Lưu Toàn nhập hồn vào. Việc ấy cũng thường có. Giờ xin mời công chúa ra, xem nàng ăn nói ra sao.

Vua Đường nói:

- Trẫm mới hạ lệnh cho Thái y viện bốc thuốc, chưa biết thế nào?

Liền sai phi tần vào cung mời ra.

Lúc ấy, ở trong cung, công chúa la hét om sòm:
- Cho tôi uống thuốc gì thế này! Không phải nhà tôi ở đây! Nhà tôi lợp ngói mát mẻ, không giống cái nhà bề bộn này. Cửa giả sao lại lòe lẹt thế kia? Buông tôi ra! Buông tôi ra!

Đương lúc công chúa la hét, thấy năm vị quan nữ, hai ba quan
Thái giám dìu nàng ra ngoài điện. Vua Đường hỏi:

- Nàng có nhận được chồng nàng là ai không? Ngọc Anh thưa:
- Ông nói lạ vậy, hai chúng tôi lấy nhau từ thuở còn trẻ, đã sinh trai đẻ gái, sao lại không nhận được?

Vua Đường sai nội quan đỡ nàng xuống. Công chúa vừa bước xuống thềm ngọc, trông thấy Lưu Toàn liền níu chặt lấy, nói:

- Chàng ơi, chàng đi đâu mà chẳng đợi thiếp cùng đi. Thiếp vừa ngã thì bị bọn người vô đạo này vây chặt lấy, thế là làm sao?

Lưu Toàn nghe đúng giọng nói của vợ, nhưng nhìn mặt thì không phải, nên không dám nhận.

Vua Đường nói:

- Thật đúng là “núi tan đất sụt có người thấy, bắt sống thay chết quả khó tin”!

Vua Đường là một ông vua đạo đức, bèn sai mang hết tư trang quần áo của người em gái thưởng cho Lưu Toàn làm của hồi môn, lại cho hai người suốt đời miễn lao dịch, rồi bảo Lưu Toàn mang công chúa về. Hai vợ chồng bước ra trước thềm tạ ơn, sung sướng đưa nhau về nhà. Có bài thơ làm chứng rằng:

Sống chết tiền định rành rành, Ngắn dài thọ yểu trời xanh định phần. Lưu Toàn tiến bí về trần,
Mượn thây công chúa hồn giành Thúy Liên.
Từ tạ nhà vua, hai vợ chồng đưa nhau về thành Quận Châu, thấy cơ nghiệp, con cái đều nguyên vẹn, bèn hết lời ngợi ca thiện quả.

Lại nói chuyện Uất Trì Cung mang một kho vàng đến phủ
Khai Phong, Hà Nam tìm nhà Tướng Lương.

Nguyên ông này làm nghề bán hàng nước, cùng vợ là Trương thị bán chậu sành ngoài cửa. Mỗi khi bán được đồng tiền nào, họ chỉ ăn uống qua loa, còn bao nhiêu đem bố thí cho các nhà sư, hoặc mua vàng mã cúng đốt gửi kho âm phủ, vì vậy được dồi dào phúc quả. Ở trần gian họ là một người nghèo tốt bụng, nhưng dưới âm phủ lại là người trưởng giả lắm ngọc nhiều vàng. Thấy Uất Trì Cung mang vàng bạc đến nhà, hai ông bà sọ hãi hồn bay phách tán. Lại thấy cả quan viên bản phủ, ngoài cửa nếp nhà tranh ngựa xe tấp nập, hai ông bà như ngây như dại, nói không thành tiếng, chỉ biết quỳ xuống sụp lạy.

Uất Trì Cung nói:

- Mời ông bà đứng dậy. Tôi tuy là quan khâm sai, nhưng là người mang vàng bạc của nhà vua đến trả nợ ông bà.

Vợ chồng run rẩy đáp:

- Chúng tôi chẳng có một chút vàng bạc nào cho ai vay cả, đâu dám nhận thứ của bất minh ấy!

Uất Trì Cung nói:

- Tôi đã hỏi thăm và được biết ông bà là người nghèo nhưng hay bố thí sư tăng; đủ ăn đủ tiêu, còn thừa thì mua vàng mã đốt đi ký gửi dưới âm phủ, nên dưới âm phủ ông bà mới có nhiều tiền bạc. Hoàng đế Thái Tông chết đi ba ngày, rồi lại hoàn hồn sống lại. Ngài đã vay của ông bà một kho vàng bạc ở dưới ấy, nay trả lại ông bà đủ số. Ông bà mau nhận lấy để chúng tôi trở về.
Hai vợ chồng Tướng Lương chỉ biết ngẩng mặt lên trời vái lạy, không dám nhận, nói:

- Nếu chúng tôi nhận số vàng bạc này, thì sẽ chóng chết. Đúng, chúng tôi có đốt vàng mã gửi kho, song việc ấy mờ mịt lắm. Vả lại đức vua vay vàng bạc ở dưới ấy thì có gì làm bằng chứng đâu? Chúng tôi quyết không dám nhận.

Uất Trì Cung nói:

- Nhà vua nói việc vay tiền của ông bà đã có Thôi phán quan làm chứng. Ông bà nhận đi cho.

Tướng Lương nói:

- Có chết chúng tôi cũng không dám nhận.

Uất Trì Cung thấy Tướng Lương một mực chối từ, đành làm sớ sai người tâu về triều. Thái Tông xem sớ, biết Tướng Lương không nhận vàng, than rằng:

- Thật là một người lương thiện!

Lập tức lệnh cho Hồ Kính Đức mang số vàng ấy dựng một ngôi chùa, một nếp sinh từ, mời sư tăng làm lễ cầu phúc, coi như đã trả nợ cho ông ấy. Chiếu chỉ đến nơi, Kính Đức ngoảnh mặt về phía cửa khuyết tạ ơn, đọc chiếu chỉ cho mọi người cùng biết, rồi đem số bạc ấy mua một khoảnh đất đẹp, rộng năm mươi mẫu, khởi công dựng một ngôi chùa, đặt tên là “chùa Sắc Kiến
[79]
Tướng  Quốc”

.  Bên  trái  là  sinh  từ  của  vợ  chồng  Tướng
Lương, dựng bia khắc chữ “Uất Trì Cung giám tạo”. Ngày nay tức là chùa Đại Tướng Quốc vậy.

Xong việc, Uất Trì Cung về triều tâu lại. Thái Tông rất mừng. Lại hội họp các quan, treo bảng chiêu tăng, lập đàn chay “Đại hội thủy lục”, siêu độ cho những cô hồn dưới âm phủ. Bảng treo khắp thiên hạ, sức cho quan viên các nơi kén chọn cao tăng đại đức đến Tràng An mở hội. Được độ một tháng, tăng ni trong
thiên hạ đã đến đông đủ. Vua Đường xuống chiếu sai quan Thái sử thừa là Phó Dịch kén chọn cao tăng, sửa sang việc Phật. Phó Dịch nhận được chiếu, lập tức dâng biểu can ngăn ý đồ không thiết thực ấy, nói rằng đâu có Phật. Tờ biểu viết rằng:

“Đạo của nước Tây Vực, không có vua tôi cha con, lấy La
[80]
Đường

  sáu đạo lừa dối người ngu xuẩn. Truy tội quá khứ,
xét việc tương lai: miệng đọc kinh Phạn để mong trốn tránh thuế vua. Vả lại những việc sống chết thọ yểu là do tự nhiên; những việc hình đức, uy, phúc quan hệ ở bậc vua chúa. Nay nghe những bọn phàm tục, cái gì cũng cho là do Phật. Vậy thì từ đời
“năm đế ba vương”[81]


chưa có đạo Phật, mà vẫn có vua sáng
tôi trung, vận mệnh lâu dài. Đến đời Hán Minh đế mới sùng bái đạo rợ Hồ, nhưng cũng chỉ toàn nhà sư Tây Vực truyền giáo mà thôi. Thật là man di phạm vào Trung Quốc không đáng tin vậy”.

Thái Tông xem xong, vứt tờ biểu cho quần thần bàn bạc. Lúc ấy, có quan tể tướng là Tiêu Vũ bước ra, cúi đầu tâu:

- Đạo Phật đã hưng thịnh từ mấy triều đại rồi. Nó lấy lành ngăn ác, ngầm giúp cho quốc gia, không có lý gì bỏ đi được. Phật là bậc thánh nhân. Kẻ phi thánh làm điều trái phép, xin trị tội nghiêm khắc.

Phó Dịch tranh cãi cùng Tiêu Vũ, nói lễ gốc ở việc thờ cha, thờ vua, mà đạo Phật thì bỏ cha mẹ đi tu, đem kẻ thất phu chống lại thiên tử, lo lấy thân mình mà bôi bạc với cha mẹ. Tiêu Vũ có lẽ chui ra từ lỗ nẻ, mới đem cái đạo không có cha mẹ ấy, thật là những kẻ bất hiếu bất trung.

Tiêu Vũ chỉ chắp tay nói:

- Đặt ra địa ngục, chính là để dành cho những hạng người này vậy.

Thái Tông cho mời Thái phó khanh Trương Đạo Nguyên,
Trung thư lệnh Trương Sĩ Hành vào, hỏi việc thờ Phật làm phúc, báo ứng thế nào. Hai người thưa:

- Đạo Phật chủ ở thanh tịnh, đối với người khoan dung nhân từ; nhân quả thì có, Phật pháp thì không. Chu Vũ Đế chia ba giáo theo thứ tự. Thiền sư Đại Tuệ có lời tán tụng những điều u viễn, mấy đời chúng sinh cúng trời, thảy đều hiển linh. Năm vị tổ sư đi đầu thai, đức Đạt Ma hiện chân tướng. Từ xưa đến nay đều cho ba giáo là chí tôn không thể bỏ được. Cúi xin bệ hạ anh minh xét đoán.

Thái Tông mừng lắm, nói:
- Lời khanh nói rất hợp ý trẫm. Ai còn tranh cãi nữa sẽ trị tội. Bèn sai Ngụy Trưng cùng Tiêu Vũ, Trương Đạo Nguyên làm
lễ thỉnh chư Phật, kén chọn một vị cao tăng đại đức làm đàn chủ, dựng đạo tràng. Các quan cúi đầu tạ ơn lui ra.

Từ hôm ấy, ban ra pháp luật: kẻ nào nhạo báng Phật tăng phải tội chặt tay.

Hôm sau, ba vị triều thần hội họp các tăng ở đàn Sơn Xuyên, xét chọn từng người. Trong số ấy, chọn được một vị cao tăng đức hạnh. Vị ấy là ai?

Linh thông xưa vốn Kim Thiền,

Vô tâm chẳng chịu nghe truyền Phật kinh.

Nên bị đày xuống thế gian, Giáng sinh thế tục tai ương vô vàn. Đầu thai đã gặp nguy nan,
Còn trong bụng mẹ mắc đường đảng gian.

Cha họ Trần, đỗ Trạng nguyên.

Ông ngoại tổng quản binh quyền ba quân.
Ra đời gặp nạn trôi sông.

Sóng to gió cả thuận dòng trôi xuôi.

Đến Kim Sơn gặp duyên may.

Thiên An hòa thượng cứu ngay nuôi giùm, Tuổi mười tám gặp mẫu thân,
Về ngay kinh khuyết báo ông ngoại tường.

Điều quân tể tướng Khai Sơn,

Hồng Châu sào huyệt tìm đường trừ gian.

Cha con gặp gỡ hân hoan vui mừng.

Đội ơn chúa thượng cao thâm.

Gác Lăng Yên được dự phần tiếng thơm, Thích tăng chẳng thích làm quan,
Về chùa Hồng Phúc tìm đường đi tu.

Xưa con Phật, nay Giang Lưu,

Trần Huyền Trang ấy sáng lòa pháp danh.

Hôm ấy, trong số cao tăng, chọn được pháp sư Huyền trang. Pháp sư đi tu từ nhỏ, lọt lòng mẹ đã ăn chay giữ giới. Ông ngoại là Ân Khai Sơn, làm quan tổng quản một lộ của triều đình. Bố là Trần Quang Nhị, đỗ Trạng nguyên, làm quan đại học sĩ điện Văn Uyên. Huyền Trang trong lòng chẳng thiết vinh hoa, chỉ vui tu hành đạo Phật. Xét thấy ông là người có căn nguyên tốt đẹp, đức hạnh cao dày, kinh điển nghìn pho đều thông thạo, hiệu Phật tiếng tiên đều tỏ tường. Ba vị triều thần dẫn Huyền Trang đến trước thềm vua, cúi đầu tâu:

- Lũ thần là bọn Tiêu Vũ vâng thánh chỉ, đã chọn được một vị cao tăng tên là Huyền Trang.

Thái Tông nghe tên, trầm ngâm hồi lâu, nói:
- Có phải là Huyền Trang, con trai học sĩ Trần Quang Nhị không?

Giang Lưu cúi đầu thưa:

- Chính phải.

Thái Tông mừng lắm, nói:

- Quả nhiên kén chọ chẳng sai. Thật là một vị hòa thượng có
Phật tâm, có đạo đức. Trẫm ban cho hòa thượng chức “Tả tăng
[82]
cương, Hữu tăng cương, Thiên hạ đại xiển đô tăng cương”      .



Huyền Trang cúi đầu tạ ơn, nhận tước quan Đại xiển. Thái Tông lại ban cho một tấm áo cà sa vàng thêu chỉ ngũ sắc, một chiếc mũ tỳ lư, dặn dò phải lưu tâm học hỏi các bậc cao tăng, sắp đặt ngôi các sư, sai viết chiếu chỉ, cho làm lễ ở chùa Hóa Sinh, rồi chọn ngày lành tháng tốt, diễn giảng kinh pháp.

Huyền Trang cúi lạy tạ ơn, vâng mệnh lui ra, đến chùa Hóa
Sinh, hội họp các tăng, tu tạo giường thiền sửa sang công đức, chỉnh lý âm nhạc, chọn các cao tăng già trẻ là một nghìn hai trăm người, chia làm ba ngôi thượng, trung, hạ. Các thức lễ Phật đều chuẩn bị đầy đủ, có thứ tự đâu đấy cả rồi, hẹn đến ngày ba tháng chín năm ấy, đúng giờ tốt hoàng đạo, mở đàn chay “Đại hội thủy lục” bảy bảy bốn chín ngày. Lại dâng biểu mời nhà vua, các quan văn võ, hoàng thân quốc thích đúng hẹn đến đại hội dâng hương lễ Phật. Có thơ làm chứng rằng:

Rằng năm Trinh Quán mười ba, Nhà vua hội họp sư về giảng kinh. Đạo tràng khai diễn phép linh,
Đài cao đại nguyện mây lành trở che.

Chùa xây ơn sắc chỉ vua,

Kim Thiền lột xác tìm về Tây phương, Ban thiện quả, độ trầm luân,
Tuyên dương đạo cả ba đường dài lâu.

Năm Kỷ Tỵ, niên hiệu Trinh quán thứ mười ba, tháng chín, ngày Giáp Tuất mùng ba, giờ lành Quý Mão, Đại xiển pháp sư Huyền Trang hội họp một nghìn hai trăm vị cao tăng khai diễn các pho kinh Phật ở chùa Hóa Sinh, thành Tràng An. Hoàng đế khai  triều  buổi  sáng  xong,  dẫn  các  quan  văn  võ  ngồi  kiệu phượng, xe rồng, rời điện Kim Loan, thẳng tới chùa dâng hương làm lễ. Thật là:

Đầy trời khí lành hiện, Khắp chốn ánh hào quang. Gió đưa ấm áp,
Vầng dương đẹp lạ dường. Trăm quan tề chỉnh chia ban đứng.




























Lại thấy:

Năm lớp cờ mao cắm dọc đường. Từng hàng quân lính cầm qua, việt, Đuốc hoa, lư đỉnh ngát mùi hương. Rồng bay phượng múa,
Ưng lượn dập dờn. Vua thánh sáng suốt, Tôi hiền trung lương.
Hưởng phúc nghìn năm hơn Thuấn Vũ, Thái bình muôn thuở vượt Nghiêu Thang.



Tán tía lọng vàng màu rực rỡ, Quạt hoa vòng ngọc vẻ huy hoàng. Hộ giá quân nghìn đội,
Hầu vua tướng hai hàng. Hoàng đế thành tâm vào lễ Phật,
Quy y thiện quả kính dâng hương.

Xa giá vua Đường đến trước chùa, lệnh truyền tạm dừng âm nhạc. Nhà vua xuống xe, dẫn các quan vào dâng hương lễ Phật, đi quanh ba vòng, rồi ngẩng đầu nhìn. Quả một đạo tràng tuyệt vời!

Tràng phan lộng lẫy, Lọng báu huy hoàng.
Tràng phan lộng lẫy, phấp phới bay lớp lớp tầng không. Lọng báu huy hoàng, phản chiếu ánh chiều mầu thắm đẹp. Tượng vàng đức Phật trang nghiêm,
Dung nhan La hán lẫm liệt.

Bình cắm hoa tiên, Lư đốt đàn hương.
Bình cắm hoa tiên, cây gấm lung linh quanh bảo tháp. Lư đốt đàn hương, khói thơm cuồn cuộn vút tầng xanh.
Quả hoa tươi tắn để đầy mâm, Bánh kẹo ngon lành bày khắp án. Cao tăng ngồi chật tụng kinh thiền, Siêu độ cô hồn thoát khổ nạn.
Thái Tông cùng các quan văn võ thắp hương lễ Phật tổ và các vị La hán. Lúc ấy, Đại xiển đô cương pháp sư Trần Huyền Trang dẫn các nhà sư ra chào vua Đường. Làm lễ xong, mọi người chia ban ngồi vào chỗ của mình. Pháp sư dâng bảng văn tế cô hồn lên cho Thái Tông xem. Bảng rằng:

Đức lớn mờ mịt, đạo thiền tịch diệt, Thanh tĩnh linh thông, ba cõi gồm trong. Thiên biến vạn hóa, bao quát Âm dương, Thể dụng hằng thưởng, vô cùng vô tận. Nghĩ những cô hồn, thật là thương xót. Ta nay vâng lệnh Thái Tông:
Hội họp chúng tăng, tham thiền giảng pháp.

Cánh cửa phương tiện mở toang, Bánh lái từ bi chèo miết.
Cứu vớt khổ hạnh chúng sinh, Thoát khỏi sáu đường tăm tối.
Dẫn về đường chính,
Cõi cũ dạo chơi. Cuộc sống thảnh thơi, Vô cùng thuần phác.
Hôm nay dịp tốt, xin về thưởng thức thú hanh đô, Lên hội ta đây, để thoát ngục tù nhiều cực khổ. Sang cõi trời Tây sống tự do.
Lên miền cực lạc chơi đây đó.

Lại có bài thơ rằng:

Một lò hương thơm ngát.

Mấy bộ kinh siêu sinh.

Diệu pháp thật tài tình, ơn trời nhuần khắp chốn.

Nghiệt oan kia giải trọn, Cô hồn nọ thoát tù.
Bảo hộ cho nước nhà, Thái bình muôn phúc hưởng.
Thái Tông xem xong, trong lòng rất vui, nói với các nhà sư:

- Các vị giữ lấy lòng trung, chớ biếng nhác việc thờ Phật. Đợi khi công việc xong xuôi, mọi người đều được hưởng phúc, lúc ấy trẫm sẽ trọng thưởng, không để ai nhọc mệt uổng công.

Một nghìn hai trăm nhà sư cúi đầu tạ ơn.

Hôm ấy, dùng xong ba bữa cơm chay, vua Đường ra về, đợi bảy ngày nữa là ngày chính hội, lại tới dâng hương làm lễ.

Lúc ấy, trời đã ngả về chiều, các quan cũng ra về cả. Thật là một buổi chiều tuyệt đẹp:

Bát ngát trời cao bóng ngả vàng, Chim về mây điểm lượn mơ màng.
Đầy thành đèn sáng, im phăng phắc, Chính lúc tham thiền của chúng tăng.
Sáng hôm sau, pháp sư lại lên đàn, hội họp các nhà sư tụng kinh. Chuyện không nói đến nữa.

Lại nói chuyện đức Quan Âm bồ tát ở núi Phổ Già, Nam Hải từ khi vâng lệnh đức Phật Như Lai, tìm người hiền đi lấy kinh ở thành Tràng An, lâu ngày rồi mà vẫn chưa gặp được người nào thật sự đức hạnh. Bỗng nghe Thái Tông tuyên dương thiện quả, kén chọn cao tăng, dựng đàn lập hội, lại thấy pháp sư đàn chủ là hòa thượng Giang Lưu, một Phật tử ở cõi cực lạc giáng trần, cũng chính là vị trưởng lão mà Bồ tát đã dẫn đi đầu thai. Bồ tát mừng lắm, đem những bảo bối của Phật ban cho, cùng Mộc Soa mang ra chợ bán. Đó là một tấm áo cà sa gấm cực quý, một cây gậy tích trượng chín vòng, còn ba cái lồng nhỏ khóa vàng thì không bán, giữ kín để dùng về sau, chỉ mang bán tấm áo cà sa và cây gậy tích trượng thôi.

Ở thành Tràng An có một bọn nhà sư dốt nát không được chọn, trong túi chỉ có mấy đồng xu, không biết là Bồ tát hóa thành một nhà sư ghẻ lở, quần áo rách rưới, đầu trọc chân đất, bưng tấm cà sa hào quang óng ánh, bèn đến gần hỏi:

- Nhà sư ghẻ kia, tấm cà sa bán giá bao nhiêu? Bồ tát nói:
- Tấm cà sa giá năm nghìn lạng. Cây gậy tích trượng hai nghìn lạng.

Bọn nhà sư dốt nát cười, nói:

- Hai lão sư ghẻ này thật là dở hơi! Ngốc lắm! Hai vật xoàng ấy mà bán những bảy nghìn lạng bạc! Trừ phi mặc vào người mà trẻ mãi không già, thành tiên thành Phật thì cũng chẳng đến nỗi đắt thế! Thôi mang đi, chẳng ai mua đâu.
Bồ tát chẳng cãi lại làm gì, cùng Mộc Soa đi tiếp. Đi được lúc lâu, đến cửa Đông Hoa, gặp ngay tể tướng Tiêu Vũ tan triều về. Quân đi trước hò hét dẹp đường, nhưng Bồ tát vẫn điềm nhiên không tránh, cứ cầm áo cà sa đi giữa phố, đến trước mặt quan tể tướng. Tể tướng dừng ngựa ngắm nghía, thấy tấm áo óng ánh hào quang, bèn sai người hầu hỏi tấm áo ấy bán bao nhiêu tiền. Bồ tát nói:

- Áo cà sa giá năm nghìn lạng, gậy tích trượng hai nghìn lạng. Tiêu Vũ hỏi:
- Tấm áo có gì quý mà bán đắt thế? Bồ tát nói:
- Tấm áo này có chỗ quý, có chỗ không quý; có chỗ lấy tiền, có chỗ không lấy tiền.

Tiêu Vũ hỏi:

- Thế nào là quý? Thế nào là không quý? Bồ tát nói:
- Mặc tấm áo cà sa của ta thì không bị đắm chìm, không sa địa ngục, không gặp tai ương ác độc, không bị hoạn nạn sói lang. Đó là chỗ quý. Còn như lũ sư dâm ô, cười vui trước đau khổ người khác; bọn hòa thượng giữ giới không nghiêm; hạng phàm phu hủy kinh nhạo Phật, thì khó lòng nhìn thấy được áo cà sa của ta. Đó là chỗ không quý.

Tiêu Vũ lại hỏi:

- Thế nào là lấy tiền, và không lấy tiền? Bồ tát nói:
- Không tuân Phật pháp, không kính tam bảo, rằng mua bằng được cà sa, tích trượng, thì nhất định ta bán với giá bảy nghìn lạng, như thế là lấy tiền. Nếu kính trọng tam bảo, thấy điều thiện
theo ngay, quy y đức Phật, được nhận tu hành, thì ta sẽ tình nguyện dâng cho cả cà sa, tích trượng và cùng ta kết duyên lành, như thế là không lấy tiền.

Tiêu Vũ nghe nói, vui ra mặt, biết nhà sư là một người tốt, lập tức xuống ngựa vái chào nói:

- Mong Đại pháp trưởng lão tha tội cho Tiêu Vũ này. Đức hoàng đế Đại Đường chúng tôi rất chuộng điều thiện, các quan văn võ trong triều không ai là không theo làm việc thiện. Hôm nay đang mở “Đại hội thủy lục”, tấm áo cà sa này để cho vị Đại đô xiển pháp sư Trần Huyền Trang mặc là rất hợp. Nhà sư cùng tôi vào triều ra mắt hoàng đế ngay cho.

Bồ tát vui vẻ đi theo, rảo bước tới cửa Đông Hoa. Quan Hoàng môn vào tâu. Nhà vua truyền lệnh cho gọi vào trong điện. Tiêu Vũ dẫn hai nhà sư ghẻ vào đứng trước thềm. Vua Đường hỏi:

- Tiêu Vũ vào tâu việc gì?

Tiêu Vũ phủ phục trước thềm thưa:

- Thần ra cửa Đông Hoa, ngẫu nhiên gặp hai nhà sư bán áo cà sa và gậy tích trượng. Thần nghĩ rằng pháp sư Huyền Trang cần những thứ ấy, nên dẫn họ vào ra mắt.

Thái Tông mừng lắm, bèn hỏi áo cà sa giá bao nhiêu. Bồ tát và Mộc Soa đứng hầu dưới thềm không làm lễ, nghe thấy hỏi giá áo cà sa, bèn đáp:

- Áo cà sa giá năm nghìn lạng, gậy tích trượng hai nghìn lạng. Thái Tông hỏi:
- Tấm cà sa ấy có gì quý mà bán đắt thế? Bồ tát thưa:
- Tấm áo cà sa này:
Đường khâu rồng lượn, thoát tai ương quạ mổ diều tha; Sợi chỉ hạc bay, được phúc quả siêu phàm tuyệt diệu. Khi ngồi: có muôn thần chầu lễ.
Lúc đứng: được bẩy Phật theo đưa

Tấm áo cà sa này:

Tằm băng ươm kéo thành tơ, Thợ khéo tết xe nên sợi. Tiên nga dệt lại.
Ngọc nữ may thành.

Từng vuông gấm vóc đẹp như tranh, Mỗi tấm lụa từng chồng óng ánh. Diễm lệ màu tươi cùng sắc thắm. Hoa thêu kim tuyến sáng long lanh.
Mặc vào: khắp người mây tía quấn quanh, Cởi ra: một làn ráng xa bay nhẹ.
Ba cửa trời cao mầu rực rỡ, Năm tòa núi lớn đượm hương lành.
Từng lớp xếp ken, chẳng khác đóa sen Tây Trúc. Ngọc châu rủ xuống, lung linh sao sáng đêm thanh. Bốn góc dát ngọc dạ quang,
Đỉnh cài trân châu tổ mẫu.

Tuy không chiếu rọi khắp toàn thân, Nhưng cũng sáng ngời hơn bát bảo.
Tấm áo cà sa này:

Khi nhàn thường gấp lại,
Gặp thánh mới mặc vào.

Khi nhàn gấp lại, muôn tầng rực rỡ tựa cầu vồng; Gặp thánh mặc vào, kinh động thiên thần, ma quỷ sợ,
Bên trên có: ngọc ma ni, ngọc tị trần, ngọc dịch phong, ngọc như ý;

Lại có thêm: san hô tía ngọc dạ minh, viên xá lỵ mã não hồng.

Đỏ hơn mặt trời đỏ, Trong hơn vành trăng trong. Muôn làn khí đẹp tỏa tầng không,
Ngàn lớp mây lành dâng các thánh, Chiếu khắp non sông beo cọp sợ. Bóng trùm hải đảo cá rồng kinh. Hai chiếc khóa vàng cài vạt áo, Một viên ngọc bạch rủ bên mình
Có bài thơ rằng:

Tam bảo ngồi cao đạo chí lớn, Bốn sinh sáu đạo giảng bàn luôn Đạo trời giảng rõ nhờ tâm sáng, Đuốc tuệ truyền xa bởi tính còn. Cõi Phật trang nghiêm thân hộ vệ, Ngọc hồ trong trắng tâm lòng son. Từ khi Phật chế cà sa ấy,
Muôn kiếp đường tu vững chẳng môn.

Vua Đường ngồi trên điện nghe nói như thế, trong lòng rất vui
lại hỏi thêm:

- Thưa Hòa thượng, còn cây gậy tích trượng chín vòng có gì quý không?

Bồ tát thưa:

- Cây gậy tích trượng của ta là:

Nạm thau bịt sắt chín vòng liền, Chín đốt song tiên tiết rất bền.
Tay chống mừng thầm thân nhẹ nhõm, Chân đi phơi phới cưỡi mây lên. Ma Ha năm tổ chơi trời thẳm,
La Bặc tìm bà phá đất đen.

Ô uế hồng trần không chút bợn, Thần tăng làm bạn đến Tây thiên.
Vua Đường nghe xong, bèn giơ áo cà sa ra xem tỉ mỉ, thấy đây quả là một vật quý, nói rằng:

- Thưa Đại pháp trưởng lão, chẳng giấu gì ngài, hôm nay trẫm mở mang thiện giáo, gieo trồng ruộng phúc, hội họp các vị cao tăng ở chùa Hóa Sinh tụng kinh niệm Phật. Trong số ấy có một vị đức hạnh cao dầy, pháp danh là Huyền Trang. Trẫm sẽ mua những vật báu này ban cho nhà sư ấy dùng. Vậy đúng giá là bao nhiêu?

Bồ tát nghe nói, cùng với Mộc Soa chắp tay niệm Phật, nghiêng mình thưa rằng:

- Nếu là người có đức hạnh thì bần tăng này xin biếu, quyết không lấy tiền.

Nói xong quay người định đi ngay. Vua Đường vội vàng bảo
Tiêu Vũ giữ lại, đứng trên điện cúi mình, nói:
- Lúc nãy ngài nói áo cà sa năm nghìn lạng, gậy tích trượng hai nghìn lạng. Nay thấy trẫm muốn mua, lại không lấy tiền. Hay là cho rằng trẫm cậy thế vua lấy không vật báu của ngài sao? Không thể như thế được đâu. Trẫm cứ y giá mà trả, ngài đừng từ chối nữa.

Bồ tát xua tay, nói:

- Bần tăng đã phát nguyện từ trước, nếu gặp vị nào kính trọng tam bảo, làm theo điều thiện, quy y Phật pháp, thì không lấy tiền mà biếu không. Ngày nay gặp bệ hạ đức sáng lòng lành, vị cao tăng lại là người đức hạnh, chấn hưng đạo cả, vậy xin kính dâng, quyết không lấy tiền. Bần tăng xin để những vật này lại và xin cáo từ.

Vua Đường thấy Hòa thượng khẩn khoản như thế, mừng lắm, sai ngay quan Quang lộc tự làm tiệc chay thết đãi tạ ơn. Bồ tát từ chối, vui vẻ ra đi, theo đường cũ về ẩn trong miếu thổ địa. Chuyện không nói nữa.

Lại nói Thái Tông khai triều vào buổi trưa, sai Ngụy Trưng, mang chiếu chỉ đi mời Huyền Trang vào triều.

Pháp sư đang hội họp các sư trên đàn tụng kinh niệm Phật, thấy có chiếu chỉ, vội vàng sửa sang quần áo, xuống đàn, theo Ngụy Trưng vào triều. Thái Tông nói:

- Pháp sư làm việc phúp đức nhọc mệt, trẫm chẳng biết lấy gì tạ ơn. Sớm nay Tiêu Vũ đưa vào hai nhà sư tình nguyện kính biếu một tấm áo cà sa gấm và một cây gậy tích trượng chín vòng, vậy nên mời Pháp sư vào lĩnh về dùng.

Huyền Trang cúi đầu tạ ơn. Thái Tông nói:
- Nếu pháp sư bằng lòng, hãy mặc vào cho trẫm nhìn xem. Huyền Trang giở tấm áo ra khoác lên người, tay, chống gậy
tích trượng, đứng nghiêm dưới thềm. Vua tôi ai nấy tấm tắc ngợi
khen. Thật đúng là con đức Phật Như Lai:

Dung nhan lẫm liệt uy nghi,

Áo Phật vừa khít khác gì may đo.

Hào quang rực rỡ gần xa. Ngưng trong vũ trụ, tỏa ra đất trời. Dưới trên ngọc ánh màu tươi.
Hàng hàng kim tuyến sáng ngời hai bên.

Áo đơm khuy quý một hàng,

Đai nhung thắt bụng trông càng uy nghiêm.

Áo này thêu cả Phật, Tiên, Các vì tinh tú dưới trên đủ đầy. Huyền Trang thực có duyên may, Cà sa báu vật hôm nay được dùng. Khác nào La hán, thiên thần,
Hôm nay giáng xuống giữa vòng trần gian.

Lại thêm tích trượng khua vang. Mũ tỳ lư đội trông càng xinh tươi. Đúng là con Phật chẳng sai,
So Bồ đề ấy gấp mười lần hơn.

Lúc ấy, các quan văn võ đứng dưới thềm khen ngợi. Thái Tông vui mừng khôn xiết, truyền cho pháp sư cứ mặc áo cà sa, cầm gậy tích trượng, có hai đội nghi vệ đi hai bên, các quan, tiễn đưa ra khỏi triều. Lại dặn pháp sư đi giữa phố lớn về chùa, như nghi thức người đỗ Trạng nguyên thăng quan vậy. Huyền Trang lạy hai lạy tạ ơn, rồi lẫm liệt uy nghi đi giữa phố lớn. Trong thành Tràng An, người buôn kẻ bán, công tử vương tôn, tao
nhân mặc khách, nam nữ già trẻ, ai nấy xúm xít lại xem, khen ngợi:

- Pháp sư đẹp quá! Đúng là vị La Hán sống dưới trần, đức
Phật Bồ tát xuống hạ giới!

Huyền Trang vừa đến cổng chùa, các nhà sư xuống thềm nghênh đón. Vừa thấy Huyền Trang khoác tấm áo, chống cây gậy tích trượng như thế, họ đều nói là đức Địa Tạng vương đã đến. Mọi người rời về chỗ, đứng hầu hai bên. Huyền Trang lên đàn châm hương lễ Phật, thuật lại ơn vua cho mọi người nghe, rồi trở về thiền tọa. Lúc ấy mặt trời đã lặn về Tây. Thật là:

Chiều về cây cỏ phủ sương,

Đế đô chuông trống rộn ràng nổi lên.

Bỗng nghe ba tiếng chuông rền,

Đường trên phố dưới tuyệt nhiên không người.

Riêng chùa đèn thắp sáng ngời. Xóm thôn im ắng đất trời tối tăm. Lúc này rất hợp các tăng.
Ngồi thiền dưỡng tính, đọc kinh trừ tà.

Thì giờ thấm thoắt, đã đến ngày thứ bẩy là ngày chính hội. Huyền Trang lại dâng biểu mời vua Đường đến dự lễ. Lúc ấy tiếng lành lan khắp thiên hạ. Thái Tông ngự giá dẫn các quan văn võ, hậu phi quốc thích đến chùa. Người trong thành chẳng kể già trẻ sang hèn, đều đến chùa nghe giảng. Lúc ấy Bồ tát nói với Mộc Soa:

- Hôm nay là ngày hội chính của “Đại hội thủy lục” lấy một số bảy nối tiếp bảy số bảy, đúng đấy. Ta và con đi lẫn vào trong đám dân chúng đến dự lễ, một là xem hội ấy như thế nào, hai là xem Kim Thiền Tử có phúc đáng được mặc áo cà sa của ta
không, ba là xem họ giảng kinh gì.

Hai người theo vào trong chùa. Thật là:

Có duyên gặp được người quen cũ, Bát nhã về đây bản đạo tràng.
Khi vào đến trong chùa, hai người nhận thấy đúng là đại quốc
thiên triều, hơn hẳn cõi sa hà[83]


 sánh ngang với thành Xá Vệ,
Kỷ Viê  [84]


, chẳng thua Thượng sát khiêu đề. Một ban nhạc
tiên réo rắt, tiếng tụng kinh ngân nga. Bồ tát đến sát bên bảo đài, quả đúng là Kim Thiền trí tuệ:

Có bài thơ rằng:

Muôn vẻ sáng trong không chút bụi, Huyền Trang hòa thượng đứng đài cao. Siêu sinh hồn quỷ phiêu diêu tới,
Nghe giảng dân thành dắt díu nhau. Lòng rộng khoan dung thường cứu giúp. Tạng môn rộng mở mặc ra vào.
Giảng truyền kinh Phật mầu vô lượng, Trai gái trẻ già sướng biết bao!
Lại có bài thơ rằng:

Nhân đến giảng đường pháp giới chơi, Gặp kẻ tương tri khéo lạ vời.
Nói hết chuyện hay nghìn vạn việc, Lại bàn trần kiếp biết bao đời.
Mây thiêng quấn quýt quanh ngàn núi, Lưới pháp trùm giăng khắp đất trời.
Xem xét người đời quy thiện niệm, Mưa bay dào dạt cánh hồng rơi.
Pháp sư ngồi trên đài tụng kinh “Thụ sinh độ vong”, giảng tập “An bang thiên bảo”, đọc quyển “Khuyến tu công đức”. Bồ tát đến gần, gõ vào bảo đài, hỏi to mấy tiếng:

- Thưa Hòa thượng, ngài chỉ biết giảng giáo lý “Tiểu thừa”, có giảng được giáo lý “Đại thừa” không?

Huyền Trang nghe nói, trong lòng mừng rỡ, đứng dậy bước xuống đài, chắp tay vái Bồ tát, nói:

- Thưa lão sư phụ, đệ tử vô ý thật có tội. Hiện nay các nhà sư đều giảng giáo lý Tiểu thừa, chưa biết giáo lý Đại thừa là thế nào.

Bồ tát nói:

- Giáo lý Tiểu thừa ấy không siêu độ được vong hồn, chỉ có thể mát mẻ sáng sủa hơn mà thôi. Ta có pho kinh “Đại thừa Phật pháp tam tạng” có thể siêu độ cho vong hồn được lên trời, cứu vớt người hoạn nạn thoát khổ, có thể tu sống lâu vô lượng, có thể bất diệt, bất sinh.

Lúc ấy, có vị quan giữ việc đèn hương đến tâu với vua Đường rằng:

- Pháp sư đang giảng kinh hay, bị hai nhà sư lang thang ghẻ lở kéo xuống đàn nói những chuyện linh tinh.

Nhà vua ra lệnh bắt lại. Mọi người đưa hai nhà sư ấy vào đằng sau pháp đường, yết kiến Thái Tông. Hai nhà sư chẳng chắp tay, chẳng lạy, ngửa mặt nói:

- Bệ hạ hỏi chúng tôi việc gì? Vua Đường nhận ra, bèn hỏi:
- Ngài có phải vị Hòa thượng hôm trrớc biếu ta áo cà sa
không?

Bồ tát đáp:

- Chính phải. Thái Tông hỏi:
- Ngài đã đến đây nghe giảng thì chỉ nên dùng bữa chay nữa là xong, tại sao còn bàn bạc linh tinh với pháp sư, gây rối loạn ở nơi giảng kinh, làm hỏng cả việc Phật của ta?

Bồ tát thưa:

- Vị pháp sư giảng toàn là giáo lý “Tiểu thừa”, không siêu độ được các vong hồn để được lên trời. Tôi có pho kinh “Đại thừa Phật pháp tam tạng” có thể cứu vớt các vong hồn thoát khổ, sống lâu không chết.

Thái Tông mừng lắm, hỏi:

- Pho Đại thừa Phật pháp của ngài ở đâu? Bồ tát đáp:
- Để ở chỗ Phật Như Lai, chùa Đại Lôi Âm, nước Thiên Trúc bên phương Tây, có thể giải trừ mọi nỗi ràng buộc oan uổng, diệt trừ mọi tai ách.

Thái Tông hỏi:

- Ngài có nhớ không?. Bồ tát đáp:
- Nhớ kỹ lắm.

Thái Tông vui mừng, nói:

- Truyền cho pháp sư dẫn ngài lên đài giảng kinh.

Bồ tát dẫn Mộc Soa bay lên đài cao, cưỡi mây lành vút thẳng lên chín tầng xanh, hiện nguyên hình đức Quan Âm cứu khổ, tay cầm bình nước cành dương, bên trái là Mộc Soa Huệ Ngạn, tay
cầm cây côn, tinh thần phấn chấn.

Vua Đường sung sướng ngẩng mặt lên trời mà lạy. Các quan văn võ quỳ xuống thắp hương. Khắp chùa tăng ni đạo tục, từ quan cho chí người dân, ai ai cũng cúi lạy, nói:

- Kính lạy đức Bồ tát, kính lạy đức Bồ tát. Có bài thơ làm chứng rằng:
Mây lành bay bảng lảng, Hào quang quanh pháp thân Chín tầng trời trong sáng
Hiện rõ nữ chân nhân.

Đức Bồ tát:




Đầu đội mũ dát sợi vàng,

Cài bông hoa biếc, hào quang chói nồng.

Mình choàng tấm áo bào hồng.

Sắc phô dìu dịu thêu rồng phượng bay.

Cổ đeo vòng ngọc đẹp thay.

Sáng như trăng bạc gió lay giữa trời.

Ngang lưng thắt dải lụa ngời,

Quần nhung óng ánh vàng tươi huy hoàng.

Chú vẹt mỏ đỏ lông vàng,

Chịu ơn, khắp mọi nẻo đường bay theo.

Bình nước dương liễu quý sao. Đức Bồ tát vẫn mang theo bên người. Giơ tay vẩy khắp đất trời,
Xua tan mù tối, quét loài ác hung.
Sen vàng vòng ngọc sáng trưng. Ba trời bát ngát thung dung đi về. Quan Thế Âm chính tên đề,
Cứu khổ, cứu nạn sớm khuya ân cần.

Đường Thái Tông mừng rỡ quên cả mọi ngườ  [85]















. Các quan
văn võ thích thú chẳng màng nghi lễ. Mọi người đều khấn:

- Nam mô Quan Thế Âm Bồ tát.

Thái Tông lập tức truyền chiếu chỉ sai thợ khéo vẽ chân dung Bồ tát. Lệnh vừa ban ra, đã chọn đựợc một tay thợ vẽ tài giỏi là Ngô Đạo Tử. Người này về sau vẽ chân dung các công thần treo ở gác Lăng Yên. Ngô Đạo Tử lúc ấy đưa nét bút thần, vẽ bức chân dung Bồ tát cưỡi mây lành bay xa dần, một lát sau ánh hào quang mới tắt. Một tờ thiếp từ trên không trung phấp phới bay xuống, trên có mấy lời tụng, viết rất rõ ràng. Lời tụng rằng:

Gửi vua Đường đáng kính, Phương Tây có diệu kinh. Đường mười tám nghìn dặm. Đại thừa ân cần dâng.
Kinh này về thượng quốc. Siêu độ cho chúng sinh. Nếu ai chịu đi thỉnh
Thành chính quả vĩnh hằng.

Thái Tông xem tờ thiếp rồi lệnh cho các sư:

- Hôm nay hãy dừng hội, đợi trẫm sai người lấy được kinh Đại thừa mang về, bấy giờ giữ tấm lòng thành lại dựng đàn cầu phúc.
Các quan đều tuân lệnh. Lúc ấy, nhà vua hỏi các nhà sư trong chùa:

- Vị nào vâng mệnh trẫm sang phương Tây lễ Phật thỉnh kinh?

Chưa dứt lời, một pháp sư đã bước ra, đi đến trước mặt nhà vua, thi lễ nói:

- Bần tăng bất tài, xin hết sức khuyển mã đi thỉnh chân kinh về dâng bệ hạ, để giữ gìn cho sông núi được vững bền mãi mãi.

Vua Đường mừng lắm bước đến đỡ nhà sư dậy, nói:

- Nếu pháp sư hết lòng trung nghĩa, chẳng quản đường xa dặm thẳm, trèo đèo lội suối, thì trẫm xin kết nghĩa anh em.

Huyền Trang cúi đầu tạ ơn. Vua Đường quả là một người hiền đức, cùng Huyền Trang vào chùa, đến trước bàn thờ Phật, lạy pháp sư bốn lạy, và gọi là “ngự đệ thánhh tăng”.

Huyền Trang cảm động khôn xiết, nói:

- Thưa bệ hạ, bần tăng có tài đức gì đâu mà dám nhận ơn vua sâu nặng đến như thế? Chuyến đi này, thần xin cố gắng quên mình, đến tận Thiên Trúc. Nếu không sang tới nơi, không thỉnh được chân kinh, thần xin chết, không dám trở về nước, mãi mãi chịu đắm chìm nơi địa ngục.

Rồi Huyền Trang thắp hương thề trước bàn thờ Phật.

Vua Đường rất vui, truyền xa giá về cung, đợi chọn ngày lành tháng tốt, cấp tờ điệp cho Huyền Trang lên đường. Các quan ai nấy ra về.

Huyền Trang trở về chùa Hồng Phúc. Các nhà sư và đồ đệ trong chùa nghe chuyện đi thỉnh kinh, vào hỏi thăm.

- Có thực pháp sư tình nguyện sang phương Tây không? Huyền Trang đáp:
- Thực vậy! Đồ đệ nói:
- Thưa sư phụ, người ta nói rằng phương Tây xa lắm, lại nhiều hổ báo yêu ma, chỉ sợ có đi không về, khó toàn tính mạng.

Huyền Trang nói:

- Ta đã phát lời nguyền, nếu không thỉnh được chân kinh thì đắm chìm vào địa ngục mãi mãi. Ta đã chịu ơn sâu nặng của nhà vua, không thể không tận trung báo quốc. Chuyến đi này thật mênh mông mờ mịt, lành dữ chưa biết trước được.

Huyền Trang lại nói thêm:

- Các đồ đệ này, sau khi ta đi rồi. Hoặc hai ba năm, hoặc dặm bảy năm, nếu thấy những cành tùng trước cửa hướng về phía Đông, là ta về đấy. Bằng không là vĩnh viễn không trở lại.



Mọi người tâm niệm nhớ kỹ câu nói ấy.
Sáng hôm sau, Thái Tông khai triều hội họp các quan văn võ, viết tờ điệp đi thỉnh kinh, đóng dấu thông hành.

Lúc ấy có quan khâm thiên giám vào tâu:

- Hôm nay là ngày có sao tốt chiếu, tất hợp với việc xuất hành đi xa.

Vua Đường rất mừng. Lại thấy quan Hoàng môn vào tâu:

- Có Ngự đệ pháp sư đứng ngoài cửa triều đợi chiếu chỉ. Nhà vua cho mời vào điện, nói:
- Ngự đệ ạ, hôm nay là ngày tốt hợp với việc xuất hành. Tờ điệp văn thông hành của ngự đệ đây. Trẫm lại ban cho ngự đệ chiếc bát bằng vàng để đi đường dùng bữa chay, chọn hai người đi theo, và ban cho một con ngựa để đỡ chân đường xa. Ngự đệ có thể lên đường được rồi.

Huyền Trang mừng lắm, cúi đầu tạ ơn, nhận hành trang và có ý muốn đi ngay.

Vua Đường lên xa giá cùng các quan tiễn chân ra tận ngoài cửa thành. Các nhà sư và đồ đệ chùa Hồng Phúc cũng đã mang quần áo mùa đông, mùa hè của Huyền Trang đợi cả ngoài ấy. Vua Đường truyền cho xếp hành trang, ngựa cưỡi xong xuôi, sai các quan rót rượu nâng chén hỏi:

- Ngự đệ lấy nhã hiệu là gì? Huyền Trang thưa:
- Bần tăng là người xuất gia, chưa dám xưng hiệu. Thái Tông nói:
- Hôm ấy Bồ tát nói ở phương Tây có pho kinh Tam Tạng. Ngự đệ có thể lấy tên kinh làm hiệu, đặt hiệu là “Tam Tạng” có được không?

Huyền Trang tạ ơn, đỡ lấy chén rượu nói:
- Thưa bệ hạ, rượu là thứ kiêng đầu tiên của nhà sư. Bần tăng từ khi làm người chưa hề uống rượu.

Thái Tông nói:

- Chuyến đi này, không giống những việc khác. Đây là thứ rượu thuần khiết, xin ngự đệ uống một chén để thỏa tấm lòng lưu luyến của trẫm.

Tam Tạng không dám chối từ, nâng chén rượu định uống, thấy Thái Tông cúi đầu, nhặt một dúm đất, thả vào chén rượu. Tam Tạng chưa hiểu ý, Thái Tông cười, nói:

- Ngự đệ sang Thiên Trúc bao giờ mới trở về? Tam Tạng thưa:
- Chỉ độ ba năm là về tới thượng quốc. Thái Tông nói:
- Tháng ngày dằng dặc, đường sá xa xôi, ngự đệ uống chén rượu này để:

Nhớ nhung mảnh đất quê hương

Đừng ưa đất khách bạc vàng ngàn cân

Tam Tạng nhận ra ý nghĩa của dúm đất, tạ ơn cạn chén, rồi từ biệt mọi người ra khỏi cửa thành lên đường.

Vua Đường cũng quay xa giá ra về.

Chưa biết chuyến đi này như thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ MƯỜI BA

Sa hang cọp Kim Tinh cứu thoát Núi Song Soa Bá Khâm mời sư Mừng vua Đường xuống sắc phong,
Huyền Trang vâng chỉ Thiền Tông thăm đường.

Bền gan tìm đến hang rồng,

[86]
Tây phương non Thứu dốc lòng cũng nên

Trải qua trăm xứ nghìn miền,

Xa xôi mấy núi triền miên dặm dài.

Hôm nay từ biệt vua tôi.

Vững lòng tu đạo, sáng ngời sắc không.

Lại nói chuyện ba ngày trước hôm rằm tháng chín, năm Trinh Quán thứ mười ba, Tam Tạng từ biệt vua Đường cùng các quan ra khỏi cổng thành Tràng An, lên đường, đi miết một hai ngày ngựa không dừng bước, tới chùa Pháp Môn. Vị trưởng lão trụ trì ở chùa này dẫn hơn năm trăm nhà sư sắp hàng hai bên đón vào trong chùa, pha trà khoản đãi. Uống trà xong lại dọn bữa cơm chay. Ăn xong thì trời vừa tối. Buổi tối ấy:

Bóng sao nhấp nháy như gần,

Vầng trăng vằng vặc bụi trần tịnh không.

Nhạn kêu lanh lảnh từng không, Tiếng chày rộn rã giữa lòng xóm tây. Chim bay về ngủ ngọn cây,
Chùa xa vẳng tiếng sư thầy tụng kinh.

Nệm êm nhập định tâm thanh,

Tham thiền ngồi suốt năm canh chẳng rời.

Dưới ánh đèn, các sư ngồi trò chuyện việc pháp sư vâng chỉ sang phương Tây lấy kinh. Người nói đường xa thăm thẳm, đường lắm hùm beo; kẻ nói non cao vách dựng khó qua, nước độc ma thiêng khó vượt. Tam Tạng chỉ ngồi im không nói, lấy tay chỉ vào tim, gật đầu mấy cái. Các nhà sư không hiểu ý, chắp tay hỏi:

- Pháp sư chỉ tay vào tim, gật đầu mấy cái nghĩa là thế nào? Tam Tạng đáp:
- Tâm sinh thì ma quỷ đều sinh. Tâm diệt thì ma quỷ cũng diệt. Ở chùa Hóa Sinh, trước bàn thờ Phật tôi đã nguyện rồi, đâu có dám không hết lòng. Chuyến đi này, tôi quyết sang đến tận phương Tây, lễ Phật cầu kinh, để bánh xe đạo pháp của chúng ta chuyển vận, để non sông của đức vua vững bền mãi mãi.

Các nhà sư nghe nói như vậy, ai nấy đều khâm phục, gọi Tam Tạng là “Đại xiển pháp sư lòng son dạ sắt”, ca ngợi hết lời, mời pháp sư vào buồng nghỉ.

Sáng hôm sau, khi trúc reo trăng lặn, gà gáy rạng mai hồng, các sư thức dậy, pha trà dọn chay. Huyền Trang mặc áo cà sa vào chính điện lễ Phật, khấn rằng:

- Đệ tử là Trần Huyền Trang, sang phương Tây thỉnh kinh, nhưng người phàm u mê, không biết rõ hình Phật sống. Nay xin nguyện rằng: Dọc đường gặp miếu dâng hương gặp chùa lễ Phật, gặp tháp quét dọn, mong đức Phật từ bi hiển hiện mình vàng sáu thước, ban cho chân kinh để truyền bá sang phương Đông.

Khấn xong, về phương trượng dùng bữa chay.
Dùng xong, hai người đi theo đã sửa soạn yên cương, thúc giục lên đường. Tam Tạng rời cổng chùa, chia tay các sư. Mọi người lưu luyến, tiễn chân đến mười dặm mới gạt lệ trở về. Tam Tạng nhằm hướng Tây thẳng bước. Lúc ấy vào quãng cuối thu. Chỉ thấy:

Xóm thôn cây trụi, lau xào xạc, Dương liễu đôi hàng lá úa bay. Mờ mịt đường xa người vắng vẻ, Núi gầy lác đác cúc vàng hây. Nước trong lạnh lẽo sen tàn cả.
Người đi tiều tụy chán chường thay! Bèo trắng răm hồng trời giá buốt, Cánh cò mất hút ráng chiều bay. Áng mây ảm đạm trôi lơ lửng,
Quạ ác bay đi chẳng thấy bầy. Sếu đã về rồi rong khắp nội, Tiếng kêu ríu rít vắng đâu đây.
Đi được vài ngày, thầy trò tới cổng thành Củng Châu. Quan lại thành Củng Châu ra đón vào trong thành, nghỉ một đêm, sáng hôm sau lại ra đi. Dọc đường đói ăn khát uống đêm nghỉ ngày đi. Hai ba ngày sau, lại đến Hà Châu Vệ, nơi biên giới của nhà Đại Đường. Quan Tổng binh trấn biên cùng các tăng đạo nghe tin có pháp sư ngự đệ khâm sai sang phương Tây cầu Phật, ai nấy cung kính, đón vào trong thành cung ứng, rồi sai tăng cương mời pháp sư ra chùa Phúc Nguyên nghỉ ngơi. Sư sãi trong chùa đón tiếp, dọn cơm chay. Ăn xong, Tam Tạng dặn dò hai người đi theo cho ngựa ăn uống, để sáng hôm sau đi sớm.

Khi gà vừa gáy, Tam Tạng gọi người đi theo làm các sư trong
chùa tỉnh giấc. Họ sửa soạn pha trà, dọn cơm chay mời. Ăn xong, vượt qua biên giới.

Do lòng dạ bồn chồn, nên Tam Tạng dậy sớm quá. Lúc ấy vào tiết cuối thu, gà gáy sớm chỉ khoảng canh tư. Một đoàn ba người, cả ngựa là bốn, đội sương lạnh, nương bóng trăng mà đi, được vài chục dặm, gặp một ngọn núi cao, phải vạch cỏ tìm đường mà đi. Đường đã gập ghềnh hiểm trở, lại e lạc lối nữa. Đang lúc băn khoăn, bỗng Tam Tạng sẩy chân, cả ba người và ngựa ngã lăn xuống hố. Tam Tạng sợ hãi, người đi theo hoảng hồn. Đang lúc bàng hoàng hốt hoảng, lại nghe thấy có tiếng quát:

- Bắt chúng lại! Bắt chúng lại!

Rồi một trận cuồng phong thổi dữ dội, năm sáu mươi yêu quái xông ra tóm Tam Tạng và cả bọn lôi đi. Tam Tạng run sợ lo lắng, liếc mắt nhìn trộm, thấy một ma vương hung dữ ngồi trên cao. Thật là:

Oai hùng thân lẫm liệt, Hung dữ mặt đường đường. Mắt đảo như chớp giật, Tiếng gầm tựa sấm vang. Răng nanh lòi bên mép, Cằm bạnh ra hai mang. Toàn thân như phủ gấm, Lưng vằn dọc vằn ngang. Ria cứng đâm tua tủa,
Móng nhọn sắc như gươm. Hoàn Công Đông Hải sợ
Vua trán trắng Nam Sơn.

Tam Tạng hồn bay phách tán, người đi theo xương nhũn gân tê. Ma vương quát sai trói lại. Lũ yêu quái lấy dây trói chặt ba người. Đang lúc sắp sửa ăn thịt, bỗng nghe thấy bên ngoài ồn ào, có một người vào báo rằng:

- Có hai vị Hồng Sơn Quân và Đặc Xử Sĩ tới.

Tam Tạng nghe nói, ngẩng đầu nhìn, thấy tên đi trước đen trũi, hình dáng:

Lầm lì và dữ tợn, Khỏe mạnh lại nhẹ nhàng. Lội nước tài khéo léo,
Leo rừng chạy băng băng. Trước nổi trôi mộng đẹp.
Nay tỏ rõ oai phong. Giỏi trèo cây bẻ lá,
Tránh rét chạy vô chừng. Cũng có chút linh hiển, Nếu gọi là Sơn Quân.
Lại thấy tên đi sau béo phệ. Hình dáng:

Mũ hai sừng cong vút, Vai lưng thịt nổi u. Bản tính vốn lầm lì,
Bước đi thật thong thả, Bố trâu đực đã rõ,
Mẹ trâu cái không sai

Có công cày giúp người.
Tên là Đặc Xử Sĩ.

Hai tên nghênh ngang bước vào. Ma vương vội vàng chạy ra đón. Hùng Sơn Quân nói:

- Thưa Dần tướng quân, ngài luôn luôn được gặp may, xin chúc mừng.

Đặc Xử Sĩ nói:

- Dần tướng quân diện mạo khác thường, thật đáng mừng! Ma vương nói:
- Hai ngài gần đây ra sao? Sơn Quân đáp:
- Cũng thường thôi. Xử Sĩ nói:
- Cũng tùy lúc thôi.

Ba đứa chào hỏi xong, ngồi xuống trò chuyện vui vẻ.

Bỗng một người đi theo bị trói chặt đau quá kêu khóc. Tên đen sì hỏi:

- Ba người này ở đâu tới? Ma vương đáp:
- Họ tự dẫn xác đến, của tôi đấy. Xử Sĩ cười, hỏi:
- Có thể đãi khách chứ? Ma vương đáp:
- Xin mời, xin mời! Sơn Quân nói:
- Không ăn hết đâu, thịt hai đứa thôi, còn bớt lại một đứa.



Ma vương nghe theo, lập tức gọi tả hữu lôi hai người đi theo ra mổ bụng, xẻo thịt, moi tim gan và cắt chiếc thủ ra mời hai khách, còn mình ăn chân tay, xương thịt chia cho các yêu quái. Chỉ nghe thấy tiếng nhau gau gáu như hổ nhai thịt dê, một loáng là hết nhẵn. Còn lại một mình Tam Tạng, gần như nằm chết ngất. Đó là tai nạn đầu tiên khi vừa rời khỏi Tràng An.

Đang lúc sợ hãi, phương đông dần dần sáng ra. Hai yêu quái mãi đến lúc trời sáng rõ mới ra về. Chúng nói:

- Hôm nay chúng tôi đến quấy quả ngài, ngày khác xin báo đáp.

Rồi kéo nhau ra về.

Được một lát, mặt trời lên cao, Tam Tạng còn mê man tăm tối, chẳng phân biệt nam bắc đông tây. Đang lúc sắp mất mạng ấy, bỗng có một ông già chống gậy bước tới gần, xoa tay một cái, dây thừng đứt hết, đoạn thổi vào mặt. Tam Tạng mới tỉnh
lại, vội quỳ xuống thưa rằng:

- Đa tạ cụ đã cứu sống bần tăng! Cụ già đáp lễ nói:
- Nhà ngươi hãy đứng dậy, xem có mất mát thức gì không? Tam Tạng thưa:
- Hai người đi theo bần tăng, đã bị yêu quái ăn thịt rồi. Không biết ngựa và hành lý ở đâu?

Cụ già lấy gậy chỉ và nói:

- Chẳng phải là ngựa và hai tay nải gì kia!

Tam Tạng quay lại nhìn thấy đúng đồ vật của mình, không hề mất mát, bấy giờ mới hơi yên dạ, hỏi cụ già:

- Thưa cụ, đây là xứ nào? Tại sao cụ lại ở đây? Cụ già đáp:
- Đây là núi Song Soa Lĩnh, sào huyệt của bọn hùm sói. Tại sao nhà ngươi lại sa vào đây?

Tam Tạng thưa:

- Lúc gà gáy, bần tăng ra khỏi Hà Châu Vệ, không ngờ dậy sớm quá, đội sương rẽ cỏ, sẩy chân sa xuống chỗ này. Có một ma vương rất dữ tợn, bắt trói bần tăng và hai người đi theo. Lại thấy một tên đen trũi xưng là Hùng Sơn Quân, một tên béo phệ xưng là Đặc Xử Sĩ tiến vào. Chúng gọi ma vương kia là Dần tướng quân. Cả bọn ăn thịt hai người đi theo tôi, sáng thì ra về. Không ngờ tôi duyên may phận lớn, được cụ tới cứu giúp.

Cụ già nói:

- Đặc Xử Sĩ là con trâu rừng thành tinh. Hùng Sơn Quân là con gấu thành tinh. Dần tướng quân là con hổ thành tinh. Còn lũ yêu quái toàn là ma rừng tinh núi cả. Nhờ bản tính nhà ngươi
huyền minh, cho nên chúng không ăn thịt nổi. Nhà ngươi đi theo ta, ta dẫn ra đường cái.

Tam Tạng vô cùng cảm động xếp tay nải lên ngựa, nắm dây cương theo cụ già ra khỏi hang hổ, lên đường rộng. Lúc ấy, Tam Tạng buộc ngựa vào đám cỏ cao ngập đầu bên vệ đường, quay người lạy tạ cụ già. Song cụ già đã hóa thành một làn gió mát, cưỡi một con hạc trắng mào đỏ, bay lên không trung. Chỉ thấy một tờ thiếp phấp phới bay xuống, trên viết bốn câu tụng rằng:

Ta sao Thái Bạch, Tây phương,

Cứu người nên phải tìm đường xuống đây.

Đường đi thần giúp đêm ngày, Chớ vì sóng cả rời tay buông chèo.
Tam Tạng xem xong, ngẩng lên trời lạy tạ, nói:

- Xin đa tạ Kim Tinh đã cứu thoát nạn này!

Lạy tạ xong, lại dắt ngựa, lủi thủi một mình tiếp tục vượt qua ngọn núi. Thật là:

Rét căn cắt thổi gió mưa, Nước ào ào chảy xuống khe.
Hương thoang thoảng hoa rừng nở, Đá lổn nhổn dọc đường đi.
Nghe văng vẳng tiếng vượn hót.

Từng đàn lũ hươu nai về, Giọng ríu rít chim rừng hót, Đường vắng tanh bóng người đi. Chú ngựa gầy chân bước mỏi
Vị trưởng lão lòng tái tê.
Tam Tạng liều mình gắng sức trèo lên đỉnh núi, đi nửa ngày đường  mà  chẳng  thấy  có  nhà  cửa  xóm  thôn  nào.  Bụng  đói đường xa. Đang lúc nguy khốn, chợt thấy trước mặt có hai con mãnh hổ gầm thét đằng sau lại có mấy con rắn dài quằn quại bò theo. Bên trái có loài trùng độc, bên phải có con quái thú. Tam Tạng một mình đành bó tay, chỉ biết mặc kệ, phó mặc định mệnh. Khốn nữa là con ngựa chẳng biết thế nào lại lưng còng chân khuỵu, ngã lăn ra đất, quất mãi cũng chẳng dậy, kéo thế nào cũng chẳng đi. Pháp sư đành chẳng biết ẩn nấp vào đâu. Thật là muôn phận thê lương cực khổ, chắc sẽ bỏ mạng, chẳng biết làm thế nào.

Tam Tạng mắc tai nạn, nhưng vẫn có người cứu.

Đang lúc tưởng chết, bỗng trông thấy trùng độc bỏ đi, quái thú bay vụt, mãnh hổ mất tăm, rắn dài biến mất. Tam Tạng ngẩng đầu lên thấy một người tay cầm xoa sắt, lưng đeo cung tên, từ sườn núi đi ra. Thật là một trang hảo hán. Người ấy:

Đầu đội mũ hoa da báo đốm, Mình mang áo lụa cẩm hồi la. Thắt lưng tô điểm hình sư tử, Giầy thuộc da hươu tựa gấm là.
Mắt sáng tròn xoe như mãnh tướng, Râu ria quanh mép mọc lua tua. Trên vai đeo túi cung tên độc,
Cầm chắc trong tay: một mũi xoa Tiếng vang vỡ mật loài lang sói, Dũng mãnh linh hồn lũ quỷ ma.
Tam Tạng thấy người ấy đến gần, bèn quỳ xuống vệ đường, chắp tay cất tiếng:
- Đại vương cứu tôi với, cứu tôi với!

Người ấy đến trước mặt đặt cây xoa xuống đất, đỡ Tam Tạng dậy, nói:

- Xin trưởng lão đừng sợ. Tôi không phải là kẻ xấu đâu. Tôi là người thợ săn ở núi này, họ Lưu tên Bá Khâm hiệu là Trấn Sơn Thái Bảo, vừa mới tới đây, định bắn hai con thú rừng về ăn thịt, không ngờ gặp Hòa thượng, đột ngột quá!

Tam Tạng nói:

- Bần tăng là hòa thượng nước Đại Đường, vâng mệnh nhà vua sang phương Tây lễ Phật cầu kinh, vừa lúc tới đây gặp rắn rết hổ báo vây chặt, không sao đi được. May là có Thái Bảo đến, chúng chạy tán cả. Thế là tính mạng tôi được cứu thoát, xin đa tạ, đa tạ!

Bá Khâm nói:

- Tôi ở đây chỉ chuyên nghề săn thú kiếm ăn. Cho nên chúng thấy tôi là sợ chạy cả. Ngài từ kinh đô nhà Đường tới đây, vậy là cùng quê hương xứ sở với tôi. Chỗ này vẫn thuộc địa giới nhà Đường, tôi cũng cùng uống nước nhà Đường, đều là người trong một nước cả. Ngài đừng sợ, cứ đi theo tôi, về nhà tôi, nghỉ ngơi, ngày mai tôi đưa ngài lên đường.

Vượt qua sườn núi, bỗng nghe thấy tiếng gió rít ào ào, Bá
Khâm nói:

- Trưởng lão hãy dừng lại, ngồi tạm vào đấy. Chỗ gió nổi ấy là có hổ báo đến đây. Đợi tôi đi bắt nó mang về thết đãi ngài.

Tam Tạng nghe nói, sợ hãi không dám cất bước. Thái Bảo tay cầm xoa sắt, bước nhanh lên đón đầu. Một con hổ vẫn đi đến trước mặt. Thấy Bá Khâm, nó quay đầu bỏ chạy, Thái Bảo hét một tiếng vang như sấm:

- Nghiệt súc, chạy đi đâu!
Con hổ thấy Bá Khâm đuổi kịp, quay người tung vuốt chồm tới. Thái Bảo múa cây xoa ba mũi đến đánh. Tam Tạng sợ quá nằm dí xuống bãi cỏ. Từ thuở lọt lòng mẹ, Tam Tạng đã bao giờ trông thấy trận đánh nhau dữ dội như thế này đâu. Thái Bảo quần nhau với hổ trên sườn núi, người và hổ đấu nhau, thật quyết liệt:



Khí giận bừng bừng, Cuồng phong cuồn cuộn,
Khí giận bừng bừng, Thái Bảo ra oai khoe sức lực; Cuồng phong cuồn cuộn, hùm vằn trổ sức thổi mù tung, Bên này, nhe nanh múa vuốt,
Bên kia, chuyển bước quay lưng, Xoa ba mũi tung hoành ngang dọc Tựa nghìn hoa lấp lánh không trung













Chỉ nghe:

Bên này, nhằm ngực đâm tới, Bên kia, vỗ mặt cắn vung.
Đánh cho không đường về dương thế, Đánh cho hồn phải xuống âm cung.


Hổ vằn gầm rú, Thái Bảo thét vang.

Hổ vằn gầm rú, chấn động núi rừng kinh muông thú; Thái Bảo thét vang, xé toang trời rộng hiện sao trăng, Bên này, mắt vàng nhìn giận dữ,
Bên kia, mặt lớn cắn hung hăng. Trấn Sơn Thái Bảo đáng yêu thật, Làm vua muông thú giữa rừng xanh;
Tham sống: người, hùm tranh thắng bại

Lỡ thời một chút, chết như không.

Hai bên đánh nhau một hồi lâu, con hổ đuối sức chùn vuốt, sụn lưng, bị Thái Bảo giơ mũi xoa đâm thẳng vào ức. Than ôi, mũi xoa sắt đâm thấu tim gan. Trong giây lát, máu chảy lênh láng. Thái Bảo tóm lại, lôi thẳng đến trước mặt Tam Tạng, mặt không biến sắc, miệng không thở dốc, thật là một trang hảo hán, nói:

- Thật là trời cho, trời cho, con hổ này thết đãi được trưởng lão cả ngày đây.

Tam Tạng khen ngợi hết lời:

- Thái Bảo thật là một vị sơn thần! Bá Khâm nói:
- Có gì đâu mà ngài quá khen! Cũng là nhờ hồng phúc của trưởng lão đây. Ta về thôi, còn lột da nấu nướng khoản đãi ngài chứ.

Đoạn, một tay cầm xoa, một tay kéo hổ đi trước dẫn đường. Tam Tạng dắt ngựa theo sau. Vượt qua sườn núi quanh co, bỗng thấy một trang trại. Trước cửa:

Cổ thụ cao ngất trại,

Mây móc quấn quanh đường.

Muôn khe gió lạnh rít, Nghìn non cảnh lạ thường;
Một hàng hoa dại hương thơm ngát, Mấy cây thanh trúc lá xanh rờn. Rào nửa nhà tranh như cảnh vẽ, Tường vôi cầu đá thú nào hơn! Cảnh thu vắng vẻ,
Khí lạnh dâng dâng Bên đường lá vàng rụng, Đỉnh non mây trắng vờn Rừng thưa chim ríu rít, Cổng trại chó gầm vang.
Về đến cổng, Bá Khâm thả con hổ chết xuống đất, gọi:

- Lũ nhỏ đâu?

Ba, bốn người hầu hình thù kì quái, xấu xí chạy ra mở cổng, khiêng hổ vào. Bá Khâm dặn dò bảo mau mau lột da, làm cơm thết khách, rồi quay lại mời Tam Tạng vào. Hai bên thi lễ, Tam Tạng một lần nữa cảm ơn Bá Khâm đã cứu sống.
Bá Khâm nói:

- Cùng là người trong một nước cả, có gì phải cảm ơn.

Hai người ngồi uống trà xong, thấy một bà cụ dắt một thiếu phụ vào vái chào Tam Tạng, Bá Khâm nói:

- Đây là mẹ tôi, còn đây là vợ tôi. Tam Tạng nói:
- Xin mời cụ ngồi lên trên, để bần tăng được vái chào. Bà cụ nói:
- Trưởng lão từ phương xa tới, xin cứ tự nhiên, không cần phải làm lễ.

Bá Khâm nói:

- Mẹ ạ, ngài đây là hòa thượng vâng mệnh vua Đường sang Tây Trúc lễ Phật cầu kinh, vừa rồi con gặp ngài trên sườn núi. Con nghĩ rằng đều là người trong một nước cả, nên mời người về nhà ta nghỉ ngơi, ngày mai con sẽ đưa ngài lên đường.

Nghe lời, bà cụ rất vui, nói:

- Tốt quá, tốt quá! Con đã mời ngài về đây, thì không được vội vàng làm vậy. Ngày mai giỗ cha con, mời trưởng lão nán lại làm  phúc,  tụng  kinh  niệm  Phật,  đến  ngày  kia  ngài  hãy  lên đường.

Lưu Bá Khâm là một thợ săn hổ, vị Thái Bảo trấn giữ núi này, nhưng lại là người rất hiếu hạnh, nghe mẹ nói liền đi sửa soạn đèn nhang, lưu Tam Tạng ở lại.

Mải trò chuyện, chẳng hay trời đã xế chiều. Người nhà dọn bàn ăn, đặt mấy bát thịt hổ hầm nhừ, bốc khói thơm phức lên trên mâm. Bá Khâm mời Tam Tạng xơi tạm, rồi ăn cơm sau.

Tam Tạng chắp tay trước ngực, thưa:
- Xin cảm ơn, bần tăng chẳng dám giấu Thái Bảo, từ thuở lọt lòng mẹ đã đi tu rồi, nên không biết ăn mặn.

Bá Khâm nghe nói, ngẫm nghĩ một lát, rồi nói:

- Thưa trưởng lão, nhà tôi mấy đời nay không biết thế nào là ăn chay. Có ít măng, mộc nhĩ, rau khô, đậu phụ, nhưng cũng đều rán bằng mỡ hổ báo hươu nai cả, không được chay tịnh lắm. Hai chiếc nồi đồng cũng nấu mỡ cả, chẳng biết làm thế nào. Hay là tôi mời trưởng lão có điều gì không phải chăng?

Tam Tạng nói:

- Thái Bảo không phải băn khoăn gì cả. Xin cứ dùng tự nhiên. Bần tăng bốn năm ngày không ăn cơm vẫn có thể chịu được, chứ không dám phá trai giới đâu!

Bá Khâm nói:

- Lỡ ra chết đói thì làm sao? Tam Tạng nói:
- Nhờ ơn Thái Bảo cứu thoát khỏi chốn hùm beo, giá có chết đói vẫn còn hơn bị hổ ăn thịt.

Bà mẹ Bá Khâm nghe vậy liền bảo:

- Con đừng nói cà kê nữa, mẹ đã có thức ăn chay để mời hòa thượng rồi.

Bá Khâm nói:

- Thức ăn chay ở đâu? Bà mẹ đáp:
- Con không phải lo, mẹ đã sắp sẵn rồi.

Bà gọi người con dâu mang đến chiếc nồi nhỏ, đun lửa cho mỡ chảy ra, lau rửa sạch sẽ, rồi lại đặt lên bếp đun lưng nồi nước sôi tráng nồi, sau mới bỏ vào một nắm lá dâu đất, đổ nước
đun làm trà uống, rồi mới lấy nắm kê thổi cơm, luộc chín một ít rau khô, múc đầy hai bát đặt lên trên bàn. Bà cụ nói với Tam Tạng:

- Xin mời trưởng lão dùng chay. Đây là thức ăn chay chính tôi và con dâu tôi nấu nướng rất thanh khiết.

Tam Tạng bước xuống tạ ơn, rồi ngồi vào bàn. Bá Khâm bày riêng một góc la liệt những bát thịt hổ, thịt nai, thịt trăn, thịt cáo, thịt thỏ, chẳng muối, chẳng tương gì sất, và một ít thịt hươu khô, ngồi tiếp Tam Tạng dùng chay. Vừa ngồi xuống, định cầm đũa, lại thấy Tam Tạng chắp tay tụng kinh, Bá Khâm vội vàng hạ đũa bật dậy đứng sang một bên.

Tam Tạng niệm mấy câu, rồi nói:

- Xin mời các vị vào bữa. Bá Khâm hỏi:
- Ngài là hòa thượng đọc kinh ngắn phải không? Tam Tạng đáp:
- Đây chẳng phải là kinh, chỉ là câu chú đọc lúc ăn cơm thôi. Bá Khâm nói:
- Các ngài xuất gia lắm chuyện rắc rối, ăn cơm cũng tụng tụng, niệm niệm.

Ăn cơm xong, thu dọn bát đũa, thì trời đã sẩm tối. Bá Khâm dẫn Tam Tạng ra khỏi nhà giữa, đi ra đằng sau, xuyên qua một con đường hẹp đến một gian nhà cỏ. Đẩy cửa vào, chỉ thấy bốn vách treo đầy cung dài nỏ cứng, mấy túi tên, hai tấm da hổ còn tanh máu căng trên xà nhà, rất nhiều thương, đao, giáo, mác dựng phía chân tường, chính giữa đặt hai chiếc ghế.

Bá Khâm mời Tam Tạng ngồi. Tam Tạng thấy quang cảnh rùng rợn bẩn thỉu, chẳng dám ngồi lâu, bèn ra ngoài nhà cỏ, đi
về phía sau một chút nữa, thấy một khu vườn rộng, có những khóm cúc nở nhị vàng, hàng hàng dương liễu buông cánh đỏ. Lại thấy Bá Khâm cất tiếng gọi, gần mười con hươu, báo, một đàn nai vàng chạy ra, thấy người chúng tỏ vẻ rất ngoan ngoãn, không chút sợ sệt.

Tam Tạng hỏi:

- Hươu nai này Thái Bảo để nuôi à? Bá Khâm thưa:
- Cũng như người ở thành Tràng An ấy, có tiền của thì để dành, có ruộng thì chứa thóc. Chúng tôi là phường săn ở núi rừng, cũng phải nuôi vài con dã thú phòng khi mưa gió.

Hai người vừa đi dạo, vừa trò chuyện, chẳng hay trời đã tối hẳn, bèn quay trở về nhà trước nghỉ ngơi.

Hôm sau, trẻ già trong nhà đều dậy, sửa soạn cơm chay thết đãi trưởng lão làm lễ tụng kinh. Trưởng lão rửa tay, cùng Thái Bảo đến bàn thờ, thắp hương làm lễ gia đường. Xong xuôi, Tam Tạng mới gõ mõ, niệm câu châm ngôn tịnh khẩu nghiệp, cầu thân chủ tịnh thân tâm, rồi sau mới tụng kinh độ vong.

Tụng kinh xong, Bá Khâm lại xin hòa thượng viết cho một tờ sớ tiến vong. Tam Tạng lại cao giọng tụng kinh Kim Cương và kinh Quan Âm. Tụng xong thì đi ăn bữa trưa; rồi lại tụng kinh Pháp Hoa, kinh Di Đà, mỗi kinh tụng vài quyển; rồi lại tụng một quyển  kinh  Khổng  Tước  nữa,  và  nói  truyện  tỳ  kheo  tẩy
nghiệp[87]


  Đến chiều dâng hương hoa, đốt vàng mã và tờ sớ
tiến vong. Việc cúng lễ thế là xong, ai nấy đi nghỉ.

Lại nói linh hồn cha Bá Khâm được siêu độ thoát khỏi hồn quỷ trầm luân, trở về trong căn nhà phía Đông, ứng mộng vào tất cả trẻ già trong nhà rằng:

- Ta ở âm ty chẳng thoát khổ nạn, lâu ngày chẳng được siêu
sinh. Nay nhờ thánh tăng tụng kinh niệm Phật, giải trừ ác nghiệp của ta. Diêm vương sai người đưa ta về Trung Quốc, đầu thai vào một nhà giàu có. Các con phải tạ ơn ngài, đưa ngài đi không được lười biếng. Ta đi đây!

Thế mới là:

Muôn pháp linh thiêng đều ý nghĩa

Cứu vong thoát khỏi nạn trầm luân

Khi cả nhà tỉnh mộng, thì vầng dương đã mọc phương Đông. Vợ Bá Khâm nói với chồng:

- Thưa chàng, đêm qua thiếp nằm mộng thấy cha về, nói rằng khó qua khỏi hoạn nạn ở âm ty, lâu ngày chẳng được siêu sinh. Nay nhờ có thánh tăng tụng kinh niệm Phật, giải trừ ác nghiệp. Diêm vương sai người đưa về Trung Quốc, đầu thai vào một nhà trưởng giả. Các con phải tạ ơn trưởng lão, không được lười biếng. Nói xong, cha đẩy cửa nhẹ gót đi luôn. Thiếp gọi cha chẳng thưa, giữ cha chẳng ở, tỉnh dậy mới biết là giấc mộng.

Bá Khâm nói:

- Ta cũng nằm mơ y như nàng vậy. Chúng ta đi kể cho mẹ nghe đi.

Hai vợ chồng định đi, bỗng thấy mẹ gọi:

- Bá Khâm lại đây, mẹ kể cho mà nghe!

Hai người chạy lại, bà mẹ ngồi trên giường nói:

- Các con này, đêm qua mẹ nằm mộng rất vui. Mẹ thấy bố con về nói rằng, nhờ có trưởng lão siêu độ cho, thoát được ác nghiệp được đầu thai vào một nhà trưởng giả ở Trung Quốc.

Hai vợ chồng cũng cười vui, nói:

- Chúng con cũng nằm mơ thấy y như vậy, định kể cho mẹ nghe, không ngờ mẹ gọi lại kể cho nghe cũng giấc mộng ấy.
Đoạn gọi cả nhà dậy tạ ơn Hòa thượng, sửa soạn hành trang ngựa cưỡi, rồi nói rằng:

- Xin đa tạ trưởng lão đã độ cho vong hồn cha chúng tôi được siêu sinh thoát nạn. Chúng tôi không bao giờ quên ơn.

Tam Tạng nói:

- Bần tăng có tài cán gì đâu mà dám nhận ơn.

Bá Khâm kể lại giấc mộng mà ba người cùng mơ thấy cho
Tam Tạng nghe. Tam Tạng cũng vui lắm.

Gia đình dọn cơm chay và tạ ơn Tam Tạng một lạng bạc trắng. Tam Tạng nhất quyết không nhận. Cả nhà khẩn khoản mãi, Tam Tạng vẫn không nhận, nói:

- Chỉ mong mọi người mở lòng từ bi, đưa tôi đi một đoạn đường là quý lắm rồi!

Bá Khâm cùng mẹ, vợ, gọi thêm hai ba người nhà mang khí giới đi săn cùng đi theo. Phong cảnh núi non nhìn không biết chán.

Đi độ nửa ngày, thấy trước mặt là một ngọn núi cao ngất tầng xanh, sừng sững hiểm trở. Tam Tạng thoáng một lát đã đi tới chân núi. Thái Bảo trèo núi thoăn thắt như đi trên đường phẳng. Đến lưng chừng núi, Bá Khâm quay lại, đứng bên đường nói:

- Thưa trưởng lão, ngài đi một mình thôi, chúng tôi xin từ biệt, quay về.

Tam Tạng vội vàng xuống ngựa, nói:

- Phiền Thái Bảo đưa thêm một đoạn nữa. Bá Khâm nói:
- Trưởng lão không biết. Núi này tên là núi Lưỡng Giới. Nửa bên Đông thuộc nước Đại Đường, nửa bên Tây thuộc nước Thát Đát. Hổ báo bên ấy không chịu hàng phục tôi, tôi cũng không
thể vượt qua biên giới được. Ngài đi một mình vậy.

Tam Tạng lo sợ, dang tay níu áo, rơi lệ chia tay, mắt nhìn theo quyến luyến không rời. Đang lúc đinh ninh dặn dò từ biệt, bỗng nghe thấy dưới chân núi có tiếng gọi như sấm:

- Sư phụ đến rồi! Sư phụ đến rồi!

Khiến Tam Tạng ngẩn người, Bá Khâm phát hoảng. Chưa biết là ai gọi Tam Tạng, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ MƯỜI BỐN


Lòng vươn theo đường chính


Sáu giặc mất tăm hơ  [88]


Phật tức tâm chử, tâm tức Phật. Tâm Phật xưa nay đều báu vật, Nếu biết vô vật lại vô tâm,
Ấy chính chân tâm, pháp thân Phật. Pháp thân Phật, không hình dạng, Một thể sáng tròn đầy muôn trượng Cái thể vô thể là chân thể,
Cái tướng vô tướng tức thực tướng. Chẳng sắc, chẳng không, chẳng bất không: Chẳng đi, chẳng hướng, chẳng quay hướng. Chẳng giống, chẳng khác, chẳng hữu vô; Khó bỏ, khó lấy, khó nghe thấy.
Trong ngoài linh sáng giống như nhau, Một nước Phật trong hạt cát đấy! Chứa nghìn thế giới trong hạt cát, Cũng là muôn pháp - một thân tâm. Biết vậy thì nên đừng tách biệt,
Không chấp trước rồi là sạch nghiệp. Thiện ác nghìn điều cũng chẳng làm,
Ấy là Nam vô Thích Ca Diếp.

Lại nói chuyện Lưu Bá Khâm, Đường Tam Tạng đang ngơ ngác sợ hãi, thì lại nghe thấy tiếng gọi:

- Sư phụ đến rồi! Toán người nhà nói:
- Đấy là tiếng gọi của con vượn già trong hộp đá dưới chân núi.

Thái Bảo nói:

- Đúng đấy, đúng đấy! Tam Tạng hỏi:
- Con vượn già nào vậy? Thái Bảo đáp:
- Quả núi này trước tên là núi Ngũ Hành. Từ khi vua Đường chinh tây mở nước, mới đổi tên là núi Lưỡng Giới. Mấy năm trước đây, tôi thường nghe các cụ già kể rằng: Vào thời Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, trời đè dưới quả núi này một con khỉ thần. Con khỉ ấy không sợ nóng lạnh, không cần ăn uống, có thổ thần canh giữ, bảo nó đói thì ăn hòn sắt, khát thì uống nước rỉ đồng. Từ bấy đến nay, đói rét nó cũng không chết. Chắc tiếng kêu đó là của nó. Trưởng lão đừng sợ, chúng ta xuống chân núi xem sao.

Tam Tạng bằng lòng, dắt ngựa xuống núi. Đi được vài dặm, thấy quả có một con khỉ trong hộp đá, ló đầu vẫy tay rối rít nói:

- Sư phụ ơi, sao bây giờ sư phụ mới tới? May quá! May quá! Sư phụ cứu con ra, con sẽ bảo vệ sư phụ sang Tây Trúc.



Tam Tạng đến gần nhìn kỹ, nhận thấy con khỉ:

Mõm nhọn mặt choắt, Mắt lửa ngươi vàng Đỉnh đầu rêu bám kín. Trong tai dây mọc lan.
Bên mái tóc thưa, cỏ rậm rạp, Dưới cằm chỉ thấy ấu lan man
Mi dính đất, mũi đầy bùn, bẩn thỉu nhem nhuốc

Bàn tay dầy, ngón tay múp, cáu ghét lấm lem.

Còn mừng thấy:

Con ngươi chuyển động Tiếng nói vang vang Nói năng tuy hoạt bát



Chính là:

Thân chịu ép đáng thương.



Tôn đại thánh năm trăm năm trước. Hôm nay mãn hạn thoát tai ương.

Lưu Thái Bảo đánh bạo, đến tận nơi nhổ những sợi cỏ bên mái tóc, và củ ấu dưới cằm, hỏi:

- Nhà ngươi định nói gì? Con khỉ đáp:
- Tôi chẳng nói gì hết, gọi dùm sư phụ đến đây cho tôi hỏi một điều.

Tam Tạng nói:

- Nhà ngươi hỏi gì ta? Con khỉ hỏi:
- Ngài có phải là người mà nhà vua bên phương Đông phái sang Thiên Trúc lấy kinh không?

Tam Tạng đáp:

- Chính ta đây, nhà ngươi hỏi gì nào? Con khỉ nói:
- Con chính là Tề Thiên đại thánh đại náo thiên cung năm trăm năm trước. Chỉ vì phạm tội lừa dối bề trên nên bị Phật tổ giam ở đây. Trước đây, đức Quan Âm bồ tát vâng mệnh Phật tổ sang phương Đông tìm người lấy kinh đi qua đây, con có kêu xin ngài cứu cho. Ngài khuyên con chớ làm điều ác, quy y Phật pháp, gắng sức ân cần bảo vệ người lấy kinh sang phương Tây lễ Phật. Khi nào thành công ắt sẽ tốt đẹp. Vì vậy con đêm ngày gìn giữ, sớm tối ghi lòng, chờ sư phụ đến giải thoát cho. Con nguyện hộ vệ ngài đi lấy kinh, làm đồ đệ của ngài.
Tam Tạng nghe nói, trong bụng vui mừng, hỏi:

- Nhà ngươi tuy có lòng lành như vậy, lại được Bồ tát giáo
huấn muốn làm Sa môn[89]


 nhưng ta không có búa mà bổ, làm
sao cứu nhà ngươi ra được?

Con khỉ nói:

- Trên đỉnh núi có đạo bùa chữ vàng của Như Lai yểm. Ngài lên đó bóc đạo bùa ấy đi là con được thoát.

Tam Tạng nghe lời, quay đầu nài nỉ Bá Khâm:

- Thái Bảo ơi, ta cùng ngươi lên đỉnh núi đi! Bá Khâm nói:
- Chẳng biết thật giả ra sao? Con khỉ lớn tiếng:
- Thật đấy! Tôi không nói sai đâu!

Bá Khâm đành gọi người nhà, dắt ngựa, đỡ Tam Tạng trèo lên đỉnh núi. Họ vin cây bám cành trèo lên tới đỉnh, quả nhiên thấy một tảng đá vuông hào quang chói lọi, mây lành rực rỡ, trên tảng đá dán một đạo bùa có sáu chữ vàng “Úm-ma-ni-bát-mê- hồng”.

Tam Tạng đến gần, quỳ xuống, nhìn hàng chữ vàng, lạy mấy lạy, ngoảnh về phương Tây khấn rằng:

- Đệ tử là Trần Huyền Trang, vâng mệnh nhà vua đi lấy kinh, nếu con khỉ quả có phận đồ đệ, thì xin cho bóc được hàng chữ vàng, giải thoát khỉ thần, cùng chứng Linh Sơn. Nếu con khỉ không có phận đồ đệ, chỉ là con quái vật hung hãn, lừa dối đệ tử, không thành quả phúc, thì sẽ không bóc được.

Khấn xong lại lạy. Lạy rồi bước lên nhẹ nhàng bóc đạo bùa sáu chữ ra. Một làn gió thơm thoảng qua thổi đạo bùa bay lên không trung, như có bàn tay nâng đi vậy. Rồi nghe thấy tiếng
nói:

- Ta là thần trông coi Đại thánh. Nay hạn giam đã hết. Chúng ta mang đạo bùa về trình đức Như Lai.

Sợ quá, Tam Tạng, Bá Khâm, cùng mọi người ngẩng lên trời vái tạ, rồi đi thẳng xuống núi, đến bên chiếc hộp đá, nói với con khỉ:

- Chúng ta đã bóc đạo bùa đi rồi, nhà ngươi ra đi! Con khỉ sướng quá, nói:
- Sư phụ chạy xa ra một chút, cho con ra. Đừng sợ đấy!

Bá Khâm nghe nói, dắt Tam Tạng cùng mọi người chạy về hướng Đông, cách khoảng dăm bảy dặm. Lại nghe thấy con khỉ gọi vang:

- Xa nữa đi, xa nữa đi!

Tam Tạng lại đi xa thêm chút nữa, xuống chân núi. Bỗng nghe thấy một tiếng nổ vang trời. Ai nấy đang sợ hãi, thì đã thấy con khỉ đến trước con ngựa của Tam Tạng, quỳ xuống thưa:

- Thưa sư phụ, con đã ra được rồi.

Đoạn, lạy Tam Tạng bốn lạy, rồi quay người chào Bá Khâm thật to:

- Cảm ơn đại ca đã đưa sư phụ tôi đến đây, nhổ cỏ dùm trên mặt tôi.

Tạ ơn xong, Ngộ Không đi thu xếp hành lý, ngựa cưỡi. Con ngựa thấy Ngộ Không, lưng mềm chân khuỵu run rẩy đứng không vững. Chính vì Ngộ Không trước đây giữ chức Bật mã ôn, nuôi ngựa thần trên trời, biết phép tắc, nên ngựa thần trông thấy là sợ.

Tam Tạng thấy con khỉ thực có lòng tốt, giống như người sa môn, bèn hỏi:
- Nhà ngươi họ gì? Hầu vương nói:
- Con họ Tôn. Tam Tạng nói:
- Ta đặt cho ngươi một pháp danh để tiện gọi nhé. Hầu vương thưa:
- Cảm ơn lòng tốt của sư phụ, con có pháp danh là Tôn Ngộ
Không rồi.

Tam Tạng mừng lắm, nói:

- Pháp danh ấy hợp với tông phái ta lắm. Nhưng nhìn dáng
nhà ngươi rất giống một tiểu đầu đà[90]


  ta muốn đặt cho một
tên nữa là Hành Giả có được không?

Ngộ Không thưa:

- Được lắm ạ!

Từ đấy, Ngộ Không lại có tên nữa là Tôn Hành Giả.

Bá Khâm thấy Hành Giả thu xếp hành lý, bèn quay lại nói với
Tam Tạng:

- Thưa trưởng lão, may quá đến đây ngài lại có được một đồ đệ tôi mừng cho ngài lắm. Có người này đi với ngài rồi, vậy tôi xin cáo biệt.

Tam Tạng cúi mình nói:

- Đa tạ Bá Khâm đã giúp đỡ. Cho tôi gửi lời cám ơn lão mẫu và quý nương ở nhà. Bần tăng tôi đã quấy quả nhiều, khi về sẽ có dịp tạ ơn sau.

Bá Khâm đáp lễ, rồi hai bên chia tay nhau.

Tôn Hành Giả mời Tam Tạng lên ngựa, còn mình trần truồng
gánh hành lý thoăn thoắt đi trước. Một lát sau, vượt qua qua núi Lưỡng Giới. Bỗng có một con hổ gầm thét, vẫy đuôi bước tới. Tam Tạng sợ hãi. Hành Giả đứng ven đường thích quá, nói:

- Sư phụ đừng sợ, nó mang quần áo đến cho con đấy.

Đoạn buông hành lý xuống, rút cây kim trong tai ra, vung lên múa loang loáng, thành ngay cây gậy sắt ngày nào. Hành Giả cầm gậy trong tay, cười nói:

- Thứ bảo bối này hơn năm trăm năm nay chưa dùng đến nó, hôm nay lấy ra dùng kiếm một bộ quần áo mặc chơi!

Đoạn rảo bước tiến lên, quát:

- Đồ nghiệt súc, chạy đi đâu?

Con hổ khuỵu chân nằm rạp xuống đất, không dám cựa quậy, bị Hành Giả đập cho một gậy, óc phọt bắn tung tóe, răng gẫy
văng rào rào[91]


 khiến Huyền Trang sợ quá suýt ngã ngựa, cắn
,
ngón tay nói:

- Trời ơi, hôm trước Lưu Thái Bảo đánh một con hổ vằn, còn phải đấu với nó mất nửa ngày, mà nay Tôn Ngộ Không chẳng cần mất sức đấu, chỉ đánh một gậy là hổ nát óc. Thật là “Kẻ hơn người vẫn có người hơn”.

Hành Giả lôi con hổ lại, nói:

- Sư phụ ngồi nghỉ một chút, đợi con lột da làm bộ quần áo mặc đi đường.

Tam Tạng nói:

- Nhà ngươi làm thành quần áo thế nào được? Hành Giả đáp:
- Sư phụ yên tâm, con đã có cách.

Hầu vương bèn nhổ một sợi lông, hà hơi tiên, hô “biến”, hóa
thành một con dao nhọn cong như chiếc sừng trâu, rạch bụng hổ lột lấy cả bộ da, đoạn vứt móng vuốt và da đầu, cắt thành mảnh vuông vắn ướm vào người, nói:

- Hơi rộng một chút, có thể cắt thành hai tấm.

Lại cầm dao cắt thành hai mảnh, nhặt lấy một mảnh quấn quanh bụng, lấy dây sắn ven đường buộc chặt lại, kéo xuống cho kín cả phần dưới, và nói:

- Sư phụ ạ, ta đi thôi, đến nhà dân sẽ mượn kim chỉ khâu vào cũng không muộn.

Hành Giả vuốt vuốt cây gậy sắt, cây gậy lại nhỏ thành cái kim như cũ, cất vào trong tai, gánh hành lý, mời sư phụ lên ngựa.

Đang đi, trưởng lão ngồi trên mình ngựa hỏi:

- Ngộ Không này, cây gật sắt nhà ngươi đánh hổ vừa rồi giờ sao không thấy?

Hành Giả cười, thưa:

- Sư phụ không biết, cây gậy ấy con lấy ở dưới long cung tận
Đông  Dương  đại  hải  tên  là  “Thiên  hà  trấn  để  thần  trân
[92]
thiết”

. Nó còn có tên là “gậy như ý bịt vàng”. Cái ngày con
đại náo thiên cung, toàn sử dụng nó, tùy ý biến hóa, cần to là to, bảo nhỏ là nhỏ. Vừa nãy con biến nó thành một chiếc kim thêu cất vào trong tai rồi. Khi nào dùng lại thò tay rút ra.

Tam Tạng nghe nói mừng thầm, lại hỏi:

- Tại sao con hổ vừa thấy nhà ngươi, đã nằm im thin thít để ngươi đánh chết?

Ngộ Không thưa:

- Chẳng giấu sư phụ, chưa nói đến hổ, ngay đến rồng thấy con cũng chẳng dám vô lễ. Con có võ nghệ cao cường, thần thông
[93]
biến hóa

, nhìn mặt biết người, nghe lời biết lý, lớn thì bằng
vũ trụ, bé chẳng khác sợi lông, biến hóa khôn lường, ẩn hiện khó đoán, chứ lột da hổ có đáng kể gì. Khi nào gặp tai nạn, sư phụ hãy xem con thi thố tài năng.

Tam Tạng nghe nói như vậy, càng yên tâm không lo lắng gì nữa, thúc ngực bước tới. Hai thầy trò đi đường, mải mê trò chuyện, bất giác mặt trời đã lặn về Tây. Chỉ thấy:

Chiều hôm rực rỡ nắng vàng. Chân trời góc biển lang thang mây về, Chim rừng ríu rít suối khe,
Tìm nơi ngủ vội bay về rừng sâu, Từng đàn dã thú rủ nhau
Con nào con nấy quay đầu về hang, Vành trăng đuổi bóng hoàng hôn, Bầu trời trải rộng muôn vàn ánh sao.
Hành Giả nói:

- Sư phụ đi mau lên một chút. Trời tối rồi. Chỗ kia cây cối rậm rạp, hẳn là trang trại nào đó, chúng ta mau lại đấy ngủ nhờ.

Tam Tạng thúc ngựa tiến bước đến chỗ có nhà cửa. Đến cổng trại, Tam Tạng xuống ngựa, Hành Giả bỏ hành lý xuống, bước tới cổng, gọi:

- Mở cửa, mở cửa!

Bên trong có một cụ già chống gậy ra mở cửa. Cánh cửa mở ra kêu đánh kẹt. Cụ già nhìn thấy Hành Giả xấu xí, lưng quấn một tấm da hổ, chẳng khác thiên lôi, sợ quá, chân tay bủn rủn, miệng lắp bắp:

- Quỷ tới! Quỷ tới!
Tam Tạng tiến đến gần đỡ cụ già, nói.

- Cụ đừng sợ, hắn là đồ đệ của bần tăng đấy, không phải là ma quỷ đâu.

Cụ già ngẩng đầu nhìn, thấy Tam Tạng mặt mũi thanh tú sáng sủa, mới đứng vững, hỏi:

- Ngài là Hòa thượng ở chùa nào, đưa người hung dữ này tới cửa nhà tôi có việc gì?

Tam Tạng đáp:

- Bần tăng từ nước Đại Đường, sang phương Tây lễ Phật cầu kinh, đến đây trời vừa tối, phiền cụ cho ngủ nhờ một đêm, sáng sớm ngày mai, chúng tôi lại đi ngay. Mong cụ làm phúc.

Cụ già nói:

- Ngài tuy là người nước Đường, nhưng ông hung dữ kia không phải là người nước Đường.

Ngộ Không nghe thế, quát:

- Lão già kia thật không có mắt! Sư phụ ta là người nước Đường, ta là đồ đệ. Ta chẳng phải là người đường mật nào hết. Ta là Tề Thiên đại thánh, ở đây có người nhận ra ta đấy, mà ta cũng từng gặp cả lão nữa.

Cụ già nói:

- Ông gặp tôi ở đâu? Ngộ Không đáp:
- Lúc nhỏ, lão chẳng đã kiếm củi, hái rau trước mặt ta là gì? Cụ già nói:
- Ông nói láo! Ông ở đâu, tôi ở đâu, mà tôi lại kiếm củi, hái rau trước mặt ông?

Ngộ Không tức quá nói:
- Con ta nói láo quá! Ngươi không nhận ra ta à? Ta là Đại thánh trong hộp đá dưới núi Lưỡng Giới đấy. Lão nhìn lại xem.

Cụ già nhận ra, nói:

- Trông ông cũng hao hao. Nhưng tại sao ông ra được?

Ngộ  Không  kể  cho  lão  già  nghe  một  lượt  chuyện  Bồ  tát khuyên làm điều thiện, đợi thấy Đường Tăng bóc bùa cứu thoát như thế nào.

Cụ già nghe xong sụp lạy, mời Đường Tăng vào nhà, gọi vợ con đến chào, và kể cho mọi người nghe câu chuyện, ai nấy vui mừng.  Cụ  già  bảo  pha  trà.  Uống  trà  xong,  cụ  già  hỏi  Ngộ Không:

- Thưa Đại thánh, ngài năm nay bao nhiêu tuổi? Ngộ Không hỏi lại:
- Cụ năm nay bao nhiêu tuổi? Cụ già thưa:
- Tôi mới một trăm ba mươi tuổi. Đại thánh nói:
- Vẫn vào hàng cháu chắt của ta thôi. Ta sinh năm nào không nhớ nữa. Nhưng nằm dưới chân núi này đã hơn năm trăm năm rồi.

Cụ già nói:

- Đúng đấy, đúng đấy. Tôi còn nhớ các cụ kể lại rằng có một con khỉ thần từ trên trời rơi xuống, bị đè dưới chân núi này. Thế mà đến nay ngài mới ra được! Lúc nhỏ gặp thấy trên đầu ngài cỏ mọc, mặt ngài trạt bùn, còn không sợ. Nay đầu ngài hết cỏ, mặt sạch bùn, nom gầy hơn, lưng lại quấn một tấm da hổ, chẳng khác gì yêu quái cả.

Cả nhà nghe nói cười vang. Cụ già hiền lành lập tức sai dọn
cơm chay mời khách. Ăn xong Ngộ Không hỏi:

- Cụ họ gì? Cụ già thưa:
- Tôi họ Trần.

Tam Tạng nghe nói, lập tức đi xuống giơ tay, nói:

- Cụ cùng một họ với bần tăng. Hành Giả hỏi:
- Sư phụ họ Đường, cùng họ với cụ thế nào được? Tam Tạng đáp:
- Ta vốn họ Trần, quê thôn Tụ Hiền, quận Hoằng Nông, thuộc Hải Châu nhà Đường, pháp danh là Trần Huyền Trang. Hoàng đế nhà Đại Đường nhận ta là em, đặt pháp danh Tam Tạng, lấy Đường làm họ, nên gọi là Đường Tăng.

Cụ già nghe thấy nói cùng họ mừng lắm. Hành Giả nói:
- Cụ Trần này, phiền cụ một chút. Hơn năm trăm năm nay tôi chưa tắm, nhờ cụ đun cho ít nước nóng, để thầy trò chúng tôi tắm một lượt. Lúc ra đi chúng tôi xin cảm tạ.

Cụ già lập tức sai đun nước, lấy chậu, châm đèn. Thầy trò tắm gội xong, ngồi bên ngọn đèn. Hành Giả nói:

- Cụ Trần ạ, phiền cụ một việc nữa, cho tôi mượn kim chỉ một chút.

Cụ già nói:

- Có ngay, có ngay.

Và sai cụ bà mang kim chỉ đưa cho Hành Giả.

Hành Giả để ý thấy sư phụ lúc tắm có cởi ra một chiếc áo vải trắng ngắn, hẹp chưa mặc vào, bèn cầm lấy mặc vào người, cởi
tấm da hổ ra, khâu thành một cái quây hình mặt ngựa quấn ngang bụng, lấy dây mây thắt lại, bước tới trước mặt sư phụ nói:

- Hôm nay lão Tôn ăn mặc thế này, so với hôm qua thế nào? Tam Tạng nói:
- Đẹp lắm! Đẹp lắm! Mặc như vậy mới ra dáng Hành Giả chứ!

Tam Tạng lại nói:

- Đồ đệ này, nếu con không chê tấm áo ngắn cũ rách ấy thì cứ để mà dùng.

Ngộ Không gật đầu:

- Xin cảm ơn sư phụ.

Nói rồi đi tìm cỏ cho ngựa ăn. Lúc ấy, mọi việc xong xuôi, thầy trò Ngộ Không và mọi người ai nấy đi ngủ.

Sớm hôm sau, Ngộ Không trở dậy, mời sư phụ lên đường. Tam Tạng mặc áo, bảo Hành Giả thu xếp hành lý. Đang định cáo từ, đã thấy cụ già chuẩn bị sẵn sàng nước nóng rửa mặt, cơm chay cả rồi. Ăn xong mới ra đi. Tam Tạng cưỡi ngựa. Hành Giả dẫn dường. Đói ăn khát uống, đêm nghỉ ngày đi, thấm thoắt thời tiết đã sang đông. Chỉ thấy:

Cây gầy lá úa sương pha,

Tùng bách mấy khóm mượt mà tươi xanh, Hoa mai hương thoảng trên cành,
Đêm dài ngày ngắn đã rành tiết xuân.

Sen tàn, cúc cũng héo dần,

Cây sơn trà vẫn muôn phần tốt tươi, Cầu sương, cổ thụ ngất trời,
Suối quanh nước chảy về xuôi rì rào,
Mây xám che lấp trời cao,

Tuyết bay lất phất khác nào mưa rơi, Gió bấc hun hút khắp trời,
Kéo tay áo phủ mặt người bước mau, Nỗi niềm ai thấu cho nhau.
Thầy trò đi được một lúc lâu, bỗng ven đường nghe soạt một tiếng, thấy sáu người xông ra, đứa nào cũng giáo dài, kiếm ngắn, dao sắc, cung cứng, quát vang:

- Lão Hòa thượng kia đi đâu? Hãy để hành lý và ngựa lại, thì tha cho tính mạng!

Tam Tạng hồn phách rụng rời, ngã lăn xuống ngựa, nói không thành tiếng. Hành Giả đỡ dậy, nói:

- Sư phụ yên tâm, không sao đâu. Chúng là những tên mang quần áo, tiền bạc cho chúng ta đấy mà.

Tam Tạng nói:

- Ngộ Không điếc hay sao? Chúng bảo chúng ta phải để ngựa, hành lý lại, mà con lại bắt chúng phải dâng quần áo, tiền bạc là thế nào?

Hành Giả đáp:

- Sư phụ ngồi giữ quần áo, hành lý và ngựa nhé, để con thử đấu với chúng một trận xem sao.

Tam Tạng nói:

- Hai người đánh một chẳng chột cũng què[94]


 Bọn chúng có
những sáu thằng lực lưỡng! Một mình con bé tẹo thế này, làm sao địch nổi?

Hành Giả vốn người dũng cảm, chẳng nói chẳng rằng, bước lên, chắp tay trước ngực, chào sáu tên cướp:
- Các ông vì duyên cớ gì lại cản trở đường đi của bần tăng? Mấy tên kia nói:
- Chúng ta là đại vương ngăn đường, là chúa sơn lâm tốt bụng, tiếng tăm lừng lẫy, ngươi không biết sao? Hãy mau để đồ vật lại thì ta cho đi. Nhược bằng nói nửa lời “không”, thì thân xác các ngươi nát vụn như cám!

Hành Giả nói:

- Ta cũng là đại vương tổ truyền, sơn chúa lâu năm mà chưa từng được nghe tiếng tăm của các ông.

Mấy tên kia nói:

- Nhà ngươi không biết, bọn ta nói cho mà nghe: Chúng ta, một người gọi là “mắt thấy mừng”, một người gọi là “tai nghe giận”, một người gọi là “mũi ngửi thích”, một người gọi là “lưỡi nếm nghĩ”, một người gọi là “ý thấy muốn”, và một người gọi là “thân vốn lo”.

Ngộ Không cười, nói:

- Ồ, các người là sáu thằng giặc cỏ, không nhận ra người xuất gia này là chủ của các ngươi sao, mà lại dám chặn đường? Hãy mang những đồ châu báu cướp được ra đây chia đều làm bảy phần, thì ta tha cho!

Sáu tên cướp nghe nói, thằng mừng thì mừng, thằng giận thì giận, thằng thích thì thích, thằng nghĩ thì nghĩ, thằng muốn thì muốn, thằng lo thì lo, cả lũ xông lên hò hét loạn xị:

- Lão Hòa thượng này vô lễ thật! Đã chẳng có lễ vật thì chớ, lại còn đòi chia phần của chúng tao!

Chúng vung thương, múa kiếm, xông vào nhắm đầu Hành Giả chém chan chát bảy tám mươi nhát liền. Ngộ Không đứng im như không biết gì hết. Bọn cướp nói:
- Lão Hòa thượng này đầu rắn quá! Hành Giả cười, nói:
- Hãy coi đây! Chúng bay đánh mỏi tay rồi, bây giờ đến lượt lão Tôn rút cây kim ra, thử tí xem!

Bọn cướp nói:

- Lão  Hòa  thượng  này  vốn  là  thầy  lang  châm  cứu  chắc? Chúng tao có bệnh gì đâu mà dùng kim!

Hành Giả thò tay rút cây kim thêu trong tai ra, vung lên một cái đã biến thành cây gậy sắt thon dài, cầm trong tay, nói:

- Chớ có chạy, để lão Tôn này đánh thử một gậy coi.

Sáu tên cướp bỏ chạy tán loạn. Hành Giả nhanh nhẹn đuổi theo tóm gọn, đập chết hết, lột lấy quần áo, tiền bạc rồi cười khanh khách, chạy về nói:

- Xin mời sư phụ lên đường, lũ cướp đã bị lão Tôn giết hết rồi.

Tam Tạng nói:

- Nhà ngươi gây tai họa rồi. Bọn chúng tuy là giặc cướp chặn đường, nhưng đến cửa quan, chưa chắc đã bị khép vào tội chết. Nhà ngươi có võ nghệ thì chỉ đuổi chúng đi là xong, việc gì phải giết? Vô cớ đánh chết người ta, thì làm Hòa thượng sao được? Người xuất gia “quét nhà còn lo con kiến chết, sa đèn thương hại cái thiêu thân”, nhà ngươi chẳng nghĩ phải trái giết tất cả, không có một lòng từ bi hiếu sinh nào. May ở chốn núi non không người tra khảo. Giá ở phố phường, có đông người va chạm, nhà ngươi lại hành hung vác gậy đánh chết người ta, thì chúng ta tuy là người lương thiện trong sạch, cũng làm sao mà thoát thân được?

Hành Giả nói:
- Thưa sư phụ, mình không đánh chết họ, họ cũng đánh chết mình.

Tam Tạng nói:

- Chúng ta là người xuất gia, thà chết chứ không hành hung người. Ta chết cũng chỉ một thân ta. Nhà ngươi giết những sáu người còn lý sự gì nữa! Việc ấy nếu có người tố cáo với quan, thì dù bố nhà ngươi có làm quan cũng không bênh được.

Hành Giả nói:

- Chẳng giấu sư phụ, năm trăm năm trước, lão Tôn xưng vua, xưng chúa ở núi Hoa Quả, đã giết chết không biết bao nhiêu người. Cứ như sư phụ nói, thì con không thể làm được Tề Thiên đại thánh.

Tam Tạng nói:

- Lúc ấy do nhà ngươi không ai thu phục cai quản, hoành hành ở chốn nhân gian, dối trời lừa trên, cho nên mới bị giam năm trăm năm. Nay trở thành sa môn rồi, mà vẫn giữ thói hành hung như ngày xưa, một mực giết người, thì không sang nổi phương Tây, không làm được Hòa thượng đâu. Ác quá! Ác quá!

Ngộ Không vốn xưa nay vẫn không chịu nổi mắng nhiếc, thấy
Tam Tạng lải nhải mãi, không nén được bực tức, nói:

- Con không làm được Hòa thượng, không sang được phương
Tây, thì việc gì phải càu nhàu mắng con mãi, con trở về là xong!

Tam Tạng chưa kịp trả lời, Ngộ Không đã nhảy vút lên, nói:

- Lão Tôn đi đây!

Tam Tạng vội ngẩng đầu nhìn lên, đã không thấy đâu nữa, chỉ nghe thấy vút một tiếng phóng về phương Đông. Tam Tạng lẻ loi trơ trọi, vò đầu thở than, oán trách mãi, nói:

- Đồ khốn, khó bảo quá! Ta mới nói vài câu, hắn đã bỏ đi mất
tăm, mất dạng. Thôi, thôi, ấy cũng là cái số mình không thu nạp được đồ đệ, không lấy thêm được người. Bây giờ muốn tìm hắn cũng chẳng biết tìm đâu, có gọi hắn cũng chẳng thưa. Hắn bỏ đi rồi. Còn mình phải quyết tâm sang phương Tây thôi, tự mình lo liệu lấy không tựa nương vào người khác nữa.

Trưởng lão đành thu nhặt hành lý đặt lên lưng ngựa, bây giờ không cưỡi ngựa, mà một tay chống gậy, một tay nắm cương, buồn bã đi về hướng Tây. Đi được một lát, thấy ở đường núi trước mặt có một bà lão già nua, tay cầm một cái áo bông, trên tấm áo có một chiếc mũ hoa. Tam Tạng thấy bà lão đến gần, bèn vội vàng dắt ngựa đừng tránh sang bên nhường bước. Bà lão hỏi:

- Trưởng lão từ đâu tới, mà một mình bơ vơ thế này? Tam Tạng đáp:
- Đệ tử là người được đức vua bên phương Đông sai sang phương Tây lễ Phật cầu kinh.

Bà lão nói:

- Đức Phật phương Tây ở chùa Lôi Âm, thuộc nước Thiên Trúc, đường xa mười vạn tám nghìn dặm, ngài chỉ một mình một ngựa, không có bạn đường, không có đồ đệ, thì đi làm sao đặng?

Tam Tạng nói:

- Hôm trước tôi có thu nhận được một đồ đệ, tính tình hung hãn bướng bỉnh, tôi mới mắng có vài câu, hắn đã không chịu, bỏ đi mất tăm rồi.

Bà lão nói:

- Lão có một tấm áo bông, một chiếc mũ dát hoa vàng để cho con trai lão dùng. Nó mới đi tu được ba ngày, không may chết yểu, lão đến chùa nó tu, khóc lóc hồi lâu, từ biệt sư phụ, mang
hai thứ mũ áo này về giữ làm kỷ niệm. Trưởng lão ạ, ngài đã có đồ đệ, thì tôi xin biếu ngài bộ mũ áo này.

Tam Tạng nói:

- Cảm ơn lòng tốt của lão mẫu nhưng đồ đệ của tôi đã bỏ đi mất rồi, tôi chẳng dám nhận.

Bà lão hỏi:

- Hắn đi đâu? Tam Tạng thưa:
- Tôi chỉ nghe vút một tiếng hắn phóng về phương Đông. Bà lão nói:
- Hướng Đông gần đây là nhà lão, chắc hắn vào đấy thôi. Đây lão còn có một bài chú gọi là “Định tâm chân ngôn”, bài ấy còn có tên nữa là “Khẩn cô nhi chú”. Ngài nhẩm cho thuộc, nhớ cho kỹ, chớ có tiết lộ cho ai biết. Lão sẽ đuổi kịp hắn, bảo hắn quay lại với ngài, rồi ngài đưa bộ mũ áo này cho hắn mặc. Nếu hắn không nghe lời sai bảo, ngài hãy niệm bài chú ấy, là hắn không dám hành hung và không dám bỏ đi nữa đâu.

Tam Tạng nghe nói, cúi đầu lạy tạ. Bà lão biến thành một đạo hào quang bay về phương Đông. Tam Tạng biết ngay là đức Quan Âm bồ tát trao cho chân ngôn, vội vàng quét sạch đất, thắp hương, ngoảnh về phía Đông thành kính vái lễ. Lễ xong, nhặt mũ áo cất vào trong tay nải, ngồi bên vệ đường nhẩm bài chú “Định tâm chân ngôn” vài lần cho thuộc. Chuyện không nói đến nữa.

Lại nói Ngộ Không bỏ sư phụ ra đi, dùng phép cân đẩu vân đến thẳng Đông Dương đại hải, từ trên mấy phóng xuống, rẽ nước  đến  ngay Thủy  Tinh  cung.  Long  vương  sợ  hãi  vội  ra nghênh tiếp, mời vào trong cùng ngồi. Chào xong, Long vương hỏi:
- Mới đây, nghe tin Đại thánh hết hạn, chưa kịp đến mừng, tưởng ngài đã sửa sang lại núi tiên, trở về động cũ rồi.

Ngộ Không đáp:

- Ta cũng muốn như thế, nhưng lại phải làm hòa thượng. Long vương hỏi:
- Sao, làm hòa thượng à? Hành Giả đáp:
- Đức Bồ tát ở Nam Hải khuyên ta làm điều thiện, tu hành chính quả, theo Đường Tăng bên phương Đông sang phương Tây lễ Phật cầu kinh, vào hàng sa môn, gọi là Hành Giả.

Long vương nói:

- Việc ấy hay lắm, hay lắm! Có thế mới cải tà quy chính, khai mở lòng lành được. Thế sao ngài không đi sang phương Tây mà lại quay về phương Đông?

Hành Giả cười, nói:

- Là vì Đường Tăng không biết tính ta, có mấy thằng giặc cỏ chặn đường bị ta giết chết, mà Đường Tăng cứ càu nhàu mãi, nói ta như vậy là sai. Ngài bảo lão Tôn này chịu làm sao được? Thế là ta bỏ ông ấy, định trở về núi cũ. Nhân tiện qua đây ta ghé thăm ngài, xin một chén trà uống.

Long vương nói:

- Quý hóa quá! Quý hóa quá!

Lập tức con rồng, cháu rồng bưng trà hương ra mời Đại thánh. Uống trà xong, Hành Giả quay đầu ngắm nghía bức tranh “Cầu Dĩ dâng giầy” treo phía sau bèn hỏi:

- Bức tranh vẽ gì nhỉ? Long vương thưa:
- Đại thánh sinh đời trước, việc này thuộc đời sau, ngài không biết. Bức tranh này gọi là “Ba lần dâng giầy ở Cầu Dĩ”.

Hành Giả hỏi:

- “Ba lần dâng giầy” là thế nào? Long vương thưa:
- Vị tiên này là Hoàng Thạch Công. Còn người kia là Trương Lương nhà Hán. Thạch Công ngồi trên Cầu Dĩ, bỗng bị rơi giầy xuống chân cầu, bèn gọi Trương Lương nhặt hộ. Trương Lương nhanh nhẹn đi nhặt mang lên, quỳ dâng trước mặt. Ba lần như vậy,  Trương  Lương  không  chút  tỏ  ra  lười  biếng  kiêu  căng. Thạch Công quý mến Trương Lương cần cù lễ độ, nên đến đêm trao cho Trương Lương một cuốn thiên thư, và bảo giúp cho nhà Hán. Về sau, quả nhiên Trương Lương mưu tính trong màn trướng mà quyết đoán được sự thắng bại ở nơi nghìn dặm. Sau khi thái bình rồi, ông ta từ quan vào núi, theo Xích Tùng Tử học được đạo tiên. Đại thánh ạ, ngài không theo Đường Tăng, không chịu khó nhọc, không nghe dạy bảo, cuối cùng vẫn chỉ là một con yêu quái mà thôi, thành chính quả sao được!

Ngộ Không nghe nói, ngẫm nghĩ hồi lâu, chẳng nói năng gì. Long vương nói:
- Đại thánh nên xét kỹ, đừng thích phóng khoáng mà để lỡ các công việc về sau nữa.

Ngộ Không nói:

- Thôi ngài đừng nói nữa, ta đi hộ vệ Đường Tăng đây. Long vương mừng lắm, nói:
- Nếu như thế tôi cũng không dám giữ Đại thánh lâu. Mong ngài mở lòng từ bi ngay cho, đừng để sư phụ đợi lâu.

Hành Giả thấy Long vương giục giã đi ngay, bèn vội đứng
dậy, ra khỏi đáy bể, từ biệt Long vương, cưỡi mây bay đi.

Đang đi thì gặp đức Bồ tát. Bồ tát nói:

- Tôn Ngộ Không, tại sao nhà ngươi không nghe dạy dỗ, không hộ vệ Đường Tăng, mà đến đây làm gì?

Sợ hãi, Hành Giả đứng trên mây cúi lạy, nói:

- Đội ơn Bồ tát làm điều thiện, quả có nhà sư nước Đường tới bóc lá bùa, cứu con ra. Con đã đi theo làm đồ đệ cho ông ta. Nhưng ông ta mắng con hung hãn bướng bỉnh, nên con mới bỏ đi một chặp. Bây giờ con lại quay về, đi theo hộ vệ ông ấy đây.

Bồ tát nói:

- Đi mau lên, đừng nghĩ vẩn vơ nữa. Nói xong, ai đi đường nấy.
Chớp mắt, Hành Giả đã nhìn thấy Đường Tăng ngồi buồn thiu bên vệ đường, bèn lại gần nói:

- Sư phụ không đi còn ngồi đây làm gì? Tam Tạng ngẩng đầu nói:
- Con đi đâu vậy! Khiến ta chẳng dám đi, đành phải ngồi nguyên tại đây đợi con.

Hành Giả đáp:

- Con đến nhà Long vương ở Đông Dương đại hải xin chén trà uống.

Tam Tạng nói:

- Này con, người xuất gia không nên nói dối. Con mới đi khỏi độ hơn một tiếng, mà lại dám nói là đến nhà Long vương uống trà sao?

Hành Giả cười, nói:

- Chẳng giấu gì sư phụ, con có phép cân đẩu vân, cưỡi mây,
mỗi một cân đẩu vân đi xa được mười vạn tám nghìn dặm đường, cho nên con mới đi về nhanh như vậy đấy.

Tam Tạng nói:

- Ta mới nặng lời một chút, mà con đã giận ta, bỏ đi. Con có tài còn tìm được trà uống. Còn ta không bay được, đành ngồi chịu đói ở đây. Vậy cọn nghĩ lại đừng bỏ đi nữa nhé!

Hành Giả nói:

- Thưa sư phụ, nếu thầy đói, con đi tìm cho thầy một chút cơm chay vậy.

Tam Tạng nói:

- Chẳng cần cơm chay đâu. Trong tay nải của ta còn ít lương khô của bà mẹ Lưu Thái Bảo cho. Con mang bát đi tìm ít nước, đợi ta ăn xong thì đi.

Hành Giả mở tay nải, thấy mấy cái bánh khô để ở giữa bao, lấy ra đưa cho sư phụ. Lại thấy một chiếc áo bông mới tinh và một chiếc mũ dát hoa vàng, bèn hỏi:

- Mũ áo này, sư phụ mang từ nhà đi à? Tam Tạng thuận mồm đáp:
- Những thứ này ta vẫn dùng từ nhỏ. Đội chiếc mũ ấy, chẳng học kinh cũng biết niệm kinh. Mặc chiếc áo ấy, chẳng cần học lễ cũng biết làm lễ.

Hành Giả nói:

- Sư phụ cho con nhé! Tam Tạng nói:
- Chỉ sợ không vừa. Nếu vừa thì con lấy mà dùng.

Hành Giả bèn cởi chiếc áo trắng cũ ra, mặc chiếc áo bông vào, thấy vừa khít như đã đo từ trước vậy. Hành Giả lại đội
chiếc mũ dát hoa vàng lên đầu. Tam Tạng vừa nhìn thấy Ngộ Không đội mũ, bèn không ăn lương khô nữa, mà lẩm nhẩm niệm bát chú “khẩn cô nhi”. Hành Giả bỗng kêu:

- Đau đầu quá! Đau đầu quá!



Tam Tạng vẫn tiếp tục niệm chú, làm Hành Giả đau quá lăn lộn, vứt tung chiếc mũ dát hoa vàng ra. Tam Tạng sợ đứt mất mấy  vòng  vàng,  bèn  không  niệm  nữa.  Lúc  ấy,  Ngộ  Không không thấy đau nữa, sờ tay lên đầu thấy có cái gì như sợi chỉ bằng vàng thắt chặt ở trên, dứt không ra, kéo không đứt, bởi nó đã mọc rễ ra rồi. Ngộ Không lấy cây kim trong tai ra, móc vào sợi dây ấy cố sức dứt ra. Tam Tạng sợ Ngộ Không dứt đứt lại niệm thần chú, làm Ngộ Không lại đau đầu, đau tưởng chết đi
[95]
được

, quằn quại lăn lộn, đỏ mặt tía tai, hai mắt trợn ngược,
thân mình tê dại. Tam Tạng thấy thế không nỡ niệm nữa, thì lúc ấy Ngộ Không cũng hết đau.
Hành Giả nói:

- Chính sư phụ niệm chú làm con đau đầu. Tam Tạng nói:
- Ta niệm bài chú “khẩn cô nhi”, chứ chứ chú để hành hạ ngươi đâu.

Hành Giả nói:

- Sư phụ niệm lại xem.

Tam Tạng bèn niệm, Ngộ Không đau quá, vội kêu:

- Thôi, thôi, sư phụ đừng niệm nữa! Hễ niệm là con lại đau đầu, thế là thế nào?

Tam Tạng nói:

- Vậy từ nay có nghe lời ta dậy bảo không? Hành Giả thưa:
- Con xin nghe. Tam Tạng lại nói:
- Nhà ngươi còn vô lễ nữa thôi? Hành Giả đáp:
- Không dám nữa ạ.

Ngộ Không miệng tuy nói vậy, nhưng trong lòng vẫn tức lắm, rút cây kim ra vung lên biến thành cây gậy sắt nhắm đầu Đường Tăng bổ xuống. Đường Tăng sợ quá, vội niệm luôn hai, ba lần. Hành Giả ngã lăn ra đất, rơi cả gậy sắt, không nhấc tay lên được, đành kêu:

- Sư phụ ơi, con chừa rồi, đừng niệm nữa! Đừng niệm nữa! Tam Tạng nói:
- Sao ngươi lừa dối, dám đánh cả ta?
Hành Giả thưa:

- Con không dám đánh nữa. Nhưng con hỏi sư phụ ai truyền cho sư phụ phép này?

Tam Tạng đáp:

- Vừa nãy có một bà lão truyền cho ta. Hành Giả giận lắm, nói:
- Bà lão ấy đúng là Quan Âm rồi. Tại sao lại hại ta như vậy. Đợi ta sang tận Nam Hải, nện cho mụ ta một trận.

Tam Tạng nói:

- Phép ấy ngài truyền cho ta, thì chắc ngài cũng nắm được. Nếu ngươi đến, ngài mà niệm lại chẳng chết toi mạng.

Hành Giả nghe nói có lý, không dám đi nữa, đành định tâm quỳ xuống van xin:

- Thưa sư phụ, Quan Âm dùng phép này để hành hạ con, bắt con đưa sư phụ sang phương Tây đấy thôi. Con cũng không đi gây sự với ngài ấy nữa. Sư phụ cũng đừng chấp lời nói thường ngày của con mà tụng niệm nữa. Con xin hộ vệ sư phụ, không dám chán ý nản lòng nữa đâu.

Tam Tạng nói:

- Đã vậy, thì đỡ ta lên ngựa đi thôi.

Lúc ấy, Hành Giả mới một lòng một dạ, phấn chấn tinh thần, mặc áo bông vào, sửa soạn yên cương, thu xếp hành lý lên đường sang phương Tây.



Chuyến đi này sau đó thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ MƯỜI LĂM


Núi Xà Bàn các thần ngầm giúp sức


Khe Ưng Sầu long mã thắng yên cương


Lại nói chuyện Hành Giả hầu hạ Đường Tăng sang phương
Tây, đã đi được mấy ngày. Đang tiết tháng chạp, trời rét, gió bấc thấu xương, băng giá lạnh lẽo. Đường đi toàn là sườn non dựng đứng chon von, vách núi gập ghềnh hiểm trở. Tam Tạng ngồi trên mình ngựa, nghe văng vẳng tiếng nước chảy ào ào, bèn quay lại hỏi:

- Ngộ Không, nước réo ở đâu thế nhỉ? Hành Giả đáp:
- Con nhớ chỗ này gọi là khe Ưng Sầu, núi Xà Bàn, chắc là nước réo ở khe ấy.

Chưa dứt lời, ngựa đã tới bờ khe. Tam Tạng dừng cương xem xét. Chỉ thấy:

Ầm ầm mạch nước luồn mây chảy, Lớp lớp sóng xô rực ánh hồng.
Lộp độp mưa đêm miền động thẳm, Long lanh ráng sớm lóa hầu không.
Sóng tung nghìn trượng phun châu ngọc, Nước réo một luồng bạt gió đông.
Vạn khoảnh nước xuôi mờ sương khói, Ngư ông chẳng gặp, cốc cò không.



Hai thầy trò đang ngắm nghía, bỗng nghe đánh ầm một tiếng ở giữa lòng khe, một con rồng nhô ra, đạp sóng rẽ nước, trườn lên sườn núi vồ trưởng lão. Hành giả hốt hoảng vứt hành lý, ôm Đường Tăng xuống ngựa, cắm đầu chạy miết. Con rồng đuổi không kịp, trở lại nuốt chửng con ngựa bạch lẫn yên cương, rồi lặn xuống nước mất tăm. Hành Giả vác sư phụ lên đồi cho ngồi, quay trở lại dắt ngựa gánh đồ, nhưng chỉ còn gánh hành lý, không thấy ngựa đâu cả, bèn gánh hành lý đến trước mặt sư phụ, nói:

- Sư phụ ạ, con rồng quái ác ấy biến mất rồi, còn con ngựa cũng sợ chạy đâu mất.

Tam Tạng nói:

- Đồ đệ ơi, làm thế nào tìm được ngựa bây giờ? Hành Giả nói:
- Sư phụ cứ yên tâm, để con đi xem sao.
Hành Giả nhảy vút lên không trung, lấy tay che đôi mắt lửa ngươi vàng cho khỏi chói, nhìn kỹ khắp nơi, chẳng thấy dấu vết con ngựa đâu sất, đành nhảy xuống nói:

- Sư phụ ạ, con ngựa của chúng ta chắc là bị con rồng ăn thịt rồi, con nhìn khắp nơi không thấy.

Tam Tạng nói:

- Đồ đệ này, con rồng miệng to bao nhiêu mà nuốt nổi con ngựa lẫn yên cương? Hay là nó sợ hãi giật đứt cương, nấp vào hốc núi nào chăng? Con tìm kỹ lại xem!

Hành Giả thưa:

- Sư phụ không biết tài nghệ của con. Đôi mắt con ban ngày nhìn thấy việc lành dữ ngoài nghìn dặm. Trong vòng nghìn dặm con chuồn chuồn bay qua con cũng trông thấy, huống hồ con ngựa to như vậy lại không trông thấy sao?

Tam Tạng nói:

- Nếu nó ăn thịt rồi, thì ta đi làm sao! Khổ quá, trăm núi nghìn sông đi đứng sao đây?

Nói xong nước mắt ròng ròng.

Hành GIả thấy sư phụ khóc, không kìm nổi sự bực tức, to tiếng nói:

- Sư phụ đừng khóc lóc nữa, cứ ngồi đây, ngồi đây đợi lão
Tôn đi tìm con quái vật ấy, bắt nó phải trả lại ngựa là xong!

Tam Tạng giữ Hành Giả lại hỏi:

- Đồ đệ tìm nó ở đâu? Chỉ sợ nó từ lòng đất chui ra bắt cả ta nữa. Lúc ấy người và ngựa đều mất cả thì làm sao?

Hành Giả nghe nói, càng bực tức, gầm lên như sấm:

- Sư phụ thật hồ đồ! Muốn có ngựa cưỡi lại không muốn cho con đi. Cứ ngồi đây trông hành lý đến già à?
Hành Giả đang càu nhàu chưa nguôi cơn giận, bỗng nghe thấy tiếng nói từ trên không trung:

- Tôn đại thánh chớ phiền, Đường ngự đệ chớ khóc. Chúng tôi là những vị thần do đức Quan Âm bồ tát sai tới ngầm giúp đỡ, hộ vệ người đi lấy kinh.

Trưởng lão nghe xong, vội vàng sụp lạy. Hành Giả nói:

- Các ngài gồm mấy người, phải báo danh cho tôi biết chứ. Các thần nói:
- Chúng tôi là các thần Lục đinh, Lục giáp, Ngũ phương yết đế, Tứ trực công tào, mười tám vị Hộ giáo già lam, chia nhau luân phiên trực nhật đợi lệnh.

Hành Giả nói:

- Hôm nay đến phiên ai trực? Các Yết đế thưa:
- Đến lượt các vị Lục đinh, Lục giáp, Công tào, Già lam thay nhau. Còn Ngũ phương yết đế chúng tôi thì chỉ có Kim Đầu yết đế là ngày đêm luôn ở cạnh không rời.

Hành Giả nói:

- Nếu như vậy, ai chưa đến lượt trực hãy tạm lui, chỉ để Lục đinh thần tướng, Nhật trực công tào cùng các vị Yết đế ở đây giữ gìn sư phụ, đợi lão Tôn đi tìm con rồng dữ, bắt nó trả lại ngựa.

Các thần tuân lệnh. Lúc ấy Tam Tạng mới yên tâm, ngồi trên đá, dặn dò Hành Giả phải cẩn thận. Hành Giả nói:

- Sư phụ cứ yên tâm!

Đoạn hầu vương thắt lại áo bông, xắn chiếc quần da hổ lên, cầm cây gậy sắt bịt vàng đến thẳng khe suối, đứng trên mặt nước mờ mịt khói sóng, quát to:
- Loài cá đê tiện kia, trả ngựa cho ta! Trả ngựa cho ta!

Lại nói chuyện con rồng ăn thịt xong con ngựa bạch của Tam Tạng, nằm nghỉ ngơi dưỡng sức, bỗng nghe tiếng người hò hét đòi ngựa, không nén được ngọn lửa giận dữ, vội vàng tung mình rẽ sóng nhảy lên mặt nước, quát:

- Kẻ nào dám đến cửa biển này trêu ta? Hành Giả nhìn thấy, gầm lên:
- Chớ có chạy, trả ngựa cho ta mau!

Đoạn vung gậy nhằm đầu con rồng bổ xuống. Con rồng nhe nanh múa vuốt xông vào định quắp Hành Giả. Trận đấu quyết liệt diễn ra ngay trên bờ khe. Chỉ thấy:

Rồng tung vuốt sắc, Khỉ múa gậy vàng.
Kẻ kia, râu xòa dây ngọc trắng, Người này, mắt trợn con ngươi vàng.
Kẻ kia, quanh râu ngọc châu phun khí đẹp. Người này, tay cầm gậy sắt múa băng băng.
Kẻ kia con hỗn lừa cha mẹ, Người này, yêu quái dối thiên thần. Cả hai có tội đày trần thế,
Nay muốn công thành phải gắng công.

Tiến thoái đánh nhau một hồi lâu, con rồng sức yếu gân tê, không địch nổi, bèn quay người lặn xuống đáy khe sâu, trốn biệt không dám ra nữa. Hành Giả mắng chửi không ngớt mồm, con rồng vẫn giả câm giả điếc, không dám thò đầu lên. Không biết làm thế nào, Hành Giả đành quay về thưa với Tam Tạng:

- Thưa sư phụ, con quái vật ấy bị lão Tôn mắng chửi phải
chui lên. Con và nó đánh nhau hồi lâu, nó khiếp sợ phải bỏ chạy, trốn dưới khe không dám ra nữa.

Tam Tạng nói:

- Chẳng biết có đúng nó ăn thịt ngựa của mình không? Hành Giả đáp:
- Thế mà cũng nói được. Nếu nó không ăn, mà lại chịu ra đánh nhau với lão Tôn?

Tam Tạng nói:

- Hôm trước, lúc con đánh hổ, con nói rằng con có tài bắt rồng, hổ phải hàng phục, nay lại không hàng phục nổi nó à?

Loài khỉ vốn không chịu nổi lời nói khích. Tam Tạng mới chọc một câu. Hành Giả đã ra oai, quát:

- Đừng nói nữa! Đừng nói nữa! Đợi con đi đọ tài cao thấp với nó một lần nữa!

Hầu vương nhanh nhẹn phóng tới bờ khe, trổ phép thần thông lật sông dốc biển, làm cho nước khe Ưng Sầu trong veo thấu đáy đục ngầu lên như nước Hoàng Hà. Con rồng núp dưới đáy sâu đứng ngồi không yên, nghĩ thầm:

- Thật là “phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”. Ta vừa thoát tội chết trên trời chưa được một năm, nằm đây kiếm ăn qua ngày, lại gặp phải con quỷ này đến hại ta.

Nó càng nghĩ càng chán, nhưng không chịu được nhục, bèn cắn răng, nhảy vọt lên mặt nước, quát:

- Nhà ngươi là quỷ sứ ở đâu tới đây lừa dối ta như vậy? Hành Giả nói:
- Ngươi không cần biết ta ở đâu làm gì. Chỉ cần trả ngựa cho ta, là ta tha chết cho!
Con rồng nói:

- Ngựa của ngươi ta nuốt vào trong bụng rồi, làm sao mà nôn ra được! Ta không trả, ngươi làm gì nào?

Hành Giả nói:

- Không trả ngựa thì hãy nhìn cây gậy của ta đây! Ta sẽ giết ngươi để đền mạng cho con ngựa của ta!

Hai bên lại đánh nhau kịch liệt trên sườn núi. Chưa được vài hiệp, con rồng yếu sức không chống nổi, bèn lắc mình một cái, biến thành một con rắn nước chui vào bụi cỏ. Hầu vương vác gậy đuổi theo, vạch cỏ tìm rắn, nhưng chẳng thấy dấu vết. Lửa
[96]
giận ngùn ngụt

, Hành Giả vội vàng niệm câu thần chú “úm”,
gọi ngay các vị thổ thần, sơn thần vùng ấy lên. Các thần nhất tề kéo đến quỳ xuống thưa:

- Chúng tôi là sơn thần, thổ thần đã đến. Hành Giả nói:
- Các vị giơ mắt cá chân ra, ta đánh mỗi vị năm gậy làm lễ gặp mặt để ta giải phiền!

Hai vị thần dập đầu tâu:

- Xin Đại thánh tha tội, chúng tôi xin thưa. Hành Giả nói:
- Được rồi, ta không đánh nữa. Ta hỏi các vị: con rồng dữ từ đâu tới ở khe Ưng Sầu này? Tại sao nó lại ăn thịt con ngựa bạch của sư phụ ta?

Hai vị thần hỏi lại:

- Đại thánh xưa nay có sư phụ đâu. Ngài là người[97]


vốn
không phục trời, không sợ đất, tại sao lại còn có ngựa của sư phụ?
Hành Giả đáp:

- Các vị không biết. Chỉ vì ta phạm tội dối trời, nên bị giam năm trăm năm. Nay nhờ đức Quan Âm bồ tát khuyên làm thiện, sai vị sư nhà Đường cứu ta, lại bảo ta đi theo làm đồ đệ sang phương Tây lễ Phật cầu kinh. Nhân đi qua đây, bị mất con ngựa bạch của sư phụ.

Hai vị thần nói:

- Sự việc vốn thế này: khe này vốn xưa nay không có tà ma nào cả, chỉ là một khe nước sâu thẳm mênh mông nước trong thấu đáy, chim chóc không dám bay qua. Nước trong đến nỗi soi rõ hình bóng, lũ chim tưởng là bầy của mình, thường bay sà xuống nước. Cho nên mới gọi là khe “Ưng Sầu”. Mới năm ngoái thôi, đức Quan Âm bồ tát đi tìm người đi lấy kinh, có cứu một con rồng quý, đưa nó xuống đây ở, bảo nó đợi người đi lấy kinh, và không được làm điều gì xấu. Khi đói, nó bò lên bờ bắt chim chóc, hoặc hươu nai ăn thịt. Chắc nó không biết, nên hôm nay mới xúc phạm đến Đại thánh đấy.

Hành Giả nói:

- Lần đầu, nó còn dám đấu, với lão Tôn, loanh quanh vài hiệp. Lần sau, lão Tôn mắng chửi nó cũng chẳng dám ra. Tà dùng phép lật sông dốc biển, khuấy đục khe nước của nó, nó mới chui lên giao đấu. Không ngờ cây gậy của lão Tôn nặng quá, nó chịu không nổi, biến thành con rắn nước chui vào bụi cỏ, ta đuổi theo tìm, nhưng không thấy tung tích đâu hết.

Vị thổ thần thưa:

- Đại thánh không biết. Khe này có hàng ngàn vạn hang hốc ăn thông với nhau, cho nên nước rất sâu. Chắc nó chỉ rơi vào cái hang nào đấy. Mà Đại thánh cũng chẳng cần phải nổi khùng tìm nó làm gì. Muốn bắt nó, cứ mời quách Quan Âm bồ tát đến là xong!
Hành Giả nghe nói, mời cả sơn thần, thổ địa cùng đến ra mắt
Tam Tạng, và kể lại mọi chuyện. Tam Tạng nói:

- Đi tìm đức Bồ tát thì bao giờ mới trở về? Bần tăng đói rét chịu thế nào được?

Chưa dứt lời, đã nghe tiếng Kim Đầu yết đế trên không trung nói:

- Đại thánh, hà tất ngài phải đi, thần xin đi mời đức Bồ tát đến.

Đại thánh mừng lắm, nói:

- Phiền một chút nhé! Đi nhanh lên đấy!
Yết đế lập tức bay vút lên từng mây, thẳng hướng Nam Hải. Hành Giả dặn dò sơn thần, thổ địa giữ gìn sư phụ. Nhật trực
công tào đi kiếm cơm chay, còn mình đi tuần quanh bờ khe, chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện Kim Đầu yết đế cưỡi mây đã tới Nam Hải, dừng đám mây lành, xuống thẳng cánh rừng trúc tía núi Lạc Già nhờ Kim giáp chư thiên và Mộc Soa Huệ Ngạn vào báo, được vào yết kiến Bồ tát. Bồ tát hỏi:

- Nhà ngươi tới đây có việc gì? Yết đế thưa:
- Đường Tăng bị mất ngựa ở khe Ưng Sầu, núi Xà Bàn, làm cho Tôn Đại thánh tiến thoái lưỡng nan. Khi hỏi Thổ thần vùng ấy, họ nói là bị con rồng dữ mà Bồ tát đưa tới khe này ăn thịt mất rồi. Đại thánh sai thần tới đây, mời Bồ tát tới hàng phục con rồng, trả lại ngựa cho Đường Tăng.

Bồ tát nói:

- Con rồng ấy là con Tây hải Ngao Thuận. Vì hắn châm lửa đốt hạt minh châu trên điện. Bố hắn tâu tội ngỗ nghịch, thiên
đình bèn xử tội chết. Ta phải thân gặp Thượng đế xin tha cho, đẩy hắn xuống đấy bảo hắn làm ngựa cho Đường Tăng. Thế mà hắn lại ăn thịt ngựa của Đường Tăng là làm sao? Đã thế để ta đi xem.

Bồ tát bước xuống đài sen, ra khỏi động tiên, cùng Yết đế cưỡi đám mây lành rực rỡ, vượt qua Nam Hải bay tới. Có bài thơ làm chứng rằng:

Phật thuyết Tam Tạng chân kinh,

Bồ tát khuyến thiện dân sinh khắp vùng.

Ma ha điệu ngữ tinh thông.

Chân ngôn bát nhã cứu lòng chúng sinh.

Kim Thiền thoát xác muốn xong,

Thì Huyền Trang phải dốc công tu hành.

Khe Ưng Sầu bị cách ngăn.

Rồng kia theo đạo biến thành ngựa khôn.

Một lát sau, Bồ tát và Yết đế đi tới núi Xà Bàn, dừng đám mây lành giữa tầng không, cúi xuống xem xét, thấy Tôn Hành Giả đang mắng chửi bên bờ khe. Bồ tát sai Yết đế gọi lên. Yết đế từ trên mây hạ xuống, không qua chỗ Tam tạng, đến thẳng bờ khe gặp Hành Giả thưa:

- Bồ tát đã đến!

Hành Giả nghe nói, vội vàng phóng vút lên không, quát Bồ tát rằng:

- Ngài là thầy của bảy Phật, là giáo chủ từ bi, cớ sao tại làm phép hại tôi.

Bồ tát nói:

- Nhà ngươi thật là giống trâu ngựa lì lợm, loài khỉ đỏ đít ngu
si. Ta đã kiên trì tìm được người lấy kinh đến, đinh ninh dặn dò rằng chính người đó cứu sống ngươi. Nhà ngươi chẳng nhớ ơn ta cứu mạng cho thì chớ, lại còn cằn nhằn nỗi gì?

Hành Giả nói:

- Vâng, ngài tốt với tôi lắm đấy! Ngài đã tha tôi thì hãy mặc tôi tiêu dao đây đó là hơn. Hôm trước, ngài đón tôi ở ngoài biển, dặn tôi mấy câu, tôi hết lòng hết sức hầu hạ Đường Tăng thế thôi. Tại sao ngài lại đưa cho ông ta chiếc mũ hoa, lừa cho tôi đội lên đầu chịu khổ? Ngài đem cái vòng ấy gắn mãi ở trên đầu lão Tôn, lại còn dạy ông ta niệm bài chú “khẩn cô nhi”. Cứ khi nào lão Hòa thượng ấy niệm bài chú ấy, là đầu tôi lại đau nhói. Thế chẳng phải ngài hại tôi là gì?

Bồ tát cười nói:

- Đồ khỉ kia, nhà ngươi không theo lời dạy, không nhận chính quả, nếu không gò nhà ngươi như thế, thì nhà ngươi lại dối trên lừa dưới, không biết tốt xấu, lại gây họa như trước, thì ai cai quản nổi? Cần phải trị nhà ngươi như vậy, thì nhà ngươi mới chịu theo vào đường tu Du Già của ta chứ!

Hành Giả nói:

- Thôi, việc ấy coi như xong. Nhưng tại sao ngài lại đem con rồng dữ có tội xuống đây, để nó thành tinh ăn thịt mất con ngựa của sư phụ tôi? Như vậy có phải là dung túng cho kẻ ác làm bậy, làm điều đại bất thiện không?

Bồ tát nói:

- Con rồng ấy do chính ta tâu với Thượng đế đưa nó xuống đấy để làm ngựa cho người đi lấy kinh. Nhà ngươi nghĩ xem, con ngựa xoàng ở phương Đông, làm sao có thể vượt qua muôn núi ngàn sông được? Làm sao có thể đến đất Phật Linh Sơn được? Cần phải có con long mã ấy mới đi nổi chứ?
Hành Giả nói:

- Nay nó sợ lão Tôn trốn biệt không dám ra thì làm thế nào? Bồ tát gọi Yết đế, bảo:
- Nhà ngươi đến bờ khe gọi “Ngao Nhuận long vương ngọc long tam thái tử” ra ngay, có Bồ tát ở Nam Hải tới là nó ra ngay.

Yết đế xuống bờ khe gọi hai lần, thấy con rồng vượt nước rẽ sóng nhô lên, biến thành hình người, nhảy vút lên mây cúi lạy Bồ tát, nói:

- Đội ơn bồ tát cứu mạng. Tôi chờ đợi ở đây đã lâu rồi, mà chẳng thấy tăm hơi người đi lấy kinh đâu cả.

Bồ tát chỉ Hành Giả, nói;

- Chẳng phải đồ đệ của người đi lấy kinh là gì đây. Con rồng thưa:
- Thưa Bồ tát, người này là đối thủ của con đấy. Hôm qua đói quá, con trót ăn thịt một con ngựa của hắn. Hắn cậy sức khỏe, đánh con phải chạy trốn, lại mắng chửi con nữa, làm con phải đóng cửa không dám ra. Chẳng thấy hẳn nói nửa lời “đi lấy kinh” nào cả.

Hành Giả nói:

- Nhà ngươi không hỏi ta họ tên là gì, thì ta việc gì phải nói. Con rồng nói:
- Ta chẳng hỏi nhà ngươi là ma quỷ ở đâu tới đây sao? Nhà ngươi còn quát ta: “Chẳng cần biết ở đâu tới, chỉ cần trả ngựa cho ta”, chứ có nhắc đến chữ “Đường” nào đâu?

Bồ tát nói:

- Con khỉ kia, chỉ chuyên cậy sức khỏe, có chịu khen ai bao giờ đâu. Lần này đi trước, còn có người quy thuận nữa đấy. Nếu
có ai hỏi, thì phải nhớ trả lời ngay là đi “lấy kinh”. Như vậy người ta quy phục liền, có đỡ nhọc sức không?

Hành Giả mừng rỡ vâng theo. Bồ tát bước lên dứt hạt minh châu dưới cổ con rồng ra, lấy cành dương liễu dúng vào nước cam lộ vẩy vào người con rồng, miệng hô “biến”. Con rồng tức khắc biến thành một con ngựa bạch như trước. Bồ tát lại dặn dò:

- Nhà ngươi hãy cố gắng trả hết nghiệp chướng. Sau khi thành công sẽ được thoát khỏi hạng rồng thường trở về với chính quả mình vàng.

Con rồng chỉ im lặng, tâm niệm vâng theo lời dạy.

Bồ tát bảo Ngộ Không dắt con ngựa đến chỗ Tam Tạng và nói:

- Thôi, ta về Nam Hải đây! Hành Giả níu lấy Bồ tát, nói:
- Tôi không đi đâu, tôi không đi đâu. Đường sang phương Tây xa xôi hiểm trở lại phải hộ vệ nhà sư phàm tục này, thì bao giờ mới tới nơi? Cứ bao nhiêu khó khăn rắc rối như thế này, thì đến tính mạng lão Tôn cũng chẳng còn, nói gì đến việc thành chính quả nữa? Tôi không đi đâu! Không đi đâu!

Bồ tát nói:

- Nhà ngươi trước kia chưa thành đạo người mà đã dốc lòng tu đạo. Nay thoát tai nạn rồi, lại sinh ra lười biếng sao? Môn phái ta lấy sự tịch diệt làm chân lý, cần phải có lòng tin tu thành chính quả. Nếu gặp cảnh ngộ khó khăn nguy hiểm, ta hứa sẽ giúp nhà ngươi, nói với trời đất giúp đỡ. Khi nào gặp hoạn nạn không tài nào thoát được, thì ta sẽ thân đến cứu nhà ngươi. Nhà ngươi lại đây, ta ban cho mấy phép này.

Bồ tát ngắt ba chiếc lá dương liễu áp vào sau gáy Hành Giả, đoạn hô “biến”, liền hóa thành ba sợi lông cứu mạng, và dặn:
- Khi nào gặp hoạn nạn không ai cứu giúp được hãy tùy cơ ứng biến mà dùng, nó sẽ cứu thoát hiểm nghèo.

Hành Giả nghe những lời nói tốt đẹp ấy, bèn cảm tạ đức Bồ tát đại từ đại bi. Một làn gió thơm thoảng, mây lành rực rỡ đức Bồ tát thẳng về núi Phổ Già.

Hành Giả từ trên mây hạ xuống, nắm bờm con long mã, đến gặp Tam Tạng, nói:

- Thưa sư phụ, ngựa đây rồi.

Tam Tạng trông thấy, mừng rỡ nói:

- Đồ đệ, con ngựa này béo hơn con trước một chút. Con tìm thấy ở đâu đấy?

Hành Giả thưa:

- Sư phụ vẫn đang mơ hay sao? Kim Đầu yết đế đã mời Bồ tát đến, biến con rồng dưới khe thành con ngựa bạch cho chúng ta, lông bờm giống con cũ. Chỉ có điều là thiếu yên cương, nên lão Tôn phải nắm bờm dắt về.

Tam Tạng cả sợ, nói:

- Bồ tát ở đâu rồi để ta lạy tạ ngài. Hành Giả nói:
- Bây giờ Bồ tát đã về lại Nam Hải rồi, không phải tạ ơn nữa.

Tam Tạng bèn vun đất thắp hương, ngoảnh về hướng Nam lạy tạ. Lạy xong, đứng dậy cùng Hành Giả thu xếp hành lý lên đường. Hành Giả bảo các vị sơn thần, thổ địa quay về, dặn dò Yết đế, Công tào, và mời sư phụ lên ngựa, Tam Tạng nói:

- Ngựa không có yên cương làm sao mà cưỡi được, vả lại còn phải đi tìm thuyền vượt khe đã rồi sẽ liệu sau.

Hành Giả nói:
- Sư phụ chẳng hiểu lẽ đời gì cả, giữa rừng núi hoang vu này, tìm đâu ra thuyền? Con ngựa này ở khe đây đã lâu, chắc biết rõ luồng nước, cứ cưỡi nó làm thuyền vượt qua thôi!

Tam Tạng chẳng biết làm thế nào, đành nghe theo, cưỡi lên lưng ngựa, còn Hành Giả gánh hành lý đi tới bờ khe. Bỗng thấy ở phía thượng lưu có một ngư ông đang đẩy một chiếc bè thuận dòng xuôi xuống, Hành Giả vẫy gọi:

- Bác lái ơi, vào đây, vào đây! Chúng tôi là những người ở phương Đông đi lấy kinh. Sư phụ tôi đến đây không qua được. Phiền bác chở giùm qua với.

Ngư ông nghe tiếng gọi, vội vàng đẩy ngay bè vào. Hành Giả mời sư phụ xuống ngựa, đỡ sư phụ lên bè. Tam Tạng bước lên bè, túm bờm ngựa, xếp hành lý xuống. Ngư ông đẩy bè ra, chèo đi như bay, chẳng mấy chốc đã vượt qua khe Ưng Sầu. Tới bờ phía Tây. Tam Tạng bảo Hành Giả mở tay nải, lấy mấy đồng tiền nhà Đại Đường trả công ngư ông. Ngư ông đẩy bè ra, nói:

- Không lấy tiền đâu, không lấy tiền đâu!

Đoạn đẩy bè ra xa giữa dòng mịt mờ khói sóng đi mất. Tam Tạng rất băn khoăn, chỉ biết chắp tay cảm tạ. Hành Giả nói:
- Sư phụ chẳng cần phải cảm tạ đâu. Sư phụ không nhận ra người ấy sao? Người ấy là thủy thần ở khe này, không đến đón tiếp lão Tôn, thì lão Tôn cho ăn đòn ấy chứ. Hôm nay tha đánh cho là may, còn dám lấy tiền à?

Tam Tạng nửa tin nửa ngờ, chỉ biết trèo lên lưng ngựa, đi theo
Hành Giả ra đường cái, nhằm hướng Tây mà tiến. Thực là:

Rộng lẽ chân như, lên bờ giải thoát, Tâm thành linh sáng, tới cõi Linh Sơn.
Hai thầy trò lên đường, chẳng mấy chốc mặt trời đã lặn về
Tây, bóng chiều bảng lảng. Chỉ thấy:

Mây xám chập chờn, Trăng ngân mờ mịt,
Đầy trời sương xuống lạnh lùng, Bốn phía gió ngàn rét buốt. Chim lẻ loi bay sông bát ngát, Ráng chiều ánh rọi núi xa xăm. Núi trọc vượn kêu khắc khoải, Rừng thưa cây động xạc xào,
Đường xa không bóng người qua lại, Muôn dặm thuyền về, đêm vắng sao!
Tam Tạng ngồi trên mình ngựa đưa mắt nhìn ra xa, bỗng thấy một trang trại bên cạnh đường, bèn nói:

- Ngộ Không này, trước mặt có nhà, ta vào đấy ngủ nhờ, sáng mai lại đi.

Hành Giả ngẩng đầu nhìn, nói:

- Thưa sư phụ, đây chẳng phải trang trại nhà dân đâu! Tam Tạng nói:
- Tại sao không phải? Hành Giả đáp:
- Trang trại nhà dân gì, mà chẳng thấy dấu vết chim bay thú chạy, chắc là một ngôi đền, tòa miếu nào đó thôi.

Thày trò mải trò chuyện, một lát đã đi đến trước cổng. Tam Tạng xuống ngựa, chỉ thấy trên cửa có ba chữ lớn “đền Lý Xã”, bèn bước vào trong. Trong đền, một ông già cổ đeo tràng hạt,
chắp tay ra đón, nói:

- Mời sư phụ ngồi.

Tam Tạng vội vàng đáp lễ, rồi lên điện lạy tượng thánh. Ông già gọi tiểu đồng pha trà. Uống trà xong, Tam Tạng hỏi ông già rằng:

- Tại sao đền này gọi là đền “Lý Xã”? Ông già thưa:
- Vùng này là thuộc nước Cáp Tất ở Tây Phiên. Đằng sau ngôi đền có một xóm người, họ đều phát nguyện lòng thành, xây ngôi đền này. “Lý” nghĩa là đất của xã, “xã” nghĩa là thổ thần của xã. Mỗi khi đến ngày cày mùa xuân, làm cỏ mùa hè, gặt
[98]
mùa thu, cất giữ mùa đông, đều có biện lễ tam sinh

 hoa quả
đến tế thần xã, để thần phù hộ cho bốn mùa thời tiết thuận hòa, mùa màng tươi tốt, gia súc béo khỏe.

Tam Tạng nghe nói, gật gù khen ngợi:

- Đúng là:

Cách nhà chỉ ba dặm, Phong tục đã khác xa.
Dân chúng làng chúng tôi chẳng có tục hay như thế. Ông già hỏi lại:
- Sư phụ quê ở đâu nhỉ? Tam Tạng đáp:
- Bần tăng người nước Đại Đường bên phương Đông, vâng mệnh nhà vua sang phương Tây lễ Phật cầu kinh, nhân đi qua quý thôn đây trời đã xẩm tối, đành vào trong thánh điện ta ngủ nhờ một đêm, ngày mai trời sáng là đi ngay.

Ông già mừng lắm, chỉ biết nói mấy lời “không dám” sau đó
sai tiểu đồng dọn cơm. Tam Tạng ăn xong cảm tạ.

Hành Giả đưa mắt thấy dưới hàng hiên có căng một sợi dây phơi quần áo, bèn rút ra làm dây buộc chân ngựa. Ông già thấy thế, cười nói:
- Ăn trộm ở đâu được con ngựa đấy? Hành Giả tức mình, nói:

- Ông già này nói năng kỳ quặc thậ  [99]
lễ Phật, mà lại ăn trộm ngựa à?

Ông già cười, nói:



, chúng tôi là nhà sư

- Không phải ăn trộm, thì tại sao lại không có yên cương, phải đi dứt dây phơi mà buộc?

Tam Tạng xin lỗi, nói:

- Đồ vô lễ kia chỉ được cái nóng nảy. Con muốn buộc ngựa, tại sao không hỏi cụ đây xin một sợi thừng, mà lại đi dứt dây phơi? Xin cụ bỏ qua cho, chẳng giấu gì cụ, chẳng phải ăn trộm đâu, mà là hôm qua chúng tôi từ phương Đông lại, đến khe Ưng Sầu, con ngựa bạch của tôi cưỡi có yên cương đủ cả, không ngờ bị con rồng đã thành tinh ở khe nuốt chửng mất. May nhờ người đồ đệ tôi đây tài giỏi, lại được đức Bồ tát tới khe bắt con rồng ấy, biến nó thành con ngựa bạch giống hệt con ngựa tôi cưỡi khi trước, để giúp tôi sang phương Tây lễ Phật cầu kinh. Nay vượt khe chưa đầy một ngày, đến đền của cụ đây, vẫn chưa có yên cương.

Ông già nói:

- Sư phụ bỏ quá cho, tôi nói đùa một chút thôi, không ngờ vị đồ đệ này tưởng thật. Hồi trẻ tôi cũng kiếm ra tiền, lại thích cưỡi ngựa hay. Do mấy năm liền làm ăn sa sút, bị cháy nhà, thành thử bây giờ nghèo túng, đành làm ông từ giữ đền trông nom việc
đèn nhang, nhờ có bà con ở sau đền bố thí sống qua ngày. Tôi đây vẫn còn một bộ yên cương là vật quý nhất đời, dù nghèo đói tôi cũng không dám bán. Vừa rồi nghe sư phụ nói Bồ tát cứu mạng con rồng thần, biến nó thành ngựa để ngài cưỡi, tôi già rồi nhưng lại không giúp đỡ ngài được chút ít sao? Ngày mai tôi xin dâng ngài bộ yên cương để ngài dùng, mong ngài vui lòng nhận cho.

Tam Tạng nghe nói, hết lời cảm tạ. Lại thấy tiểu đồng bưng cơm chay ra mời. ăn xong, thắp đèn, xếp giường, ai nấy đi nghỉ.

Sớm hôm sau. Hành Giả trở dậy nói:

- Sư phụ ạ, hôm qua ông từ giữ đền hứa cho bộ yên cương, phải hỏi chứ, không thể hứa suông được.

Chưa nói dứt lời, đã thấy ông già mang ra một bộ yên cương, dây chằng, bàn đạp… những thứ dùng để cưỡi ngựa, đều đủ cả. Ông già đặt xuống đầu hè nói:

- Thưa sư phụ, yên cương đây ạ.

Tam Tạng nhìn thấy, vui lòng nhận, đoạn bảo Hành Giả đặt lên lưng ngựa xem có vừa không, Hành Giả bước đến, giơ lên xem kỹ từng thứ, thấy toàn là đồ quý. Có bài thơ làm chứng rằng:

Yên thêu sao bạc, sắc long lannh, Đệm báu vàng au, chỉ kết vành. Bàn đạp mấy tầng nhung tía mịn, Tơ điều xoắn xít sợi cương thanh. Tấm da hoa về bên hàm thiếc. Chiếc quạt mây thêu thú mấy hình. Vòng xích làm bằng đồ sắt luyện, Dải tơ mềm mại rủ bên mình.
Hành Giả mừng thầm, thắng bộ yên cương lên mình ngựa, ra vẻ hài lòng lắm. Tam Tạng cúi lạy tạ ơn ông già. Ông già vội vàng đỡ dậy, nói:

- Không dám, không dám, có gì đáng tạ ơn đâu!

Ông già cũng chẳng giữ thêm nữa, mời Tam Tạng lên ngựa. Tam Tạng ra khỏi cửa, vịn yên lên ngựa. Hành Giả gánh hành lý. Ông già lại rút trong tay áo ra một chiếc roi làm bằng gân hổ tết, có cán bằng mây hương bọc da, đứng ven đường cung kính dâng lên, nói:

- Thưa thánh tăng, tôi còn một chiếc roi đây, xin dâng nốt ngài.

Tam Tạng ngồi trên mình ngựa, nhận lấy, nói:

- Đa lạ ông già có lòng tốt![100]

Đang nói lời cảm tạ, thì đã chẳng thấy ông già đâu nữa, quay lại nhìn ngôi đền Lý Xã thì cũng chỉ còn một đám đất hoang trơ trụi. Bỗng trên không trung có tiếng người nói:

- Thưa thánh tăng, xin ngài thứ lỗi đón tiếp xuê xoa. Chúng tôi là sơn thần, thổ địa núi Lạc Già được Bồ tat sai mang yên cương tới cho ngài. Ngài hãy cố gắng hành trình sang phương Tây, chớ có một phút chậm trễ.

Tam Tạng sợ hãi, cuốn yên xuống ngựa, ngước lên trời lạy tạ, nói:

- Đệ tử người trần mắt thịt, không nhận ra thần thánh, cúi xin tha tội, nhờ các ngài chuyển tới Bồ tát lòng biết ơn vạn bội.

Nói xong, Tam Tạng cứ sụp đầu lạy mãi, không biết bao nhiêu lần. Đứng bên đường, Tôn đại thánh cười ngặt nghẽo, bước lên níu lấy Đường Tăng, nói:

- Sư phụ ơi, đứng dậy thôi. Người ta đã đi xa rồi, có nghe
thấy sư phụ cầu, sư phụ lạy đâu, mà cứ dập đầu mãi?

Tạm Tạng nói:

- Tên đồ đệ kia, trong khi ta dập đầu lạy tạ, nhà ngươi chẳng lạy lấy một cái, thì chớ, lại còn đứng cười thế thì còn ra thể thống gì nữa?

Hành Giả đáp:

- Sư phụ không biết, cái hạng giấu đầu hở đuôi ấy chỉ đáng cho một trận đòn. Chỉ vì nể mặt Bồ tát, con tha đánh cho là may, chứ việc gì lão Tôn phải lạy? Lão Tôn từ nhỏ là một trang hảo hán, không biết lạy ai sất. Ngay cả đối với Thượng đế và Thái Thượng lão quân con cũng chỉ vâng một tiếng là xong.

Tam Tạng nói:

- Đồ mất nết! Rặt nói giọng huênh hoang! Mau lên đi đừng làm lỡ hành trình của ta.

Lúc ấy sư phụ mới đứng dậy, sửa soạn lên đường.

Suốt hai tháng trời đi một đoạn đường bình yên, chỉ gặp những người La La, Hồi Hồi và các loại lang trùng hổ báo.

Tháng ngày thấm thoắt đã sang tiết xuân, núi rừng khoe màu biếc, cây cỏ nảy mầm xanh, hoa mai rụng cả, cành liễu nhú mầm. Thầy trò vừa đi vừa ngắm cảnh xuân, bất chợt mặt trời đã ngả về Tây lúc nào không biết. Tam Tạng dừng ngựa nhìn ra xa, thấy trong hẻm núi có bóng lâu đài thấp thoáng, điện gác lờ mờ, bèn hỏỉ:

- Ngộ Không này, con nhìn xem kia là gì? Hành Giả ngẩng đầu nhìn, thưa:
- Không phải cung điện thì chắc cũng là chùa chiền thôi. Chúng ta đi mau lên đến đấy xin ngủ nhờ.

Tam Tạng vui vẻ nghe theo, quất ngựa đến thẳng nơi ấy.
Cuối cùng không biết chuyến đi này thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ MƯỜI SÁU


Viện Quan Âm, các sư lừa bảo bối


Núi Hắc Phong, yêu quái trộm cà sa


Lại nói chuyện hai thầy trò quất ngựa đi tới nơi, đứng bên
cổng ngắm nghía, thấy quả là một ngôi chùa: Tầng tầng điện các, Lớp lớp hành lang.
Ngoài cửa tam sơn, muôn lớp mây lành bay quấn quýt; Trước nhà ngũ phúc, nghìn tia khí đẹp cuộn xung quanh. Hai hàng tùng biếc,
Một dải trắc xanh.

Hai hàng tùng biếc, quanh năm suốt tháng cảnh u tĩnh; Một dải trắc xanh, sắc thắm màu tươi đẹp tuyệt trần.
Lại thấy:

Gác chuông cao chất ngất, Tháp Phật nhọn thanh thanh. Tăng ngồi thiền nhập định. Chim véo von đầu cành.
Tịch mịch vô cùng là tịch mịch. Thần tiên quả thật rất thần tiên.
Có bài thơ rằng:

Chùa cổ trang nghiêm ẩn núi xanh,
Nơi đây cảnh đẹp nhất phàm trần, Đời nay tịnh thổ tìm đâu thấy,
Thắng cảnh thiên môn chiếm hết phần.

Tam Tạng xuống ngựa. Hành Giả hạ gánh, định bước vào, bỗng thấy một nhà sư từ trong chùa đi ra. Nhà sư ấy ăn mặc:

Mũ đội trâm cài lệch, Áo mặc không vết nhơ. Tai đeo đôi vòng bạc, Lưng thắt một dây tơ. Giày cỏ đi êm nhẹ,
Mõ cá tay vẫn khua. Miệng luôn luôn lẩm nhẩm, Nam mô A Di Đà.
Tam Tạng trông thấy, đứng sang bên chào, nhà sư vội vàng đáp lễ, cười nói:

- Không dám. Ngài ở đâu tới đây? Xin mời vào trong phương trượng xơi nước.

Tam Tạng thưa:

- Chúng tôi ở tận bên phương Đông, vâng lệnh nhà vua sang chùa Lôi Âm bên Thiên Trúc lễ Phật cầu kinh. Đến đây trời tối, xin vào chùa ngủ trọ một đêm.

Vị hòa thượng kia nói:

- Mời các ngài vào trong này.

Tam Tạng gọi Hành Giả dắt ngựa vào. Vị hòa thượng thấy tướng mạo Hành Giả, sợ hãi hỏi:

- Người dắt ngựa là hạng nào thế?
Tam Tạng đáp:

- Nói khẽ chứ, hắn tính nóng, nghe thấy tiếng “hạng nào” là nổi nóng ngay. Hắn là đồ đệ của tôi đấy.

Hòa thượng rùng mình, cắn móng tay nói:

- Xấu xí quái gở thế mà cũng nhận làm đồ đệ! Tam Tạng nói:
- Ngài không biết, xấu thì xấu nhưng tài giỏi được việc lắm!

Hòa thượng cùng Tam Tạng, Hành Giả đi vào trong chùa. Ở chính điện trong chùa thấy viết bốn chữ lớn “Quan Âm thiền viện”. Tam Tạng mừng rỡ, nói:

- Ta nhiều lần đội ơn sâu của Bồ tát mà chưa kịp lạy tạ. Nay được đến chùa đây, như được thấy mặt ngài và có dịp lạy tạ.

Hòa thượng nghe thấy thế, lập tức sai người mở cửa điện, mời Tam Tạng vào lễ. Hành Giả buộc ngựa, đặt hành lý xuống, cùng Tam Tạng bước lên điện. Tam Tạng cúi mình, ngực sát xuống đất, lạy bức tượng vàng. Hòa thượng đánh trống, Hành Giả gõ chuông. Tam Tạng phủ phục trước đài, thành tâm khấn vái. Lễ xong, hòa thượng ngừng đánh trống. Hành Giả vẫn cứ khua chuông lúc khoan, lúc nhặt hồi lâu. Vị đạo nhân nói:

- Lễ xong rồi, còn gõ chuông mãi làm gì?

Lúc ấy, Hành Giả mới đặt dùi xuống, cười nói:

- Ngài đâu có hiểu! Tôi làm hòa thượng một ngày thì phải gõ chuông một ngày chứ!

Tiếng chuông làm kinh động các nhà sư già, trẻ trong chùa. Mấy vị trưởng lão các phòng trên dưới nghe thấy tiếng chuông gõ loạn xị, xô cả lại nói:

- Tên quê mùa nào đến đây gõ trống chuông loạn xị lên thế. Hành Giả chạy ra, hừ một tiếng, nói:
- Ông ngoại họ Tôn của các ngươi gõ nghịch đấy!

Các nhà sư nhìn thấy Hành Giả sợ quá ngã lăn ra, bò lổm ngổm trên mặt đất, nói:

- Ới, ông thiên lôi! Hành Giả nói:
- Thiên lôi còn là hạng cháu của ta! Đứng lên, đứng lên! Đừng sợ, chúng ta là người nước Đại Đường bên phương Đông thôi.

Các nhà sư vội cúi đầu lạy và khi nhìn thấy Tam Tạng thì mới yên tâm. Trong bọn có người viện chủ mời:

- Xin mời các ngài vào trong phương trượng xơi nước.

Hành Giả bèn tháo cương, gánh hành lý, rời chính điện vào căn phòng phía sau, cùng mọi người theo thứ tự ngồi nghỉ.

Vị viện chủ mời trà, và sai dọn cơm chay. Trời hãy còn sớm, Tam Tạng chưa dứt lời cảm tạ, đã thấy ở mé sau có hai chú tiểu đồng đỡ một nhà sư già bước ra. Nhà sư ăn mặc:

Mình mặc áo gấm bó người,

Tà viền lông thúy vàng tươi một màu.

Tỳ lư mũ ấy đội đầu.

Biếc xanh ngọc dát ngỡ đâu mắt mèo.

Đôi hài bát bảo đẹp sao,

Chống cây gậy khảm trăng sao trên trời

Mặt in những nếp nhăn dài,

Ly Sơn lão mẫu dáng người giống in

Hai con mắt tối như đêm,

Hệt long vương trấn ở miền biển xa.
Răng cửa gẫy, gió vào ra,

Lưng còng oặt xuống như là lưng tôm.

Các nhà sư nói:

- Sư tổ đã đến.

Tam Tạng cúi mình lạy, nói:

- Đệ tử xin kính chào lão viện chủ.

Nhà sư già chào đáp lễ, ai nấy theo thứ tự ngồi xuống. Nhà sư già nói:

- Vừa rồi, mấy nhà sư trẻ nói có nhà sư ở nước Đại Đường bên phương Đông tới, nên tôi ra tiếp kiến.

Tam Tạng thưa:

- Chúng tôi mới tới nhà chùa, chưa biết phải trái thế nào, xin sư già thứ lỗi cho.

Nhà sư già nói:

- Không dám! Không dám! Rồi lại hỏi:
-  Ngài  từ  phương  Đông  sang  đây,  đường  đất  có  xa  lắm không?

Tam Tạng đáp:

- Ra khỏi ranh giới Tràng An đã hơn năm nghìn dặm, vượt qua núi Lưỡng Giới, thu nạp được một đồ đệ, rồi lại đi qua nước Tây Phiên, Cáp Tất mất hai tháng, độ năm sáu nghìn dặm nữa, chúng tôi mới tới đây.

Nhà sư già nói:

- Đúng là vạn dặm xa xôi. Tôi đây một đời sống thừa, chưa từng bước chân ra khỏi cổng chùa này, thật đúng là hạng “ếch
[101]
ngồi đáy giếng”

Tam Tạng lại hỏi:

, hạng gỗ mục thôi.

- Lão viện chủ năm nay thượng thọ bao nhiêu? Nhà sư già đáp:
- Hai trăm bảy mươi tuổi rồi. Hành Giả nghe thấy thế, nói:
- Vẫn chỉ là hạng cháu vạn đời của ta. Tam Tạng trừng mắt, nói:
- Ăn nói cẩn thận! Phải có lễ độ, không được khích bác người khác.

Nhà sư già lại hỏi:

- Thế còn ngài bao nhiêu tuổi rồi? Hành Giả đáp:
- Không dám nói.

Nhà sư già cũng chỉ cho là câu nói ngớ ngẩn không để ý và không hỏi nữa, đoạn sai pha trà. Một tiểu đồng bưng ra một chiếc khay ngọc màu mỡ dê, trên có ba chiếc chén lam bịt vàng. Lại thấy một tiểu đồng khác bưng một chỉểc ấm đồng bạch rót ra ba chén trà hương.

Thật là:

Sắc ngời hoa lựu đỏ, Hương ngát tựa quế hoa.
Tam Tạng trông thấy, khen ngợi rối rít.

- Bộ ấm chén đẹp quá! Thật là đồ đẹp thức ngon! Nhà sư già nói:
[102]
- Đâu có, đâu có

! Ngài ở thượng quốc thiên triều thiếu
gì của báu, bộ ấm chén này có gì đâu mà ngài quá khen! Ngài từ thượng quốc đến đây, chắc là có bảo bối, cho chúng tôi xem một tý.

Tam Tạng nói:

- Đáng tiếc là tôi từ phương Đông sang đây, chẳng có vật gì quý cả. Vả lại, nếu có thì đường xa dặm thẳm cũng không mang đi được.

Hành Giả đứng bên cạnh, nói:

- Thưa sư phụ, hôm trước con thấy ở trong tay nải có tấm áo cà sa không là vật quý sao? Lấy ra cho mọi người xem một chút!

Các nhà sư nghe nói tấm áo cà sa, đều cười. Hành Giả nói:
- Các người cười cái gì? Vị viện chủ nóí:
- Ngài vừa mới nói rằng tấm áo cà sa là vật quý, thì buồn cười thật. Áo cà sa ấy, chúng tôi đây cũng có hai mươi ba chiếc. Còn như sư tổ chúng tôi làm hòa thượng ở đây hai trăm sáu mươi năm, dễ có tới bảy tám trăm chiếc.

Rồi nhà sư già ấy gọi:

- Mang ra đây cho các ngài ấy xem.

Nhà sư già ấy cũng muốn khoe khoang, bèn gọi lão nhân mở kho. Bọn tiểu đầu đã khiêng ra mười hai chiếc hòm đặt ở giữa nhà, mở khóa ra, chăng dây mắc giá áo khắp bốn xung quanh nhà, rồi vắt từng chiếc lên, mời Tam Tạng xem. Thật là:

Khắp nhà gấm vóc, Bốn phía lụa là.
Hành Giả xem hết một lượt, thấy toàn là những đồ gấm vóc lụa là, thêu hoa dát ngọc cả, bèn cười, nói:

- Đẹp lắm, đẹp lắm! Nhưng thôi, cất đi, cất đi! Tôi lấy của chúng tôi ra cho mà xem.

Tam Tạng níu Hành Giả lại, nói thầm:

- Đồ đệ, đừng khoe giầu với người ta. Chúng ta chỉ có hai người đơn độc, lỡ xảy ra việc gì thì sao?

Hành Giả nói:

- Xem áo cà sa có gì mà sợ! Tam Tạng nói:
- Con chẳng nghĩ sâu. Người xưa nói: “Những vật quý báu chớ có để cho kẻ gian tham trông thấy”. Nếu khoe cho họ xem, họ sẽ sinh lòng tham, tìm mưu kế cướp đoạt. Lúc ấy, mình sợ tai vạ đành phải chiều theo họ. Bằng không sẽ hại thân mất mạng cũng chỉ vì thế. Việc không đơn giản đâu.

Hành Giả nói:

- Sư phụ yên tâm. Có việc gì lão Tôn xin gánh chịu hết.

Nói xong, bèn vội vàng chạy đi lấy tay nải mở ra. Tấm áo cà
sa vẫn còn bọc hai lần giấy nến[103]


mà đã thấy hào quang lấp
lánh. Khi mở lần giấy, mang tấm áo ra thì khắp nhà ánh sáng chan hòa rực rỡ. Mọi người thấy thế, ai cũng tấm tắc khen thầm. Thật là một tấm áo cà sa tuyệt vời:



Minh châu rủ khéo vô ngần,

Vật báu cửa Phật muôn phần lạ thay.

Dải tơ sắc tía rủ bày,

Bốn bên viền gấm hoa gài đẹp sao.

Mặc vào, quỷ dữ trừ tiêu,

Khoác vào, ma độc hồn theo suối vàng.

May nên nhờ bởi thần hoàng, Chân tăng mới được mặc sang áo này.
Nhà sư già thấy tấm áo quý giá quá, quả nhiên nẩy lòng tham, bước lên, quỳ trước mặt Tam Tạng, chảy nước mắt, nói:

- Đệ tử tôi thật là vô duyên! Tam Tạng đỡ dậy, nói:
- Ngài nói gì vậy?
Nhà sư già nói:

- Tấm áo cà sa của ngài vừa lấy ra cho xem, thì trời tối sập, mắt tôi kèm nhèm nhìn không được rõ chẳng là vô duyên sao?

Tam Tạng nói:

- Thắp đèn lên để ngài xem lại. Nhà sư già nói:
- Bảo bối của ngài đã sáng lắm rồi, đốt đèn thì mắt tôi càng chói, không nhìn kỹ được đâu.

Hành Giả hỏi:

- Vậy như thế nào, thì ngài mới xem kỹ được? Nhà sư già nói:
- Mong ngài rộng lòng làm ơn cho tôi mượn mang vào phòng sau xem kỹ một đêm. Sớm mai tôi xin trả lại ngài, để ngài sang phương Tây. Chẳng hay ý ngài thế nào?

Tam Tạng nghe nói, giật mình, ngầm trách Hành Giả, nói:

- Chỉ tại con, chỉ tại con! Hành Giả cười, nói:
- Sợ cái gì! Để con gói lại đem đi cho họ xem. Cớ việc gì xảy ra, lão Tôn xin chịu cả.

Tam Tạng ngăn không được, Hành Giả đưa cà sa cho nhà sư già, nói:

- Ngài cứ xem đi. Sáng mai đúng hẹn trả tôi. Chớ có làm bẩn đấy.

Nhà sư già mừng rỡ, sai tiểu đồng mang áo cà sa đi ngay. Lão còn dặn các nhà sư khác quét dọn chùa trước sạch sẽ, kê hai chiếc giường mây đầy đủ chăn gối mời hai thầy trò đi nghỉ. Một mặt lại sai sửa soạn cơm chay để sáng mai tiễn chân, rồi, ai nấy
rút lui.
Thầy trò Tam Tạng đóng cửa đi ngủ. Chuyện không nói nữa. Lại nói chuyện nhà sư già kia lừa hai thầy trò Tam Tạng Tạng
cầm được áo cà sa trong tay, mang về phòng sau nhìn tấm áo khóc gào đau khổ, làm các sư trong chùa sợ hãi, không dám đi ngủ trước. Bọn tiểu đồng cũng chẳng hiểu vì sao, vội chạy đi báo với các sư rằng:

- Sư tổ khóc mãi đến canh hai vẫn chưa thôi.

Hai đồ đệ được nhà sư già ấy yêu quý nhất bước vào hỏi:

- Thưa sư tổ, vì sao ngài lại khóc? Nhà sư già nói:
- Ta khóc vì ta vô duyên, không nhìn được bảo bối của Đường
Tăng.

Hai nhà sư trẻ nói:

- Tổ sư tuổi cao đức trọng. Tấm áo cà sa của họ đã đặt trước mặt, ngài cứ việc giở ra mà xem, việc gì phải khóc.

Nhà sư già nói:

- Nhưng xem không được lâu. Năm nay ta đã hai trăm bảy mươi tuổi, mặc qua hàng trăm tấm áo cà sa nhưng đâu được như tấm áo cà sa này, đâu được làm Đường Tăng!

Nhà sư trẻ nói:

- Sư phụ nói sai rồi. Đường Tăng chỉ là một nhà sư lang thang bỏ quê bỏ quán. Ngài tuổi cao hưởng phúc nhiều là tốt lắm rồi, lại còn muốn làm một nhà sư lang thang làm gì?

Nhà sư già nói:

- Ta tuy tại gia thảnh thơi, vãn cảnh vui thú nhưng chẳng được mặc tấm áo ấy. Giá mà ta chỉ được mặc một ngày thôi, thì
chết cũng thỏa, cũng đáng đi tu ở thế gian này.

Các nhà sư khác nói:

- Ngài thật lẩn thẩn, muốn mặc áo của họ thì khó gì? Ngày mai chúng ta giữ lại một ngày, là ngài được mặc một ngày; giữ họ lại mười ngày là ngài được mặc mười ngày. Việc gì phải khóc lóc khổ sở?

Nhà sư già nói:

- Dù có giữ họ hàng năm, thì cũng chỉ được mặc như thế thôi, chẳng được lâu dài.

Đang bàn bạc, bỗng có một vị hòa thượng trẻ là Quảng Trí ló đầu ra nói:

- Thưa sư tổ, muốn được lâu dài cũng rất dễ. Nhà sư già tươi tắn lên, hỏi:
- Con có cao kiến gì chăng? Quảng Trí thưa:
- Hai thầy trò Đường Tăng đi đường xa vô cùng mệt nhọc vất vả, lúc này đang ngủ say. Chỉ cần mấy tay lực lưỡng cầm đao, thương, mở phòng ra giết quách đi, vùi xác ở vườn sau. Chỉ có chúng ta biết mà thôi. Chiếm nốt cả con ngựa bạch, hành lý, và cả tấm áo cà sa làm của báu gia truyền. Như thế chẳng phải là mưu kế lâu dài cho con cháu sao?

Nhà sư già nghe nói, mừng lắm, vội lau nước mắt, nói:

- Hay lắm, hay lắm! Kế ấy tuyệt diệu! Bèn sai chuẩn bị đao, thương.
Trong bọn ấy lại có một hòa thượng trẻ tên gọi Quảng Mưu, cũng là sư đệ của Quảng Trí bước ra nói:

- Kế ấy chưa hay. Nếu muốn giết họ phải suy nghĩ kỹ[104]
đã. Cái lão mặt trắng thì còn dễ. Còn tên mặt lông lá thì khó đấy. Vạn nhất giết không nổi, thì thành ra mình lại rước vạ. Con có một kế chẳng phải dùng đao, thương gì hết không biết ý ngài thế nào?

Nhà sư già nói:

- Con có kế gì? Quảng Mưu thưa:
- Cứ như ý con, hội họp mọi người lớn nhỏ bên các phòng phía đông, mỗi người phải có một bó củi khô chất xung quanh ba gian chùa kia, rồi phóng hỏa đốt. Thầy trò họ muốn chạy cũng  không  có  lối  thoát,  cả  ngựa  cũng  cháy  trụi.  Như  vậy, những nhà ở phía trước núi, sau núi nhìn thấy, sẽ cho rằng tự họ không cẩn thận làm cháy cả ngôi chùa của chúng ta. Còn hai hòa thượng kia lại không bị thiêu chết hay sao? Chúng ta bịt được
[105]
đầu mối
chúng ta.

. Lúc ấy tấm áo cà sa là bảo bối gia truyền của

Các nhà sư nghe nói, ai nấy mừng rỡ, đều nói:

- Khá lắm, khá lắm! Kế này tuyệt vời! Tuyệt vời!

Bèn sai người các phòng vác củi đến. Than ôi, kế này làm cho:

Lão sư cao tuổi đà tận số

Quan Âm thiền viện hóa tro tàn

Trong chùa này có tới bảy tám mươi phòng, hơn hai trăm già trẻ. Đêm ấy họ vác củi chất kín xung quanh, chuẩn bị châm lửa. Chuyện không nói nữa.

Lại nói thầy trò Tam Tạng đã ngủ yên. Nhưng Hành Giả là con khỉ linh thiêng, tuy ngủ đấy, nhưng vẫn tồn thần luyện khí, nửa tỉnh nửa mơ, bỗng nghe thấy tiếng chân người rầm rập,
tiếng củi chất rào rào như gió, thì nghi hoặc lắm, bèn nghĩ:

- Đêm hôm khuya khoắt, tại sao lại có tiếng chân người đi lại? Hay là trộm cướp đến hại mình chăng?

Hành Giả bèn vùng dậy, định mở cửa ra xem sao, nhưng sợ làm sư phụ tỉnh giấc, bèn hóa phép, lắc mình một cái, biến thành một con ong mật. Đúng là:

Miệng ngọt thân ong ẩn dáng người, Hình hài nhẹ nhõm hưởng hoa tươi.
Vòng vèo dặm liễu như tên bắn, Hút nhụy ngàn hoa lựa bướm chơi. Bé tẹo thân hình mà chở nặng,
Vo ve cánh mỏng vút lưng trời. Kèo nhà kẽ nhỏ bay vù xuống, Nghiêng ngó chui ra rõ chín mười.
Hành Giả biến thành một con ong mật bay ra, thấy các nhà sư khuân củi, ôm rơm chất kín xung quanh, châm lửa đốt, bèn cười thầm:

- Quả đúng như lời sư phụ ta! Chúng muốn giết mình cướp áo cà sa, nên mới sinh lòng độc ác như vậy. Vác gậy đánh chúng chăng? Nếu được phép đánh, thì chỉ một chập là đánh chúng chết hết. Nhưng sư phụ lại mắng ta là hành hung. Thôi được, ta
sẽ “mượn gió bẻ măng, tương kế tựu kế”[106]


cho chúng một
vố.

Hành Giả bèn tung người, dùng phép cân đẩu vân bay lên cửa Nam Thiên, khiến cho mấy vị: Bàng, Lưu, Cẩu, Tất cúi chào, Mã, Triệu, Ôn, Quan sụp lạy. Họ nói:

- Chết cha rồi, ông tướng đại náo thiên cung lại đến kia.
Hành Giả xua tay, nói:

- Các vị miễn lễ cho và đừng sợ, tôi đến tìm Quảng Mục thiên vương thôi.

Chưa dứt lời, đã thấy Thiên vương ra đón Hành Giả, nói:

- Lâu lắm không gặp. Trước đây tôi nghe thấy Quan Âm bồ tát đến yết kiến Thượng đế, xin mượn các thần Tứ trực công tào, Lục đinh, Lục giáp, cùng Yết đế bảo hộ Đường Tăng sang phương Tây lấy kinh, nói ngài đã làm đồ đệ cho nhà sư ấy, hôm nay sao lại rỗi rãi đến đây?

Hành Giả nói:

- Hãy khoan thăm hỏi vội. Đường Tăng đang gặp lũ người xấu định châm lửa thiêu cháy, việc rất khẩn cấp, tôi phải tới đây gặp ngài ngay, mượn cái “lồng tránh lửa” để cứu sư phụ. Ngài mau đem ra cho tôi mượn, xong việc tôi sẽ trả ngay.

Thiên vương nói:

- Ngài lầm rồi. Gặp bọn xấu đốt lửa, thì chỉ cần lấy nước mà cứu, mượn “lồng tránh lửa” làm gì.

Hành Giả nói:

- Ngài chẳng hiểu gì cả. Lấy nước cứu, lửa không cháy được, mà lại mắc mưu của chúng. Cứ cho tôi mượn cái lồng ấy để cứu cho Đường Tăng vô sự, còn mặc kệ chúng, cho chúng chết thiêu. Mau lên, mau lên! E không kịp mất! Đừng làm lỡ việc của tôi ở dưới ấy!

Thiên vương cười nói:

- Con khỉ này lại nổi tà tâm lên rồi, chỉ biết mình mà không biết người!

Hành Giả nói:

- Mau lên! Mau lên! Đừng múa mép nữa, hỏng mất việc lớn.
Thiên Vương đành phải cho mượn, mang lồng tránh lửa ra cho Hành Giả.

Hành Giả đỡ lấy, từ trên mây hạ thẳng xuống nóc chùa lấy lồng úp chụp lấy Đường Tăng, con ngựa bạch và hành lý. Còn mình ra phía sau phòng của nhà sư già ngồi bảo vệ tấm áo cà sa. Khi bọn kia châm lửa đốt, Hành Giả bèn niệm thần chú, quay về phương Đông nam, hít một hơi rồi thổi ra. Một trận gió nổi lên khiến ngọn lửa bốc cao cuồn cuộn. Cháy to quá! Cháy to quá! Chỉ thấy:

Khói đen cuồn cuộn, Lửa đỏ rực trời
Khói đen cuồn cuộn trời cao che kín mọi vì sao, Lửa đỏ rực trời, đất rộng sáng trưng ngàn dặm thẳm Lúc đầu: Lửa lem lém như khúc rắn vàng,
Sau đó: Bốc rừng rực tựa con ngựa máu.

Nam phương tam khí cậy anh hùng Hồi Lộc đại thần khoe pháp lực Củi khô lửa bốc ngùn ngụt,
[107]
Khác nào ông Toại dùi cây        .

Dầu sôi trước cửa khói bay,

Khác nào Lão Quân luyện thuốc.

Phải chăng vô tình lửa bốc? Chính là hữu ý hành hung. Nếu chẳng trừ lũ bất nhân, Hóa ra góp phần giúp ác.
Gió reo lửa bạt, khói bay nghìn trượng mịt mùng,
Lửa bốc khói đùn, tro tung chín tầng trời thẳm. Đoàng đoàng độp độp, khác nào pháo lúc năm tàn, Đốp đốp đùng đùng, rền tựa thần công trận địa.
Đốt cho:

Tượng Phật trên tòa không lối chạy, Sư tăng trong viện chẳng đường ra.
Xích Bích năm nào còn chẳng sánh [108]

A Phòng cung ấy cũng thua xa.[109]

Thật đúng là đốm lửa nhỏ đốt cháy ngàn khoảnh ruộng. Trong chớp mắt, lửa gió ngút trời đã làm cho Quan Âm viện chỗ nào cũng đỏ rực. Các sư tăng ai nấy khiêng hòm vác rương, khuân bàn xách ghế, chạy đồ đạc. Tiếng kêu khốn khổ vang trời. Tôn Hành Giả bảo vệ phía sau phương trượng. Lồng tránh lửa úp ở phía trước chùa, còn lại những chỗ khác lửa bén cháy sạch. Thật là:

Rực trời lửa đỏ huy hoàng, Thấu vách hào quang chói lọi.
Không ngờ khi lửa bốc cháy, làm kinh động lũ yêu quái trong núi. Cách Quan Âm viện hai mươi dặm về phía nam có ngọn núi Hắc Phong. Trong núi có động Hắc Phong. Trong động có một con yêu tinh đang ngủ vươn mình tỉnh dậy. Hắn thấy ngoài cửa sáng rực tưởng trời sáng bèn trở dậy nhìn về hướng Bắc, thấy lửa cháy sáng rực, sợ hãi nói:

- Chà, chắc là Quan Âm viện bị cháy rồi. Bọn hòa thượng không cẩn thận để cháy chùa. Ta phải tới cứu mới được!

Con yêu bèn nhảy vút lên mây bay tới chỗ có khói lửa, quả nhiên thấy lửa bốc ngút trời. Những dãy chùa phía trước đã cháy
trụi, hai bên hành lang lửa mới bén. Yêu tinh bèn rảo bước xông vào, hô hoán mang nước lại nhưng thấy phòng sau không cháy, trên nóc nhà có một người đang ngồi thổi gió. Thấy vậy, yêu tinh vội vàng vào thẳng trong nhà, thấy giữa nhà có ráng lành rực rỡ quanh quất, trên án có chiếc tay nải bằng chiên xanh, bèn mở ra xem, thấy một tấm áo cà sa bằng gấm, là loại bảo bối của nhà Phật. Thấy của tối mắt, yêu tinh không cứu đám cháy, cũng chẳng gọi nước, nẫng ngay tấm áo cà sa, lợi dụng lúc nhốn nháo vút ngay lên mây về thẳng sơn động.



Đám cháy mãi đến lúc canh năm, trời sáng, lửa mới tắt. Các nhà sư ai nấy trần trụi, khóc lóc, bới đống tro tàn tìm đồng sắt nhặt bạc vàng. Người thì đứng bên vách để nhặt tranh lợp rạp, kẻ thì đứng trước tường tro bới nồi nấu cơm, luôn mồm kêu khổ rền rĩ. Chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện Hành Giả thu lại lồng tránh lửa, dùng phép cân đẩu vân bay đến cửa Nam Thiên trả lại cho Quảng Mục
thiên vương và nói:

- Xin đa tạ ngài đã cho mượn. Thiên vương nhận lồng nói:
- Đại thánh chu đáo quá, tôi đang lo ngài không trả bảo bối, thì chẳng biết tìm ở đâu. Ngài mang đến, tôi mừng quá!

Hành Giả nói:

- Lão Tôn có phải là hạng lừa đảo đâu! Thế mới gọi là “một lần giữ tín, lần sau dễ mượn”.

Thiên vương nói:

- Lâu lắm không gặp ngài, mời ngài vào cung ngồi chơi một lát đã, ngài thấy thế nào?

Hành Giả nói:

- Lão Tôn khác xưa rồi, không ngồi nói róc mọc r  [110]


  ra
nữa đâu. Bây giờ hộ vệ Đường Tăng không được nhàn nhã, mong ngài hiểu cho, hiểu cho!

Nói xong, từ biệt Thiên vương, thấy mặt trời đã mọc, bèn từ trên tầng mây hạ xuống thẳng mé trước nhà, lắc mình một cái hiện thành con ong mật bay vào trong, hiện nguyên hình. Lúc ấy sư phụ vẫn đang ngủ say.

Hành Giả gọi:

- Sư phụ ơi, trời sáng rồi, dậy thôi! Tam Tạng tỉnh giấc, vươn vai nói:
- Thế à?

Bèn mặc quần áo, mở cửa đi ra, ngẩng đầu nhìn chỉ thấy tường xiêu vách đổ, chẳng thấy lâu đài nhà cửa đâu cả, sợ hãi, hỏi:

- Kìa, nhà cửa chùa chiền đâu cả, mà vách đổ tường xiêu thế
này?

Hành Giả nói:

- Sư phụ còn mơ sao? Đêm qua cháy sạch rồi. Tam Tạng nói:
- Sao ta chẳng biết gì. Hành Giả nói:
- Ấy là Lão Tôn bảo vệ phòng này, thấy sư phụ ngủ say không dám gọi.

Tam Tạng nói:

- Con có tài giữ được phòng này không bị cháy, sao không cứu các phòng khác?

Hành Giả cười, nói:

- Con nói để sư phụ rõ. Quả đúng như lời sư phụ nói hôm qua. Họ thích tấm áo cà sa, nên âm mưu đốt cháy chúng ta. Nếu lão Tôn này không biết, thì thầy trò ta bây giờ xương đã ra tro cả rồi.

Tam Tạng nghe nói, sợ hãi, hỏi:

- Thế chính họ đốt à? Hành Giả đáp:
- Không họ thì ai nữa! Tam Tạng nói:
- Hay là họ khinh thường con nên con làm chuyện ấy? Hành Giả nói:
- Lão Tôn đâu phải hạng người đểu cáng mà làm chuyện bất lương ấy. Chính thực là họ đốt, lão Tôn thấy lòng họ độc ác, nên không chữa mà chỉ giúp họ qua quýt một ít gió.
Tam Tạng nói:

- Trời ơi, trời ơi! Lửa cháy lẽ ra phải dập bằng nước, tại sao lại giúp gió?

Hành Giả nói:

- Sư phụ không thấy người xưa nói: “Người không có bụng hại hổ, thì hổ không có ý hại người” sao? Nếu họ không đốt thì con thổi gió làm gì?

Tam Tạng hỏi:

- Áo cà sa đâu? Hay để cháy mất thì xong? Hành Giả đáp:
- Không việc gì! Không việc gì! Cháy làm sao được. Để ở trong phòng phương trượng không bị cháy ấy.

Tam Tạng giận dữ:

- Mặc kệ nhà ngươi. Nếu tấm áo cà sa làm sao, ta mà niệm chú thì nhà ngươi sẽ bỏ đời.

Hành Giả sợ hãi, nói:

- Sư phụ ơi, đừng niệm, đừng niệm, để con tìm áo cà sa về trả sư phụ là xong. Sư phụ đợi con đi lấy về rồi chúng ta lên đường.

Tam Tạng bèn dắt ngựa, Hành Giả gánh hành lý ra khỏi chùa trước đến thẳng phòng sau.

Lại nói những nhà sư kia đang rầu rĩ, bỗng thấy thầy trò Tam
Tạng dắt ngựa gánh hành lý đến, ai nấy hồn bay phách tán, nói:

- Oan hồn về đòi mạng! Hành Giả quát:
- Oan hồn đòi mạng nào? Mau mang áo cà sa trả chúng ta! Các nhà sư quỳ cả xuống, dập đầu nói:
- Cha mẹ ơi, oán ai, nợ ai thì đòi người ấy. Việc đòi mạng
không dính gì đến chúng tôi cả. Tất cả là do tên Quảng Mưu và lão Hòa thượng già đã bày mưu tính kế hại các ngài, các ngài đừng bắt chúng tôi đền mạng.

Hành Giả hừ một tiếng, nói:

- Chúng bay là một lũ súc sinh đáng chết! Đòi mạng chúng bay làm gì! Mau mang áo cà sa ra trả, để chúng ta lên đường.

Trong bọn có hai nhà sư đánh bạo nói:

- Thưa các ngài, các ngài đã bị thiêu chết trong chùa rồi, sao nay lại đòi áo cà sa? Các ngài thực là người hay là ma?

Hành Giả cười, nói:

- Đồ súc sinh! Làm gì có lửa cháy ở đây! Các ngươi thử đến xem, rồi hẵng nói chuyện sau.

Các nhà sư lóp ngóp đứng dậy, đi ra đằng trước xem xét, thấy từ cánh cửa sổ bên ngoài chùa trước trở ra không bị cháy một chút nào cả, ai nấy sợ hãi. Lúc ấy mới nhận ra rằng Tam Tạng thật là bậc thần tăng, Hành Giả thật là tôn hộ pháp, bèn chạy cả lại dập đầu thưa:

- Chúng tôi thật có mắt như mù, không biết chân nhân xuống hạ giới. Áo cà sa của các ngài để ở phương trượng phía sau, trong phòng sư tổ ấy.

Tam Tạng đi qua bốn năm tầng tường xiêu vách đổ, luôn mồm than vãn, thấy phương trượng quả nhiên không bị cháy, các nhà sư chen nhau vào, gọi:

- Sư tổ ơi, Đường Tăng là bậc thần nhân không bị thiêu chết, giờ đây chỉ thấy nhà mình bị hại! Mau mang áo cà sa trả họ đi!

Nguyên do nhà sư già không tìm thấy áo cà sa, lại thấy chùa mình cháy sạch, đang muôn phần rầu rĩ chán chường, nghe tiếng gọi như vậy, chẳng biết trả lời ra sao, suy đi nghĩ lại thấy bí quá, tiến thoái lưỡng nan, vội khom lưng rảo bước đi ra đập mạnh
đầu vào tường. Than ôi, cú đập mạnh quá đến nỗi: máu phun óc vọt hồn xiêu tán, cổ họng đứt hơi nhiễm bụi hồng. Có bài thơ làm chứng rằng:

Thương thay sư cụ ngu đần, Một đời tu luyện mất danh sư già! Rắp tâm định cướp cà sa,
Ai ngờ của Phật khác xa đồ phàm.

Tưởng đâu mưu kế dễ dàng,

Ai ngờ cháy sạch mấy gian chùa rồi.

Quảng Mưu, Quảng Trí nực cười, Đáng đời một lũ hại người ích ta.
Các nhà sư hoảng hồn than khóc:

- Sư tổ đập đầu tự sát rồi, áo cà sa lại chẳng thấy, biết làm sao bây giờ?

Hành Giả nói:

- Chúng bay là một lũ trộm cướp! Ra hết cả đây, khai rõ họ tên, để lão Tôn tra xét một lượt.

Viện  chủ  các  phòng  trên  dưới  khai  hết  tên  tuổi  các  hòa thượng, đầu đà, tiểu đồng, đạo nhân lớn nhỏ trong chùa, viết thành hai tờ, gồm hai trăm ba mươi người. Hành Giả mời sư phụ ngồi lên trên, còn mình lần lượt gọi tên kiểm tra, bắt phải cởi hết áo ra, khám xét kỹ lưỡng nhưng không thấy áo cà sa đâu cả. Lại sai khuân hết hòm rương trong các phòng ra, tìm tòi tỉ mỉ một lượt, nhưng cũng chẳng thấy tung tích. Tam Tạng trong lòng buồn bực, oán trách Hành Giả vô cùng, bèn niệm thần chú. Hành Giả ngã lăn ra đất, ôm đầu đau đớn, phải kêu lên:

- Đừng niệm nữa, đừng niệm nữa! Để con đi tìm cà sa về!
Các nhà sư trông thấy, ai nấy run rẩy sợ hãi, bước tới quỳ xuống van xin, Tam Tạng mới ngậm miệng không niệm nữa. Hành Giả chồm dậy, rút gậy sắt trong tai ra định đánh bọn hòa thượng, bị Tam Tạng ngăn lại, quát:

- Con khỉ kia, đau đầu thế mà vẫn không sợ hả? Không được vô lễ! Không được đánh người! Để ta tra hỏi một lượt nữa.

Các nhà sư dập đầu lạy, van xin Tam Tạng:

- Mong ngài tha tội. Quả thật chúng con không biết. Tất cả đều do lão chết toi kia cả. Tối qua, hắn xem áo cà sa của ngài, rồi khóc mãi cho tới khuya, xem cũng chẳng dám xem, chỉ toan tính lấy hẳn làm bảo bối gia truyền, định mưu lập kế thiêu cháy ngài. Lúc lửa cháy, gió mạnh bốc lên, ai nấy mãi chữa cháy khuân đồ đạc, không biết áo cà sa biến mất đằng nào.

Hành Giả tức quá, chạy vào trong phương trượng, lôi xác chết ra khám xét kỹ, cũng không thấy áo cà sa đâu cả. Lại đào nền phương trượng sâu tới ba thước, cũng không thấy, bèn ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi hỏi:

- Quanh đây có yêu quái thành tinh nào không? Viện chủ thưa:
- Ngài không hỏi thì biết đâu mà nói. Chính hướng Đông nam ngôi chùa này có ngọn núi Hắc Phong. Trong núi có động Hắc Phong, ở đấy có Hắc đại vương. Cái lão hòa thượng già đã chết kia thường giảng đạo với hắn. Chỉ có hắn là yêu tinh, ngoài ra không còn ai nữa.

Hành Giả hỏi:

- Núi ấy cách bao xa? Viện chủ thưa:
- Cách độ hai mươi dặm thôi. Đứng đây nhìn thấy đỉnh núi kia là nó đấy.
Hành Giả cười, nói:

- Sư phụ yên tâm, không cần nói nữa, đúng là con Hắc quái ấy ăn cắp không sai.

Tam Tạng nói:

- Nó ở cách đây hai mươi dặm, làm sao lại đổ cho nó? Hành Giả nói:
- Sư phụ không trông thấy ngọn lửa đêm qua à? Sáng rực vạn dặm, soi tỏ ba trời, đừng nói gì hai mươi dặm, chứ hai trăm dặm cũng trông thấy. Chắc chắn nó thấy ánh lửa sáng rực, bèn nhân cơ hội ấy, ngầm lẻn đến đây, nhận ra tấm áo cà sa của chúng ta là bảo bối, cuỗm ngay mang đi. Để lão Tôn đi tìm nó xem sao.

Tam Tạng nói:

- Con đi rồi, ta cậy vào ai? Hành Giả nói:
- Sư phụ yên tâm, chắc có thần linh ngầm giúp, con sẽ gọi mấy hòa thượng hầu hạ thêm.

Bèn gọi các nhà sư lại dặn:

- Các ngươi cắt mấy người đem chôn cái xác lão hòa thượng già này đi, còn mấy người hầu hạ sư phụ và trông nom con ngựa bạch cho ta.

Các nhà sư tuân lệnh. Hành Giả lại nói:
- Các ngươi chớ có vâng lấy lệ, đợi ta đi rồi là bỏ mặc không hầu hạ sư phụ. Mà có hầu hạ sư phụ ta, thì cũng phải tươi tỉnh lên. Nuôi ngựa thì cỏ, nước phải đầy đủ. Nếu sai một ly, thì các ngươi hãy nhìn cây gậy đây.

Hành Giả rút cây gậy ra, nhằm bức tường đổ đập choang một
phát. Bức tường nát vụn, làm rung động cả bảy, tám bức tường khác. Các nhà sư nhìn thấy sợ rủn cả người, quỳ xuống dập đầu khóc lóc, nói:

- Ngài cứ yên tâm ra đi, chúng tôi xin hết sức hết lòng hầu hạ sư phụ, quyết không dám trễ nải.

Hành Giả bèn dùng phép cân đẩu vân, bay thẳng đến núi Hắc
Phong tìm áo cà sa. Thật là:

Kim Thiền từ biệt kinh thành, Sang Tây cầu Phật lênh đênh vô vàn. Đường đầy hổ báo sói lang,
Bán buôn, chài lưới, ruộng vườn thấy đâu.

Sư ngu xứ lạ hiểm sâu,

Đại thánh phải giở phép màu ra tay.

Lửa thiêu chùa cháy tro bay,

Gấu đen thừa dịp cuỗm ngay áo thần.

Chuyến đi này, không biết áo cà sa có tìm thấy hay không, lành dữ thế nào xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ MƯỜI BẢY


Tôn Hành Giả đại náo núi Hắc Phong


Quan Thế Âm thu phục yêu tinh gấu


Lại nói chuyện Tôn Hành Giả dùng phép cân đẩu vân nhảy
vút lên mây đi, khiến cho các nhà sư, tiểu đầu đà, tiểu đồng và lão nhân trong Quan Âm viện, ai nấy sợ hãi ngẩng lên trời vái lạy nói:

- Cha mẹ ơi, đúng là thần thánh đi mây về gió giáng xuống hạ giới, hèn nào lửa đốt không cháy! Giận lão hòa thượng già kia không biết người, dâm manh tâm làm ác, để bây giờ mình tự hại mình!

Tam Tạng nói:

- Mời các ngài đứng dậy, đừng ân hận làm gì. Chuyến này tìm được áo cà sa thì mọi chuyện xong xuôi cả. Chỉ sợ không tìm thấy, tên đồ đệ của tôi nóng nảy, rồi chẳng biết tính mạng của các ngài sẽ ra sao, e rằng một người cũng khó thoát nổi với hắn.

Các nhà sư nghe nói, ai nấy tim đập chân run, cầu trời khấn Phật, mong sao tìm thấy áo cà sa để toàn tính mạng. Chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện Tôn đại thánh bay lên không trung, lắc mình một cái đã tới núi Hắc Phong, đứng trên đám mây nhìn xuống quan sát, thấy quả là một ngọn núi đẹp. Vả lại đang là tiết xuân, chỉ thấy:

Muôn khe nước cuồn cuộn, Nghìn non hoa rờn rợn.
Chim kêu người chẳng thấy, Hoa rụng hương vấn vương. Mưa rơi vách đá phô màu biếc,
Gió thổi rừng tùng xòe tán xanh. Vách núi chênh vênh cây lác đác, Sườn non thoai thoải cỏ thanh thanh. Cao nhân nào đâu thấy,
Tiều phu vắng bóng người.

Dưới khe đôi hạc uống, Trên đá vượn đùa vui.
Tầng tầng đá xếp phô màu xám, Chất ngất cây xanh rực ánh trời.
Hành giả đang ngắm phong cảnh, bỗng nghe thấy trong bụi cỏ thơm phía dốc trước có tiếng người, bèn rón rén nấp kín dưới vách đá, đưa mắt nhìn trộm. Nguyên đấy là ba yêu ma trải chiếu xuống đất ngồi. Ngồi giữa là một tên mặt đen, bên trái là một đạo  nhân,  bên  phải  là  một  người  tu  sĩ  áo  trắng.  Chúng  trò chuyện huyên thuyên, toàn chuyện bắc vạc đắp lò, tán chu sa trộn với thủy ngân, chì, để luyện linh đơn theo lối tiên thuật. Đang trò chuyện vui vẻ, tên mặt đen cười nói:

- Ngày kia là ngày sinh nhật của tôi, xin mời hai ngày quá bộ lại chơi.

Tên tu sĩ áo trắng nói:

- Năm nào cũng đến mừng thọ đại vương, năm nay không đến sao được!

Tên mặt đen nói:

- Đêm qua tôi vừa bắt được một bảo bối, đó là tấm áo cà sa
bằng gấm của nhà Phật, thật là một vật tuyệt vời! Ngày mai tôi mang về làm lễ mừng thọ, mở tiệc thật to, mời các đạo quan khắp núi đến mừng áo Phật và đặt tên là “Hội áo Phật” có được không?

Đạo nhân cười nói:

- Tuyệt lắm! Tuyệt lắm! Ngày mai, tôi đến lễ thọ trước, ngày kia lại đến ăn tiệc.

Hành Giả nghe nói đến áo Phật, liền đoán ngay là bảo bối của mình, không nén được giận dữ, nhảy phắt ra khỏi vách đá, rút ngay gặt sắt bịt vàng, quát to:

- Đồ yêu quái trộm cắp, ăn trộm áo cà sa của ta, lại còn bày trò mừng “Hội áo Phật” gì nữa! Mau mau mang trả ta ngay!

Đoạn lại thét vang:

- Chớ chạy!

Rồi vung cây gậy nhằm đầu tên mặt đen bổ xuống. Tên mặt đen hốt hoảng, biến thành một làn gió trốn mất. Gã đạo sĩ biến thành đám mây bay đi. Còn tên tu sĩ áo trắng trúng một gậy chết tươi. Hành Giả kéo xác lại xem, thì ra là con yêu tinh rắn hoa trắng. Cáu tiết, Hành Giả băm vụn thành năm bảy đoạn, rồi vào thẳng núi sâu tìm tên mặt đen. Trèo qua khắp đỉnh nhọn, non cao, Hành Giả bỗng thấy trước vách núi sừng sững một tòa động phủ. Chỉ thấy:

Khói mây mờ mịt, Tùng bách um tùm,
Khói mây mờ mịt, cửa sặc sỡ; Tùng bách um tùm, ngõ rợp xanh. Cầu ghép thân cây gỗ,
Sườn non dây quấn quanh.
Chim ngậm nhụy hồng bay suối thẳm, Hươu dẫm cỏ thơm nhảy bậc thềm. Trước động hoa khoe hương gió thoảng, Bên bờ liễu rủ, tiếng oanh ngâm.
Đào non mơn mởn hai bờ suối, Bươm bướm mơ màng lượn rập rình. Tuy rằng hoang dã khoe ai vậy,
Cũng cảnh Bồng Lai hiện dưới trần.

Hành Giả đi thẳng tới cửa, thấy hai tấm cửa đá đóng kín mít, phía trên có một tấm đá ngang đề rõ sáu chữ lớn “Núi Hắc Phong động Hắc Phong”, bèn vung gậy gõ cửa, gọi:

- Mở cửa! Mở cửa!

Bọn tiểu yêu giữ cửa mở ra, hỏi:

- Nhà ngươi là ai mà dám gõ cửa động tiên của ta? Hành Giả chửi liền:
- Đồ súc sinh đáng chết! Chỗ này mà dám gọi là động tiên à? Chúng bay cũng dám xưng là tiên sao? Mau vào bảo cho tên mặt đen, bảo mau đem áo cà sa ra trả lão Tôn, thì lão Tôn sẽ tha chết cho cả lũ chúng mày!

Bọn tiểu yêu vội vàng chạy vào báo:

- Thưa đại vương “Hội áo Phật” hỏng bét rồi. Ngoài cửa có một hòa thượng mặt lông lá, mõm như ông thiên lôi, đến đòi áo cà sa!

Tên mặt đen vừa nãy bị Hành Giả đuổi ở trước dốc cỏ thơm, chạy về đóng chặt cửa còn chưa ngồi yên, nghe bảo như vậy, trong lòng thầm nghĩ:

- Không biết tên ấy từ đâu tới, dám vô lễ quát mắng ta ở ngoài
cửa?

Bèn sai lấy  mũ giáp, nai  nịt  gọn gàng, tay cầm một cây thương, thắt giải đen đi ra. Hành Giả đứng ngoài cửa, tay cầm gậy sắt, trợn mắt nhìn thấy tên ấy quả là dữ tợn:

Đen sì mũ sắt đội đầu.

Giáp vàng che ngực một mầu sáng choang, Áo choàng rộng, cánh đen toàn.
Bên người thắt dải tơ đan buông chùng.

Tay cầm ngọn giáo cán đồng, Chân đi giầy thẫm dáng hùng xiết bao, Mắt chớp như điện sáng sao,
Hắc Phong vương đó tự hào nổi danh.

Hành Giả cười thầm, nói:

- Tên này chẳng khác hòn than trong lò. Chắc hẳn làm nghề đốt than kiếm ăn, nếu không sao người lại đen nhẻm thế?

Yêu quái thét liền mấy tiếng:

- Nhà ngươi là hòa thượng ở đâu mà dám cả gan đến cửa nhà ta?

Hành Giả cầm gậy xông ngay tới, hừ một tiếng quát:

- Chớ có nói lôi thôi, mang trả ông ngoại nhà ngươi áo cà sa mau!

Yêu quái nói:

- Nhà ngươi là hòa thượng chùa nào? Áo cà sa nhà ngươi mất ở đâu mà lại dám tới đây đòi ta?

Hành Giả nói:

- Áo cà sa của ta để ở phương trượng phía sau chùa Quan
Âm. Lợi dụng lúc chùa bị cháy, nhà ngươi ăn cắp mang về, nhân ngày sinh nhật định bày trò mừng “Hội áo Phật” lại còn chối cãi gì nữa? Mau trả lại cho ta thì ta tha chết cho, còn như hé răng nói nửa lời “không” thì ta sẽ đạp đổ núi Hắc Phong, san bằng động Hắc Phong, bắt hết yêu ma cả động nghiền ra như cám!

Yêu quái nghe nói, khà khà cười nhạt mà rằng:

- Đồ hèn mọn kia! Té ra đám cháy đêm qua là do nhà ngươi đốt. Nhà ngươi ngồi ở trên nóc phương trượng thổi gió làm điều ác. Áo cà sa chính ta lấy đi đấy, nhà ngươi định làm gì nào? Nhà ngươi ở đâu tới, họ tên là gì? Sức mấy mà dám khoác lác như vậy?

Hành Giả nói:

- Nhà ngươi không nhận ra ông ngoại ngươi sao? Ông ngoại nhà ngươi là đồ đệ của pháp sư Tam Tạng, em vua nước Đại Đường, họ Tôn tên Ngộ Không Hành Giả. Còn nếu hỏi võ nghệ của lão Tôn, nói ra thì nhà ngươi hồn vía rụng rời, chết ngay tức khắc!

Yêu quái nói:

- Ta chưa từng biết nhà ngươi tài cán thế nào, nói ra ta nghe thử!

Hành Giả cười, nói:

- Này con ơi, hãy đứng vững mà nghe cho kỹ nhé! Ta đây:

Từ nhỏ nổi tiếng thần thông,

Đi mây về gió vẫy vùng, giỏi giang.

Tu tâm luyện tính vững vàng,

Luân hồi thoát khỏi, mệnh càng sống lâu.

Thành tâm học đạo cao sâu,

Linh Đài hái thuốc rừng sâu tìm thầy.
Núi này có vị tiên hay,

Tuổi mười tám vạn nghìn, nay vẫn còn.

Lão Tôn bái lạy sư tôn,

Để thầy chỉ giáo con đường trường sinh.

Thầy rằng: “Trong thuốc phục linh, Mà còn tham dục, tu hành được chăng?” Lại truyền bài quyết linh thông,
Căn bản được vững, sáng lòng dễ theo.

Tọa quan ánh sáng chiếu vào,

Âm dương hòa hợp mệnh bào sống lâu.

Muôn việc chẳng để trong đầu,

Sáu căn thanh tĩnh bền lâu thân người.

Đổi già ra trẻ dễ thôi,

Siêu lên cõi thánh đường trời đâu xa.

Ba năm trên cõi tiên mà,

So thân tục ấy khác xa vô cùng. Mười châu ba đảo thong dong,
Chân trời góc biển mặc lòng ngao du.

Sống ba trăm độ xuân thu,

Vẫn chưa bay được tít mù trời xanh.

Long vương dâng trụ sắt thần,

Đúc thành gậy sắt tung hoành gần xa.

Núi Hoa Quả họp yêu ma,

Thủy Liêm động cũ ta là đại vương.

Thượng đế xuống chiếu mời lên,
Phong làm Đại thánh Tề Thiên đầu triều.

Mấy phen phá điện Linh Tiêu,

Mấy phen ăn trộm đào yêu trong vườn.

Thiên binh mười vạn bắt hàng,

Tầng tầng lớp lớp giáo gươm sáng ngời.

Thiên binh thua trận về trời,

Na Tra trúng gậy rụng rời rút lui.

Chân Quân biến hóa tuyệt vời, Lão Tôn chống trả một hồi ngã quay. Quan Âm Thượng đế đến ngay,
Cửa nam đứng ngắm trị bầy yêu ma.

Lại thêm Lão Quân xông ra,

Nhị Lang liền bắt được ta mang về.

Trói ta vào cột hàng ma,

Sai thần binh chém, rồi ra bêu đầu.

Dao phăng, búa bổ được đâu, Lại sai sét đánh, đổ dầu thiêu ngay. Lão Tôn này thực cao tay,
Điềm nhiên chẳng chút mảy may sờn lòng.

Lão Quân bỏ vạc đốt hầm,

Lửa thần chẳng bén tấm thân đọa đày, Đủ ngày vạc mở cao bay.
Lại cầm gậy sắt ra tay tung hoành, Đánh cho khắp chốn tan tành.
Băm ba trời rộng xa gần thấy nhau,
Phật Như Lai trổ phép mầu.

Núi Ngũ Hành ép xuống đầu bó tay, Chịu hình năm trăm năm nay.
Gặp Đường Tam Tạng qua đây cứu nào, Quy y sang tận Tây Phương.
Chùa Lôi Âm ấy tìm đường cầu kinh, Nhà ngươi hỏi hết ngọn ngành.
Đệ nhất yêu quái ai giành phần ta,

Yêu quái nghe xong cười, nói:
- Thế ra nhà ngươi là Bật Mã Ôn đại náo thiên cung đấy à? Hành Giả bực nhất ai gọi mình là Bật Mã Ôn. Nghe nói như
vậy, trong bụng tức giận, hầm hầm quát:

- Đồ yêu quái ăn trộm kia, ăn cắp áo cà sa đã không trả lại còn chọc tức ta! Chớ có chạy, hãy xem cây gậy đây!

Tên mặt đen nghiêng mình tránh, vung thương đánh lại. Hai bên đánh nhau quyết liệt:

Gậy như ý, thương ngù đen,

Hai bên cửa động một phen tung hoành.

Người nhằm tim, mặt đâm nhanh,

Kẻ nhằm tay, sọ, chực rình đánh sang.

Người thì cầm gậy phạt ngang,

Kẻ thì thương nhọn vội vàng đâm luôn.

Khác nào hổ trắng múa vờn,

Rồng vàng uốn khúc nhịp nhàng tấm thân.

Phun mù nhả khói tối tăm,
Đố ai đoán nổi ai giành phần hơn.

Một bên Đại Thánh Tề Thiên, Một bên là Hắc đại vương già đời. Đánh nhau quyết liệt không thôi,
Chỉ vì áo Phật, thành loài bất lương.



Yêu quái đánh nhau với Hành Giả chừng mười mấy hiệp không phân thắng bại, dần dần đã đến trưa, bèn giơ thương gạt cây gậy sắt ra, nói:

- Này Tôn Hành Giả, hãy tạm thu binh, đợi ta ăn cơm xong sẽ đấu tiếp.

Hành Giả nói:

- Đồ súc sinh kia, thế cùng đòi làm hảo hán? Hảo hán gì mới nửa ngày đã đòi ăn cơm? Như lão Tôn đây bị đè dưới chân núi hơn trăm năm chưa hề uống một hớp nước có lẽ chết đói ở đấy
chắc? Chớ có phịa lý do! Không được đi đâu cả, trả ta áo cà sa thì ta mới cho đi ăn cơm!

Yêu quái vung ngọn thương dứ rồi quay người chạy thẳng vào động, đóng chặt cửa lại, gọi lũ tiểu yêu bày tiệc, viết thiếp mời ma vương các núi tới dự, chuyện không nói nữa.

Lại nói Hành Giả không mở được cửa, đành quay về Quan
Âm Viện.

Các sư trong chùa đã chôn cất xong lão hòa thượng và đang túc trực cả trong phương trượng hầu hạ Đường Tăng. Bữa chay buổi sáng vừa xong lại chuẩn bị bữa chay trưa. Họ đang thay nước thêm canh, thì thấy Hành Giả từ trên mây hạ xuống, bèn cúi lạy, mời Hành Giả vào trong phương trượng yết kiến Tam Tạng. Tam Tạng nói:

- Ngộ Không con về rồi à? Áo cà sa thế nào? Hành Giả thưa:
- Đã ra manh mối rồi. Lão hòa thượng ấy thật không còn oan gì nữa. Đúng là con yêu quái núi Hắc Phong lấy trộm. Khi lão Tôn lẳng lặng đi tìm hắn, bắt gặp hắn cùng với một tên tu sĩ mặc áo trắng và một gã đạo nhân ngồi trên đám cỏ trò chuyện. Thật chưa khảo đã xưng, yêu quái ấy bỗng nhiên nói ra rằng: “Ngày kia là sinh nhật tôi, mời các ngày đến dự. Đêm qua tôi bắt được một tấm áo cà sa gấm của nhà Phật lấy làm lễ vật mừng thọ, bày một bữa tiệc thật to gọi là “Hội áo Phật”. Thế là lão Tôn xông ra, nện ngay một gậy. Tên mặt đen biến thành làn gió trốn mất, gã đạo nhân cũng biến mất tăm. Còn tên tu sĩ áo trắng bị con đánh chết, té ra nó là con rắn hoa trắng thành tinh. Con vội vàng đuổi đến cửa động, gọi hắn ra đánh nhau. Hắn cũng nhận rằng hắn có ăn trộm áo. Con đấu với hắn đến trưa không phân thắng bại, hắn bèn chạy vào động ăn cơm, đóng chặt cửa, sợ không dám ra nữa. Lão Tôn đành trở về gặp sư phụ báo tin. Biết manh
mối áo cà sa rồi, thì không lo hắn không trả đâu mà sợ.

Các nhà sư nghe nói như vậy, người thì chắp tay, kẻ thì dập đầu nói:

- Nam mô A Di Đà Phật, bây giờ đã tìm ra manh mối rồi, chắc chắn chúng tôi thoát chết!

Hành Giả nói:

- Các ngươi chớ vội mừng! Cà sa chưa vào tay ta, thì sư phụ ta chưa ra ra khỏi cửa đâu, chừng nào lấy lại áo cà sa, sư phụ ta ra khỏi cửa êm thấm rồi, thì các ngươi mới thật mừng. Nếu xẩy ra một việc gì, lão Tôn sẽ sinh sự ngay! Vừa rồi có trà uống, có cơm ăn cho sư phụ ta, có cỏ non cho ngựa ta không?

Các nhà sư vội vàng vâng dạ, nói:

- Thưa có ạ, thưa có ạ. Chúng tôi không dám trể nải một chút nào đâu ạ.

Tam Tạng nói:

- Con đi mới có nửa ngày, mà họ đã dọn ba lần trà nóng, hai bữa cơm chay rồi. Họ không dám trễ nải việc chăm nom ta đâu. Chỉ mong con hết sức tìm được áo cà sa mang về.

Hành Giả nói:

- Sư phụ đừng vội vàng. Đã tìm ra manh mối, thì phải bắt bằng được tên ấy trả lại áo cà sa chứ! Sư phụ cứ yên tâm, yên tâm!

Đang trò chuyện, lại thấy viện chủ phòng trên dọn cơm chay mời Tôn Hành Giả ăn. Hành Giả ăn qua loa xong, lại cưỡi mây lành đi tìm một lần nữa. Đang đi, thấy một tiểu yêu nách phải cắp một cái tráp bằng gỗ hoa lê từ đường cái đi tới. Hành Giả đoán trong tráp phải đựng thư từ gì, bèn vung gậy nhằm trúng đầu nện một phát. Than ôi, không đánh thì thôi, đã đánh là thịt
nát như cám[111]


Hành Giả kéo xác vào vệ đường, mở tráp ra
xem, thấy quả nhiên là một tờ thiếp mời. Tờ thiếp viết:

“Tôi là Hùng Bi cúi đầu vái lạy, kính dâng lên Đan phòng Kim Trì lão thượng nhân rằng: Thường chịu ơn sâu của thượng nhân, xiết bao cảm kích. Đêm qua nhìn chùa cháy có lỗi không đến cửa được, chắc rằng ngài cũng không thiệt hại mấy. Mới rồi, tôi ngẫu nhiên bắt được một tấm áo Phật, muốn mở hội vui, sửa bữa tiệc hoa, mong ngài lại thưởng thức. Đúng hẹn, mời ngài quá bộ đến dự thì hân hạnh lắm! Thư đưa trước hai ngày”.

Hành Giả xem xong thư, cười khà khà, nói:

- Cái lão Hòa Thượng già ấy, chết là đáng đời lắm! À ra hắn kết bạn với yêu tinh, nên hắn mới sống lâu hai trăm bảy mươi tuổi. Chắc là yêu tinh đã truyền cho hắn vài phép mọn luyện khí nào đấy, nên mới thọ như thế. Mình vẫn nhớ hình dạng của hắn, hãy biến thành hắn đến động xem áo cà sa hắn cất đâu. Nếu cầm được trong tay là mang về liền, đỡ phải dùng sức.

Thế là Đại thánh niệm thần chú, đón làn gió biến luôn thành một nhà sư già, giấu gậy sắt đi, rảo bước thẳng đến cửa động gọi:

- Mở cửa!

Tiểu yêu mở cửa thấy đúng hình dạng, vội vàng vào báo:

- Thưa đại vương, Kim Trì lão thượng đến. Yêu quái giật mình, nói:
- Ta vừa mới sai tiểu yêu đi đưa thiếp mời hắn, giờ này còn chưa tới nơi, sao hắn đến nhanh thế? Nhất định tiểu yêu chưa gặp hắn được. Chắc là Hành Giả bắt hắn đến đòi áo cà sa. Được rồi, phải giấu áo cà sa đi, đừng để hắn biết.

Hành Giả đến cửa đằng trước, thấy xung quanh tùng trắc tươi
tốt, đào mận xanh rờn, từng khóm hoa nở thoang thoảng hương đưa. Đúng là một nơi tiên cảnh. Lại thấy hai cánh cửa có đôi câu đối:

Yên tĩnh rừng sâu không tục lụy

Thanh u tiên động hưởng thiên chân.

Hành Giả thầm nghĩ:
- Tên này cũng là yêu quái vào hạng thoát tục hiểu đời đây. Rồi bước vào trong động, qua ba tầng cửa thấy đều là cột kèo
vẽ chạm, cửa giả sặc sỡ. Tên mặt đen mặc chiếc áo lụa nõn màu xanh sẫm, phủ ngoài chiếc áo hoa mầu xanh cổ vịt, đầu đội khăn thắm, chân đi đôi giày da hươu, thấy Hành Giả vào, vội vàng sửa sang quần áo, xuống thềm đón tiếp, nói:

- Thưa ông bạn già Kim Trì, mấy hôm không gặp gỡ xin mời ngồi, mời ngồi.

Hành Giả chào đáp lễ xong, ngồi xuống uống trà. Uống trà xong, yêu tinh cúi mình hỏi:

- Vừa mới sai tiểu yêu đi mời ngày kia lại dự, sao ngài đã đến từ hôm nay?

Hành Giả đáp:

- Tôi đang định lại thăm, không ngờ giữa đường nhận được thiếp mời, thấy ghi “Hội áo Phật” vèn vội vàng đi luôn, muốn xem trước một tý.

Yêu quái cười nói:

- Ngài lầm rồi, áo cà sa vốn là của Đường Tăng, hắn còn đang ở chỗ ngài, ngày chưa được xem hay sao mà lại đến xem ở chỗ tôi.

Hành Giả nói:

- Bần tăng có mượn về, nhưng đêm khuya chưa kịp giở xem,
không ngờ bị đại vương lấy mất, lại bị lửa cháy sạch chùa, của cải mất hết cả. Tên đồ đệ của Đường Tăng cũng là tay giỏi giang, trong lúc rối loạn, hắn tìm khắp nơi đều không thấy. Thì ra đại vương có phúc lớn lấy được rồi, nên tôi đến xem một chút.

Đang lúc trò chuyện, thấy một tên tiểu yêu đi tuần vào báo:

- Thưa đại vương, nguy to rồi. Tôn Hành Giả đánh chết tên lính đưa thư bên vệ đường, rồi nhân cơ hội biến thành Kim Trì lão thượng đến lừa lấy áo Phật đấy!

Yêu quái nghe nói, nghĩ bụng:

- Ta đã nghi hoặc tại sao hôm nay trưởng lão lại đến, mà lại đến nhanh vậy. Thì ra là hắn!

Bèn vội vàng bật dậy, chộp lấy cây thương đâm Hành Giả. Hành Giả cũng lập tức rút cây gậy trong tai ra hiện nguyên hình, gạt đỡ ngọn thương. Hai bên đánh nhau từ trong sảnh nhảy ra sân, rồi ra ngoài cửa trước, khiến cho các yêu ma già trẻ lớn bé trong động đều hồn bay phách tán. Trận đấu trên sườn núi lần này, so với lần trước còn quyết liệt hơn.

Bên này: Hầu vương to gan làm hòa thượng, Bên kia: Gấu đen quỷ quyệt giấu cà sa. Lời qua tiếng lại mồm khôn khéo,
Tùy cơ ứng biến chẳng sai ngoa. Muốn thấy cà sa mà chẳng được, Bảo bối huyền vi rất mực mà! Tuần núi tiểu yêu về báo họa,
Yêu quái hầm hầm giở võ ra. Đánh thốc thẳng ra ngoài cửa động,
Thương, gậy giao nhau quyết được thua.

Gậy đỡ thường dài kêu loảng xoảng, Thương va gậy sắt tóc hoa cà.
Biến hóa Ngộ Không đời hiếm có, Thần thông yêu quái mấy ai so.
Bên này: Quyết giữ cà sa mừng lễ thọ, Bên kia: Chẳng được cà sa chẳng chịu về. Đánh nhau quyết liệt không chùn bước,
Dù Phật can ngăn chẳng chịu hòa.

Hai bên đánh nhau từ cửa động đến đỉnh núi, từ đỉnh núi lên mây xanh, gió cuốn mù tung, cát bay đá lở, đến lúc mặt trời đã lặn đằng Tây mà vẫn chưa phân thắng bại.

Yêu quái nói:

- Này, tên họ Tôn kia, hãy tạm dừng tay. Trời tối rồi, ngươi về đi, về đi, sáng mai đến đây, ta sẽ cùng ngươi sống mái.

Hành Giả quát:

- Nhóc con chớ có chạy! Đánh nhau cho ra đánh nhau, đừng đổ cho trời tối!

Nói xong, bất kể đầu hay mặt, cứ cầm gậy xông vào đánh. Tên mặt đen hóa thành một làn gió mát, quay về động, đóng chặt cửa không ra nữa.

Hành Giả chẳng biết làm thế nào, đành quay về Quan Âm viện, từ trên mây hạ xuống, cất tiếng gọi:

- Sư phụ.

Tam Tạng đang mỏi mắt mong chờ, bỗng thấy Hành Giả đứng trước mặt, thì mừng lắm. Nhưng thấy trong tay Hành Giả không cầm áo cà sa, thì sợ hãi, hỏi:
- Làm sao lần này vẫn không lấy được áo?

Hành Giả rút tờ thiếp trong tay áo ra đưa cho Tam Tạng nói:

- Sư phụ ạ, yêu quái vốn lại là bạn của lão hòa thượng chó chết. Hắn sai tiểu yêu mang tờ thiếp này đến mời lão hòa thượng đến dự “Hội áo Phật”. Lão Tôn đánh chết tên tiểu yêu ấy, rồi biến thành lão hòa thượng, vào trong động, lừa hắn kiếm chén trà uống. Định hỏi hắn cho xem áo cà sa, nhưng hắn không chịu mang ra. Đang ngồi chơi, không ngờ bị tên lính đi tuần chạy vào báo. Thế là hắn với con đánh nhau mãi đến khi trời tối cũng chưa phân thắng bại. Hắn thấy trời tối, chuồn vào động, đóng chặt cửa lại. Con chẳng biết làm thế nào, đành quay về.

Tam Tạng hỏi:

- Tài nghệ của con so với hắn thế nào? Hành Giả thưa:
- Con cũng không hơn được bao nhiêu, ngang nhau thôi ạ. Tam tạng giở tờ thiếp ra xem, rồi đưa cho viện chủ, nói:
- Chẳng hóa ra sư phụ ông cũng là yêu tinh sao? Viện chủ sợ hãi quỳ xuống, thưa:
- Thưa ngài, sư phụ tôi là người. Bởi Hắc đại vương tu luyện thành người, thường đến chùa giảng kinh với sư phụ tôi, truyền cho sư phụ tôi một ít thuật tôn thần dưỡng khí nên coi nhau như bạn bè.

Hành Giả nói:

- Lão hòa thượng già ấy không thấy có yêu khí. Hắn cũng đầu tròn đội trời, chân vuông đạp đất, nhưng so với lão Tôn thì to béo hơn, vậy không phải là yêu tinh đâu. Sư phụ xem, tờ thiếp
ghi “tôi là Hùng Bi[112]


, yêu quái ấy chắc là con gấu đen thành

tinh.
Tam Tạng nói:

- Ta nghe người xưa nói: “Gấu cùng loại với đười ươi” đều là loài thú cả, sao lại thành tinh được?

Hành Giả cười, nói:

- Lão Tôn là loài thú mà còn làm đến “Tề Thiên đại thánh” thì có khác gì hắn? Phàm vật nào trong thế gian hễ có đủ chín lỗ thì đều có thể tu tiên được cả.

Tam Tạng lại nói:

- Con vừa nói tài nghệ con chỉ ngang với nó. Vậy làm thế nào thắng được nó, lấy lại áo cà sa?

Hành Giả nói:

- Không lo, không lo con đã có cách.

Đang bàn bạc, các nhà sư lại dọn bữa cơm chay buổi chiều mời hai thầy trò ăn. Ăn xong, Tam Tạng bảo châm đèn, vào gian chùa đằng trước nghỉ ngơi. Các nhà sư ai nấy đều dựa vào vách tường, che tranh trải ổ mà ngủ, dành nhà phương trượng phía sau cho viện chủ nằm. Bấy giờ vào lúc đêm khuya tĩnh mịch. Chỉ thấy:

Sông ngân vằng vặc, Trời ngọc sáng trong. Đầy trời sao lấp lánh, Như mặt sóng yên lãnh. Sáo trời thổi vi vút, Chim về ngàn xa xăm. Dưới khe lửa chài tắt,
Trên tháp ngọn đèn xanh,

Đêm trước trống chuông khua rộn rã,
Tối nay tiếng khóc rộn rừng xanh.

Đêm ấy, Tam Tạng nằm ở thiền đường, nghĩ về chiếc áo cà sa không sao ngủ được, chợt trở mình thấy ngoài cửa trời đã sáng rõ, bèn trở dậy, gọi:
- Ngộ Không ơi, trời sáng rồi, mau dậy đi tìm áo cà sa đi! Hành  Giả giật mình tỉnh dậy, đã thấy các sư đứng hầu, dâng
trà nóng. Hành Giả nói:

- Các người nhớ lưu tâm hầu hạ sư phụ ta, để lão tôn đi đây. Tam Tạng bước xuống giường ngăn lại, hỏi:
- Con định đi đâu? Hành Giả đáp:
- Con cho rằng việc này do Quan Âm bồ tát lầm lẫn chăng? Ngài đã có ngôi chùa này, được người ở đây thờ cúng thế mà lại chứa yêu tinh ở ngay bên cạnh. Con sang Nam Hải tìm Quan Âm nói cho ngài hay, mời ngài đến chất vấn yêu tinh lấy lại áo cà sa trả cho ta.

Tam Tạng hỏi:

- Con đi chuyến này bao giờ quay về? Hành Giả thưa:
- Sớm thì vào khoảng ăn cơm xong, muộn lắm thì đến trưa là cùng. Các nhà sư kia gắng hầu hạ sư phụ ta chu đáo. Ta đi đây.

Vưa nói dứt câu, đã không thấy Hành Giả đâu nữa. Trong nháy mắt đã tới Nam Hải, Hành Giả đứng trên mây ngắm nghía, chỉ thấy:

Biển xa bát ngát mênh mông,

Thế nước cuồn cuộn như rồng quấn mây.

Khí lành tỏa khắp đó đây,
Hào quang ánh rọi đêm ngày nơi nơi.

Nghìn tầng tuyết sáng ngất trời, Muôn trùng khói sóng trào sôi tháng ngày. Không ngừng bốn phía nước dồi,
Sóng tung cao ngất dựng trời sấm vang.

Thôi đừng bàn thế nước, Hãy nhìn kỹ bên trong:
Núi non năm sắc mơ màng,

Đỏ, xanh, đen, tím, thêm vàng là năm.

Chính đây thắng cảnh Quan Âm, Lạc Già núi ấy giữa tầm biển Nam. Đỉnh non cao ngất tầng lam,
Hoa kỳ cỏ lạ muôn vàn xanh tươi.

Gió lay cành lá reo vui,

Sen vàng tắm ánh mặt trời chói chang.

Ngói lưu ly lợp mái vàng,

Động Triều Âm cửa bóng ngang đồi mồi.

Khóm đương vẹt hót tuyệt vời, Trong rừng trúc tía công thời múa may. Đài cao hộ pháp càng oai,
Mọc Soa hùng dũng ngồi ngây bệ vàng.

Hành Giả ngắm mãi phong cảnh tuyệt đẹp, rồi mới dừng mây, hạ xuống rừng trúc, thấy đã có người trời ra đón, hỏi:

- Trước đây Bồ tát có nói với chúng tôi rằng Đại thánh đã theo điều thiện rất được ngợi khen. Thế đi hộ vệ Đường Tăng,
mà đến đây có việc gì?

Hành Giả đáp:

- Vâng, chính vì đi hộ vệ Đường Tăng, giữa đường có chuyện xảy ra, nên ta đến đây cần gặp Bồ Tát, phiền các ngài vào báo hộ.

Các người trời quay vào trong động báo. Bồ tát cho mời vào. Hành Giả theo sự hướng dẫn đi vào, đến bên đài hoa sen cúi lạy Bồ tát. Bồ tát hỏi:

- Nhà ngươi tới đây có việc gì? Hành Giả thưa:
- Sư phụ tôi dọc đường có gặp một ngôi chùa thờ ngài. Ngài được người ta thờ cúng mà lại chứa con yêu tinh gấu đen ở ngay bên cạnh. Để nó ăn trộm áo cà sa của sư phụ tôi, mấy lần tôi đến đòi nó không trả, nay tôi đến đây đòi ngài đấy!

Bồ tát nói:

- Con khỉ kia chỉ ăn nói bậy bạ! Con yêu tinh gấu ăn trộm áo cà sa, sao lại đến đòi ta? Chỉ tại nhà ngươi to gan mang bảo bối ra khoe, đưa cho lũ tiểu nhân xem, lại còn hành hung thổi gió quạt lửa, làm cháy ngôi chùa là nơi dừng chân của ta, còn dám đến đây nói dối sao?

Hành Giả thấy Bồ tát nói như thế, biết là ngài hiểu tất cả mọi chuyện quá khứ, tương lai, bèn sợ hãi cúi lạy, nói:

- Xin Bồ tát tha tội cho đệ tử. Quả đúng là như vậy. Nhưng bực một nỗi yêu quái ấy không chịu trả áo cà cho con, sư phụ lúc ấy lại niệm thần chú, đầu đau con chịu sao nổi? Vì vậy con mới đến đây quấy rầy Bồ tát, mong Bồ tát mở lòng từ bi giúp con bắt con yêu quái ấy, lấy lại áo cà sa để tiếp tục lên đường sang phương Tây.

Bồ tát nói:
- Con yêu quái ấy cũng nhiều pháp thuật chẳng kém gì ngươi. Thôi  được,  ta  nể  mặt  Đường  Tăng,  đi  một  chuyến  với  nhà ngươi.

Hành Giả nghe nói, lạy hai lạy tạ ơn, mời Bồ tát ra cửa, cùng cưỡi mây lành thẳng tới núi Hắc Phong, đoạn dừng mây hạ xuống, thẳng đường vào động.

Đang đi, bỗng thấy một đạo nhân bưng khay pha lê từ sườn núi đi ra. Trong khay có hai viên tiên đơn. Hắn đang đi, thì Hành Giả nhận ra ngay. Thế là Hành Giả rút luôn gậy sắt nhằm đầu gã đạo nhân bổ xuống, khiến cho máu óc vọt tung tóe. Bồ tát hoảng sợ, nói:

- Con khỉ kia hung hãn quá chừng! Người ta không ăn trộm áo cà sa, không quen biết mình, không có thù hằn gì với mình, tại sao lại đánh chết hử?

Hành Giả nói:

- Bồ tát không nhận ra hắn à? Hắn là bạn của yêu quái gấu đen đấy. Hôm trước hắn và tên tu sĩ áo trắng cùng ngồi bên bãi cỏ trò chuyện. Ngày kia là ngày sinh của yêu quái gấu đen, yêu quái mời bọn chúng đến dự “Hội áo Phật” vì thế con nhận ra. Con định hôm nay thay yêu tinh này đến dự lễ mừng thọ.

Bồ tát nói:

- Thôi, đã thế thì được.

Hành Giả bèn đến dựng tên đạo nhân ấy lên xem thì thấy đó là một con chó sói màu tro. Chiếc khay nằm bên cạnh, mặt dưới khắc hàng chữ “Lăng Hư Tử chế”. Hành Giả xem xong cười, hỏi:

- Hay lắm, hay lắm! Cũng có ích cho lão Tôn đây mà Bồ tát cũng đỡ phải dùng sức! Yêu quái này không khảo mà xưng. Hôm nay bọn chúng hết đời rồi!
Bồ tát hỏi:

- Ngộ Không, nhà ngươi định nói gì vậy? Hành Giả đáp:
- Thưa bồ tát. Ngộ Không này có cách “tương kế tựu kế”
không biết Bồ tát có chịu nghe cho không?

Bồ tát nói:

- Nhà ngươi nói xem! Hành Giả nói:
- Thưa Bồ tát, ngài xem trong khay có hai viên tiên đơn, đó là lễ vật ra mắt yêu quái của chúng ta. Mặt sau chiếc khay khắc bốn chữ “Lăng Hư Tử chế” đó là đầu mối dẫn chúng ta vào với yêu quái. Nếu ngài nghe con? Con sẽ bày một kế chẳng phải dùng đến binh khí, chẳng phải mệt sức đánh nhau, mà yêu quái chịu thua ngay, áo Phật hiện trước mắt. Nếu ngài không nghe thì ngài về phương Tây, con sang phương Đông, áo Phật biếu cho nó, Tam Tạng trắng tay mà thôi.

Bồ tát cười, nói:

- Con khỉ chỉ được cái bẻm mép. Hành Giả nói:
- Đâu có, một mẹo hay đấy! Bồ tát nói:
- Mẹo hay thế nào? Hành Giả nói:
- Chiếc khay khắc bốn chữ “Lăng Hư Tử chế”, hẳn đạo nhân tên là Lăng Hư Tử. Ngài theo kế của con biến thành gã đạo nhân. Còn con sẽ ăn một viên tiên đơn, rồi biến thành một viên khác to hơn một chút. Ngài bưng chiếc khay và hai viên tiên đơn
đến mừng thọ yêu quái, tặng cho nó viên to. Khi yêu quái nuốt xong, bấy giờ con ở trong bụng sẽ ra tay. Nếu nó không chịu trả áo cà sa, con sẽ lôi ruột gan nó ra.

Bồ tát không nghĩ được cách nào, đành gật đầu nghe theo. Hành Giả cười nói:

- Được chứ!

Lúc ấy, Bồ tát mở lòng từ bi quảng đại, pháp lực vô biên, ức vạn hóa thân, lấy tâm hội ý, lấy ý hội thân, trong giây lát biên ngay thành Lăng Hư Tử:

Phấp phới tà áo bạc, Phiêu diêu nhẹ bước chân. Quắc thước như tùng bách, Thanh tú mấy ai bằng.
Đi đi không cố định, Đến đến cũng tùy mình. Đều là một pháp[113] cả, Nhưng vẫn khác yêu tinh.
Hành Giả nhìn, nói:

- Tuyệt quá, tuyệt quá! Ngài là Bồ tát yêu tinh, hay là yêu tinh
Bồ tát đấy?

Bồ tát cười, nói:

- Ngộ Không, Bồ tát, yêu tinh đều là ý niệm cả. Nếu bàn cho đến gốc, thảy đều không có.

Hành Giả trong lòng giác ngộ, bèn quay người biến thành một viên tiên đơn:

Trong khay nằm chắc chắn,
Tròn trĩnh sáng lung linh.

Ba ba lần nhào trộn, Sáu sáu ngón nặn hình. Luyện lửa vàng rực rỡ, Thành viên sáng như gương. Chì, thủy ngân bọc vỏ,
Phải đâu của tầm thường.

Hành Giả biến thành viên linh đơn to hơn một chút Bồ tát nhận rõ, đặt vào khay pha lê đi thẳng vào cửa động yêu quái, ngắm nhìn xung quanh thấy quả là:

Vách cao động thẳm, Đỉnh non mây vờn. Tùng bách tươi tốt, Gió thổi xuyên non.
Vách cao động thẳm, yêu quái vào ra người chẳng thấy: Tùng bách tươi tốt, chân tiên ẩn dật, đúng nơi đây! Núi có khe sâu, thành suối chảy,
Nước rơi réo rắt tựa đàn ca. Vách có hươu nai, rừng có hạc,
Sáo trời vi vút thỏa lòng ta.

Thực là:



Yêu tinh có phúc hàng Bồ tát, Bồ tát từ bi cũng cứu ra.

Bồ tát ngắm cảnh, trong lòng mừng thầm nghĩ:

- Yêu quái chiếm động núi này cũng có chút sùng đạo đây.
Rồi từ đấy trong lòng đã sẵn chút từ bi.

Vào tới cửa động, lũ tiểu yêu giữ cửa nhận ra, nói:

- Lăng Hư tiên trưởng đã đến.

Chúng bèn một mặt cho người vào báo, một mặt đưa vào. Yêu quái cũng vội vàng ra cửa động đón và nói:
- Kính chào Lăng Hư tiên trưởng. Hôm nay ngài hạ cố tới đây khiến nhà tranh thêm sáng sủa!

Bồ tát nói:

- Tiểu đạo kính dâng một viên tiên đơn, gọi là chút quà mừng thọ.

Hai người chào nhau xong, rồi ngồi xuống trò chuyện việc hôm trước. Bồ tát không trả lời, vội vàng bưng khay linh đơn nói:

- Thưa đại vương, gọi là chút lòng thành của tiểu đạo. Rồi nhặt ngay viên linh đơn to đưa cho yêu quái nói:
- Chúc đại vương sống lâu!

Yêu quái cũng nhặt một viên đưa cho Bồ tát nói:

- Cũng chúc Lăng Hư Tử như vậy,

Mời xong, yêu quái nuốt liền. Viên thuốc vừa bỏ vào mồm, thuận miệng trôi tuột xuống. Lúc ấy, Hành Giả hiện nguyên hình, khuấy động lung tung, yêu quái ngã lộn xuống đất. Bồ tát cũng hiện bản tướng, hỏi việc yêu quái lấy trộm cà sa. Hành Giả từ trong mũi yêu tinh chui ra, Bồ tát sợ yêu quái vô lễ, bèn lấy cái vòng chụp xuống đầu. Yêu quái chồm dậy, cầm thương xông vào đâm. Hành Giả, Bồ tát vội bay vút lên không niệm chân ngôn, làm cho yêu quái cảm thấy đầu óc nhức nhối quăng cả thương, lăn quằn quại trên mặt đất. Trên không Hành Giả cười bò. Dưới đất, yêu tinh lăn lộn, Bồ tát nói:
- Con súc sinh kia, đến bây giờ có chịu quy y không?



Yêu quái lắp bắp thưa:

- Con xin vui lòng quy y, xin tha tội chết!

Hành Giả sợ mất thì giờ, chỉ muốn đánh chết. Bồ tát vội vàng ngăn lại, nói:

- Chớ có giết nó. Ta đã có cách trừng phạt nó. Hành Giả nói:
- Đồ quái vật, không đánh chết đi còn giữ lại làm gì? Bồ tát nói:
- Đằng sau núi Lạc Già của ta chưa có người trông coi, ta muốn đem nó về làm thần giữ núi.

Hành Giả cười, nói:

- Đúng là bậc từ bi cứu khổ, không nỡ hại một sinh linh nào.
Giá như lão Tôn có câu thần chú ấy thì đọc ngay cho con mẹ nó một nghìn lần! Khi nào gặp nhiều gấu đen thì cứ mời ngài là xong!

Lại nói chuyện yêu quái tỉnh dậy hồi lâu, cảm thấy đầu vẫn còn đau, bèn quỳ xuống đất van xin:

- Xin tha chết cho, tôi nguyện quy y chính quả!

Bồ tát bấy giờ mới từ trên mây hạ xuống, xoa dầu thụ giới cho yêu quái, bảo nó trả áo cà sa, cầm thương dài đi theo hầu bên cạnh. Thế là con gấu đen:

Lòng dạ dã man nay đã định, Tính tình ương bướng đến nay chừa.
Bồ tát còn dặn dò thêm:

- Này Ngộ Không, nhà ngươi về đi, cố gắng hầu hạ Đường
Tăng, từ nay trở đi, không được càn rỡ sinh sự nữa.

Hành Giả nói:

- Cảm tạ Bồ tát chẳng quản xa xôi, đệ tử phải đưa ngài về chứ!

Bồ tát nói:

- Ta miễn cho.

Hành Giả đành cầm lấy áo cà sa, cúi chào từ biệt. Bồ tát cũng đem gấu đen về thẳng biển lớn. Có bài thơ làm chứng rằng:

Mây lành rực rỡ thân vàng,

Đẹp thay muôn đạo hào quang chói ngời.

Từ bi cứu nạn cứu người,

Khắp trong pháp giới rạng ngời hoa sen.

Đến đây vì chuyện kinh truyền, Trở về mĩ mãn không vương vấn gì.
Yêu tinh quy phục theo đi,

Áo cà sa gấm lại về thiền môn.

Cuối cùng không biết việc thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ MƯỜI TÁM


Chùa Quan Âm, Đường Tăng thoát nạn


Thôn Cao Lão, Đại thánh trừ ma


Hành Giả từ biệt Bồ tát, từ trên mây hạ xuống, vắt áo cà sa
lên cành cây sến, rồi rút gậy đánh thẳng vào động Hắc Phong. Trong động chẳng còn một con yêu tinh nào. Khi bọn chúng thấy Bồ tát xuất hiện, yêu quái chúa động bị đánh ngã quay ra đất, chúng vội vàng chạy tán loạn cả. Hành Giả bèn ra tay: đem củi khô chất kín mấy tầng cửa đằng trước, đằng sau, châm lửa đốt cháy toàn bộ, làm cho động Hắc Phong biến thành động “Hồng phong” rồi cắp áo cà sa, cưỡi mây lành bay về hướng Bắc.

Lại nói chuyện Tam Tạng mong Hành Giả mãi không thấy về, trong lòng nghi hoặc, không biết mời Bồ tát không đến, hay là Hành Giả tìm lý do trốn đi. Đang lúc phán đoán lung tung thì thấy trên không, mây lành rực rỡ. Hành Giả đã hạ xuống trước thềm, quỳ xuống thưa:

- Thưa sư phụ, áo cà sa đây ạ!

Tam Tạng mừng lắm. Các nhà sư ai cũng hân hoan, nói:

- May quá, may quá! Tính mạng chúng tôi hôm nay mới thật an toàn.

Tam Tạng đỡ lấy áo cà sa, nói:

- Ngộ Không, lúc sớm con đi, con hẹn tới buổi trưa ăn cơm xong là về, sao đến bây giờ mặt trời đã ngả về Tây mới về?

Hành Giả kể hết một lượt: chuyện mời Bồ tát đến biến hóa,
hàng phục yêu quái. Tam Tạng nghe xong, bèn lập hương án, ngoảnh về hướng Nam làm lễ, rồi nói:

- Đồ đệ này, lấy lại áo Phật rồi, mau mau thu xếp hành lý lên đường thôi.

Hành Giả nói:

- Đừng vội, khoan đã. Bây giờ trời đã tối, không phải lúc đi đường, đợi đến sáng mai hẵng đi.

Các nhà sư đều quỳ xuống, nói:

- Ngài Hành Giả nói đúng đấy. Một là trời tối, hai là chúng tôi cũng có chút lòng thành phát nguyện. Nay may được bình an, tìm thấy bảo bối, đợi chúng tôi làm lễ tạ, mời hai ngài ban lộc cho, sáng mai chúng tôi xin đưa tiễn sang phương Tây.

Hành Giả nói:

- Phải lắm, phải lắm!

Các nhà sư trong túi đều nhẵn thín, vội tìm trong đống tro tàn, được đồng nào mang cả ra, soạn một mâm cơm chay, đốt mấy tờ tiền giấy bình an vô sự, niệm quyển kinh tiêu tai giải ách. Đến tối thì mọi công việc xong xuôi.

Sáng hôm sau, hai thầy trò sửa soạn ngựa cưỡi, gói ghém hành trang lên đường. Các nhà sư tiễn một đoạn đường xa mới quay về. Hành Giả đi trước dẫn đường. Lúc ấy đương về tiết xuân ấm áp. Chỉ thấy:

Cỏ mềm in dấu ngựa câu,

Tơ vàng liễu rủ khoe màu thanh tân.

Hạnh đào hoa nở đỏ rừng,

Dây leo quấn quýt sức xuân dồi dào.

Uyên ương sưởi ấm đê cao,
Bướm bay bờ suối liệng chào hoa thơm.

Đông tàn, đến tiết xuân sang. Năm nào kính Phật lên đàng về đây?
Hai thầy trò đi luôn một chặng dăm bảy ngày trên đường hoang vắng. Bỗng một hôm, trời đã về chiều, họ nhìn thấy phía xa xa có một xóm dân cư. Tam Tạng nói:

- Ngộ Không ơi, con xem phía kia có một xóm núi, chúng ta lại đó ngủ nhờ một đêm sáng mai đi tiếp, con thấy thế nào?

Hành Giả nói:
- Sư phụ đợi lão Tôn xem lành dữ thế nào, rồi hãy tính sau. Tam Tạng gò cương dừng ngựa. Hành Giả chăm chú quan sát.
Thật là:

Giậu trúc kín tầng tầng, Mái tranh nghèo san sát Cổng làng cây cao ngất, Mặt nước bóng nhà soi. Ngoài đường dương liễu rủ, Trong vườn hoa hé cười.
Lúc này trời đã xế, Khắp rừng chim hót vui. Khói chiều lan mờ tỏ. Đường làng trâu về rồi. Lợn no nằm xó bếp,
Ông già say, hát cười.

Hành Giả quan sát xong, nói:

- Mời sư phụ đi thôi. Đúng là một xóm dân cư hiền lành, có
thể ngủ nhờ được.

Tam Tạng, quất ngựa đi tới đầu đường vào xóm, thấy một người trẻ tuổi, đầu đội khăn vải bông, mình mặc áo chàm, cầm
[114]
dù đeo bọc, quần xắn áo vén, chân đi đôi giày cỏ

, dáng
khỏe mạnh lanh lẹn, hăm hở đi ra. Hành Giả thuận tay giữ lại hỏi:

- Nhà anh đi đâu vậy? Cho tôi hỏi một điều, vùng này tên là gì?

Người kia giằng tay ra, miệng càu nhàu:

- Xóm tôi không còn người nào nữa hay sao, mà cứ phải hỏi tôi?

Hành Giả cười, nói:

- Mong anh đừng giận. Làm ơn thì được phúc m  [115]


. Nói
cho tôi biết tên địa phương này thì có hại gì nào? Tôi cũng có thể giải được nỗi phiền cho anh đấy.

Người kia giằng ra không được, nhảy loạn lên nói:

- Khổ quá! Khổ quá! Gia trưởng mắng nhiếc chịu không nổi, lại gặp phải cái anh đầu trọc này làm rầy rà!

Hành Giả nói:
- Nhà anh có giỏi, giằng được khỏi tay ta, thì cứ việc mà đi. Người kia kéo bên nọ, gỡ bên kia, không tài nào giằng ra nổi,
tay Hành Giả cứ như gọng kìm, cặp chặt lấy, tức quá, người kia vứt tay nải quẳng dù, hai tay cào Hành Giả như điên. Hành Giả một tay xách hành lý, một tay túm chặt người kia, tha hồ cho người kia giằng, nhưng không tài nào giằng ra được. Hành Giả càng giữ chặt, người ấy tức quá, hét vang như sấm. Tam Tạng nói:
- Ngộ Không, kia có người lại kìa. Hỏi người ấy cũng được, giữ anh ta làm gì! Buông ra thôi!

Hành Giả cười, nói:

- Sư phụ không biết. Hỏi người khác thì không thú, phải hỏi hắn thì mới lợi.

Người kia bị Hành Giả giữ chặt không chịu buông, đành nói:

- Vùng này thuộc địa giới nước Ô Tư Tạng. Nơi đây là thôn Cao Lão, người trong thôn quá nửa là họ Cao, nên mới có tên đặt như vậy. Ông buông ra để tôi đi.

Hành Giả lại nói:

- Hành trang anh thế này chắc không phải đi gần. Anh nói thực cho tôi biết, anh đi đâu, làm gì, tôi mới buông anh ra.

Người ấy không biết làm thế nào, đành nói thực:

- Tôi là người nhà Cao Thái Công, tên gọi Cao Tài. Ông Thái Công nhà tôi có một cô con gái út, tuổi mới đôi mươi, chưa lấy chồng, ba năm trước bị một con yêu tinh chiếm đoạt. Con yêu ở rể đã ba năm nay. Thái Công nhà tôi rất buồn, nói rằng: “Con gái mà lấy yêu tinh, thì không phải là kế lâu dài. Một là làm bại hoại gia môn, hai là không có thông gia đi lại”. Con yêu tinh đâu có chịu đi, bắt cô gái nhốt vào nhà sau, cứ nửa năm mới mở cửa cho ra gặp gỡ người nhà. Thái Công tôi đưa cho tôi hai lạng bạc, đi tìm pháp sư về bắt yêu quái. Tôi đi khắp nơi, chẳng lúc nào ngơi  chân,  mời  đến  ba  bốn  người.  Nhưng  đều  là  hạng  hòa thượng toi cơm, đạo sĩ bị thịt, không trị nổi yêu quái. Thái Công chửi tôi một mẻ, nói tôi chẳng được tích sự gì, lại đưa cho năm lạng bạc làm lộ phí, dặn tôi đi tìm pháp sư giỏi về trị nó. Không ngờ gặp đồ quỷ sứ nhà ông giữ chặt, làm lỡ việc của tôi, thế là bực tức cả trong lẫn ngoài, chẳng biết làm thế nào, tôi mới la hét om sòm. Không ngờ ông có cách giữ, tôi giằng không ra đành phải nói thực. Thôi, ông buông ra để tôi đi.
Hành Giả nói:

- Nhà anh gặp may rồi. Ta sẽ cứu cho. Thế mới gọi là sự việc
[116]
khớp nhau răm rắp

. Anh không cần phải đi xa nữa cho tốn
tiền vô ích. Chúng tôi không phải là hạng hòa thượng toi cơm, đạo sĩ bị thịt đâu, mà có cách bắt được yêu ma. Thật là “trước là đến thăm ông nhà, hai là chữa cho mắt sáng”. Nhờ anh quay về thưa chuyện với gia chủ rằng: chúng tôi là thánh tăng ngự đệ của nhà vua một nước bên phương Đông sang phương Tây lễ Phật cầu kinh rất giỏi trừ yêu bắt quái.

Cao Tài nói:

- Ông đừng làm lỡ việc của tôi. Tôi đang tức đầy ruột đây, đừng lừa dối tôi. Chẳng có tài nghệ bắt nổi yêu quái, lại để tôi chịu mắng sao?

Hành Giả nói:

- Không để hỏng việc của anh đâu, cứ đưa chúng tôi về nhà
đi.




Người kia không biết làm thế nào, đành nhặt tay nải, xách dù,
quay lại đưa hai thầy trò Tam Tạng đến cửa, nói:

- Hai vị ngồi tạm ở tàu ngựa này một chút, đợi tôi vào báo cho ông chủ biết.

Hành Giả lúc ấy mới buông tay ra, đặt hành lý, dắt ngựa, hai thầy trò ngồi đợi ngoài cửa.

Cao Tài bước vào cổng, đi thẳng lên nhà giữa, vừa vặp gặp
Cao Thái Công, Thái Công mắng luôn:

- Đồ súc sinh ăn hại, sao không đi tìm pháp sư, lại quay về làm gì?

Cao Tài đặt tay nải xuống, thưa:

- Xin báo để ông chủ biết, tôi vừa mới ra tới cổng làng đã gặp
hai vị hòa thượng: một người cưỡi ngựa, một người gánh hành lý, họ giữ chặt lấy tôi hỏi đi đâu. Mấy lần tôi chẳng chịu nói, song ông ta giữ chặt quá không thể giằng ra được, tôi đành kể hết việc của ngài cho họ rõ. Họ rất vui lòng bắt yêu quái giúp nhà ta.

Cao lão hỏi:

- Họ ở đâu đến? Cao Tài thưa:
- Họ nói là thánh tăng ngự đệ do nhà vua ở một nước bên phương Đông sai sang phương Tây lễ Phật cầu kinh.

Thái Công nói:

- Hòa thượng từ phương xa tới e không được cao tay. Bây giờ họ ở đâu?

Cao Tài thưa:

- Họ hiện đang đợi ngoài cổng.

Thái Công vội vàng thay quần áo, cùng Cao Tài ra cổng đón tiếp, nói:

- Kính chào trưởng lão.

Tam Tạng nghe tiếng, vội quay người lại, thì hai người đã tới sát trước mặt. Ông cụ chít khăn lượt thắm, mặc áo gấm Ba Thục màu lá tỏi, đi đôi giày da nghé, thắt dây lưng màu xanh sẫm, bước lại tươi cười đón tiếp, nói:

- Kính chào hai vị trưởng lão.

Tam Tạng chào đáp lễ, Hành Giả vẫn đứng yên không nhúc nhích. Ông cụ thấy Hành Giả tướng mạo xấu xí hung dữ, không chắp tay chào. Hành Giả nói:

- Không chào lão Tôn à?
Ông già sợ hãi, gọi Cao Tài mắng:

- Nhà ngươi có giết ta không? Trong nhà đã có chàng rể ma quái, đuổi không đi rồi, lại còn dẫn ông thiên lôi này về hại ta nữa à?

Hành Giả nói:

- Này lão Cao, ông già đời người rồi mà chẳng hiểu gì hết! Nếu chỉ nhìn tướng mạo xét người, thì hoàn toàn sai đấy. Lão Tôn đây tuy xấu xí, nhưng lại có tài bắt yêu quái ma quỷ cho nhà ông, tóm gọn chàng rể, trả lại con gái cho ông, thế là quý, việc gì cứ phải để ý tới tướng mạo?

Thái Công nghe nói sợ hãi, gắng gượng tinh thần nói:

- Xin mời ngài vào.

Hành Giả thấy mời, mới dắt ngựa bạch, gọi Cao Tài gánh hành lý, cùng Tam Tạng bước vào. Chẳng cần biết hay dở thế nào, Hành Giả buộc ngựa vào cột hiên, kéo chiếc ghế bành sơn bóng mời sư phụ ngồi, còn mình kéo một chiếc ghế ngồi xuống bên cạnh. Cao lão nói:

- Ngài trưởng lão trẻ này tự nhiên như người nhà. Hành Giả nói:
- Ông bằng lòng giữ tôi ở lại nửa năm thì mới tự nhiên. Mọi người ngồi yên đâu đấy, Cao lão mới hỏi:
- Vừa rồi tôi nghe Cao Tài nói, hai người ở phương Đông tới. Tam Tạng nói:
- Thưa vâng. Bần tăng vâng mệnh triều đình sang phương Tây lễ Phật cầu kinh, nay ghé qua thôn nhà xin ngủ nhờ một đêm, sáng mai đi sớm.

Cao lão nói:
- Thế ra hai ngài đến ngủ nhờ, sao lại nói là biết bắt quái? Hành Giả nói:
- Nhân tiện ngủ nhờ mà bắt yêu quái chơi. Xin hỏi nhà ta đây có nhiều yêu quái không?

Cao lão thưa:

- Trời ơi, lại còn nhiều nữa sao! Chỉ một chàng rể yêu tinh đã đủ tan cửa nát nhà rồi.

Hành Giả nói:

- Ông xem yêu quái có tài gì, kể hết đầu đuôi cho tôi nghe, tôi bắt nó hộ ông.

Cao lão nói:

- Trong thôn tôi, từ xưa tới nay không hề có yêu ma quỷ quái gì. Số là mình tôi bất hạnh không có con trai chỉ sinh được ba mụn con gái. Con gái lớn gọi là Hương Lan, con thứ hai là Ngọc Lan, con út là Thúy Lan. Hai đứa lớn đã gả chồng lấy người trong xóm. Còn đứa út tôi định cho ở rể, để mong hắn giúp tôi làm ăn sinh sống, mà tôi cũng có chàng rể trông nom nhà cửa, đỡ đần công việc. Không ngờ ba năm trước đây có một chàng trai hình dáng cũng khôi ngô tuấn tú. Hắn nói là người ở núi Phúc Lăng, họ Trư, chẳng còn cha mẹ anh em, muốn xin ở rể nhà này. Tôi già yếu, thấy hắn là kẻ không dây không rễ như thế, nên đồng ý ngay. Khi mới đến, hắn cũng chăm chỉ lắm; ruộng đất cày bừa chẳng cần trâu bò; thu hoạch mùa màng chẳng cần hái liềm, sáng đi tối về, thế là cũng tốt lắm. Chỉ có một điều mặt mũi hắn hay thay đổi làm sao.

Hành Giả hỏi:

- Thay đổi thế nào? Cao lão thưa:
- Lúc mới đến, hắn là một người béo đen, sau biến ra một chàng ngốc mõm dài tai to, đằng sau gáy có lông mượt, thân thể thô lỗ đáng sợ, mặt mũi hình dáng giống như lợn vậy. Hắn ăn uống trông cũng rất khỏe, mỗi bữa ăn hết bốn năm đấu gạo, điểm tâm mỗi sáng cũng hết trăm bát cơm rang mới no. Cũng may là hắn chỉ toàn ăn chay, chứ lại uống rượu, ăn mặn nữa thì gia sản nhà tôi, chỉ nửa năm là hết sạch!

Tam Tạng nói:

- Nó làm khỏe thì phải ăn nhiều chứ! Cao lão nói:
- Ăn chỉ là việc nhỏ thôi. Hắn còn biết cả gọi gió kêu mưa, đi mây về mù, đá lở cát bay, khiến cho cả nhà tôi và hàng xóm không được yên ổn. Hắn nhốt con Thúy Lan ở nhà sau nửa năm nay rồi tôi chẳng được gặp mặt, chẳng biết con sống chết ra sao. Vì vậy tôi mới biết hắn là yêu quái, nên phải mời pháp sư trừ khử hắn.

Hành Giả nói:

- Việc ấy khó gì! Ông cứ yên tâm. Đêm nay tôi sẽ bắt nó, buộc nó viết tờ ly hôn, trả lại con gái cho ông, thế có được không?

Cao lão mừng lắm, nói:

- Tôi cho hắn gửi rể chưa được bao lâu, hắn đã làm hại thanh danh tôi, họ hàng thân thích xa lánh tôi, thế mà chỉ bắt hắn làm tờ ly hôn thôi ư? Phiền ngài trừ tận gốc cho.

Hành Giả nói:

- Dễ thôi, dễ thôi. Đến đêm khuya sẽ biết hay dở.

Ông già mừng lắm, lau chùi bàn ghế, dọn cơm chay, ăn xong, trời đã tối. Ông già nói:
- Ngài cần binh khí gì, và bao nhiêu người giúp sức, thì phải chuẩn bị sớm.

Hành Giả nói:

- Tôi có binh khí rồi. Ông già nói:
- Các ngài chỉ có cây gậy tích trượng thì đánh sao nổi yêu tinh?

Hành Giả rút trong tai cây kim thêu ra, mân mê trong tay, rồi đón gió múa tít, biến thành cây gậy sắt bịt vàng to bằng miệng bát, đoạn nói với Cao lão:

- Ông xem, cây gậy này so với binh khí nhà ông thế nào? Có đánh được con yêu ấy không?

Cao lão nói:

- Đã có binh khí rồi, còn phải có người đi theo nữa chứ? Hành Giả nói:
- Tôi không cần người, chỉ cần mấy cụ già tuổi cao đức trọng ngồi tiếp chuyện sư phụ tôi, thì mới yên tâm mà đi được. Đợi tôi đi bắt yêu quái về, lấy cung trước mặt mọi người, trừ tận gốc giúp ông.

Cao lão liền sai gia đồng mời mấy cụ là bạn thân cũ đến chơi. Chào hỏi xong, Hành Giả nói:

- Sư phụ cứ yên tâm ngồi chơi, lão Tôn đi đây! Đoạn, Hành Giả rút gậy sắt, níu lấy Cao lão nói:
- Ông dẫn tôi tới nhà sau, chỗ yêu tinh ở xem thế nào.

Cao lão bèn đưa Hành Giả đến trước cửa nhà sau. Hành Giả nói:

- Ông lấy chìa khóa ra.
Cao lão nói:

- Ngài xem, nếu có chìa khóa thì đã không cần mời ngài. Hành Giả cười, nói:
- Ông già này nhiều tuổi mà không biết đùa. Tôi đùa ông một tý mà ông đã tưởng thật.

Đoạn bước lên sờ thử thấy thấy đó là chiếc khóa mạ đồng, bèn giơ gậy sắt bịt vàng đập mạnh một cái. Cánh cửa bật mở. Bên trong tối om, Hành Giả nói:

- Ông gọi cô con gái một tiếng, xem cô ấy có trong này không?

Cao lão lấy sức gọi to:

- Thúy Lan con ơi!

Cô gái nghe thấy tiếng bố mình, bèn thều thào thưa:

- Bố ơi con ở đây.

Hành Giả giương mắt nhìn kĩ vào bóng tối xem cô gái hình dáng thế nào. Chỉ thấy:

Tóc mây như mớ bòng bong

Mặt hoa không rửa bụi trần lấm lem

Vẫn như xưa tấm lòng lan, Mười phân sắc đẹp nay tàn còn đâu! Đôi môi xám ngoét một màu
Lưng ong rũ xuống trông sầu xiết bao!

Mày ngài nhạt, mắt trũng sâu,

Gầy như que củi, thều thào tiếng oanh.

Cô gái bước lại, thấy Cao lão liền ôm chầm lấy khóc nức nở. Hành Giả nói:
- Đừng khóc vội, để tôi hỏi cô một câu đã, yêu quái đi đâu rồi?

Cô gái thưa:

- Tôi cũng chẳng biết nó đi đâu. Dạo này, cứ trời sáng là nó đi, tối mịt mới trở về. Nó đi như mây như gió, chẳng biết phương hướng. Nó biết cha tôi định đuổi đi, nên cũng phòng bị. Tối nó về sáng ra lại đi ngay.

Hành Giả nói:

- Thôi không cần nói nữa. Ông già đưa cô gái về nhà trước đi, thư thả nói chuyện sau, để lão Tôn ở đây đợi nó. Nếu nó không về thì ông đừng trách. Nếu nó về, tôi sẽ trừ tận gốc cho.

Cao lão mừng rỡ, đưa con gái ra ngoài.



Hành Giả hóa phép, lắc mình một cái, biến thành cô gái, ngồi một mình trong phòng đợi yêu tinh. Lát sau, một trận gió nổi
lên, cát bay đá lở:




Lúc đầu nhè nhẹ gió đưa,

Về sau nổi lốc mịt mờ mênh mang.

Lung lay chấn động càn khôn,

Bụi tung mù mịt không gian vô cùng.

Hoa rơi liễu đổ một vùng,

Rừng cây nghiêng ngả lật từng gốc cây.

Sóng biển lật, đá cát bay,

Quỷ thần sầu thảm, lung lay đất trời

Hươu nai quên cả lối rồi,

Vượn đang hái quả, ôi thôi mất hồn.

Bảy tầng tháp sắt Phật run,

Tràng phan tấm mặt, rách bươm lọng vàng.

Cột vàng trụ ngọc ngả nghiêng, Ngói bay loạn xị, như chim lìa đàn. Lái đò vội vã xuống thuyền,
Chèo đi lánh nạn cùng đàn lợn dê.

Thổ thần bỏ cả miếu thờ,

Long vương bốn biển lạy thưa Ngọc hoàng, Thuyền bè ngoài biển vỡ tan,
Biên cương thổi đổ một bên Trường Thành.

Trận  cuồng  phong  ào  tới,  một  yêu  tinh  từ  trên  không  hạ xuống, trông rất xấu xí: mặt đen lông ngắn, mõm dài tai to, mặc chiếc áo xanh chẳng ra xanh, chàm chẳng ra chàm, thắt một chiếc khăn vải hoa.
Hành Giả cười thầm, nghĩ:

- À ra hắn thế này!

Rồi cũng chẳng đón, chẳng hỏi, nằm trên giường già vờ ốm, miệng rên rỉ không ngớt. Yêu quái chẳng biết thật giả, bước lại gần, ôm chặt lấy định hôn. Hành Giả cười thầm, nghĩ:

- Hắn định ghẹo lão Tôn đây!

Bèn giả vờ nũng nịu, kéo cái mõm dài của yêu quái, tát yêu một cái, rồi bất ngờ đẩy nó ngã xuống chân giường. Yêu quái bò dậy, vịn vào thành giường nói:

- Nàng ơi, sao hôm nay nàng lại giận tôi thế?



Hành Giả nói:

- Giận gì mà giận! Yêu quái nói:
- Không giận, sao lại xô tôi ngã? Hành Giả nói:
- Tại sao chàng định giở trò hèn mạt ôm hôn tôi? Hôm nay, tôi hơi mệt, chứ như mọi khi, tôi khỏe, thì đã ra mở cửa đón chàng rồi. Thôi chàng cởi quần áo ra, đi ngủ đi!

Yêu quái không hiểu ý, bèn cởi áo ra. Hành Giả nhảy lên, ngồi trên chiếc thùng không. Yêu quái trèo lên giường sờ soạng như trước, nhưng chẳng thấy vợ đâu, bèn gọi:

- Nàng đâu rồi? Cởi áo đi ngủ thôi! Hành Giả nói:
- Chàng cứ ngủ trước đi, tôi còn đi tiểu đã!

Yêu quái cởi áo lên giường. Hành Giả bỗng nhiên thở dài, nói:

- Chán đời quá! Yêu quái hỏi:
- Nàng bực gì vậy? Tại sao lại chán đời? Từ khi tôi về nhà nàng, tuy có tốn ít cơm ăn trà uống, nhưng có ăn không bao giờ! Tôi từng quét nhà, thông cống, xới vườn, trồng ruộng cấy lúa, gây dựng cơ nghiệp. Ngày nay nàng được mặc gấm đeo vàng, bốn mùa hoa quả đẩy đủ, tám tiết rau dưa ngon lành, thế mà nàng còn bực mình, lại thở ngắn than dài, kêu chán đời nữa là cớ sao?

Hành Giả nói:

- Không phải như vậy. Hôm nay, bố mẹ tôi ở bên kia tường ném gạch ngói sang, chửi rủa tôi thậm tệ.

Yêu quái hỏi:

- Mắng chửi nàng thế nào?
Hành Giả đáp:

- Bố mẹ tôi bảo rằng tôi lấy chàng, chàng làm rể nhày này chẳng ra thể thống gì cả. Chàng thì mặt mũi xấu xí, chẳng đi lại với anh em rể, chẳng hề thăm nom họ hàng, mà cứ đi mây về gió như người ở đâu ấy, họ tên thì chẳng ai hay, làm bại hoại cả gia phong, nhơ nhuốc cả danh giá của bố mẹ. Vì vậy bố mẹ tôi mắng chửi, làm tôi buồn bực lắm!

Yêu quái hỏi:

- Tôi tuy xấu xí, nhưng muốn đẹp trai thì có khó gì. Lúc mới đến, tôi đã thưa chuyện cùng bố mẹ, bố mẹ bằng lòng cho tôi gửi rể cơ mà, hôm nay tại sao lại ăn nói như vậy? Nhà tôi ở động Vân Sạn, núi Phúc Lăng. Tôi lấy hình dạng mà đặt họ là Trư. Tên thật là Trư Cương Liệp. Nếu bố mẹ có hỏi, thì nàng cứ trả lời như thế!

Hành Giả mừng thầm, nghĩ:

- Yêu quái thực thà lắm! Chưa dùng đến hình phạt mà đã cung khai rõ ràng. Nhưng đã biết nơi ở, thì thế nào cũng bắt được hắn.

Hành Giả bèn nói:

- Bố mẹ định mời pháp sư đến bắt chàng đấy! Yêu quái cười, nói:
- Thôi ngủ đi nàng, mặc kệ bố mẹ. Tôi có tài biến hóa theo số Thiên Cương, lại có cây đinh ba chín răng. Hòa thượng pháp sư, đạo sĩ cũng không sợ. Ngay cả cho dù ông bố nàng có lòng
thành mời được Đăng ma tổ sư[117]


xuống hạ giới, thì ông ấy
cũng từng là chỗ quen biết với tôi, chẳng dám làm gì tôi đâu?

Hành Giả nói:

- Bố mẹ định mời Tề thiên đại thánh, đại náo thiên cung năm
trăm năm trước đến bắt chàng đấy.

Yêu quái nghe nói đến Tề thiên đại thánh đã có phần sợ hãi, nói:

- Vậy thì tôi phải đi thôi, hai ta không thành vợ chồng được rồi.

Hành Giả nói:

- Sao chàng lại đi? Yêu quái nói:
- Nàng không biết, Bật mã ôn đại náo thiên cung tài giỏi lắm, tôi sợ không địch nổi, tiếng tăm mất hết.

Nói xong, yêu quái bèn mặc quần áo, mở cửa đi ra, Hành Giả túm ngay lại, lấy tay vuốt lên mặt mình, hiện nguyên hình, quát:

- Yêu quái chạy đi đâu? Mau ngẩng đầu xem ta là ai?

Yêu quái quay lại nhìn, thấy Hành Giả nhe răng dẩu mõm, mắt lửa ngươi vàng, đầu tròn mặt lông, chẳng khác gì ông thiên lôi sống, thì sợ quá bủn rủn chân tay, giật đứt quần áo đánh soạt một tiếng, biến thành một trận cuồng phong trốn thoát.

Hành Giả vội vàng rượt theo, rút gậy sắt nhằm ngọn gió đánh xuống, yêu quái biến thành muôn đạo hào quang bay thẳng về núi. Hành Giả cưỡi mây đuổi theo sau quát:

- Chạy đi đâu! Nếu lên trời ta sẽ đuổi đến cung Đẩu Ngưu, xuống đất, ta sẽ đuổi tận địa ngục Uổng Tử.

Chà! Chẳng biết cuối cùng Hành Giả đuổi tới đâu, được thua thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ MƯỜI CHÍN


Động Vân Sạn, Ngộ Không thu Bát Giới, Núi Phù Đồ, Tam Tạng nhận Tâm Kinh
Lại nói chuyện yêu quái biến thành mấy tia lửa hồng chạy
thẳng, Ngộ Không cưỡi mây đuổi theo sau. Đang đi bỗng thấy một tòa núi cao, yêu quái kết tụ những tia lửa hồng lại, hiện nguyên hình, chạy tọt vào trong động, vác cây đinh ba chín răng xông ra đánh. Hành Giả quát:

- Yêu quái kia, nhà ngươi là ma quỷ ở đâu? Tại sao lại biết danh hiệu lão Tôn? Có tài gì hãy khai ra, ta sẽ tha chết cho!

Yêu quái nói:

- Nhà ngươi chưa biết tài nghệ của ta à? Lại đây, đứng cho vững mà nghe ta nói. Ta đây:

Từ nhỏ sinh ra vốn vụng về,

Ưa nhàn lười biếng chẳng làm chi. Chẳng thích tu tâm cùng dưỡng tính, Hỗn độn, ngu si sống thỏa thuê.
Bỗng hôm nhàn nhã gặp chân tiên, Hay dở đường tu, kể chuyện liền. Khuyên hãy quay đầu, đừng trụy lạc, Thương sinh thì sẽ chịu oan khiên. Một sớm lâm chung về địa phủ,
Tám nạn ba đường chẳng lối lên.
Ta nghe đổi ý xin tu luyện, Quyết chí vâng lời, học đạo tiên. Có phúc gặp người sư phụ giỏi, Chỉ cho địa quyết với thiên quan.
Luyện suốt đêm ngày, không biết mỏi,

[118]
Thầy lại truyền cho cửu chuyển đơn        .

Từ cung nê hoàn trên đỉnh thóp, Tới giữa bàn chân huyệt dũng tuyền.
[119]
Rồi từ thận thủy hoa trì nhập        ,

Đê mê dược bổ ấm đan điề   [120].

Thủy ngân, chì, âm dương phối hợp, Nhật nguyệt đôi vầng rõ rệt cho.
Ly rồng, Khảm hổ điều hòa khéo[121]

Rùa thiêng hút hết nước kim ô. Quy căn đỉnh thóp ba hoa nở,
Nguyên thông thấu triệt mây lành che.

Công thành danh toại lên trời ở, Người tiên từng cặp đón đưa về. Dưới chân bỗng hiện mây năm sắc, Kim khuyết cung tiên ở suốt đời. Ngọc Hoàng bày tiệc chư tiên họp, Khách mời, ai nấy đã chia ngôi.
Sắc phong nguyên soái quản thiên hà,
Tổng đốc thủy binh ấy chính ta! Tiệc Hội bàn đào Vương Mẫu đón Giữa tiệc Dao Trì, hóa xấu xa:
Tớ choáng hơi men say túy lúy, Lao đao chân bước, vẹo xiêu người. Cậy tài vào thẳng trong cung Quảng, Đón tớ: Tiên nga đẹp tuyệt vời.
Thấy họ, lòng đây mềm nhũn lại, Lòng phàm ý tục khó rào ngăn. Chẳng kể dưới trên, cao hay thấp, Túm chặt Hằng Nga định giở xằng. Hằng Nga vùng vẫy lòng không chịu. Đông Tây lảng tránh chẳng ưng nào. Mê gái điên người, tớ thét toáng,
Suýt nữa trời cao cũng đổ nhào. Củ soát linh quan tấu Ngọc Hoàng, Ngay ngày hôm ấy rất nguy nan. Quảng Hàn cung, binh trời vây chặt, Tiến thoái vô phương phải chịu hàng. Chư thần bắt trói giải luôn đi,
Rượu vẫn còn say tớ sợ gì!

Giải tới Linh Tiêu trình Thượng đế, Lệnh truyền: trảm quyết, luật từng ghi. May nhờ Thái Bạch Lý kim tinh,
Lạy xin ân xá thật chân tình.
Chỉ còn bị phạt hai nghìn gậy, Da bươm, thịt nát khắp thân hình. Phóng sinh đuổi khỏi chốn thiên quan, Xuống trần lập nghiệp Phúc Lăng sơn. Có tội đầu thai làm cửa lợn,
Nên Trư Cương Liệp ấy là tên.

Hành Giả nghe xong, nói:

- À, hóa ra nhà ngươi là Thiên Bồng thủy thần xuống hạ giới, thảo nào biết danh hiệu lão Tôn.

Yêu quái nói:

- Hừ, nhà ngươi chính là Bật mã ôn dối trời! Năm nào nhà ngươi gây tai họa, làm chúng ta khó nhọc biết chừng nào, sao hôm nay lại tới đây lừa người! Chớ có vô lễ, hãy nếm cây đinh ba của ta đây!

Hành Giả cũng đâu có chịu dung tha, vung gậy lên, nhắm đầu yêu quái đánh xuống. Hai bên đánh nhau trên sườn núi mãi tới đêm khuya. Trận đánh rất kịch liệt:

Hành Giả mắt trợn sáng choang, Yêu quái mắt quắc tựa làn hoa ngân. Một bên mù sắc thổi tung,
Một bên ráng đỏ phừng phừng phun ra.

Khí tuôn đêm tối sáng lòa, Miệng phun ráng đẹp nở hoa mây mù. Một gậy sắt, một đinh ba,
Cả hai tài giỏi thật là khó phân. Một người: Đại thánh xuống trần,
Một người: Nguyên soái trầm luân chân trời.

Một bên uy vũ hết thời,

Một bên may mắn gặp người thánh tăng.

Đinh ba ngang dọc như rồng,

Gậy sắt đón đỡ phượng hoàng vờn hoa.

Người nói: mi phá duyên ta, Khác nào giết bố, tội to nhất đời! Người nói: cưỡng gian gái người, Tội ấy phải trị tròn đời không tha! Cãi nhau ầm ĩ gần xa,
Đinh ba gậy sắt chạm va liên hồi.

Đánh nhau cho tới sáng trời, Hai tay yêu quái rụng rời buốt tê.
Hai bên đánh nhau từ canh hai cho mãi tới khi phương Đông trời sáng bạch. Yêu quái không địch nổi bỏ chạy, lại biến thành một trận cuồng phong vào thẳng hang động, đóng chặt cửa, không ra nữa. Hành Giả đứng ngoài của động nhìn thấy có tấm bia đề ba chữ “động Vân Sạn”, lại thấy yêu quái không ra, mà trời đã sáng rõ, trong bụng nghĩ thầm rằng:

- E sư phụ đợi, lâu phải trở về báo cho sư phụ biết đã, rồi quay lại bắt nó cũng không muộn.

Đoạn nhảy lên mây, trong giây lát, đã về tới thôn Cao lão.

Lại nói chuyện Tam Tạng trò chuyện cổ kim với mấy cụ già suốt đêm chẳng ngủ, đang mong Hành Giả thì đã thấy Hành Giả từ trên không hạ xuống, đứng ngay ngoài sân, Hành giả cất gậy sắt, sửa lại quần áo bước vào nói:

- Thưa sư phụ con đã về.
Mấy cụ già sợ hãi, đứng cả dậy cúi chào, nói:

- Ngài vất vả, khó nhọc quá! Tam Tạng hỏi:
- Ngộ Không, con đi suốt đêm, bắt được yêu quái ở đâu rồi? Hành giả đáp:
- Thưa sư phụ, yêu quái không phải là ma quỷ dưới trần, cũng không phải là yêu tinh trong núi. Hắn nguyên là Thiên Bồng nguyên soái giáng trần, chỉ vì đầu thai lầm, nên mặt mũi hình thù giống loài lợn, song linh tính vẫn còn. Hắn nói hắn lấy hình dạng mà đặt họ tên là Trư Cương Liệp. Bị lão Tôn rút gậy sắt đánh ngay ở nhà sau, hắn biến thành một trận cuồng phong trốn đi, Lão Tôn nhắm ngọn gió đánh một gậy, hắn lại biến thành những tia lửa hồng, chạy lọt vào động, vác cây đinh ba chín răng ra đánh nhau với lão Tôn suốt đêm. Khi trời sáng rõ, hắn khiếp đảm bỏ chạy vào động đóng chặt cửa không ra nữa. Lão Tôn định phá vỡ cửa, quyết cũng hắn một phen sống mái, nhưng sợ sư phụ thắc thỏm mong chờ, nên quay về báo tin đã.

Nói xong, thấy Cao lão bước lại gần, quỳ xuống nói:

- Thưa trưởng lão, gay lắm! Tuy ngài ấy đuổi được nó, nhưng khi các ngài đi rồi, nó quay lại thì làm sao? Phiền các ngài bắt nó, trừ tận gốc giúp tôi, thì mới tránh được hậu họa. Tôi không dám quên ơn, xin hậu tạ nhờ anh em bạn hữu viết tờ ước mang hết ruộng vườn gia sản chia đôi để tạ ơn trưởng lão. Chỉ mong các ngài nhổ cỏ nhổ cả rễ, khỏi tổn hại đến thanh danh nhà tôi.

Hành Giả cười, nói:

- Ông già này thật chẳng biết điều. Yêu quái có nói với tôi rằng: hắn tuy ăn khỏe, tốn cơm gạo nhà ông, nhưng cũng làm đỡ ông được khối việc. Mấy năm qua ông giàu có là nhờ sức của hắn cả. Hắn chưa từng ăn không của nhà ông, tại sao ông lại
muốn đuổi hắn. Cứ như hắn nói thì hắn là thiên thần giáng trần làm giàu cho nhà ông, lại chưa từng làm hại con gái ông. Tưởng được chàng rể như thế là môn đăng hộ đối lắm. Còn tổn hại thanh danh nỗi gì. Thật ra, cứ để hắn ở đây cũng được đấy!

Cao lão nói:

- Thưa trưởng lão, tuy không hại gì tới đạo đức, nhưng tiếng tăm đồn đại cũng không hay lắm. Hơi một tý người ta lại nói: “Nhà lão Cao có chàng rể là yêu tinh!” Những nước ấy, ngài bảo chịu sao nổi?

Tam Tạng nói:

- Ngộ Không, con đã giúp cụ đây một phen rồi, thì cũng nên giúp cho trọn, như thế mới là có trước có sau.

Hành Giả nói:

- Con đùa ông ấy một chút thôi. Lần này, con nhất định bắt bằng được con yêu quái về, đừng lo lắng nữa!

Rồi gọi:

- Cao lão này, ông hãy chăm nom sư phụ tôi cho chu đáo, để tôi đi chuyến nữa!

Vừa nói dứt lời, Hành giả đã biến mất dạng, nhảy phắt ngay tới ngọn núi, bước tới cửa động, vung gậy sắt nện một gậy làm hai cánh cửa nát vụn, rồi quát mắng:
- Đồ chết toi hèn mọn đâu rồi, mau ra đánh nhau với lão Tôn. Yêu quái đang ngủ, ngáy khò khò trong động, nghe tiếng cửa
vỡ và tiếng quát mắng đồ chết toi hèn mọn, bèn đùng đùng nổi
giận, vác ngay đinh ba, hùng hổ xông ra mắng mỏ một tràng:

- Thằng Bật mã ôn vô lại kia, ai trêu ghẹo nhà ngươi mà dám phá cửa lớn nhà ta? Nhà ngươi thử nghĩ tới pháp luật xem: “Ai phá cửa lớn mà vào thì sẽ bị tội tử hình” đấy!
Hành giả cười, nói:

- Đồ ngốc kia, ta phá vỡ cửa lớn còn có chỗ thanh minh. Còn nhà ngươi cưỡng chiếm con gái nhà người khác, chẳng có mối
lái cưới hỏi, chẳng có bánh kẹo rượu trà[122]


 thì mới thật là tội
đáng chết đó.

Yêu quái nói:

- Thôi đừng nói nữa, hãy nhìn cây đinh ba của lão Trư đây. Hành Giả vung gậy gạt ra, nói:
- Có phải cây đinh ba nhà ngươi làm công xới đất trồng rau cho nhà Cao lão không? Thế thì có gì đáng sợ?

Yêu quái nói:

- Nhà ngươi lầm rồi. Cây đinh ba này đâu phải là vật tầm thường. Hãy nghe ta nói đây:

Thứ này luyện bởi thép thần,

Công phu mài giũa sáng trưng một mầu.

Lão Quân rèn lấy trước sau,

Huỳnh Hoặc cũng nhận việc dấu cho than.

Ngũ phương Yết đế lo toan,

Lục Đinh, Lục Giáp coi làm tận nơi.

Chín chiếc răng ngọc rèn rồi,

Hai vòng đúc nữa vàng ngời sắc thanh.

Cán vẽ lục điệu ngũ tinh,

Bốn mùa tám tiết đủ hình không sai.

Ngắn dài gồm cả đất trời,

Âm dương, nhật nguyệt rạch ròi hai phương.
Sáu hào thần tướng theo đường, Tinh tú tám quẻ dọc ngang theo hàng. Đinh ba tên gọi rõ ràng,
Dâng lên thượng đế giữ cung nhà trời.

Đạo tiên đã học xong rồi,

Từ nay ta sẽ muôn đời trường sinh. Sắc phong nguyên soái Thiên Bồng, Đinh ba trao tặng lập công, rõ ràng.
Vung lên sáng rực hào quang,

Quất xuống gió nổi tầng tầng tuyết rơi.

Thiên lao thần tướng hồn bay,

Diêm vương địa phủ một bầy quét phăng.

Thế gian vũ khí nào bằng,

Trên đời không thép sánh cùng thép đây.

Tùy nghi biến hóa đông tây,

Theo lời khẩu quyết tung bay mặc lòng.

Bên ta đã mấy năm ròng,

Bạn ta thân thiết chưa từng chia ly.

Bữa ăn ta cũng mang đi,

Đêm ngủ ta chẳng cách ly chút nào.

Đã từng tới Hội bàn đào,

Vào chầu Thượng đế đem theo đi cùng.

Bởi chứng say rượu hành hung, Cậy tài khoe giỏi thiên công trị liền. Đẩy ta xuống dưới trần gian,
Tại đây tội ác rỡ càn gây thêm.

Động núi ăn thịt người hiền,

Lấy ngay gái đẹp giữa miền thôn Cao.

Cây đinh ba tuyệt làm sao!

Tổ rồng giữa biển lật nhào cuốn phăng, Phá tan hang hổ giữa rừng,
Mọi đồ binh khí xin đừng sánh ta.

Đinh ba tiếng nhất từ xưa,

Đánh nhau là thắng có thua bao giờ!

Lập công để tựa đánh cờ,

Chẳng cần phải nói chắc là người hay?

Dù ngươi đồng sắt cứng thay. Đinh ba đã giáng, hồn bay rụng trời!
Hành giả nghe xong, thu gậy sắt về, nói:

- Đồ ngốc, đừng nỏ mồm nữa! Lão tôn giơ đầu ra cho nhà ngươi bổ, xem có hồn bay phách tán không nhé?

Yêu quái vận hết sức, vung đinh ba bổ xuống, cây đinh ba tóe lửa sáng choang, nhưng đầu Hành Giả chẳng sướt một mảy da nào. Yêu quái bủn rủn chân tay, nói:

- Đầu cứng quá, đầu cứng quá!



Hành giả nói:

- Nhà ngươi không biết à? Khi lão Tôn náo động thiên cung ăn trộm tiên đơn, đào tiên, rượu ngự, bị tiểu thánh Nhị Lang bắt được, giải đến trước cung Đẩu Ngưu, các thiên thần từng trị nào là búa bổ, dùi đâm, nào là dao chém, kiếm chặt, nào là lửa thiêu, sét đánh, thế mà cũng chẳng đứt một sợi lông. Ta lại bị Thái Thượng láo quân bắt giam vào lò bát quái đốt bằng lửa thần, khiến ta thành người mắt lửa ngươi vàng, mình đồng da sắt. Không tin cho nhà ngươi bổ thêm vài nhát nữa, xem ta có đau không nào?

Yêu quái nói:

- Con khỉ kia, ta còn nhớ khi nhà ngươi đại náo thiên cung, nhà ngươi ở động Thủy Liêm núi Hoa Quả, nước Ngạo Lai, thuộc Đông Thắng Thần Châu, lâu lắm ta không nghe thấy tiếng tăm, làm sao bây giờ lại tới đây lừa ta? Hay là ông bố vợ ta đi
mời nhà ngươi tới?

Hành giả nói:

- Bố vợ nhà ngươi đâu có đi mời. Do lão Tôn cải tà quy chính, bỏ đạo theo tăng bảo vệ em vua nước Đại Đường bên phương Đông là pháp sư Tam Tạng sang phương Tây lễ Phật cầu kinh, dọc đường ghé vào thôn Cao Lão ngủ nhờ, nhân Cao lão kể chuyện ra, xin ta cứu hộ cô con gái và bắt lấy quân ăn hại nhà ngươi!

Yêu quái nghe nói như vậy, vội vàng vứt đinh ba, dạ một tiếng thật to, rồi nói:

- Người lấy kinh ở đâu? Phiền anh đưa tôi đến gặp mặt. Hành giả nói:
- Nhà ngươi định gặp làm gì? Yêu quái nói:
- Tôi vốn được đức Quan Âm bồ tát khuyến thiện, nhận giới hạnh của người, dặn tôi ở đây ăn chay giữ giới để sau này theo người lấy kinh sang phương Tây lễ Phật cầu kinh, lập công chuộc tội trở về với chính quả. Tôi đã đợi ở đây mấy năm ròng mà chẳng thấy tin tức gì. Hôm nay mới biết anh là đồ đệ của ngài, thế sao anh không nói sớm, chỉ cậy hung bạo đến đây đánh tôi.

Hành giả nói:

- Nhà ngươi chớ có trí trá lừa dối ta, hòng tìm kế thoát thân. Nếu nhà ngươi thực lòng muốn bảo vệ Đường Tăng, không chút dối trá thì hãy ngẩng mặt lên trời mà thề, thì ta mới dẫn đi gặp sư phụ ta.

Yêu quái vội vàng quỳ xuống, dập đầu lia lịa như giã gạo, nói:
- Nam mô A Di Đà Phật, nếu tôi không thành tâm thực ý, phạm vào tội trời, thì thân này bị băm làm muôn mảnh.

Hành Giả thấy hắn khấn vái thề nguyền, bèn nói:

- Đã như vậy, nhà ngươi hãy châm lửa đốt cháy hang động nhà ngươi ở, thì ta mới dẫn đi.

Yêu quái liền nhặt ngay những cây lau sậy, gai góc, châm lửa đốt trụi động Vân Sạn như một lò ngói vỡ, rồi nói với Hành Giả:

- Bây giờ tôi không còn vướng vít gì nữa nhé, anh dẫn tôi đi thôi!

Hành giả nói:

- Nhà ngươi đưa cây đinh ba lại đây ta xem.

Yêu quái nhặt cây đinh ba đưa cho Hành Giả. Hành Giả bèn nhổ một sợi lông, thổi phù rồi hô “biến”, tức thì sợi lông biến thành một dây chão tết ba, đoạn bước lại trói quặt tay yêu quái ra sau lưng. Yêu quái cũng quặt tay ra sau để mặc Hành Giả trói. Hành Giả túm lấy tai kéo đi, nói:

- Đi mau! Đi mau! Yêu quái kêu:
- Nhẹ nhẹ một chút, tay anh cứng lắm, nắm tai tôi đau quá! Hành giả nói:
- Nhẹ không xong được. Phải cẩn thận chứ! Người ta thường nói: “Lợn lành trói chặt” cơ mà. Đợi khi gặp sư phụ. Thấy quả thật nhà ngươi thực lòng ta mới thả.

Hai người đi trên mây về thẳng thôn Cao Lão. Có bài thơ làm chứng rằng:

Kim cứng khắc mộc dễ ghê, Vượn bắt rồng gỗ theo về như không.
Kim theo mộc thuận một lòng,

Kim nhâm mộc quý, nên cùng phát huy.

Chủ khách xoắn xuýt không chia, Tam giao tam hợp huyền vi vô cùng. Tính tình đủ hỉ, trinh, nguyên,
Tây phương chứng quả rõ ràng chẳng sai.

Trong khoảnh khắc đã về tới thôn Cao Lão. Hành Giả cắp cây đinh ba, túm tai yêu quái nói:

- Nhà ngươi biết người ngồi ngay ngắn giữa sảnh đường kia là ai không? Chính sư phụ ta đó.

Cao lão và mấy người bạn thân thiết chợt thấy Hành Giả bắt được yêu quái, trói chặt túm tai điệu về, ai nấy mừng rỡ chạy ra ngoài sân nói:

- Thưa trưởng lão, hắn đúng là con rể tôi đấy!

Yêu quái chạy lại, tay vẫn bị trói chặt ra sau, quỳ hai gối xuống đất, dập đầu lạy Tam Tạng, nói lớn:

- Thưa sư phụ, đệ tử thất lễ không kịp đón tiếp, nếu biết sớm sư phụ nghỉ ở nhà bố vợ con, thì con đến đón tiếp rồi, chứ đâu có rắc rối như thế này!

Tam Tạng nói:

- Ngộ Không, con làm thế nào mà hàng phục được hắn, dẫn hắn về đây lạy tạ.

Lúc ấy, Hành Giả mới buông tay, cầm cán cây đinh ba gõ vào người yêu quái, nói:

- Chú ngốc, hãy nói đi!

Yêu quái kể tỉ mỉ chuyện Bồ tát khuyến thiện một lượt. Tam Tạng mừng, bèn gọi:
- Cụ Cao ơi, mang hương án ra đây có việc!

Cao  Lão  vội  mang  hương  án  ra.  Tam  Tạng  rửa  tay,  thắp hương, ngoảnh về hướng Nam cúi đầu chắp tay khấn:

- Đa tạ đức Bồ tát!

Mấy cụ già cũng đốt hương vái lạy theo.

Lễ xong, Tam Tạng vào nhà khách ngồi, bảo Ngộ Không cởi trói cho yêu quái, Hành Giả rùng mình một cái, thu lông lên người, sợi thừng tự rời ra. Yêu quái lại cúi lạy Tam Tạng, xin đi theo sang phương Tây. Đoạn lại quay sang lạy Hành Giả, coi Hành Giả đến trước là anh và gọi là sư huynh.

Tam Tạng nói:

- Đã theo thiện quả và xin làm đồ đệ của ta, vậy ta đặt cho một pháp danh để sớm tối gọi cho tiện.

Yêu quái nói:

- Thưa sư phụ, con đã được Bồ tát xoa đầu thụ giới, đặt cho con pháp danh là Trư Ngộ Năng rồi ạ.

Tam Tạng cười nói:

- Tốt, tốt! Sư huynh con tên là Ngộ Không, con là Ngộ Năng, cùng đều thuộc tông phái trong pháp môn ta cả.

Ngộ Năng nói:

- Thưa sư phụ, con đã nhận giới hạnh của Bồ tát đoạn tuyệt
[123]
với ngũ huân, tam yếm

, ở nhà bố vợ ăn chay giữ giới,
không bao giờ ăn mặn, nay gặp sư phụ, con xin phá giới một bữa.

Tam Tạng nói:

- Không được, không được! Con đã không ăn mặn rồi, vậy thì ta đặt cho con một tên nữa là Bát Giới nhé!
Chú ngốc mừng quá, nói:

- Xin tuân lệnh sư phụ.

Từ đấy, chú ngốc lại có tên là Trư Bát Giới.

Cao lão thấy con yêu quái, cải tà quy chính thì mừng lắm, sai người nhà bày tiệc cảm tạ Đường Tăng. Bát Giới bước lên, níu lấy Cao lão nói:

- Nhạc phụ ạ, xin nhạc phụ cho vợ con ra chào ông và bác đây!

Hành Giả cười nói:

- Này hiền đệ, chú đã theo vào hàng sa môn làm hòa thượng, thì từ nay không được nói “vợ tôi” nữa, Thế gian còn thấy đạo sĩ lấy vợ chứ ai thấy sư lấy vợ bao giờ đâu. Chúng ta hãy ngồi vào bàn theo thứ tự, ăn bữa cơm chay rồi lên đường sang phương Tây cho sớm.

Cao lão trải bàn mời Tam Tạng ngồi trên. Hành Giả, Bát Giới ngồi hai bên cạnh, còn người nhà thân thuộc ngồi dưới. Cao lão mở chai rượu thuần khiết rót một chén đầy lễ trời đất, sau đó bưng mời Tam Tạng. Tam Tạng nói:

- Chẳng giấu gì ông, bần tăng chỉ ăn chay thôi, từ nhỏ chưa hề ăn mặn bao giờ.

Cao lão nói:

- Vẫn biết trưởng lão chỉ dùng thức chay, chưa từng ăn mặn, nhưng đây là thứ rượu thuần khiết, uống một chén cũng không hại gì.

Tam Tạng nói:

- Không dám. Rượu vốn là điều kiêng thứ nhất của nhà sư đấy.

Ngộ Năng hốt hoảng nói:
- Sư phụ ạ, con từ khi ăn chay cũng vẫn không bỏ được rượu. Ngộ Không nói:
- Lão Tôn tửu lượng kém, tuy không uống hết một chum, nhưng cũng chưa bỏ rượu bao giờ.

Tam Tạng nói:

- Đã vậy, thì hai anh em uống một chút rượu thuần khiết ấy cũng được. Nhưng chớ có uống say quá mà hỏng việc.

Thế là hai người nhận lấy chén rượu. Còn ai nấy ngồi theo chỗ của mình ăn uống. Nói sao hết được cỗ bàn thừa thãi, rượu thịt ngon lành!

Thầy trò ăn xong, Cao lão bưng ra một khay sơn son đặt hai trăm lạng bạc vụn, để ba người dùng làm tiền đi đường. Lại mang ra ba chiếc áo bông để ba người khoác ngoài. Tam Tạng nói:

- Chúng tôi là những nhà sư lang thang, qua thôn xin ngủ, gặp nhà xin ăn, đâu dám nhận vàng bạc, lụa là!

Hành Giả bước đến gần, thò tay bốc một nắm bạc, gọi:

- Cao Tài ơi, hôm qua phiền anh dẫn thầy trò tôi. Nay lại có thêm được một đồ đệ nữa, chẳng có gì tạ ơn anh, gọi là có chút bạc vụn này, anh cầm tạm mua lấy một đôi giày cỏ mà đi. Sau này nếu có yêu tinh, anh lại mách dùm tôi mấy đứa, là tôi lại có quà tặng anh đấy.

Cao Tài nhận lấy và cúi đầu lạy tạ. Cao lão lại nói:
- Các vị trưởng lão không nhận tiền bạc thì thôi cũng được, nhưng xin nhận cho mấy tấm áo choàng này, gọi là tấm lòng thành…

Tam Tạng nói:
- Chúng tôi là người xuất gia, nếu ăn hối lộ một sợ tơ, sợi tóc nào, thì nghìn kiếp cũng không tu được. Chỉ xin ông một ít bánh thừa ăn không hết kia, làm lương khô ăn trên đường là đủ.

Bát Giới đứng ở bên cạnh, nói:

- Sư phụ và sư huynh ạ, chúng ta không nên từ chối. Mấy năm tôi làm rể nhà này, thì số lương mang đi đường phải đến ba
[124]
ngàn cân

 ấy chứ?

Rồi nói với Cao lão:

- Nhạc phụ ạ, tấm áo của con đêm qua bị sư huynh túm rách rồi, cho con một chiếc áo cà sa bằng gấm xanh, đôi giày cũng hỏng rồi, cho con một đôi giày mới.

Cao lão nghe nói không dám chối từ, bèn mua ngay một đôi giày mới và một chiếc áo ngắn để Bát Giới thay lấy bộ quần áo cũ.

Bát giới xúng xính dạ một tiếng rồi nói với Cao lão:

- Con gửi lời chào nhạc mẫu và mọi người thân thích trong nhà. Hôm nay con đi làm hòa thượng không kịp chào hỏi tạm biệt, xin đừng trách cứ. Về phần nhạc phụ, con mong nhạc phụ trông nom vợ con chu đáo. Nếu công việc lấy kinh không thành, thì còn sẽ hoàn tục về đây, lại làm con rể của nhạc phụ và sinh sống như trước.

Hành giả quát luôn:

- Đồ khốn, chớ có ăn nói hồ đồ như thế! Bát giới nói:
- Không phải hồ đồ đâu. Chỉ sợ nhất thời lỡ xảy ra điều gì thì hỏng cả việc làm hòa thượng, hỏng cả việc lấy vợ, xôi hỏng bỏng không thì sao?

Tam Tạng nói:
- Thôi, không nói lôi thôi nữa, mau lên đường cho sớm.

Rồi hai người thu xếp hành lý. Bát Giới gánh hành lý trên vai. Tam Tạng cưỡi ngựa bạch, Hành Giả vác gậy sắt đi trước dẫn đường. Một đoàn ba người, từ biệt Cao lão và mọi người, tiếp tục lên đường sang phương Tây. Có bài thơ làm chứng rằng:

Trời đất rừng cây sắc khói hồng, Đương triều Phật tử khổ vô cùng.
Đổi ăn một bát cơm thiên hạ, Rét buốt nhìn kim áo lạnh lùng.
Ý ngựa buông tuồng đừng thả sổng, Lòng hầu ngỗ ngược phải dày công. Tính tình đã định muôn duyên hợp, Rực rỡ trăng tròn lúc đổ lòng.
Ba người lên đường sang phương Tây, đi được một tháng bình yên vô sự. Khi đi qua địa giới nước Ô Tư Tạng, chợt ngẩng đầu, họ thấy một tòa núi cao. Tam Tạng gò cương, đứng ngựa nói:

- Ngộ Không, Ngộ Năng này, đằng trước có ngọn núi cao phải cẩn thận, cẩn thận!

Bát Giới nói:

- Không sao, đấy là núi Phù Đồ, trong núi có thiền sư Ô Sào tu hành, con đã từng gặp ngài mà.

Tam Tạng hỏi:

- Nhà sư ấy là người thế nào? Bát Giới thưa:
- Cũng là mọt nhà sư có đức hạnh. Ngài từng khuyên con theo ngài tu hành nhưng con không nghe.
Thầy trò mải trò chuyện, chẳng mấy chốc đã tới chân núi. Ngọn núi tuyệt dẹp. Chỉ thấy:

Phía nam tùng trắc một vùng,

Phía bắc liễu biếc, đào hồng chen nhau.

Líu lo chim hót vui sao,

Hạc tiên múa lượn, dập dìu từng đôi.

Hoa rừng hương ngát nơi nơi,

Cỏ thơm mơn mởn tuyệt vời xa xăm.

Dưới khe nước chảy rì rầm,

Sườn non lớp lớp mây vòng uốn quanh.

Cảnh trí u nhã thanh thanh,

Bốn bề bát ngát vắng tanh bóng người.

Sư phụ ngồi trên ngựa nhìn ra xa, thấy phía trên cây gội hương có một cái tổ bằng cành cây ghép lại, bên trái hươu nai ngậm hoa, bên phải khỉ dâng trái. Trên ngọn cây, loan xanh phượng tía hót vang, gà gấm hạc đen tụ tập. Bát Giới, chỉ tay nói:

- Thiền sư Ô Sào ở đó!

Tam Tạng vung roi thúc ngựa đến thẳng gốc cây.

Lại nói thiền sư thấy ba người tiến lại, lập tức rời khỏi tổ, nhảy xuống gốc cây. Tam Tạng xuống ngựa cúi chào, Thiền sư đỡ dậy nói:

- Xin mời thánh tăng đứng dậy. Tôi có lỗi không kịp đón. Bát Giới nói:
- Xin kính chào lão thiền sư. Thiền sư ngạc nhiên, hỏi:
- Nhà ngươi là Trư Cương Liệp ở núi Phúc Lăng, sao có phúc lớn được cùng đi với thánh tăng?

Bát Giới thưa:

- Năm ngoái đội ơn đức Quan Âm khuyến thiện, nguyện theo người làm đồ đệ.

Thiền sư vui mừng nói

- Tốt lắm! Tốt lắm.

Lại chỉ Hành Giả, nói:

- Vị này là ai? Hành Giả cười nói
- Lão thiền sư nhận ra Bát Giới mà không nhận ra tôi à? Thiền sư nói:
- Ít quen biết lắm! Tam Tạng nói:
- Hắn là đồ đệ của tôi, tên gọi Tôn Ngộ Không. Thiền sư cười ngất, nói:
- Thật khiếm lễ, khiếm lễ.



Tam Tạng lạy thiền sư hai lạy và hỏi chùa Đại Lôi Âm bên phương Tây ở đâu. Thiền sư đáp:

- Còn xa lắm! Còn xa lắm! Đường đi nhiều hổ báo, khó đi lắm.

Tam Tạng ân cần, hỏi thêm:

- Đường đất còn độ bao xa? Thiền sư đáp:
- Đường tuy xa, nhưng ắt có ngày đi đến nơi. Nhưng ma quỷ, lam chướng khó trừ, ta có quyển Đa tâm kinh này, gồm năm mươi bốn câu, khoảng hai trăm bảy mươi chữ. Khi nào gặp ma quỷ, lam chướng, niệm kinh này thì sẽ không bị hại gì.

Tam Tạng cúi đầu sát đất cầu xin, Thiền sư bèn đọc kinh truyền cho, kinh rằng:

- “Đức Quán tự tại Bồ tát tu hành pháp Bát nhã ba la mật đa,
[125]
khi đã sâu sắc rồi, thấy năm
được mọi nổi khổ ách.

[126]

  uẩn đều là không, giải thoát
Bấy giờ, Xá Lị Tử
rằng:

  có hỏi Bồ tát về phép ấy. Bồ tát đáp

- Này người Xá Lị Tử, sắc không khác không, không không khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc, và thụ tưởng, hành, thức cũng đều như thế.

Này người Xá Lị Tử, cái không tưởng của các pháp nó chẳng sinh,  chẳng  diệt,  chẳng  bẩn,  chẳng  sạch,  chẳng  tăng,  chẳng giảm. Bởi vậy, trong cái không ấy, không có sắc, thụ, tưởng,

:
[129]

[128]:
không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp

: không có nhãn
giới, cả đến ý thức giới[130]


cũng không có; không có “vô
minh”, và cũng không có cả “vô minh diệt tận”[131]


  cả đến
[132]
“lão tử” và “lão tử diệt tận”

 cũng không có; không có “trí”
cũng không có “đắc”, bởi lẽ không có cái gì là “sở đắc” cả.

Các vị Bồ tát y theo phép Bát nhã ba la mật đa ấy mà tu hành cho nên tâm không trở ngại. Bởi không trở ngại, cho nên không sợ hãi, xa lánh được hết mọi sự điên đảo mộng tưởng, cuối cùng đạt được trạng thái niết bà   [133]

[134]
Các vị Phật trong ba đời

, y theo phép Bất nhã ba la mật
đa ấy mà tu hành, cho nên đạt tới bậc “vô thượng chánh đẳng chánh giác”[135]

Vì thế có thể nói rằng: phép Bát nhã ba la mật đa là một bài
chú đại thần[136]

 bài chú đại minh, bài chú vô thượng[137]


 bài
;                                                                    ,
[138]
chú vô đẳng đẳng
thực không giả dối.

, có thể giải trừ mọi nỗi khổ ách, chân

Vì thế, bài chú Bát nhã ba la mật đa tức là:

“Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha”[139]

Khi ấy, vị pháp tăng nhà Đường vốn đã có căn nguyên, tai nghe một lượt quyển Đa tâm kinh là nhớ ngay, đến nay kinh ấy vẫn còn truyền ở đời. Ấy là bộ kinh tóm tắt về việc chân tu, hội môn thành Phật vậy.

Thiền sư truyền kinh xong, đạp mây định bay lên tổ quạ, bị
Tam Tạng níu lại hỏi về đường sang phương Tây thế nào.

Thiền sư cười, nói:

Đường đi thì chẳng khó, Hãy nghe ta dặn đây: Nghìn sông sâu núi cao, Nhiều yêu ma quỷ quái. Dù non cao vời vợi,
Yên lòng chớ sợ run. Đi tới Ma Nhĩ Nham, Nghiêng bàn chân mà bước. Rừng Hắc Tùng phía trước, Các yêu ra chặn đường.
Yêu tinh đầy khắp thành, Ma vương đầy khắp núi.
Công đường hổ ngồi đợi, Chủ bạ là sói lang.
Sư tử voi xưng vương, Hổ, báo làm thống soái. Lợn lòi gánh đồ đạc,
Thủy quái phía trước chờ.

Lâu năm khỉ đá già, Đang nổi cơn thịnh nộ. Nên hỏi người quen cũ, Họ biết đường sang Tây.
Hành giả nghe xong cười nhạt nói:

- Chúng ta đi thôi, việc gì phải hỏi ông ấy, cứ hỏi tôi đây là xong.

Tam Tạng còn chưa hiểu ý ra sao, thấy thiền sư đã hóa thành vầng hào quang bay lên tổ quạ, bèn ngẩng lên vái lạy tạ ơn. Hành Giả trong lòng bực lắm vung gậy sắt khua tán loạn phía trên, song chỉ thấy:

Sen vàng nở muôn đóa

Mây đẹp che nghìn vòng.

Hành Giả dù cố sức lật sông dốc biển cũng không sao kéo nổi, dù chỉ là một sợi mây ở tổ quạ. Tam Tạng thấy vậy ngăn Hành Giả lại, nói:

- Ngộ Không, đây là một vị Bồ tát, con định phá tổ là nơi ở của ngài chăng?

Hàng Giả nói:

- Ông ấy mắng chửi anh em chúng con còn gì?
Tam Tạng nói:

- Ngài giảng giải đường sang phương Tây đấy chứ, đâu có mắng chửi các con.

Hành giả nói:

- Sư phụ đâu có hiểu! Ông ấy nói: “Lợn rừng gánh đồ đạc” là mắng Bát Giới, “Lâu năm khỉ đá già” là chửi lão Tôn. Sư phụ đâu biết được ý ấy.

Bát Giới nói:

- Xin sư huynh nguôi giận, ngài thiền sư ấy hiểu được mọi việc trong quá khứ và tương lại. Nhưng ngẫm câu ông ấy nói “Thủy quái phía trước chờ” thì không biết có nghiệm không? Thôi, hãy tha cho ông ấy.

Hành giả nhìn thấy mây lành, hoa sen quấn quýt biến thành tổ quạ, đành mời sư phụ lên ngựa, xuống núi tiếp tục sang phương Tây. Chuyến đi này:

Bởi chưng phúc đức nhân gian ít, Thành thử yêu ma rừng núi nhiều.
Cuối cùng, không biết đoạn đường sắp tới ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ HAI MƯƠI

Núi Hoàng Phong, Đường Tăng gặp nạn, Giữa rừng thâm, Bát Giới lập công Pháp vốn theo tâm sinh,
Và cũng theo tâm diệt. Sinh diệt vốn từ đâu? Phải tự mình phân biệt.
Tất cả ở tâm ta,

Cần gì người khác biết. Chỉ cần nhiều công phu, Vặn sắt cho ra huyết.
Thừng nhung xuyên qua mũi, Buộc vào chỗ hư không. Buộc vào chốn vô vi,
Quyết tu tâm ráo riết. Chờ nhận giặc làm con, Tâm, pháp đều quên hết, Chớ để nó lừa mình,
Dùng quyền đánh cho chết.

Hiện tâm là vô tâm,

Hiện pháp, pháp ngừng triệt.

Bài kệ trên chính là do pháp sư Huyền Trang làm ra đã triệt
để giác ngộ quyển Đa tâm kinh, lòng dạ được khai sáng. Vì trưởng lão luôn luôn tụng niệm giữ gìn, nên chỉ một điểm linh quang cũng thấu tỏ cả.

Lại nói chuyện ba thầy trò đi đường ăn gió nằm sương, đeo trăng đội sao, đi đường chẳng bao lâu trời đã sang tiết hè nóng nực, chỉ thấy:

Hoa tàn bướm hững hờ, Cây cao rộn tiếng ve.
Lửa lựu hoa lập lòe, tấm cuộn tổ, Dưới hồ sen nở, ngát hương đưa.
Một hôm đang đi, bóng chiều đã xuống, họ thấy một thôn trang bên rìa đường, Tam Tạng nói:

- Ngộ Không ơi, con trông kìa: Phương Tây mặt trời đã khuất núi, phương Đông trăng hiện tỏ gương nga, may quá ven đường lại có nhà dân, chúng ta mau vào ngủ nhờ một đêm, sáng mai lại lên đường.

Bát Giới nói:

- Sư phụ nói đúng lắm! Lão Trư cũng đói bụng rồi, vào tạm nhà dân xin cơm chay ăn, thì mới có sức gánh hành lý chứ.

Hành Giả nói:

- Đồ ma quỷ nhớ nhà! Mới xa nhà được vài hôm mà đã càu nhàu rồi!

Bát Giới nói:

- Ông anh ơi, bì làm sao được với ông anh đã quen ăn gió nằm sương. Tôi đi theo sư phụ mấy hôm nay đã đói lử ra rồi, ông anh có biết không?

Tam Tạng nghe vậy, nói:
- Ngộ Năng này, tình nhà ở con còn nặng, không phải là người xuất gia, vậy hãy quay về đi thôi.

Chú Ngốc sợ quá, quỳ xuống thưa:

- Sư phụ đừng nghe lời anh Ngộ Không. Anh ấy nói ngoa lắm. Con có ấm ức gì đâu mà anh ấy bảo con ấm ức, con bụng dạ thật thà, mới nói là đói bụng tìm nhà dân xin cơm ăn, mà anh ấy đã mắng con là đồ quỷ nhớ nhà rồi. Sư phụ ạ, con đã chịu giới hạnh của Bồ tát, lại được sư phụ thương yêu, tình nguyện hầu hạ sư phụ sang phương Tây, con thề không chút chùn bước. Như vậy đã được gọi là “tu hành khổ hạnh”, sao sư phụ lại nói con không phải là người xuất gia?

Tam Tạng nói:

- Đã như thế, thì thôi, con đứng dậy đi!



Chú Ngốc đứng dậy, miệng lầm bà lầm bầm, quẩy gánh hành lý cố sống cố chết đi theo. Chẳng mấy chốc đã tới một cổng nhà
dân bên rìa đường, Tam Tạng xuống ngựa. Hành Giả đón lấy cương, Bát Giới đặt hành lý xuống, ai nấy đứng nghỉ cả dưới bóng cây. Tam Tạng chống gậy tích trượng chín vòng, sửa lại quần áo, bước vào phía cổng, thấy một cụ già ngồi dựa trên chiếc giường tre, miệng lầm rầm niệm kinh. Tam Tạng không dám cao giọng, rón rén bước tới gần nhỏ nhẹ:

[140]
- Chào cụ ạ        .

Cụ già vội bước xuống giường, sửa lại quần áo, ra cửa đáp lễ:

- Không dám, xin chào trưởng lão. Ngài từ đâu tới đây? Đến cửa nhà tôi có việc gì?

Tam Tạng đáp:

- Bần tăng là nhà sư nước Đại Đường bên phương Đông, vâng mệnh nhà vua sang chùa Lôi Âm bên phương Tây lễ Phật cầu kinh, đi tới đây thì trời vừa tối, xin cụ làm ơn cho ngủ nhờ một đêm.

Cụ già xua tay lắc đầu, nói:

- Không đi được đâu. Sang phương Tây lấy kinh khó lắm. Nên quay về phương Đông mà lấy kinh thôi.

Tam Tạng không nói, trong bụng trầm ngâm nghĩ ngợi.

- Bồ tát đã bảo sang phương Tây, sao ông già này lại bảo là quay về phương Đông? Phương Đông làm gì có kinh?…

Rồi ngập ngừng băn khoăn không đáp.

Hành Giả sẵn tính ương ngạnh nóng nảy, chịu không nổi, bước tới quát to:

- Ông già kia nhiều tuổi mà chẳng hiểu gì cả. Chúng tôi là những người xuất gia từ phương xa tới ngủ nhờ, sao lại nói những lời gở dọa chúng tôi. Nếu nhà ông chật chội không có chỗ ngủ, thì chúng tôi ngồi dưới gốc cây một đêm cũng xong,
không phiền gì đến ông.

Cụ già túm chặt lấy Tam Tạng, nói:

- Sư phụ ơi, sao ngài không nói gì, mà người đồ đệ má lõm, mồm nhọn, mắt đỏ như con ma ốm kia, lại nổi khùng với người già thế?

Hành Giả cười, nói:

- Ông già này thực không có mắt! Đẹp mã chỉ để ngắm chứ có ăn được đâu. Lão Tôn tuy nhỏ, nhưng rắn chắc như một cục gân.

Cụ già nói:

- Chắc anh có chút tài nghệ gì. Hành Giả nói:
- Không dám khoe, rồi ông sẽ rõ. Cụ già hỏi:
- Quê anh ở đâu? Tại sao lại cắt tóc đi tu? Hành Giả đáp:
- Quê quán Lão Tôn ở động Thủy Liêm, núi Hoa Quả, nước Ngạo Lai, thuộc Đông Thắng Thần Châu. Từ nhỏ đã học làm yêu quái, tên gọi là Ngộ Không, có tài làm đến Tề thiên Đại Thánh. Do chẳng nhận lộc trời, làm phản ở thiên cung, gây nhiều tội ác, nay tai qua nạn khỏi, quay đầu làm sa môn, cầu mong chính quả, bảo vệ sư phụ nhà Đường sang phương Tây lễ Phật cầu kinh, sá gì non cao dặm thẳm, biển rộng sóng to! Lão Tôn đây đã từng bắt tróc yêu quái, phục hổ hàng rồng, cả những việc lên trời xuống đất, lão Tôn cũng làm được tất. Nếu nhà ta
đây có ma mãnh quấy phá[141]


 lão Tôn sẽ trừ cho.

Cụ già nghe xong, cười khà khà, nói:
- Té ra anh chỉ là một hòa thượng bẻm mép. Hành Giả nói:
- Có nhà ông bẻm mép thì có! Mấy hôm nay, đi theo sư phụ mệt lử, hơi đâu mà nói dai.

Cụ già nói:

- Ấy là mệt lử, không nói dai, chứ không thì anh đã quát tháo tôi rồi. Anh đã có tài như vậy thì sang phương Tây được đấy, được đấy! Thế tất cả có mấy người? Xin mời vào trong nhà nghỉ ngơi.

Tam Tạng nói:

- Cảm tạ cụ có lòng thương, chúng tôi có ba người. Cụ già nói:
- Còn người nữa đâu? Hành Giả chỉ tay, nói:
- Ông già mắt hoa rồi, chả phải còn người nữa ngồi dưới gốc cây gì kia?

Cụ già mắt hoa thật. Khi ngẩng đầu nhìn kỹ thấy Bát Giới mặt mũi như thế thì sợ quá, vừa chạy vừa ngã nhào vào trong nhà, kêu:

- Đóng cửa! Đóng cửa! Yêu quái đến! Hành Giả đuổi theo, túm lấy, nói:
- Ông già đừng sợ, hắn không phải là yêu quái đâu, là đồ đệ của sư phụ tôi đây.

Cụ già sợ run, nói:

- Thế ạ, thế ạ! Hòa thượng gì mà người nào cũng xấu thế. Bát Giới đến gần, nói:
- Thưa cụ, nếu cụ lấy tướng mạo xét người thì hoàn toàn sai
lầm. chúng tôi xấu thật, nhưng được việc lắm.

Cụ già đang trò chuyện với ba người ngoài cổng, thì thấy ở mé Nam thôn có hai người trẻ tuổi, một bà cụ già và ba bốn đứa trẻ. Họ thấy một con ngựa bạch, một gánh hành lý, và mấy người đang ồn ào trước cửa, chẳng cần biết mô tê ra sao, đều ùa cả lại, hỏi:

- Có chuyện gì vậy?

Bát Giới quay đầu lại, đôi tai vẫy vẫy, cái mõm dài dẩu ra, thì mọi người sợ quá bỏ chạy tán loạn, vấp ngã lung tung. Tam Tạng vội vàng gọi lại.

- Đừng sợ! Đừng sợ! chúng tôi không phải là người xấu đâu, mà là những nhà sư đi lấy kinh thôi!

Cụ già ra ngoài cổng đỡ cụ bà dậy, nói:

- Bà dậy nào, đừng sợ, sư phụ đây từ nước Đại Đường tới đây. Chỉ có đồ đệ của ngài mặt mũi xấu xí một chút, nhưng lòng họ tốt. Bà hãy gọi các con về đi.

Lúc ấy, bà cụ mới níu lấy ông cụ, còn hai người trẻ mới dẫn các em đi vào.

Tam Tạng ngồi trên chiếc giường tre trong nhà, nói:

- Chỉ tại hai đồ đệ mặt mũi xấu xí, ăn nói thô lỗ, làm cả nhà sợ chết khiếp, làm ta thêm tội nghiệp.

Bát Giới nói:

- Chẳng giấu gì sư phụ, lão Trư này từ ngày đi theo sư phụ, đã bảnh trai lên nhiều đấy. Cứ như khi ở nhà Cao lão, con mà dẩu mõm, vẫy tai thì hai ba chục người phải ngất xỉu.

Hành Giả cười, nói:

- Chú ngốc đừng ăn nói lung tung, hãy dấu cái mặt xấu đi một chút nữa.
Tam Tạng nói:

- Con nghe Ngộ Không nói kìa! Tướng mạo là do tự nhiên sinh thành, con bảo nó dấu làm sao được?

Hành Giả nói:

- Hãy giấu cái mõm như răng bừa ấy vào ngực, đừng có dẩu ra nữa. Còn đôi tai như cái quạt giấy thì quặt ra sau gáy, đừng ve vẩy nữa, thế nghĩa là giấu chứ sao!

Bát Giới thật thà đành giấu mõm, quặt tai đứng hầu bên cạnh sư phụ. Hành Giả gánh hành lý vào cửa buộc ngựa vào gốc cây.

Cụ già dẫn một cậu bé, tay bưng chiếc khay đặt ba chén trà lại mời. Uống trà xong, cụ lại dặn dò chuẩn bị cơm chay. Cậu bé bê chiếc bàn mộc cũ kĩ đã thủng một lỗ, và hai chiếc ghế bong mặt long chân kê ngoài sân, mời ba thầy trò ngồi hóng mát. Tam Tạng bấy giờ mới hỏi:

- Cụ họ gì? Cụ già đáp:
- Tôi họ Vương.

- Cụ được mấy con cháu tất cả?

- Tôi có hai thằng con và đứa cháu nhỏ. Tam Tạng nói:
- Quý hóa quá! Quý hóa quá! Thế năm nay cụ bao nhiêu tuổi? Cụ già đáp:
- Tôi mới sáu mốt.

Hành Giả nói:

[142]
- Quý quá, thế là “hoa giáp trùng phùng” đấy.

Tam Tạng lại hỏi:
- Lúc nãy cụ bảo sang phương Tây lấy kinh khó lắm, là vì sao?

Cụ già đáp:

- Kinh thì chẳng khó, nhưng đường đi thì khó lắm. Về phía Tây thôn chúng tôi khoảng ba mươi dặm có một dãy núi dài tám trăm dặm gọi là núi Hoàng Phong. Trong núi có rất nhiều yêu quái, cho nên tôi nói khó là vì thế. Còn như vị trưởng lão nhỏ này có nhiều tài nghệ thì đi được.

Hành Giả nói:

- Không ngại! Không ngại! Có lão Tôn và sư đệ đây, thì dù chúng có là yêu quái gì, cũng chẳng dám động đến chúng tôi.

Đang trò chuyện đã thấy người con trai bưng cơm đến, bày lên bàn, nói:

- Xin mời các ngài dùng bữa cho.

Tam Tạng vừa chắp tay tụng kinh, Bát Giới đã ăn xong một bát. Tam Tạng đọc mấy câu kinh chưa xong, thì chú ngốc đã ăn xong ba bát. Hành Giả nói:

- Cái hạng túi cơm này, y như đồ quỷ đói ấy! Cụ Vương thấy Bát Giới ăn nhanh, biết ý nói:
- Vị trưởng lão này chắc đói lắm, mau xới thêm cơm lên đây.

Chú ngốc đúng là to bụng, cứ cúi gầm mặt nuốt một chập mười mấy bát liền. Tam Tạng, Hành Giả, mỗi người ăn không đầy hai bát. Chú ngốc vẫn chưa thôi, ngồi chén hoài. Cụ Vương nói:

- Trong nhà chẳng còn sơn hào hải vị gì, nên chẳng dám mời nhiều, xin dâng thêm một liễn cơm nữa.

Tam Tạng, Hành Giả cùng nói:

- Xin đủ ạ.
Bát Giới nói:

- Cụ nói gì vậy? Có ai bói toán gì đâu mà hào năm với hào
[143]
sáu

, còn cơm thì xin cứ mang nữa ra đây.

Chú ngốc ăn một hơi hết sạch nồi cơm nấu cho cả nhà, mà vẫn nói là mới lửng bụng.

Cơm xong, người nhà thu dọn mâm bát, dọn chiếc giường tre trên nhà làm nơi ngủ.

Sớm hôm sau, Hành Giả đóng yên cương, Bát Giới thu xếp hành lý. Cụ Vương lại bảo cụ bà sửa soạn một chút canh nóng điểm tâm mời ba thầy trò. Ăn xong, ba người từ biệt lên đường. Cụ Vương nói:

- Nếu đi đường có xảy ra điều gì, xin cứ lại về đây. Hành Giả nói:
- Cụ đừng bàn chùn thế. Chúng tôi là những người xuất gia không bao giờ lùi bước đâu.

Nói đoạn, thầy trò quất ngựa, gánh đồ thẳng đường sang phương Tây.

Chà! Chuyến đi này:

Quả không đường phẳng sang Tây Trúc, Hẳn có tà ma xảy nạn to.
Ba người mới đi chưa được nửa ngày, quả nhiên gặp một tòa núi cao rất hiểm trở. Tam Tạng dừng ngựa quan sát. Quả là:

Núi cao đèo dốc gập ghềnh,

Khe sâu thăm thẳm, chênh vênh đường vòng.

Suốt quanh nước réo ỳ ầm,

Hoa rừng đua nở tưng bừng nơi nơi.
Núi cao nào có thấu trời,

Thế mà đỉnh núi quyện vời mây xanh.

Suối sâu, sâu có bâu lăm, Thế mà đáy suối sát tầng âm ty. Phía trước mây nổi xầm xì,
Sừng sững vách đá trông thì phát run.

Đằng sau quanh quất động hang, Nước rơi từng giọt tình tang đêm ngày. Hươu nai ngơ ngác từng bầy
Mới hay sóng lật hiện ra thuồng luồng.

Ù ù gió thổi trên hang,

Trong đám cỏ rậm chim ngàn vút cao.

Rừng sâu thú chạy ào ào.

Lang trùng vun vút, ai nào chẳng kinh.

Chính là lúc động rung rinh.

Động thành núi thẳm, núi thành động sâu.

Muôn tầng núi ngọc xanh mầu. Sương mù giăng kín khác nào lụa sa.
Sư phụ buông cương khoan bước, Tôn đại thánh dừng mây đi chậm, Trư Ngộ Năng gánh bước từ từ. Họ đang ngắm nhìn ngọn núi, bỗng một trận gió lốc bốc cuồn cuộn, Tam Tạng ngồi trên mình ngựa sợ hãi, gọi:

- Ngộ Không ơi, gió nổi rồi đấy! Hành Giả nói:
- Gió thì sợ quái gì, gió chỉ là thời khí của bốn mùa, việc gì mà sợ!
Tam Tạng nói:

- Ngọn gió này độc lắm, không giống gió thường đâu. Hành Giả nói:
- Làm sao sư phụ biết không phải gió thường? Tam Tạng nói:
- Con nhìn kìa:

Ào ào cuồn cuộn bay tung

Mù mù mịt mịt chín tầng trời xanh.

Qua đèo cây rít ầm ầm.

Rừng sâu cây cối đổ nằm đông tây.

Bên bờ gốc liễu lung lay,

Hoa trong vườn rụng lá bay xạc xào.

Thuyền chài thu lưới buộc vào,

Thuyền khách buồm hạ, buông neo vững vàng

Người đi chẳng thấy mặt đường, Tiều phu gánh củi hãi hùng dừng chân. Vượn trong rừng quả chạy tan,
Hươu trong bụi cỏ hoang mang trốn rồi.

Vách non quả lộp bộp rơi, Dưới khe tùng trắc lá sôi ào ào. Cát bay đá lở đất nhào,
Sông nghiêng biển lật sóng trào vút lên.

Bát Giới bước lên ngăn Hành Giả, nói:

- Sư huynh ơi, gió to quá, chúng ta tạm ẩn vào đâu một tý. Hành Giả cười, nói:
- Chú hèn lắm! Mới có gió to đã tìm chỗ trốn. Vậy giáp mặt yêu quái thì sao?

Bát Giới nói:

- Anh không nghe câu nói: “Tránh gái như tránh giặc, che gió như che tên” sao? Chúng ta ẩn vào đâu một tý có hề gì?

Hành Giả nói:

- Thôi đừng nói nữa, để anh túm luồng gió này ngửi xem sao. Bát Giới cười, nói:
- Sư huynh rặt nói khoác, gió mà lại túm được! Dù có túm được thì nó cũng tuột ra mất chứ!

Hành Giả nói:

- Chú không biết lão Tôn này có phép “túm gió” à?

Nói xong, Hành Giả để mặc cho ngọn gió đi qua, rồi túm lấy đuôi ngọn gió lại ngửi, thấy có mùi tanh tanh, bèn nói:

- Đúng là không phải gió lành. Cứ như mùi gió này nếu không phải gió hùm beo, thì cũng là gió yêu quái. Chắc có chuyện chẳng lành đây.

Chưa dứt lời, đã thấy dưới sườn núi có một con mãnh hổ lông đốm vẫy đuôi nhảy vọt ra. Tam Tạng sợ quá, ngồi không vững ngã lăn xuống đất, nằm lịm bên vệ đường hồn bay phách tán. Bát Giới quẳng hành lý, vác đinh ba, không đợi Hành Giả xông đến quát vang:

- Nghiệt súc kia, chạy đi đâu?

Rồi xông lên, nhằm đầu hổ bổ xuống. Con hổ dựng đứng người lên, giơ vuốt chân trái ra trước, nhằm ngực mình cào rách soạt một tiếng, lột bộ lốt hổ ra, đứng thẳng ở ven đường, trông thật là hung dữ:

Toàn thân như tắm máu tanh lòm.
Hai cẳng cong queo thắm tựa son. Mái tóc loăn xoăn vàng tựa lửa,
Đôi mày ngang ngạnh dựng cao lên.

Bốn nanh trắng ởn thò bên mép, Hai mắt tròn xoe rực lửa hờn, Hùng hổ ra oai mõm dọa dậm, Hung hăng hò hét miệng gào tuôn.
Quái vật quát:

- Hãy khoan! Ta chẳng phải ai xa lạ, mà chính là tướng tiên phong của Hoàng Phong đại vương, nay vâng lệnh đại vương đi tuần tra quanh núi, bắt mấy thằng phàm phu làm đồ nhắm. Nhà ngươi là hòa thượng ở đâu mà dám dùng binh khí đánh ta.

Bát Giới mắng:

- Đồ súc sinh kia, ngươi không nhận ra ta sao? Chúng ta không phải là những kẻ qua đường bình thường, mà là đồ đệ của Tam Tạng, em đức vua nước Đại Đường bên phương Đông vâng mệnh nhà vua sang phương Tây lễ Phật cầu kinh. Ngươi mau mau cút đi nơi khác để chúng ta đi, đừng làm sư phụ ta sợ hãi, thì ta sẽ tha chết cho. Nhược bằng cứ ngông cuồng cản trở, thì cây đinh ba này sẽ không nể mặt các ngươi đâu!

Yêu quái không chờ Bát Giới nói hết, xông vào vứt bộ lốt, nhằm mặt Bát Giới mà cào. Bát Giới vội vàng nghiêng người né tránh rồi múa đinh ba đánh lại. Yêu quái không có binh khí đành quay người chạy, Bát Giới đuổi theo. Chạy tới sườn núi, yêu quái lấy ra hai cây đao bằng đồng đỏ giấu trong đống đá ngổn ngang, quay lại đón đánh Bát Giới. Hai bên đánh nhau trên sườn núi rất kịch liệt. Hành Giả đỡ Đường Tăng dậy, nói:

- Sư phụ đừng sợ, hẵng ngồi đây để lão Tôn lại giúp Bát Giới
đánh chết yêu quái.

Tam Tạng ngồi dậy, run rẩy sợ hãi, luôn miệng lẩm bẩm niệm
Đa tâm Kinh.

Hành Giả rút gậy sắt ra, hét vang:

- Bắt lấy nó!

Lúc ấy, Bát Giới phấn chấn tinh thần, yêu quái thua chạy. Hành Giả quát:
- Không tha nó, đuổi theo mau!

Hai người vác đinh ba, gậy sắt đuổi xuống núi. Yêu quái sợ quá, bủn rủn chân tay, bèn dùng kế “ve sầu lột xác”, cuộn một vòng, hiện nguyên hình là một con mãnh hổ. Hành Giả và Bát Giới đâu chịu buông tha, đuổi theo miết, quyết trừ cho bằng được. Yêu quái thấy hai người đuổi đến gần, vội móc vào ngực, trút lốt da ra, lấy cỏ phủ lên tảng đá hình hổ nằm, thoát thân biến thành một trận cuồng phong chạy về lối cũ, chợt nhìn thấy Đường Tăng đang ngồi niệm Đa tâm kinh, bèn chộp lấy bắt đi. Thật đáng thương cho Tam Tạng:

Giang Lưu số định nhiều tai ách, Cửa Phật tu hành thật khó khăn.



Tên quái mang Đường Tăng về tới cửa động, ngừng gió, nói với bọn canh cửa rằng:

- Mau vào báo cho đại vương biết, biết Hổ tiên phong bắt được một hòa thượng, đang chờ lệnh ở ngoài cửa.

Tên chúa động truyền lệnh cho vào. Hổ tiên phong, lưng dắt hai thanh đao đồng đỏ, hai tay bê Đường Tăng bước vào, quỳ xuống thưa:

- Bẩm đại vương, tiểu tướng bất tài vâng lệnh đi tuần quanh núi, bỗng gặp một hòa thượng là pháp sư Tam Tạng, em vua nước Đại Đường bên phương Đông sang phương Tây lễ Phật cầu kinh, hắn đã bị tiểu tướng bắt sống đem dâng để dùng vào bữa tiệc.

Chúa động nghe xong, giật nảy mình, nói:

- Ta nghe trước đây có người nói rằng: Pháp sư Tam Tạng là bậc thần tăng vâng mệnh vua Đường sang phương Tây lấy kinh,
hắn có một đồ đệ tên là Tôn Hành Giả thần thông biến hóa, võ nghệ cao cường thế mà tại sao nhà ngươi bắt được hắn?

Hổ tiên phong đáp:

- Hắn có hai tên đồ đệ. Một tên tai to mõm dài, sử dụng một cây đinh ba chín răng. Còn tên kia mắt lửa ngươi vàng, sử dụng một cây gậy sắt bịt vàng. Chúng đuổi đánh tiểu tướng, tiểu tướng phải dùng kế “ve sầu lột xác”, biến thân mình thành hư ảo, quay lại bắt ngay hòa thượng đem nộp đại vương, gọi là chút lễ mọn để đại vương nhắm rượu.

Tên chúa động nói:

- Tạm chưa thịt hắn vội. Hổ tiên phong nói:
- Thưa đại vương, miếng ngon để mồm mà không ăn thì là vồ dại đấy!

Chúa động nói:

- Nhà ngươi không biết. Ăn thịt hắn thì khó gì, chỉ ngại hai tên đồ đệ đến đây làm phiền thì không ổn. Hẵng trói hắn vào cột định phong ở vườn sau, đợi dăm ba ngày, không thấy hai tên kia đến gây sự, lúc ấy, một là người hắn sạch sẽ, hai là tránh được miệng tiếng, mặc chúng ta bung nấu, rán kho, tha hồ tùy ý đánh chén có thú hơn không?

Hổ tiên phong mừng lắm:

- Đại vương mưu kế sâu xa, nói chí lý lắm! Rồi hắn gọi đàn em:
- Chúng bay đâu, mang nó đi!

Bảy tám tên lâu la đứng cạnh lôi Đường Tăng lại, lôi đi chẳng
[144]
khác con quạ tha gà con

. Đó thật là:
Khốn cùng Tam Tạng mong Hành Giả, Hoạn nạn Đường Tăng nhớ Ngộ Năng.
Tam Tạng thầm kêu:

- Đồ đệ ơi, không biết các con hàng yêu bắt quái ở đâu, mà để thầy bị ma bắt thế này. Gặp nạn này biết bao giờ mới lại được gặp nhau. Trời ơi, các con mau đến sớm cứu thầy, nếu chậm, mạng thầy e khó toàn mất.

Tam Tạng vừa than thở, vừa nước mắt như mưa.

Lại nói chuyện Hành Giả, Bát Giới đuổi hổ xuống chân núi thấy con hổ ngã lăn nằm phủ phục ở rìa núi. Hành Giả bèn vung gậy giáng mạnh một phát, đến nổi ê ẩm cả tay, Bát Giới cũng bồi thêm một phát đinh ba nữa, đến nỗi răng đinh ba bật long lên, thì té ra đấy chỉ là một tấm da hổ trùm lên một tảng đá hình con hổ nằm. Hành Giả giật mình, nói:

- Hỏng, hỏng! Trúng mưu của nó rồi. Bát Giới hỏi:
- Trúng mưu gì? Hành Giả đáp:
- Đây gọi là phép “ve sầu lột xác”, hắn phủ tấm da hổ ở đây, còn người thì chạy mất. Chúng ta mau quay về xem sư phụ ra sao, kẻo trúng độc kế của nó mất.

Hai người vội vàng quay lại, thì đã không thấy Tam Tạng đâu cả.

Hành Giả gầm lên như sấm:

- Hỏng bét, sư phụ bị nó bắt mất rồi!

Bát Giới vội vàng dắt lấy ngựa, mắt đẫm lệ, nói:

- Trời ơi, trời ơi! Biết tìm sư phụ ở đâu bây giờ?
Hành Giả ngẩng đầu, nói:

- Đừng khóc nữa. Khóc làm mất nhuệ khí. Chắc nó chỉ quanh quẩn ở núi này, ta phải đi tìm ngay.

Hai người xông thẳng vào giữa dãy núi, trèo hết ngọn này đỉnh nọ một hồi lâu, bỗng thấy bên vách núi có một tòa động phủ, bèn đứng lại quan sát, thấy quả là hiểm yếu:

Vách đá chon von, Lối đi quanh quất.
Rặng thông, khóm trúc rườm rà, Bụi liễu, hàng dương xanh mướt.
Sườn non đá xếp ngổn ngang, Rừng sâu chim vui ríu rít. Vách núi nước vỗ ỳ ầm,
Bờ cao suối reo róc rách.

Mây trời lớp lớp, Cỏ ngọc xanh xanh.
Cáo thỏ chạy tung tăng, Hươu nai dương sừng húc.
Tùng bách lâu năm bờ suối mọc, Sườn non muôn thuở rủ đầy mây. Chót vót chon von hơn núi Nhạc, Hoa bay chim hót quả Thiên Thai.
Hành Giả nói:

- Bát Giới này, chú hãy đem hành lý giấu vào trong hốc núi, giấu cả ngựa đi đừng để lộ ra, để tôi đến cửa động bắt yêu quái, cứu sư phụ.
Bát Giới nói:

- Không phải dặn dò lôi thôi, cứ đi mau lên!

Hành Giả xốc lại áo, buộc lại chiếc quần da hổ, rút gậy sắt, xông tới cửa động, thấy bên trên cửa động có sáu chữ to “động Hoàng Phong núi Hoàng Phong”, bèn đứng thế đinh tấn, nắm chắc gậy, quát:

- Yêu quái kia, mau trả sư phụ cho ta, nếu không ta sẽ phá tan sào huyệt, san bằng hang động của chúng bay!

Bọn tiểu yêu nghe nói, sợ hãi run rẩy, chạy vào báo:

- Ngoài cửa động có một hòa thượng mặt lông, mõm nhọn như ông thiên lôi, tay cầm cây gậy sắt to sụ đến đòi sư phụ.

Tên chúa động sợ hãi gọi Hổ tiên phong đến bảo:

- Ta dặn ngươi đi tuần, chỉ được bắt trâu rừng lợn lòi, hươu to dê béo thôi, tại sao lại bắt cả Đường Tăng, để đồ đệ hắn tới đây phá rối, biết làm sao bây giờ?

Hổ tiên phong nói:

- Đại vương cứ yên tâm ăn no ngủ kỹ. Tiểu tướng tuy bất tài, xin mang năm mươi tên lính bắt tên Tôn Hành Giả nào đó, mang về thịt luôn một thể.

Tên chúa động nói:

- Ngoài những thủ lĩnh lớn nhỏ ra, ta còn dăm bảy trăm lính nữa, cho nhà ngươi tùy ý chọn bao nhiêu cũng được, cốt sao bắt được Hành Giả thì ta mới yên tâm chén lão hòa thượng được. Ta bằng lòng kết nghĩa anh em với nhà ngươi, nhưng chỉ lo bắt không nổi hắn, mà nhà ngươi bị thua, lúc ấy cũng đừng oán ta nhé!

Hổ tiên phong nói:

- Đại vương cứ yên tâm, để tôi đi.
Đoạn điểm ngay năm mươi tên lính tiểu yêu khỏe mạnh, đánh trống phất cờ, dắt hai thanh đao bằng đồng đỏ mở cửa bước ra, quát:

- Nhà ngươi là hòa thượng khỉ ở đâu, dám đến cửa nhà ta sừng sộ nỗi gì?

Hành Giả mắng:

- Đồ súc sinh lột da kia, nhà ngươi giở trò thoát xác bắt sư phụ ta còn hỏi cái gì? Mau trả sư phụ cho ta thì ta tha chết cho!

Hổ tiên phong nói:

- Sư phụ nhà ngươi ta bắt để làm bữa cho đại vương ta đây, biết điều thì ngươi hãy cút ngay! Nếu không ta sẽ bắt nốt cả ngươi cùng thịt một thể, như thế mới là “mua một con lại được thêm một con” chứ!

Hành Giả nghe xong, bừng bừng nổi giận, hàm răng nghiến ken két, hai mắt trợn tròn xoe, rút gậy ra quát:

- Nhà ngươi tài nghệ được bao lăm mà khoác lác thế? Chớ có chạy, hãy nhìn cây gậy đây!

Hổ tiên phong vội giơ đao đón đỡ. Hai bên mang hết tài năng đánh nhau kịch liệt:

Quái vật là quả trứng gà

Ngộ Không trứng đá thật là rắn thay!

Dao kia đấu với gậy này, Trứng chọi với đá có ngày vỡ tan. Gà đồng tranh với phượng loan,
Sẻ non đấu quạ có toàn được đâu?

Yêu quái phun gió ào ào,

Ngộ Không thổi khói bay cao ngút trời.
Giao tranh mới được dăm hồi, Tiên phong mất vía rụng rời chân tay. Quay đầu bỏ chạy như bay,
Ngộ Không ráo riết đuổi ngay tức thì.

Hổ tiên phong không địch nổi, quay đầu chạy. Mới vừa trót khoác lác trước mắt tên chúa động, nên không dám quay về động nữa, chạy thẳng ra sườn núi lẩn trốn. Hành Giả không chịu buông tha, cắp gậy đuổi theo ráo riết, hò hét vang trời. Khi đuổi tới chỗ hốc núi tránh gió, Hành Giả ngẩng đầu nhìn thấy Bát Giới đang chăn ngựa, bỗng nghe tiếng hò hét ầm ầm, quay đầu nhìn, thấy Hành Giả đang đuổi yêu quái Hổ, bèn buông ngựa, vác ngay đinh ba đâm chéo một phát vào đầu. Than ôi, Hổ tiên
[145]
phong, tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa

, bị một phát đinh ba của
Bát Giới, chín lỗ máu phun ngầu đỏ, khắp đầu óc trắng phọt ra. Có bài thơ làm chứng rằng:

Năm bảy năm xưa học chính tông, Ăn chay, giác ngộ đạo chân không. Thực lòng bảo vệ Đường Tam Tạng, Vừa nhập Sa môn đã lập công.
Chú ngốc một chân dẫm lên lưng hổ quái, hai tay cầm đinh ba tiếp tục đâm. Hành Giả thấy vậy, mừng lắm, nói:

- Chú đâm mạnh vào! Hắn dẫn mấy chục tên tiểu yêu ra đánh nhau với lão Tôn, bị ta đánh thua, nhưng hắn không chạy vào động, mà lại chạy đi tìm chỗ chết. May có chú đánh tiếp, không thì nó lại chạy mất.

Bát Giới hỏi:

- Có phải chính hắn biến thành gió bắt sư phụ không? Hành Giả đáp:
- Phải!

Bát Giới hỏi:

- Anh có hỏi hắn sư phụ ở đâu không? Hành Giả đáp:
- Hắn nhốt sư phụ ở trong động, định thịt cho thằng đại vương nào đó ăn. Lão Tôn giận quá đuổi đánh hắn tới đây, thì chú kết liễu tính mạng. Chú em ơi, công lao này là của chú đấy. Chú lại tiếp tục giữ ngựa và hành lý nhé, đợi anh lôi cái thây này đến cửa động khiêu chiến phải bắt bằng được con yêu già ấy, thì mới cứu được sư phụ.

Bát Giới nói:

- Anh nói đúng lắm! Thôi anh đi đi, nếu nó thua, anh lại đuổi nó đến đây để lão Trư rạch thịt nó ra nhé!

Thế là Hành Giả một tay cầm gậy sắt, một tay kéo xác hổ quái đi, đi thẳng đến cửa động. Thật là:

Pháp sư gặp nạn hổ già,

Hai trò tương đắc trừ ma giúp thầy.

Chưa biết lần ày Hành Giả có hàng phục được quái, cứu được
Đường Tăng không, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ HAI MƯƠI MỐT Hộ Pháp dựng nhà lưu Đại Thánh Tu Di Linh Cát bắt yêu ma
Lại nói chuyện năm mươi tên tiểu yêu tan tác, vác cờ rách,
trống thủng chạy vào động báo:

- Thưa đại vương, Hổ tiên phong không địch nổi hòa thượng mặt lông, bị hắn đuổi chạy ra sườn núi phía Đông rồi.

Lão yêu nghe nói bực lắm. Đang lúc cúi đầu, im lặng nghĩ kế, lại có lũ tiểu yêu ngoài cửa vào báo:

- Thưa đại vương, Hổ tiên phong bị hòa thượng mặt lông giết chết, kéo xác tới cửa động mắng chửi thách đánh.

Lão yêu nghe xong, càng buồn bực thêm, nói:

- Hắn thực không biết điều, ta chưa thịt sư phụ hắn, mà hắn đã giết mất tướng tiên phong của ta. Tức thật! Tức thật!

Bèn gọi:

- Mang áo giáp ra đây. Ta cũng nghe nói có thằng Tôn Hành
Giả nào đó, để ta ra xem, dù hắn có ba đầu sáu tay[146]


 ta cũng
bắt về bằng được, trả thù cho Hổ tiên phong!

Lũ tiểu yêu vội vàng mang áo giáp đến. Lão yêu ăn mặc chỉnh tề, cầm cây dĩa gang ba mũi, dẫn lâu la ra thẳng cửa động. Đại Thánh đứng bên ngoài chợt thấy yêu quái bước ra, trông rất kiêu dũng. Hắn ăn mặc:

Trên đầu sáng quắc mũ kim khôi, Áo giáp vàng tươi sáng rực trời.
Dải trĩ phất phơ trên đỉnh mũ,

La bào vàng nhạt phủ quanh người. Dây lưng thắt bụng, rồng vùng vẫy, Tấm kính hộ thân, nguyệt sáng ngời.
Chân xỏ đôi hài da lộc thẫm, Quần bằng gấm lượt biếc màu tươi. Dĩa gang ba mũi tay cầm chắc,
Hiển Lang thánh ấy cũng thua rồi.

Lão yêu ra tới cửa, lớn tiếng quát liền:

- Thằng nào là Tôn Hành Giả?

Hành Giả chân giẫm lên xác hổ quái, tay cầm gậy Như ý đáp:

- Ông ngoại nhà ngươi đây, mang trả sư phụ ngay!

Yêu quái nhìn kỹ, thấy Hành Giả hình dáng quê mùa, mặt mày xấu xí, cao không đầy bốn thước bèn cười nói:

- Tội nghiệp, ta tưởng nhà ngươi là một trang hảo hán tung hoành ngang dọc, nào ai ngờ lại là một con ma ốm gầy trơ xương thế kia à?

Hành Giả cười nói:

- Đồ oắt con kia, thật không có mắt. Ông ngoại nhà ngươi tuy nhỏ, nhưng nếu nhà ngươi đánh một phát cán dĩa vào đầu ta, ta dài ra sáu thước ngay.

Yêu quái nói:

- Đầu ngươi rắn thế cơ à, hãy nếm một cán dĩa đây.

Đại Thánh điềm nhiên không sợ, mặc cho yêu quái đánh một phát, rồi lắc mình một cái, tức thì chân dài ra sáu thước, thân cao hơn một trượng. Yêu quái sợ quá, dừng tay lại, nói:
- Này Tôn Hành Giả, sao nhà ngươi lại mang phép biến hóa hộ thân ra đùa trước cửa nhà ta. Thôi đừng giở trò khỉ ấy nữa, lại đây đấu võ cùng ta!

Hành Giả cười nói:

- Oắt con ơi, người ta thường nói: “Có tình không nỡ đánh, đã đánh chẳng còn tình”, ông ngoại nhà ngươi tay nặng lắm, chỉ e nhà ngươi không đỡ nổi một gậy đâu!

Yêu quái không để Hành Giả nói hết, vung cây dĩa gang, [147]
nhằm ngực Hành Giả đâm thẳng. Đại Thánh bình tĩnh
vung gậy sắt chuyển vào thế “rồng đen quét đất” gạt cây dĩa gang ra, rồi nhắm đầu yêu quái bổ xuống. Hai bên đánh nhau quyết liệt ngoài cửa động Hoàng Phong:

Yêu vương nổi giận, Đại Thánh ra oai.

Yêu vương nổi giận, định bắt Đại Thánh đền mạng tiên phong;

Đại Thánh ra oai, quyết giết yêu ma cứu Đường Tam Tạng.

Dĩa gang ba mũi, Gậy sắt bịt vàng. Bên đánh bên đỡ Tiến lui nhịp nhàng.
Một bên: Trấn sơn đô tổng soái Một bên: Hộ Pháp Mỹ hầu vương. Lúc đầu hai bên còn dè dặt
Về sau vận hết sức đánh sang

Dĩa gang nhọn hoắt

Gậy sắt sáng choang.
Chạm phải là hồn về âm phủ Trúng người sẽ đi gặp Diêm Vương. Mắt tinh tay lẹ,
Sức khỏe thần cường.

Liều chết hai bên cùng quyết đấu, Chưa biết ai còn, ai bị thương.
Lão yêu đánh nhau với Hành Giả suốt ba mươi hiệp không phân thắng bại. Hành Giả muốn thắng ngay, bèn sử dụng phép phân thân, nhổ một sợi lông bỏ vào mồm nhai nát, phun lên trời hô “biến”, liền biến thành một trăm mười Hành Giả giống y như nhau, cũng cầm gậy sắt, bao vây chặt yêu quái trên không trung. Yêu quái sợ hãi, vội vàng cũng dùng phép, ngoảnh về phương
[148]
đông nam

, há miệng ba lần, hà ra một hơi, lập tức một trận
gió vàng bốc lên từ trên không, thật là khủng khiếp:


Ào ào trời đất đổi thay,

Mịt mù cơn lốc tung bay một vùng.

Xuyên rừng vặn gốc mai, tùng, Gặp núi chắn lại bụi tung khắp trời. Hoàng Hà sóng cuộn nơi nơi,
Tương Giang nước réo như sôi ào ào.

Trời xanh cung Đẩu lao đao, Điện Sâm La suýt đổ nhào sụp luôn. Năm trăm La Hán hét vang,
Kim Cương tám vị hoảng hồn kêu la.

Sư tử xanh bỏ Văn Thù,

Phổ Hiền voi trắng bỏ đi khó tìm.

Rắn rùa Trấn Võ chạy tan,

Tử Đồng lừa họ yên cương bay vèo.

Thương nhân sợ hãi kêu trời, Chủ thuyền sì sụp lựa lời kêu van. Giữa dòng tính mạng khó toàn,
Lợi danh kiếm chác lang thang sông hồ.

Núi tiên động phủ tối mò Bồng Lai hải đảo như lò tối om. Lão Quân không thể luyện đơn,
Thọ Tinh cũng chịu, quạt rồng cất luôn.

Vương Mẫu đi dự hội tiên,

Một cơn gió thổi áo xiêm trễ tràng.

Nhị Lang lạc lối Quán Giang,
Na Tra khó giữ kiếm vàng một khi. Thiên vương chẳng thấy tháp gì,
[149]
Lỗ Ban tuột mất kim kia nạm vàng

Điện Lôi Âm đổ ba tầng,

Triệu Châu cầu đá hai phần lật tung.

Vầng hồng xám xịt mông lung, Khắp trời tinh tú mịt mùng lung lay. Núi nam chim vội vàng bay,
Nước hồ đông chảy hồ tây từ từ.

Đực cái chẳng dám hẹn hò,

Mẹ con thất lạc bao giờ thấy nhau.

Dạ Xoa, Long Vương tìm đâu?

Lôi công khắp chốn thấy đâu chớp nhoàng

Mười Diêm Vương tìm phán quan, Đầu trâu mặt ngựa vội vàng tìm nhau. Núi Phổ Đà đổ còn đâu
Kinh Quan Âm cũng theo nhau bay vù.

Hoa sen trắng cũng bay đi, Mười hai chùa núi Phổ Đà đổ luôn, Kể từ Bàn Cổ chí kim,
Chưa từng thấy gió độc hơn gió này.

Ù ù trời đất như xay,

Muôn dặm sông núi hồn bay rụng rời.

Yêu quái dùng trận cuồng phong thổi bạt những tiểu Hành
Giả do sợi lông Hành Giả biến ra, bay trên không như xa kéo sợi quay tít. Không còn vung được gậy thì làm sao hợp được thân? Hành Giả sợ quá phải thu lông về, còn lại có một mình múa gậy sắt xông vào đánh, bị yêu quái nhằm thẳng mặt thổi một luồng gió vàng, khiến đôi mắt lửa ngươi vàng phải nhắm nghiền lại, không sao mở được, không sử dụng được cây gậy sắt, nên phải thua trận chạy về. Yêu quái cũng thu gió về động, chuyện không nói đến nữa.

Lại nói chuyện Bát Giới thấy trận gió vàng nổi cuồn cuộn trời đất tối tăm, vội vàng dắt ngựa, giữ hành lý nằm phục trong hốc núi, không dám mở mắt ra, không dám ngẩng đầu, miệng luôn mồm lầm rầm đọc kinh cầu nguyện, chẳng thèm biết Hành Giả được thua ra sao, sư phụ sống chết thế nào. Đang nghi nghi hoặc hoặc, bỗng thấy gió lặng, trời quang, bèn ngẩng đầu nhìn về phía cửa động, thì không thấy đánh nhau, cũng không nghe thấy tiếng chiêng trống nữa. Chú ngốc không dám đến cửa động, vả lại cũng không có người trông ngựa, hành lý, tiến thoái lưỡng nan, bồn chồn không dứt. Đang phân vân thì thấy Tôn Đại Thánh từ phía tây vừa đi, vừa hò hét bước tới, Bát Giới bèn nghiêng người chào rồi hỏi:

- Kìa anh, gió to quá, anh ở đâu về đấy? Hành Giả xua tay nói:
- Khiếp quá, từ khi làm người, lão Tôn chưa từng thấy trận gió nào to thế! Lão yêu dùng một cây dĩa gang ba mũi đánh nhau với lão Tôn hơn ba mươi hiệp, lão Tôn dùng phép phân thân, bao vây đánh nó. Thấy nguy, nó liền nổi trận gió này. Trận gió ghê gớm quá, làm lão Tôn loạng choạng đứng không vững, vội vàng phải thu phép, đội gió mà chạy. Trời, gió khiếp quá, khiếp quá! Lão Tôn cũng biết gọi gió hô mưa, nhưng không thể ghê gớm bằng trận gió của yêu quái này được!
Bát Giới hỏi:

- Sư huynh này, thế còn võ nghệ của nó thế nào? Hành Giả đáp:
- Cũng khá, đấu pháp cũng tề chỉnh lắm, đánh nhau với lão Tôn cũng ngang tài, chỉ vì trận gió ấy mà khó thắng được hắn lắm.

Bát Giới nói:

- Vậy thì làm sao cứu được sư phụ? Hành Giả nói:
- Việc cứu sư phụ hẵng gượm đã, không biết ở đây có thầy lang chữa mắt không để nhờ chữa mắt cho anh.

Bát Giới hỏi:

- Mắt anh làm sao? Hành Giả đáp:
- Anh bị yêu quái thổi gió vào giữa mặt, làm mắt anh cay sè, nước mắt cứ trào ra.

Bát Giới nói:

- Anh ạ, lúc này ở lưng chừng núi, trời lại tối rồi, đừng nói chuyện tìm ông lang chữa mắt, ngay chỗ ngủ nhờ còn không có nữa là!

Hành Giả nói:

- Chỗ ngủ nhờ thì chẳng khó. Ta đoán rằng yêu quái chưa dám làm thịt sư phụ đâu, giờ hãy tạm ra đường cái, tìm nhà dân ngủ trọ một đêm, sáng mai trời sáng lại đến đánh yêu quái.

Bát Giới nói:

- Phải lắm, phải lắm!

Bèn dắt ngựa, gánh hành lí ra khỏi hốc núi đi ra đường cái.
Lúc ấy trời sắp tối, chỉ nghe thấy mé sườn núi phía nam con đường có tiếng chó sủa, hai người dừng lại quan sát, thì thấy đấy là một thôn xóm người ở, có ánh đèn thấp thoáng, bèn bất chấp có đường hay không, cứ đạp cỏ mà đi, thẳng tới trước cổng. Chỉ thấy:

Tử chi mườn mượt, Đá trắng nhờ nhờ.
Tử chi mườn mượt cỏ xanh xanh, Đá trắng nhờ nhờ rêu phủ quanh. Đom đóm vài con bay thấp thoáng, Rừng già một dải mọc như thành. Mùi lan đưa ngào ngạt,
Khóm trúc mọc thanh thanh.

Suối lượn nước trong vắt, Bách già tựa non xanh.
Hẻo lánh ít khi du khách tới, Chỉ thấy hoa rừng nở trước sân.
Hai người không dám tự tiện bước vào, đứng gọi:

- Mở cửa, mở cửa!

Bèn trông thấy một cụ già dắt theo mấy người nông phu trẻ tuổi mang đinh ba, chổi xể kéo ra hỏi:

- Ai đấy, ai đấy?

Hành Giả nghiêng mình nói:

- Chúng tôi là đồ đệ của vị thánh tăng nước Đại Đường bên Đông sang phương Tây lễ Phật cầu kinh, đi đến ngọn núi này bị Hoàng Phong đại vương bắt mất sư phụ, chúng tôi chưa cứu được, mà trời đã tối, vào đây ngủ nhờ một đêm, mong các cụ
các bác rủ lòng thương.

Cụ già chào đáp lễ,nói:

- Không dám, không dám. Ở đây hoang vu hẻo lánh[150] mới nghe tiếng gọi cửa chỉ sợ lũ cáo yêu hổ dữ, hoặc bọn trộm cướp trong núi, nên phải cẩn thận đề phòng không thì lôi thôi lắm, không ngờ lại là hai vị trưởng lão. Xin mời vào, xin mời vào.

Hai người dắt ngựa, gánh hành lý bước vào, buộc ngựa đặt gánh, cùng cụ già ngồi trò chuyện. Một lát, có người trẻ tuổi dâng trà. Uống xong, lại thấy bưng ra mấy bát cơm vừng. Ăn xong, người nhà lại trải giường sắp xếp chỗ ngủ.

Hành Giả nói:

- Chẳng thà đừng ngủ còn hơn. Xin hỏi cụ, ở xứ ta đây có ai bán thuốc đau mắt không ạ?

Cụ già hỏi:

- Có vị nào đau mắt không mà hỏi thuốc?

- Chẳng giấu gì cụ, chúng tôi là người xuất gia, xưa nay không bệnh tật, giờ không hiểu sao lại đau mắt.

Cụ già nói:

- Nếu không đau mắt thì hỏi thuốc làm gì? Hành Giả thưa:
- Hôm nay, khi chúng tôi cứu sư phụ ở cửa động Hoàng Phong, không ngờ bị yêu quái thổi gió, làm mắt tôi cay sè đau đớn, nước mắt giàn giụa, nên tôi phải tìm thuốc.

Cụ già nói:

- Đúng lắm, đúng lắm! Nhưng ngài là một vị trưởng lão tuổi còn trẻ sao đã nói dối thế! Gió của Hoàng Phong đại nhân khủng
khiếp lắm, chứ đâu phải gió xuân thu, gió tùng trúc, gió tây bắc tây đông đâu.

Bát Giới nói:

- Hay là gió giáp não, gió dương nhĩ, gió đại ma, gió thiên chính đâu?

Cụ già nói:

- Không phải, không phải. Gió ấy gọi là gió “tam muội thần phong”.

Hành Giả hỏi:

- Sao cụ biết? Cụ già đáp:
- Thứ gió ấy thổi ra trời đất tối sầm, thần sầu quỷ khóc, đá bay cát bốc, mạng người ngừng luôn. Các ngài gặp luồng gió ấy mà lại còn sống được sao? Có họa là thần tiên thì mới không việc gì?

Hành Giả nói:

- Vâng, vâng. Chúng tôi tuy không phải thần tiên nhưng thần tiên còn kém xa, vì vậy tính mạng không việc gì, chỉ bị đau mắt thôi.

Cụ gì nói:

- Vậy thì cũng khá đấy. Vùng chúng tôi không có ai bán thuốc đau mắt cả. Nhưng lão đây trước cũng bị chứng ra gió thì nước mắt cứ giàn giụa, may gặp một dị nhân truyền cho bài thuốc gọi là cao “ba hoa chín hạt” có thể chữa khỏi mọi bệnh đau mắt gió.

Hành Giả nghe nói, cúi đầu dạ một tiếng rồi thưa:

- Xin cụ cho tôi một chút nhỏ thử xem sao.

Cụ già nhận lời, bèn mang ra một cái lọ nhỏ bằng đá mã não,
mở nút lấy chiếc trâm ngọc chấm một chút nhỏ cho Hành Giả, và dặn không được mở mắt, yên tâm ngủ một giấc, sáng mai sẽ khỏi. Nhỏ thuốc xong, cụ già cất lọ, rồi dẫn người già vào trong. Bát Giới cởi tay nải lấy khăn trải giường mời Hành Giả đi ngủ. Hành Giả nhắm mắt sờ soạng. Bát Giới cười, nói:

- Ông anh có cần gậy dò đường không đấy? Hành Giả nói:
- Đồ ngốc nghếch ăn cám kia, còn muốn ta mù nữa sao?

Chú ngốc cười khúc khích rồi đi ngủ. Hành Giả ngồi trên đệm, chuyển vận thần công, mãi tới canh ba mới đi ngủ.

Chẳng mấy chốc đã canh năm trời sáng, Hành Giả xoa mặt, rồi mở mắt, nói:

- Chà, thuốc hay quá! Còn sáng hơn trước nhiều!

Rồi quay đầu nhìn lại đằng sau. Ôi, nhà cửa biến đâu hết cả, chỉ còn lại mấy cây liễu cao hòe cỗi, mà hai anh em thì nằm ngủ trên bãi cỏ gà. Bát Giới cũng tỉnh dậy, hỏi:

- Anh lẩm bẩm gì thế? Hành Giả nói:
- Chú hãy mở mắt ra mà xem.

Chú ngốc vội ngẩng đầu nhìn chẳng thấy nhà cửa đâu cả, sợ quá vội lồm cồm bò dậy hỏi:

- Ngựa đâu rồi? Hành Giả đáp:
- Buộc ở gốc cây kia kìa!

- Thế còn hành lý? Hành Giả đáp:
- Ngay bên cạnh chú không phải à?
Bát Giới nói:

- Cánh nhà này kỳ thật, dọn nhà mà không bảo chúng ta một tiếng, giá cho lão Trư biết thì cũng biếu họ một ít quà cáp. Hay là họ đi trốn, sợ lý trưởng biết nên mới phải dọn ban đêm? Ồ, mà sao chúng mình ngủ say như chết! Họ dọn dẹp ồn ào thế mà không nghe thấy gì nhỉ!

Hành Giả cười khanh khách nói:

- Chú ngốc ơi, đừng nói lôi thôi nữa. Chú có nhìn thấy tờ thiếp trên cây kia không?

Bát Giới bước lại dứt ra, thấy trên tờ thiếp có bốn câu tụng rằng:

Nhà đây không phải nhà phàm tục, Hộ pháp Già lam điểm hóa ra
Thuốc thánh chữa cho người khỏi mắt,

Hết lòng bắt quái chớ trù trừ.

Hành Giả nói:

- Cái lũ thần thánh này từ khi đổi con long mã, ta chưa hề điểm danh lần nào, mà hôm nay lại dám đùa cợt với ta?

Bát Giới nói:

- Anh đừng làm phách, việc gì họ phải chực anh điểm danh? Hành Giả nói:
- Chú không biết. Những vị Hộ pháp, Già lam, Lục đinh Lục giáp, Ngũ phương Yết đế, Tứ trực Công tào đều vâng mệnh Bồ tát ngầm bảo vệ sư phụ. Từ ngày điểm danh đến nay, vì đã có chú rồi, chưa cần tới họ, nên anh không điểm danh họ đấy thôi.

Bát Giới nói:

- Này anh, họ đã vâng mệnh ngầm giúp sư phụ, không được
phép hiện thân rõ ràng, vì vậy phải hóa thành một xóm tiên, vậy anh đừng trách họ nữa. Hôm qua họ lại nhỏ thuốc đau mắt cho anh, cho chúng ta ăn cơm, thế là hết lòng lắm rồi. Anh trách họ làm gì, mau đi cứu sư phụ đi.

Hành Giả nói:

- Chú nói đúng lắm. Động Hoàng Phong cách đây không xa, chú tạm chưa ra tay vội, cứ ngồi trong rừng trông ngựa, hành lý, để lão Tôn tới cửa động nghe ngóng xem sư phụ ra sao, rồi sau hẵng đánh nhau với nó.

Bát Giới nói:

- Đúng, phải thăm dò tin tức sư phụ sống chết ra sao. Nếu sư phụ chết rồi thì mỗi người chúng ta tìm đường mà sinh sống làm ăn. Còn nếu chưa chết, thì phải hết sức hết lòng…

Hành Giả nói:

- Đừng nói lôi thôi nữa. Anh đi đây.

Hành Giả bèn quay người lao phắt tới cửa động. Cửa vẫn đóng im ỉm. Hành Giả không gõ cửa, sợ kinh động bọn yêu quái rồi bấm quyết niệm chú, lắc mình một cái, biến thành một con muỗi chân hoa bé tẹo. Có bài thơ làm chứng rằng:

Vòi nhọn thân người bé tẹo, Vo vo tiếng tựa sấm rền.
Phòng lan màn lụa đều chui lọt, Gặp tiết ấm trời lòng sướng rơn.
Sợ nhất quạt kia phẩy khói, Ghê thay đèn lửa sáng choang. Nhẹ nhàng kín đáo luồn như cắt,
Động yêu vào thẳng dễ như không.
Hành Giả bay đến chỉ thấy lũ tiểu yêu canh cửa đang ngủ say, ngày khò khò, bèn đậu trên mặt một đứa đốt một phát. Tên tiểu yêu cựa mình tỉnh dậy kêu:

- Cha mẹ ơi, muỗi to quá, đốt nổi tịt cả người! Rồi mở mắt ra nói:
- Trời sáng rồi.

Lại nghe thấy kẹt một tiếng, hai cánh cửa mở ra. Hành Giả vo ve bay vào, thấy lão yêu dặn dò các cửa phải cẩn thận. Một tên thu dọn binh khí nói:

- Chỉ sợ trận gió hôm qua không giết chết được Hành Giả, hôm nay chắc hắn lại đến. Nếu đến phải cho hắn toi mạng!

Hành Giả nghe xong, bay qua sảnh đường, vào thẳng phía sau, thấy một tấm cửa đóng kín mít, bèn lách qua kẽ cửa chui vào. Nơi đây nguyên là một khu vườn hoang, Đường Tăng bị trói vào chiếc cọc định phong giữa vườn, nước mắt giàn giụa, chỉ tâm tâm niệm niệm nghĩ về Ngộ Không, Ngộ Năng không biết đang ở đâu. Hành Giả đậu xuống đầu Đường Tăng gọi:

- Sư phụ ơi!



Đường Tăng nhận ra giọng nói của Ngộ Không bèn hỏi:

- Ngộ Không ơi, ta chết mất! Con đang ở đâu gọi ta đấy? Hành Giả thưa:
- Con đang đậu trên đầu sư phụ đây. Sư phụ đừng lo lắng buồn phiền, chúng con phải bắt được yêu quái thì mới cứu thoát thầy được.

Đường Tăng hỏi:

- Đồ đệ ơi, bao giờ mới bắt được yêu quái! Hành Giả thưa:
- Con hổ quái bắt thầy đã bị Bát Giới giết chết rồi, chỉ còn ngọn gió của lão yêu lợi hại lắm, nhưng cũng chỉ hôm nay là bắt được thôi, thầy cứ yên tâm, đừng khóc nữa, con đi đây.

Nói xong, lại vo ve bay ra đằng trước, thấy lão yêu ngồi trên cao đang điểm các thủ lĩnh. Bỗng thấy một tiểu yêu phất cờ lệnh
bước đến thượng sảnh báo:

- Thưa đại vương, tôi đi tuần núi, vừa ra khỏi cửa động thấy một hòa thượng tai to mõm dài ngồi trong rừng, giá không chạy nhanh thì bị hắn tóm cổ rồi. Nhưng chẳng thấy lão hòa thượng mặt lông lá hôm qua đâu cả.

Lão yêu nói:

- Không thấy Tôn Hành Giả, chắc là hắn bị gió thổi chết rồi. Thế là hết đường cầu cứu viện binh!

Lũ yêu nói:

- Thưa đại vương, nếu quả hắn bị thổi chết thật thì may cho chúng ta quá. Chỉ sợ hắn không chết, đi mời thần binh đến thì làm sao?

Lão yêu nói:

- Sợ quái gì thần linh! Ngừng được thế gió của ta chỉ có Linh
Cát Bồ Tát, ngoài ra ta không sợ ai hết!

Hành Giả đậu trên kèo nhà nghe lão yêu nói như vậy, thì vui mừng khôn xiết, bay thẳng ra ngoài, hiện nguyên hình, chạy vào rừng cất tiếng gọi:

- Chú em ơi! Bát Giới đáp:
- Ngộ Không ơi, anh đi đâu đấy? Vừa rồi có một yêu tinh cầm cờ lệnh bị em đuổi dồn cho một trận.

Hành Giả cười nói:

- Khá lắm, khá lắm! Lão Tôn vừa biến thành một con muỗi bay vào động thăm sư phụ. Sư phụ bị nói trói vào cột định phong đang kêu khóc. Lão Tôn dặn sư phụ đừng khóc rồi lại bay đậu lên kèo nhà nghe ngóng, thấy con yêu cầm cờ lệnh thở hổn hển chạy vào báo là bị chú đuổi suýt chết và không thấy tôi đâu
cả. Lão yêu đoán mò rằng hoặc tôi bị gió thổi chết, hoặc tôi đi mời thần binh. Nó còn tự khai ra một người. Tuyệt lắm! Tuyệt lắm!

Bát Giới hỏi:

- Nó khai ai thế? Hành Giả nói:
- Nó nói chẳng sợ thần binh nào hết. Ngoài Linh Cát Bồ Tát có thể ngăn được gió của nó thì chẳng còn có ai. Nhưng chẳng hay Linh Cát ở đâu?

Đang bàn bạc, bỗng thấy một cụ già đi trên đường cái. Trông hình dạng thì thấy:

Khỏe mạnh gậy chống không cần, Tóc râu trắng xóa gió tung lòa xòa. Mắt ngời ý nghĩ sâu xa,
Hình mai vóc hạc thật là khỏe thay!

Đầu hơi cúi, bước khoan thai,

Mi thanh mặt đỏ tựa người thần tiên. Nhác trông dung mạo khác thường,
Tưởng như Thọ lão xuống miền trần gian.

Bát Giới nhìn thấy, vui mừng quá nói:

- Sư huynh ơi, người đời thường nói:

Muốn tìm đường xuống núi, Nên hỏi khách đi đường.
Anh chạy lên hỏi cụ già một tiếng xem sao?

Hành Giả vội giấu gậy sắt, buông vạt áo, bước lại gần chào:

- Chào cụ, xin hỏi cụ một điều.
Cụ già chẳng trả lời, chỉ lễ phép hỏi lại:

- Ngài là hòa thượng ở đâu? Đến nơi hoang vu này có việc gì? Hành Giả thưa:
- Chúng tôi là đồ đệ một vị thánh tăng đi lấy kinh. Hôm qua chúng tôi bị lạc mất sư phụ ở đây, xin hỏi cụ một điều: cụ có biết Linh Cát Bồ Tát ở đâu không ạ?

Cụ già đáp:

- Linh Cát ở về phương Nam, đến đấy còn ba ngàn dặm nữa. Ở đấy có ngọn núi Tu Di. Trong núi có một đạo tràng là thiền viện giảng kinh của Bồ Tát. Các ngài đến lấy kinh của họ à?

Hành Giả thưa:

- Không, chúng tôi chỉ nhờ họ một việc mà không biết đường. Cụ già chỉ tay về phía Nam nói:
- Con đường ngoằn ngoèo ruột dê kia là đúng đấy.

Lừa cho Hành Giả quay đầu lại nhìn, cụ già biến thành một làn gió mát, lặng lẽ biến mất. Chỉ thấy ven đường có một tờ thiếp viết bốn câu tụng:

Kính gửi Tề Thiên đại thánh hay, Trường Canh họ Lý chính già đây! Núi Tu Di có phi long trượng,
Linh Cát vâng lời Phật bấy nay.

Hành Giả cầm tờ thiếp quay về. Bát Giới hỏi:

- Anh ạ, mấy hôm nay chúng ta xúi quẩy quá! Hai ngày liền gặp ma giữa ban ngày! Cụ già hóa thành gió bay đi là ai đấy?

Hành Giả đưa tờ thiếp cho Bát Giới. Bát Giới đọc xong hỏi:

- Lý Trường Canh là ai?
Hành Giả đáp:

- Là danh hiệu của Thái Bạch Kim Tinh ở phương Tây. Bát Giới sợ hãi ngẩng lên trời lạy, nói:
- Ân nhân của tôi đấy. Lão Trư này mà không có Kim Tinh tâu xin Thượng Đế cho thì không biết tính mệnh hóa thành gì rồi.

Hành Giả nói:

- Chú cũng là người biết nhớ ơn đấy, nhưng đừng ló mặt ra nhé, cứ ẩn kín trong rừng sâu trông ngựa, hành lý, đợi lão Tôn đi tìm núi Tu Di mời Bồ Tát đã.

Bát Giới nói:

- Biết rồi, biết rồi, nhưng nhanh lên đấy. Lão Trư đã học được cách của con rùa, muốn rụt đầu là rụt được ngay.

Hành Giả nhảy vút lên không, dùng phép cân đẩu vân, bay vút về phương Nam, trong chớp mắt đã vượt qua ba ngàn dặm, thấy một ngọn núi cao, lưng chừng núi mây biếc quấn quýt, khí đẹp bao quanh, giữa núi có một ngôi chùa, chuông khánh du dương, khói hương ngào ngạt. Hành Giả đến thẳng trước cửa gặp một đạo nhân cổ đeo tràng hạt, lầm rầm niệm kinh, bèn hỏi:

- Kính chào đạo nhân.

Đạo nhân cúi mình đáp lễ hỏi:

- Trưởng lão ở đâu tới đây? Hành Giả hỏi lại:
- Đây có phải nơi Linh Cát Bồ Tát giảng kinh không ạ? Đạo nhân đáp:
- Chính phải. Ngài có việc gì? Hành Giả đáp:
- Phiền ngài vào báo dùm rằng có có đồ đệ của pháp sư Tam Tạng, em vua nước Đại Đường bên phương Đông là Tề Thiên đại thánh Tôn Ngộ Không Hành Giả có việc cần gặp Bồ Tát.

Đạo nhân cười, nói:

- Danh hiệu ngài dài quá, tôi chẳng nhớ hết. Hành Giả nói:
- Ngài chỉ cần nói có đồ đệ Đường Tăng là Tôn Ngộ Không đến vậy.

Đạo nhân vâng lời, vào giảng đường báo tin. Bồ Tát lập tức mặc áo cà sa, đốt thêm hương đón tiếp. Đại thánh bước vào, nhìn xung quanh chỉ thấy:

Đầy chùa gấm vóc, khắp điện trang nghiêm

Môn đồ thảy đọc Pháp Hoa kinh, Sư sãi nhẹ rung chuông, gõ mõ.
Trên bàn thờ Phật, toàn là hoa quả thức tiên; Trước án cúng trời, rặt những đồ chay tinh khiết.
Đuốc ngọc sáng trưng, lấp lánh ánh hồng soi mây biếc; Lư hương thơm ngát, ngoằn ngoèo làn khói cuộn trời xanh. Đang lúc giảng xong, nhẹ lòng lâng lâng nhập định,
Lớp lớp mây trắng, ngọn tùng ngọn bách vây quanh… Gươm tuệ thu về ma quỷ chặt phăng,
Bát nhã ba la mầu nhiệm thật!

Bồ Tát sửa sang áo xống ngay ngắn ra đón vào, Hành Giả bước lên chùa, ngồi vào chỗ khách. Bồ Tát gọi pha trà, Hành Giả nói:

- Xin kiếu ạ, sư phụ hiện đang gặp nạn ở núi Hoàng Phong, kính xin Bồ Tát ban đại pháp lực hàng phục yêu quái cứu thoát
sư phụ cho.

Bồ Tát nói:

- Ta vâng mệnh đức Như Lai, trấn áp yêu quái Hoàng Phong ở đây. Như Lai cho ta một viên “định phong đơn”, một cây “phi long bảo trượng”. Lúc ấy, yêu quái bị ta bắt, ta đã tha chết cho, giấu họ tên vào núi, dặn rằng không được giết người làm ác, không ngờ ngày nay lại định hại sư phụ, trái lời dạy, đó là lỗi của ta đấy.

Bồ Tát muốn lưu Hành Giả ở lại ăn cơm, Hành Giả thiết tha từ chối, Bồ Tát bèn mang gậy phi long cùng Đại thánh cưỡi mây đi luôn.

Trong giây lát đã tới núi Hoàng Phong. Bồ Tát nói:

- Đại thánh ạ, yêu quái sợ ta lắm, ta chỉ đứng trên mây, một mình Đại thánh xuống khiêu chiến, dụ nó ra đây, ta sẽ có phép.

Hành Giả nghe lời, dừng mây nhảy xuống, chẳng nói chẳng rằng, rút gậy sắt phá cửa động quát:

- Yêu quái! Trả sư phụ cho ta mau!

Lũ tiểu yêu giữ cửa sợ hãi vội vàng chạy vào báo. Yêu quái nói:

- Con khỉ ấy thật vô lễ, không biết phục tài thì chớ lại dám phá cửa ta. Lần này nhất định dùng ngọn gió thần thổi chết nó mới được.

Bèn nai nịt như lần trước, tay cầm cây dĩa gang bước ra, thấy Hành Giả chẳng nói chẳng rằng, cầm cây dĩa gang đâm thẳng vào ngực. Hành Giả né người tránh, vung gậy sắt xông vào đánh. Được vài hiệp, yêu quái quay mồm về phương Nam há mồm sắp thồi gió. Linh Cát Bồ Tát đứng trên không, miệng đọc thần chú rồi phóng cây gậy phi long xuống. Cây gậy biến thành một con rồng vàng tám vuốt, giơ hai vuốt quặp chặt lấy yêu
quái, xách đầu dập xuống sườn núi ba lần, yêu quái hiện nguyên hình là một con chuột lông vàng. Hành Giả xông tới, giơ gậy toan đánh. Bồ Tát giữ lại nói:

- Đại thánh đừng đánh chết nó, ta còn phải mang nó về gặp Như Lai. Nó vốn là con chuột đắc đạo ở chân núi Linh Sơn, vì ăn trộm dầu trong chén lưu ly làm đèn tối mờ, sợ bị Kim Cương bắt, nên chạy trốn đến đây thành tinh tác quái. Như Lai xét thấy nó không đáng tội chết, giao cho ta cai quản, nếu còn giết người gây ác thì bắt về Linh Sơn. Nay nó lại gây sự với Đại thánh, hãm hại Đường Tăng, ta phải bắt nó về ra mắt Như Lai, định rõ tội trạng, mới gọi là có công lao chứ!

Hành Giả nghe lời, cảm tạ Bồ Tát. Bồ Tát lại bay về phương
Tây, chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện Trư Bát Giới ngồi trong rừng đang mong
Hành Giả, thì nghe thấy trên sườn núi có tiếng gọi:

- Em Ngộ Năng ơi, dắt ngựa gánh hành lý ra đây!

Chú ngốc nhận ra tiếng Hành Giả vội vàng thu xếp chạy ra khỏi rừng gặp Hành Giả, hỏi:

- Anh Ngộ Không, công việc thế nào? Hành Giả đáp:
- Anh đã mời Linh Cát Bồ Tát dùng cây gậy phi long bắt được yêu quái rồi. Té ra nó là con chuột lông vàng thành tinh, Bồ Tát mang nó về Linh Sơn gặp Như Lai rồi. Bây giờ tôi với chú vào động cứu sư phụ thôi.

Chú ngốc bây giờ mới hân hoan mừng rỡ.

Hai người chạy vào động vung đinh ba, gậy sắt giết sạch mọi loài thỏ, cáo, hươu, nai đã thành tinh trong động, rồi ra vườn sau cứu sư phụ.

Sư phụ ra khỏi cửa, hỏi:
- Các con làm thế nào mà bắt được yêu quái, cứu thoát ta được đấy?

Hành Giả đem chuyện mời Linh Cát hàng phục yêu quái kể hết một lượt. Sư phụ cảm ơn không ngớt. Hai anh em mang những thức ăn chay trong động dọn cơm, thầy trò cùng ăn rồi mới ra khỏi cửa, tìm đường cái sang phương Tây.

Cuối cùng không biết về sau như thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ HAI MƯƠI HAI Bát Giới đại chiến sông Lưu Sa, Mộc Soa vâng lệnh bắt Ngộ Tĩnh
Lại nói chuyện ba thầy trò Đường Tăng thoát nạn chưa đầy
một ngày, vượt qua núi Hoàng Phong thẳng sang phương Tây gặp toàn đường bằng phẳng rộng rãi. Quang âm thấm thoát, đã qua hè sang thu, chỉ thấy ve kêu trên cành liễu úa, sao đại
[151]
hỏa

 rời sang phương Tây. Đang đi, bỗng gặp một con sông
lớn sóng vỗ cuồn cuộn. Tam Tạng ngồi trên mình ngựa vội vàng nói:

- Các đồ đệ trông kìa, sông rộng mênh mông thế kia, chẳng thấy bóng dáng thuyền bè, làm sao mà sang được?

Bát Giới nhìn dòng sông nói:

- Sóng dữ thật mà lại không có thuyền sang nữa chứ!

Hành Giả nhảy vút lên không, khum tay che mắt nhìn, rồi cũng sợ hãi nói:

- Sư phụ ạ, kể khó thật đấy. Con sông này, như sức con thì chỉ ngoắt mình một cái là qua được ngay. Nhưng sư phụ thì khó lắm, vạn năm cũng chẳng qua được!

Tam Tạng hỏi:

- Ta nhìn không thấy bờ bên kia, chẳng biết rộng chừng bao nhiêu?

Hành Giả đáp:

- Khoảng trên dưới tám trăm dặm.
Bát Giới hỏi:

- Anh làm thế nào mà biết được? Hành Giả đáp:
- Chẳng giấu gì chú, hai mắt lão Tôn ban ngày nhìn thấy được việc lành dữ trong khoảng một nghìn dặm. Vừa rồi anh đứng trên không nhìn, thì sông này không biết dài bao nhiêu, nhưng chiều rộng thì chừng tám trăm dặm.

Tam Tạng buồn rầu than thở, quay ngựa trở lại, chợt thấy trên bờ có một tấm bia đá. Ba thầy trò chạy lại xem, thấy bên trên tấm bia có ba chữ triện “sông Lưu Sa”. Giữa tấm bia lại có bốn hàng chữ nhỏ viết ngay ngắn:

Lưu Sa tám trăm dặm Nước yếu sâu ba nghìn[152] Lông ngỗng không nổi được, Hoa lau cũng phải chìm.
Thầy trò đang mải xem bia, bỗng thấy nước tung như núi, sóng cuộn tựa non, rồi ầm một tiếng, một con yêu tinh ở giữa sông chui lên trông thật vô cùng hung dữ:

Khắp đầu tóc đỏ rối tung,

Tròn xoe hai mắt sáng trưng như đèn.

Mặt thì xàm xạm đen đen,

Tiếng rồng như sấm thét lên vang lừng

Mình khoác áo lông ngỗng vàng, Lưng thắt hai dải mây rừng trắng bong. Chín đầu lâu cổ đeo vòng,
Tay cầm bảo trượng oai phong vô cùng.



Yêu quái nhanh như một cơn lốc, chồm lên bờ vồ Đường Tăng. Hành Giả sợ quá vội vàng ôm chặt lấy sư phụ nhảy lên chỗ bờ cao, quay đầu chạy thoát. Bát Giới đặt gánh hành lý, rút cây đinh ba, nhằm đầu yêu quái bổ xuống. Yêu quái giơ gậy đỡ. Hai bên trổ tài bên bờ sông Lưu Sa. Trận đánh thật dữ dội:

Đinh ba chín mũi, Bảo trượng hàng yêu.
Hai kẻ quần nhau giữa chỗ cao. Một bên: Đại Thiên Bồng tổng đốc, Một bên: Quyển Liêm tướng anh hào. Năm nọ Linh Tiêu cùng dự hội,
Hôm nay đấu chọi khiếp làm sao! Người này: Đinh ba rồng múa vuốt, Kẻ kia: Bảo trượng voi tung vòi.
Đánh lan ra bốn phía, Tiến thoái gió ào ào. Người này ra sức quắp, Kẻ kia có buông nào.
Một kẻ chiếm sông Lưu Sa, thành tinh ăn thịt người từ lâu lắm

Một người nghe lời Phật dạy, tu đạo Già Lam giữ giới hạnh cao.

Hai bên qua lại đánh nhau đến hai mươi hiệp không phân thắng bại.

Đại thánh đang bảo vệ Đường Tăng, trông ngựa và hành lý, thấy Bát Giới đánh nhau với yêu quái thì tức giận nghiến răng, nắm tay giơ đấm, không nhịn nổi muốn xông ra đánh, bèn rút gậy sắt ra nói:

- Sư phụ ngồi nguyên đây, đừng sợ, để lão Tôn quại cho nó một trận.

Đường Tăng không sao giữ được. Hành Giả vút một cái đã nhảy tới. Yêu quái đang đánh nhau với Bát Giới rất kịch liệt, khó biết ai thắng ai bại. Hành Giả bèn vung gậy sắt nhằm đầu yêu quái bổ xuống, yêu quái vội né mình tránh, hoảng hốt lăn ngay xuống đáy sông Lưu Sa. Bát Giới tức nảy người nói:

- Kìa anh, ai bảo anh lại đây? Chân tay nó đã đờ đẫn, không đỡ nổi cây đinh ba của em, chỉ dăm ba hiệp nữa là em bắt sống nó thôi. Nó thấy anh hung tợn, chịu thua chạy trốn mất rồi, biết làm thế nào bây giờ?

Hành Giả cười, nói:

- Chẳng giấu gì chú, từ lúc hàng phục xong con yêu quái
Hoàng Phong, vượt qua ngọn núi ấy tới nay, suốt tháng chẳng
được múa gậy, tôi thấy chú đánh nhau với nó mà thèm quá, chân tay ngứa ngáy không chịu nổi, bèn nhảy vào đùa một tí, ai ngờ nó không dám chơi, bỏ chạy mất.

Hai người nắm tay nhau, cười cười nói nói, quay về gặp
Đường Tăng. Đường Tăng hỏi:

- Bắt được yêu quái chưa? Hành Giả thưa:
- Yêu quái không dám đánh nhau, lẩn xuống đáy sông rồi. Đường Tăng nói:
- Yêu quái ở đây đã lâu, biết rõ nông sâu. Dòng sông này nước yếu mà rộng mênh mông, thuyền bè lại không có, phải có người biết rõ luồng lạch chỉ dẫn, thì mới qua được.

Hành Giả nói:

- Đúng đấy. Người ta thường nói: “Ở đâu biết đó[153]


, yêu

quái ở đây chắc chắn biết rõ tính nước, nếu bắt được nó thì đừng có giết, để nó đưa sư phụ qua sông rồi hãy hay.

Bát Giới nói:

- Anh bất tất phải nghi ngờ, em nhường anh đi bắt nó đấy, để em ngồi trông sư phụ cho.

Hành Giả cười, nói:

- Chú em ạ, điều đó anh không dám nói mép. Việc dưới nước anh không quen lắm. Muốn đi được thì anh tay phải bấm quyết, mồm phải đọc thần chú “tị thủy” hoặc phải biến thành các loại tôm, cá, ba ba cơ. Chứ còn đánh nhau thì dù trên mây trên núi, những việc khó khăn phức tạp đến đâu anh cũng làm được. Chỉ
[154]
có việc đấm đá

Bát Giới nói:

 dưới nước là anh kém cỏi thôi.
- Trước kia, hồi em làm Tổng đốc Thiên Hà, cai quản tám mươi vạn quân thủy, cũng quen sông nước một chút. Chỉ ngại già trẻ họ hàng ba đời bảy kiếp nhà nó ùa cả lại, em không chống nổi, bị nó bắt thì sao?

Hành Giả nói:

- Em xuống nước đánh nhau với nó thì đừng có ham đánh, không cần thắng bại, cốt dử nó lên bờ anh sẽ giúp cho một tay.

Bát Giới nói:

- Đúng đấy. Em đi nhé!

Nói xong cởi ngay chiếc áo gấm xanh và đôi giày ra, hai tay múa đinh ba, rẽ nước, lại dùng tài nghệ cũ rẽ sông rạch sóng xuống thẳng đáy sông.

Lại nói chuyện yêu quái thua trận quay về, còn đang thở hổn hển, lại nghe thấy có tiếng người xô nước réo vang, vội nhỏm dậy quan sát, thì thấy đó là Bát Giới đang cầm đinh ba rẽ nước, bèn vác trượng ngăn lại, quát:

- Lão hòa thượng kia đi đâu, nhìn cây trượng đây! Bát Giới giơ đinh ba gạt ra, nói:
- Nhà ngươi là yêu quái nào mà dám chặn đường ta? Yêu quái nói:
- Nhà ngươi cũng không nhận ra ta à? Ta chẳng phải yêu ma quỷ quái, cũng chẳng phải tiểu tốt vô danh.

Bát Giới nói:

- Không là yêu ma quỷ quái sao lại sống ở đây hại người? Họ tên nhà ngươi là gì hãy khai ra cho thật, thì ta tha chết cho!

Yêu quái nói:

- Ta đây:
Từ nhỏ sinh ra đã khỏe rồi,

Non sông muôn dặm vẫn rong chơi, Trong cửa Nam thiên ta được trọng, Linh Tiêu điện ấy mấy ai bằng!
Thẻ bài đầu hổ thắt ngang lưng, Cây gậy hàng yêu tay chắc cầm, Đầu đội kim khôi ngời lấp lánh,
Giáp vàng mình khoác sáng long lanh.

Hộ giá đi về ta bước trước, Ra vào triều chính ở ngôi trên, Hội đào mở tại Dao Trì ấy,
Vương Mẫu cho mời các tướng lên.

Tuột tay làm vỡ chén pha lê, Thiên thần sợ hãi cuống cà kê, Thượng Đế nổi ngay cơn thịnh nộ, Sai Tả phụ tướng giải đem đi. Cách hết chức quan, lột áo xống,
Điệu đến pháp trường chém chẳng tha, May nhờ Xích Cước thiên tiên cứu, Xin với Ngọc Hoàng thả tớ ra.
Ơn trời tha chết chẳng gia hình, Đầy xuống Lưu Sa chỗ náu mình, No bụng nằm khèo nơi đáy nước, Đói lòng rẽ sóng hại sinh linh. Tiều phu gặp tớ là toi mạng,
Ngư ông gặp tớ cũng bỏ đời, Bao kẻ qua đây đều xực tuốt, Hại người là tớ rõ mười mươi.
Ngươi dám đến đây gây sự phỏng?

Bụng ta đang đói lắm rồi đây, Dẫu rằng thô kệch nhưng dùng tạm, Nướng chả làm nem, đánh bữa say!
Bát Giới nghe xong, giận lắm, quát:

- Đồ súc vật hèn mọn có mắt như mù! Lão Trư đây còn nhẹ hơn cả bọt nước mà dám bảo thô kệch, băm để làm nem. Hóa ra nhà ngươi bảo ta là đồ bị thịt à? Chớ có vô lễ, hãy nếm một mũi đinh ba của ông tổ ngươi đây!

Yêu quái thấy cây đinh ba đánh tới, bèn dùng ngay miếng “chim phượng gật đầu” né tránh. Hai bên từ đáy sông đánh lên mặt nước, đạp dẫm trên mặt sóng. Trận này còn quyết liệt hơn trận trước:

Tướng Quyển Liêm, soái Thiên Bồng

Khoe võ nghệ, hiểu thần thông.

Bên này: Bảo trượng hàng yêu nhằm đầu bổ, Bên kia: Đinh ba chín mũi mặc sức vung. Núi sông chấn động.
Sóng cả cuộn tung.

Hung như Thái Tuế rách tràng phan, Ác tựa Tang Môn tung lọng báu
Một bên: Một lòng một dạ bảo vệ Đường Tăng, Một bên: Phạm tội tày đình biến làm thủy quái.
Một phát đinh ba chín vết thương, Trượng kia bổ xuống hồn phách bại. Đánh qua và đánh lại,
Lừa mưu như cuộc cờ

Xem ra chỉ tại người lấy kinh, Nộ khí ngất trời không nhẫn nại.
Đến nỗi: Cá rô, cá chép lánh cho xa.

Thuồng luồng ba ba đều sợ hãi. Tôm hồng cua tía chết lăn quay, Chư thần thủy phủ lên trời lạy,
Chỉ thấy ầm ầm nước tung cùng sóng lật, Đất trời u ám tựa đêm đen…
Hai bên đánh nhau suốt hai giờ liền không phân thắng bại. Đó mới thật là: Nồi đồng gặp chổi sắt, khánh ngọc đối chuông vàng.

Lại nói chuyện Đại Thánh bảo vệ Đường Tăng, đứng bên cạnh mắt chăm chăm nhìn hai người đánh nhau trên mặt nước, nhưng không ra tay, bỗng thấy Bát Giới vung dứ đinh ba, vờ thua quay đầu chạy lên bờ phía đông. Yêu quái đuổi theo sau, nhưng khi tới sát bờ sông, Hành Giả nhịn không được, buông sư phụ, rút cây gậy sắt, nhảy tới bờ sông, nhằm đầu yêu quái bổ xuống. Yêu quái không dám đón đỡ, ùm một cái, lại lặn xuống đáy sông. Bát Giới quát:

- Anh Bật Mã Ôn thật là đồ khỉ nóng nảy, chậm một tí nữa đợi em dử nó lên chỗ cao, anh sẽ đứng chặn nó ngay ở bờ sông, để nó không quay đầu về được thì tóm được nó rồi. Lần này biết bao giờ nó mới chui ra?

Hành Giả cười nói:
- Chú ngốc ơi, thôi đừng càu nhàu nữa, tạm thời quay về gặp sư phụ đã.

Bát Giới cùng Hành Giả quay về chỗ bờ cao gặp Tam Tạng. Tam Tạng nghiêng mình nói:

- Các con vất vả quá! Bát Giới nói:
- Tạm không nói vất vả vội. Chỉ cốt hàng phục được yêu quái, đưa được sư phụ qua sông, ấy mới là kế vẹn toàn.

Tam Tạng hỏi:

- Vừa rồi con đánh nhau với yêu quái thế nào? Bát Giới thưa:
- Tài nghệ của nó đáng là đối thủ của con lắm. Đang đánh nhau, con giả vờ thua, nó đuổi tới bờ sông, vừa thấy sư huynh vung gậy sắt lên, là nó chạy biến.

Tam Tạng nói:

- Vậy thì làm thế nào? Hành Giả nói:
- Sư phụ yên tâm chớ có sốt ruột. Bây giờ trời cũng tối rồi, tạm ngồi ở đây, đợi lão Tôn đi kiếm cơm chay, ăn xong đi ngủ, mai tính sau.

Bát Giới nói:

- Phải đấy, anh đi luôn và về ngay nhé!

Hành Giả lập tức tung mình lên đám mây, bay thẳng đến nhà dân ở phía bắc xin bát cơm chay mang về dâng sư phụ, Tam Tạng thấy Hành Giả về nhanh quá, bèn nói:

- Ngộ Không này, con đi xin cơm, sao không hỏi luôn họ cách qua sông, chẳng hơn phải đánh nhau với yêu quái sao?
Hành Giả cười, nói:

- Nhà dân cách đây xa lắm, tới năm bảy nghìn dặm, họ đâu có biết tinh nước, hỏi cũng vô ích.

Bát Giới nói:

- Anh lại nói phét rồi. Năm bảy nghìn dặm mà sao anh về nhanh thế?

Hành Giả nói:

- Chú hiểu làm sao được! Mỗi một cân đẩu vân của lão Tôn đi được mười vạn tám nghìn dặm. Năm bảy nghìn dặm đối với lão Tôn chỉ có hai cái gật đầu, một cái vặn mình là tới nơi, có gì là khó!

Bát Giới nói:

- Này anh, nếu dễ như vậy, thì anh cõng quách sư phụ, gật đầu, cúi người vài cái là sang qua, việc gì phải đánh nhau vất vả với yêu quái nữa?

Hành Giả nói:

- Chú cũng biết cưỡi mây, sao chú không cõng quách sư phụ đi?

Bát Giới nói:

- Sư phụ thịt xương phàm tục nặng như núi Thái Sơn, tôi cõng làm sao được, phải nhờ cân đẩu vân của anh mới được.

Hành Giả nói:

- Phép cân đẩu vân của tôi cũng từa tựa như phép cưỡi mây vậy, chỉ có điều đi được xa hơn thôi. Chú không cõng được, thì tôi cũng chịu không cõng được. Từ xưa đã có câu nói: “Cắp Thái Sơn nhẹ như hạt cải dắt người phàm khó thoát bụi hồng”, đến như con yêu quái độc ác kia, dẫu có phép thuật cũng chỉ loanh quanh đi trên mặt đất thôi, không thể dắt nó lên trên
không mà đi được. Những phép ấy lão Tôn này biết hết, kể cả phép tàng hình độn thổ nữa. Riêng sư phụ thì còn phải trải khắp các nước, chưa thể thoát khỏi bể khổ ngay được, vì vậy một tấc, một bước cũng khó. Chú và tôi chỉ làm công việc bảo vệ, giữ gìn tính mạng thầy an toàn, chứ không gánh đỡ khổ não cho thầy được, mà cũng không tự lấy được kinh đâu, dù có đến trước gặp đức Phật, thì Phật cũng chẳng giao kinh cho chú và tôi. Thế mới gọi là:

Muốn nên sự việc dễ dàng

Bụng đây ắt phải coi thường như không.

Chú ngốc nghe ra, vâng dạ gật đầu. Ba thầy trò ăn qua loa một chút cơm lót lòng, rồi ngủ ở bờ đông sông Lưu Sa.

Sáng hôm sau, Tam Tạng nói:

- Ngộ Không này, hôm nay con tính sao? Hành Giả nói:
- Chẳng phải tính sao cả, Bát Giới phải xuống nước thôi. Bát Giới nói:
- Anh chỉ muốn khô ráo, bắt tôi xuống nước hoài. Hành Giả nói:
- Chuyến này tôi không nóng nảy nữa đâu, chỉ cần chú dẫn nó lên bờ, tôi sẽ chặn nó ở bờ sông, không để nó quay về, phải bắt bằng được nó.

Bát Giới xoa mặt, lấy lại tinh thần, vác đinh ba, xuống bờ sông, rẽ nước xuống thẳng sào huyệt yêu quái. Yêu quái vừa ngủ dậy, nghe nước xô, vội vàng quay đầu trợn mắt nhìn, thấy Bát Giới vác đinh ba tiến lại, bèn nhảy ra ngăn lại, quát:

- Đứng lại! Hãy trông cây gậy đây! Bát Giới giơ đinh ba gạt ra, nói:
- Cái thứ gậy chống đám ma ấy mà dám bảo ông tổ nhà ngươi
“Hãy trông cây gậy à”?

Yêu quái nói:

- Nhà ngươi thì biết quái gì! Gậy của ta:

Bảo trượng ta đây vinh dự to, Là thoi dệt lụa ở cung nga.
Ngô Cương chọn một cành gỗ tốt, Lỗ Ban thợ giỏi chế mà ra[155] Bên trong đỏ ối tựa hoàng kim,
Ngoài vỏ muôn đường vân ngọc in. “Bảo trượng hàng yêu” là tên gọi, Canh giữ Linh Tiêu quỷ quái chùn Từ thuở thăng quan đại tướng quân, Ngọc Hoàng cho tớ giắt bên mình. Ngắn dài biến hóa tùy lòng tớ,
To nhỏ thần thông mặc ý mình. Đã từng hộ giá hội Bàn Đào. Đã từng dự hội ở trời cao.
Canh điện được cùng thần thánh họp.

Nâng rèm đón tiếp khách ra vào. Luyện thành binh khí rất linh thiêng, Chẳng giống giáo quèn dưới thế gian, Từ khi bị biếm đầy trần giới,
Mặc sức tung hoành chốn nước non.
Chẳng phải to gan nói mẽ mầu, Giáo gươm thiên hạ thấm vào đâu, Cái thứ đinh ba cùn của chú,
Đem mà xới đất hoặc vun rau.

Bát Giới cười, nói:

- Đồ súc vật hèn hạ, cho dù là đồ xới rau gì cũng được, nhưng chỉ e khi bổ xuống, nhà ngươi không có chỗ dán thuốc cao, chín vết răng máu chảy như xối, nếu không chết thì đến già vẫn thành tật đấy!

Yêu quái vào miếng đánh liền. Từ đáy sông, hai bên lại đánh lên mặt nước. Lần này càng dữ dội hơn:

Bảo trượng múa, đinh ba vờn,

Nói năng chẳng hiểu, chẳng thân quen.

Chỉ tại mộc khắc kim chẳng hợp, Dẫn đến hai bên đánh mấy phen. Không thắng bại, chẳng ngả nghiêng, Nước tung sóng vọt cuộn dâng lên.
Kẻ này khí giận ngút trời đâu có chịu, Người kia danh dự bị nhục nào có buông. Đinh ba, bảo trượng tài thi thố,
Lưu Sa nước độc sóng trào dâng. Đầy vẻ hiên ngang cùng mệt mỏi, Chỉ tại Đường Tăng muốn lấy kinh. Đinh ba hiểm vô cùng,
Bảo trượng tài vô kể.

Người này túm chặt toan kéo lên bờ,
Kẻ nọ chẳng buông định lôi xuống nước.

Tiếng gầm như sét, cá, rồng run, Trời đất tối om, quỷ thần sợ.
Lần này, đánh nhau tới ba mươi hiệp vẫn không phân thắng bại. Bát Giới lại dùng mẹo lừa, giả thua, kéo đinh ba bỏ chạy. Yêu quái đuổi sát theo sau, sóng trào nước cuộn. Đến bở sông, Bát Giới quát:

- Đồ yêu quái hèn mọn, mày lên đây, lên hẳn chỗ bờ cao này, chân đạp đất đánh nhau mới giỏi!

Yêu quái mắng lại:

- Nhà ngươi định lừa ta lên bờ, rủ đứa khác đến đánh hôi chứ gì? Mày xuống đây, lại đánh nhau ở dưới nước với ta!

Thì ra yêu quái biết rồi, bướng bỉnh không chịu lên bờ, chỉ đứng sát bờ sông cãi nhau với Bát Giới.

Lại nói chuyện Hành Giả thấy yêu quái không chịu lên bờ, cáu tiết chịu không nổi vì biết rằng không bắt được nó, bèn nói với Tam Tạng:

- Sư phụ ngồi đây, để con cho nó một miếng “Điểu đói vồ mồi”.



Bèn dùng phép cân đẩu vân, nhảy vút lên không rồi bay sà xuống quắp yêu quái. Yêu quái đang cãi nhau với Bát Giới, bỗng nghe thấy tiếng gió vù vù, vội vàng ngẩng đầu lên nhìn, thấy Hành Giả đang từ trên mây sà xuống, thì thu ngay bảo trượng, nhảy tùm xuống nước, lặn tít đáy sâu, chẳng thấy tăm hơi đâu nữa. Hành Giả đứng bên bờ sông nói với Bát Giới:

- Chú em này, con yêu quái này tinh ranh lắm! Nó không chịu lên bờ thì biết tính sao?

Bát Giới nói:

- Khó thật, khó thật! Không sao thắng được nó! Em mang hết sức bình sinh mà cũng chỉ ngang tài với nó thôi.

Hành Giả nói:

- Về gặp sư phụ đã.

Hai người lại quay về chỗ bờ cao gặp Đường Tăng, nói rằng
khó bắt yêu quái lắm. Tam Tạng nước mắt chứa chan nói:

- Khó khăn thế này biết làm sao mà qua được? Hành Giả nói:
- Sư phụ đừng buồn phiền nữa. Yêu quái lặn dưới đáy sông thực là khó quá. Bát Giới, chú ở đây bảo vệ sư phụ đừng đánh nhau với nó nữa, để lão Tôn sang Nam Hải nhé!

Bát Giới hỏi:

- Anh sang Nam Hải làm gì? Hành Giả nói:
- Trông nom việc lấy kinh này là Quan Âm Bồ Tát, giải thoát cho chúng ta cũng là ở Người. Hôm nay gặp trắc trở ở sông Lưu Sa, không qua được, ngoài Người ra thì còn ai giải quyết được? Để tôi đi mời Người còn hơn là đánh nhau với yêu quái.

Bát Giới nói:

- Đúng đấy, đúng đấy! Sư huynh này, khi đến, anh nhớ nói giùm em một điều với Người rằng: Em vẫn luôn nghe Người chỉ giáo.

Tam Tạng nói:

- Ngộ Không, nếu con đi mời Bồ Tát thì đừng chần chừ nữa, đi ngay rồi về ngay nhé!

Hành Giả lập tức dùng phép cân đẩu vân, đến thẳng Nam Hải. Chà! Mới chưa đầy nửa giờ đã trông thấy núi Phổ Đà rồi. Trong giây lát, Hành Giả dừng mây hạ xuống bên ngoài rừng trúc tía, đã thấy hai mươi bốn người trời ra đón, hỏi:

- Đại Thánh đến có việc gì vậy? Hành Giả thưa:
- Sư phụ gặp nạn, nên tôi phải đến yết kiến Bồ Tát.
Người trời nói:

- Xin mời ngồi, để chúng tôi vào báo.

Các vị người trời trực nhật vào thẳng động Triều Âm báo:

- Tôn Ngộ Không có việc xin gặp.

Bồ Tát đang cùng Phụng Châu long nữ vịn lan can ngắm hoa bên ao Bảo Liên, nghe báo, lập tức quay về động, mở cửa mời vào. Đại Thánh nghiêm trang đứng đợi. Bồ Tát hỏi:

- Tại sao nhà ngươi không bảo vệ Đường Tăng? Đến đây gặp ta có việc gì?

Hành Giả thưa:

- Kính thưa Bồ Tát, sư phụ tôi lần trước ở thôn Cao Lão có thu nạp được một đồ đệ tên là Trư Bát Giới, đội ơn Bồ Tát được ban pháp danh là Ngộ Năng. Vừa mới vượt qua núi Hoàng Phong, nay lại gặp sông Lưu Sa rộng tám trăm dặm, nước sông là thứ nước yếu sâu ba nghìn, sư phụ khó bề qua được. Dưới sông lại có con yêu quái võ nghệ cao cường, Ngộ Năng đã đánh nhau với nó ba lần, không sao thắng nổi, bị nó cản trở không qua được sông, vì vậy phải đến đây mong Bồ Tát rủ lòng thương giúp đỡ cho.

Bồ Tát nói:

- Đồ khỉ chỉ hay tự mãn, không chịu nói chuyện bảo vệ
Đường Tăng ra chứ gì?

Hành Giả nói:

- Chúng tôi chỉ cốt bắt nó, rồi bảo nó đưa sư phụ qua sông. Việc dưới nước tôi không tinh, chỉ có Ngộ Năng tìm ra sào huyệt đánh nhau với nó. Chắc là Ngộ Năng chưa nói chuyện đi lấy kinh ra đâu.

Bồ Tát nói:
- Con yêu quái ở sông Lưu Sa vốn là Quyển Liêm đại tướng xuống trần. Ta cũng đã khuyến thiện nó, khuyên nó đi bảo vệ người lấy kinh, giá mà nhà ngươi nói ra là người bên phương Đông đi lấy kinh, thì nó chẳng đánh nhau với nhà ngươi làm gì, lập tức quy thuận ngay.

Hành Giả nói:

- Nay yêu quái sợ hãi chẳng dám đánh nhau, không chịu lên bờ, trốn mất tăm dưới đáy sông, làm thế nào bắt nó quy thuận, sư phụ làm sao vượt qua được thứ nước yếu ấy?

Bồ Tát gọi ngay Huệ Ngạn và lấy trong ống tay áo ra một quả hồ lô đỏ dặn:

- Nhà ngươi mang quả hồ lô này, đi cùng với Hành Giả đến sông Lưu Sa, đứng trên mặt nước gọi “Ngộ Tĩnh” là nó ra ngay. Sau đó, dẫn nó tới quy y Đường Tăng, tháo chín chiếc đầu lâu trên người nó ra, bày thành hình chín cung, đặt quả hồ lô vào giữa là sẽ thành ngay một con thuyền đưa Đường Tăng vượt sông Lưu Sa.

Huệ Ngạn tuân lệnh cùng với Ngộ Không ra khỏi động Triều
Âm, từ biệt rừng trúc tía. Có bài thơ làm chứng rằng:

Ngũ hành phối hợp, hợp thiên chân, Nhận rõ chủ nhân trước đã từng
Cơ bản luyện thành, nên diệu dụng, Biện minh tà chính thấy nguyên nhân. Kim về tính vẫn là đồng loại,
Mộc chạy mong tình cũng chẳng xong, Hai xứ công thành, thành tịch mịch, Điều hòa nước lửa, bụi trần không.
Chẳng mấy chốc hai người đã dừng mây, xuống thẳng bờ
sông Lưu Sa. Trư Bát Giới nhận ra Mộc Soa, Hành Giả bèn dẫn sư phụ ra đón. Mộc Soa chào Tam Tạng xong, lại đến chào Trư Bát Giới. Bát Giới nói:

- Nhờ ơn ngài chỉ giáo, được gặp Bồ Tát, lão Trư tôi đã tuân theo lời dạy, nay mừng đã được vào hàng sa môn. Từ bấy đến nay, trên đường hành trình khó nhọc, chưa kịp cảm tạ, mong ngài thứ tội.

Hành Giả nói:

- Đừng nói lôi thôi nữa, chúng ta gọi ngay thằng ấy ra thôi. Tam Tạng hỏi:
- Gọi ai?

Hành Giả thưa:

- Con đã gặp Bồ Tát trình bày mọi chuyện. Bồ Tát nói: con yêu quái ở sông Lưu sa chính là Quyển Liêm đại tướng xuống trần, vì có tội ở trên trời, nên bị đầy xuống đây, biến hình thành yêu quái. Nó đã được Bồ Tát khuyến thiện, nguyện theo sư phụ sang phương Tây. Tại chúng ta không nói chuyện đi lấy kinh ra, nên phải đánh nhau vất vả. Nay Bồ Tát sai Mộc Soa mang quả hồ lô này, cùng với nó kết làm thuyền để chở sư phụ qua sông đây.

Tam Tạng nghe xong, lạy cảm ơn mãi, rồi cung kính nói với
Mộc Soa:

- Cúi mong bậc tôn giả giúp ngay cho.

Mộc Soa bưng quả hồ lô, bay vút đi rồi hạ xuống trên mặt sông Lưu Sa, cất tiếng gọi:

- Ngộ Tĩnh, Ngộ Tĩnh! Người lấy kinh chờ ở đây đã lâu sao không ra quy thuận?

Lại nói chuyện yêu quái sợ Hành Giả quá, đang nín thở nằm
trong sào huyệt, bỗng nghe thấy tiếng gọi pháp danh của mình, biết chắc là Quan Âm Bồ Tát, lại nghe thấy tiếng “người lấy kinh ở đây”, thì đến búa rìu cũng không sợ nữa, vội vàng rẽ sóng chui lên, nhận ra Mộc Soa, bèn tươi cười bước đến chào, nói:

- Xin bậc tôn giả tha cho tội không kịp đón tiếp, Bồ Tát đâu rồi?

Mộc Soa nói:

- Sư phụ ta không đến, sai ta đến dặn dò ngươi sớm theo Đường Tăng làm đồ đệ, và bảo nhà ngươi tháo chín chiếc đầu lâu treo ở cổ ngươi ra, cùng với chiếc hồ lô này bày thành hình chín cung, kết làm một chiếc thuyền, chở sư phụ qua sông Lưu Sa.

Ngộ Tĩnh nói:

- Người lấy kinh ở đâu ạ? Mộc Soa chỉ tay nói:
- Đang ngồi ở bờ phía đông kia kìa!

Ngộ Tĩnh chỉ thấy có Bát Giới, bèn nói:

- Con quái vật kia không biết ở đâu tới đánh nhau với tôi suốt hai ngày nay, có thấy nó nói ra nửa lời chuyện đi lấy kinh đâu!

Lại nhìn thấy cả Hành Giả, bèn nói:

- Cả ông tướng kia nữa, hắn giúp thằng này đánh hôi tôi ghê gớm lắm. Tôi không đi đâu.

Mộc Soa nói:

- Kia là Trư Bát Giới, đây là Tôn Hành Giả, cả hai đều là đồ đệ của Đường Tăng, đều được Bồ tát khuyến thiện cả, việc gì mà sợ. Ta và nhà ngươi mau đến gặp Đường Tăng.

Lúc ấy Ngộ Tĩnh mới cất bảo trượng, sửa lại chiếc áo gấm
vòng, nhảy lên bờ, quỳ xuống trước mặt Đường Tăng, nói:

- Thưa sư phụ, đệ tử có mắt như mù, không nhận ra sư phụ, làm nhiều điều vô lễ, muốn xin sư phụ tha tội.

Bát Giới nói:

- Đồ bị thịt, sao không quy y sớm, chỉ một mực đánh nhau với ta mãi, còn nói cái gì?

Hành Giả cười nói:

- Chú đừng trách hắn, tại chúng ta không nói chuyện đi lấy kinh và họ tên ra đấy.

Tam Tạng hỏi:

- Nhà ngươi thực có thành tâm quy y đạo ta không? Ngộ Tĩnh thưa:
- Đệ tử đội ơn Bồ Tát dạy bảo, lấy tên sông làm họ, đặt pháp danh cho con là Sa Ngộ Tĩnh, lẽ nào lại không theo sư phụ?

Tam Tạng nói:

- Thôi được, Bèn gọi:
- Ngộ Không, mang giới đao lại đây cắt tóc cho hắn.

Hành Giả vâng lời, lấy giới đao ra cạo trọc đầu cho Ngộ Tĩnh. Ngộ Tĩnh lại cúi lạy Tam Tạng, cùng Hành Giả và Bát giới kết làm anh em. Tam Tạng thấy Ngộ Tĩnh cúi chào hệt phong cách nhà sư, bèn gọi là Sa hòa thượng. Mộc Soa nói:

- Đã giữ theo đạo Già Lam thì xin làm thuyền ngay cho.

Ngộ Tĩnh không chút chần chừ, tháo chuỗi đầu lâu ở cổ ra, lấy dây xâu thành hình chín cung, đặt chiếc hồ lô của Bồ Tát vào giữa, rồi mời sư phụ xuống thuyền. Tam Tạng bước lên thuyền, ngồi vào khoang giữa, thấy quả nhiên chắc chắn nhẹ nhàng như
một con đò vậy. Bát Giới ngồi bên trái, Ngộ Tĩnh ngồi bên phải đỡ Đường Tăng. Tôn Hành Giả dắt ngựa đứng sát ngay phía sau. Trên đỉnh đầu còn có Mộc Soa nâng đỡ nữa. Sư phụ lúc ấy mới nhẹ nhàng chắc chắn vượt sông Lưu Sa, gió lặng sóng êm qua làn nước yếu. Con thuyền vút đi như tên, loáng một cái mọi người đã đặt chân lên bờ bên kia, thoát khỏi sóng to, không dính nước bùn, chân tay khô ráo, thanh tịnh vô vi. Lúc thầy trò bước chân lên mặt đất. Mộc Soa cũng dừng đám mây lành thu lấy hồ lô! Chín chiếc đầu lâu giây phút biến thành chín vệt gió âm, thảy đều lặng lẽ biến mất cả. Tam Tạng lạy tạ Mộc Soa và Bồ Tát. Thật là:

Cưỡi gió Mộc Soa về biển Đông, Lên yên Tam Tạng thẳng trời Tây.
Cuối cùng, không biết bao giờ lấy được kinh, thành chính quả, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ HAI MƯƠI BA


Tam Tạng không quên gốc,



Bốn thánh thử lòng thiền


Vâng mệnh san



g Tây thẳm dặm đường

Gió th



u hiu hắt cỏ hoa vàng

Khỉ kia trói buộc cần chi chão

Ngựa nọ ruổi rong há giật cương

[156]
Mộc mẫu, kim công lòng vẫn hợp

Hoàng bà, Xích tử gốc thân thương[157]

Cắn đôi đạn sắt ngời tin tức[158]

Bát nhã ba la đến niết bàn.

Hồi này nói về việc trên đường đi lấy kinh, không xa rời đạo, biết chăm lo đến cái gốc của cả đời vậy.

Lại nói chuyện bốn thầy trò giác ngộ đạo chân như, thoát vòng trần tục, vượt qua sông Lưu Sa, hầu như không gặp trở ngại nào cả, cứ thẳng đường lớn sang phương Tây. Trải mấy non xanh nước biếc, ngắm khắp cỏ nội hoa rừng, ngày tháng thoi đưa, thấm thoắt đã sang tiết thu tháng chín. Chỉ thấy:
Rừng phong đỏ khắp núi, Hoa cúc vàng gió thu. Buồn bã rền giọng dế, Ra rả tiếng ve ru.
Xác xơ sen rủ lá, Um tùm quất vàng tơ.
Đáng thương vài hàng nhan, Chấm phá tít cao mờ…
Đang đi bất giác trời đã tối. Tam Tạng nói:

- Đồ đệ ơi, bây giờ trời đã tối rồi, tới đâu tìm chỗ nghỉ chứ? Hành Giả nói:
- Sư phụ nói sai rồi. Người xuất gia ăn gió nằm sương, gội mưa tắm nắng, gặp đâu là nhà đấy, sao lại nói tìm chỗ nghỉ?

Trư Bát Giới nói:

- Anh ơi, anh chỉ biết anh đi tay không, đâu có biết thương đến người gánh nặng? Từ lúc qua sông Lưu Sa, rặt những trèo đèo lội suối, gánh hành lý lại nặng trĩu trên vai, tôi mệt lắm rồi, phải tìm nhà dân, một là nghỉ ngơi ăn uống, hai là di dưỡng tinh thần, thế mới phải chứ!

Hành Giả nói:

- Đồ ngốc, nói năng lại có ý oán hận rồi. Cứ như ở thôn Cao Lão, quen ỷ lại vào người, chẳng biết tự lực là không được đâu. Đã là người theo đạo Sa Môn thì phải chịu đựng cực khổ mới làm được đồ đệ chứ!

Bát Giới nói:

- Anh ơi, anh thử nhìn xem gánh hành lý này nặng bao nhiêu? Hành Giả nói:
- Từ khi có chú và Sa Tăng, tôi có gánh nữa đâu mà biết? Bát Giới nói:
- Để tôi nói cho mà nghe:

Hai đôi sọt mây rừng Tám sợi thừng dài ngắn Lại sợ mưa phùn thấm Chăn bọc ba bốn lần Đòn gánh tre uốn còng Hai đầu đinh sắt đóng
Gậy sắt chín vòng bịt đồng sáng bóng

Áo nan đai mấy, nón lá to xòe…

Lắm thứ như thế, một mình lão Trư gánh hết ngày này sang ngày khác thì chịu sao nổi. Có lẽ một mình anh là đồ đệ của sư phụ, còn tôi là thằng gánh thuê chắc?

Hành Giả cười nói

- Chú ngốc ơi, chú nói với ai đấy? Bát Giới nói:
- Tôi nói với anh chứ ai nữa. Hành Giả nói:
- Chú nói sai rồi. Tôi phải trông nom sư phụ, còn chú và Sa Tăng chuyên gánh đồ chăn ngựa. Nếu lười nhác tôi sẽ nện cho một gậy!

Bát Giới nói:

- Ấy đừng nói đánh, đánh là lấy thịt đè người. Tôi biết tính anh cao ngạo chẳng chịu gánh giúp đâu. Nhưng con ngựa sư phụ cưỡi kia trông thật béo tốt to cao, mà chỉ mỗi một ông sư cưỡi
thôi. Giá anh bảo nó chở hộ mấy thứ, thì mới là tình anh em chứ!

Hành Giả nói:

- Chú bảo nó là ngựa thường sao? Nó chẳng phải là ngựa thường  đâu,  mà  vốn  là  con  trai  Tây  Hải  long  vương  Ngao Nhuận, tên gọi Long Mã tam thái tử. Do để lửa đốt cháy viên ngọc minh châu trên nóc điện, bị bố tố cáo với Ngọc Hoàng là ngỗ ngược, phạm vào luật trời. May nhờ có Quan Âm Bồ Tát cứu mạng, xin cho sống ở khe Ưng Sầu đợi sư phụ. Lại được Bồ Tát thân đến tận nơi cưa sừng lột vẩy, dứt hạt châu dưới cổ ra, mới biến thành con ngựa, nguyện cõng sư phụ sang phương Tây lễ Phật. Ấy là mỗi người có một công quả riêng, chú đừng tị nạnh nữa.

Sa Tăng nghe vậy hỏi:

- Này anh, đúng rồng thật không? Hành Giả đáp:
- Rồng thật. Bát Giới nói:
- Tôi nghe người xưa nói: Rồng có thể phun mây nhả mù, đất lở cát bay, có tài bạt sơn rẫy núi, thừa sức nghiêng biển dốc sóng cơ mà. Sao hôm nay thấy nó đi ì ạch lắm?

Hành Giả nói:

- Chú muốn nó phóng nhanh, để tôi bảo nó phóng nhanh cho mà xem.

Hành Giả bèn vung gậy sắt nạm vàng, muôn đạo hào quang lấp lánh. Chú ngựa thấy Hành Giả vung gậy, ngỡ bị đánh, sợ quá tung bốn vó phóng như bay. Sư phụ tay yếu kìm lại không nổi. Nó phóng hết sức thẳng tới sườn non, mới bước thong thả. Sư phụ hơi thở vừa định, ngẩng đầu nhìn thấy xa xa dưới bóng rừng
thông có một tòa lâu đài nguy nga tráng lệ:

Cổng trùm bóng trắc biếc, Nhà sát vách núi xanh.
Mấy hàng tùng mướt mướt, Dăm ngọn trúc thanh thanh.
Bên dậu cúc khoe sắc, Chân cầu lan soi mình. Nhà cửa vôi quét sáng,
Tường gạch bọc xung quanh.

Lâu đài cực tráng lệ, Phòng lớn rất u thâm. Không trâu, dê, gà, chó, Mùa màng chắc đã xong.
Sư phụ đang dừng cương ngắm nghía, bỗng thấy anh em
Hành Giả kéo đến. Ngộ Không nói:

- Sư phụ không bị ngã ngựa chứ ạ? Tam Tạng mắng:
- Đồ con khỉ hỗn láo, nhà ngươi làm con ngựa sợ suýt nữa làm ngã ta.

Hành Giả cười ngất, nói:

- Sư phụ đừng mắng con, tại Bát Giới bảo ngựa đi chậm, nên con bắt nó chạy nhanh lên một tí.

Chú ngốc phải rảo cẳng đuổi theo con ngựa, thở hồng hộc, miệng làu bàu:

- Thôi, thôi, anh chỉ biết mình thôi, không đếm xỉa người khác. Gánh nặng bỏ mẹ, lại còn làm người ta phải lẽo đẽo đuổi
theo con ngựa.

Tam Tạng nói:

- Đồ đệ này, đằng kia có một trang viên, chúng ta hãy tới đó ngủ nhờ đi!

Hành Giả nghe nói vội ngẩng đầu giương mắt nhìn, thấy quả là trên không mây lành vây bọc, khí đẹp bao trùm, trong bụng biết là thần tiên biến hóa, nhưng không dám lộ thiên cơ, chỉ nói:

- Vâng, vâng. Chúng ta đến đấy ngủ nhờ thôi.

Tam Tạng vội vàng xuống ngựa, nhìn thấy một tòa lâu đài chạm trổ điêu khắc, nguy nga tráng lệ. Sa Tăng đặt gánh hành lý xuống. Bát Giới dắt ngựa nói:

- Nhà này giàu sang quá nhỉ!

Hành Giả định bước vào, Tam Tạng ngăn lại, nói:

- Ấy chớ. Ta là người xuất gia, nên tránh sự hiềm nghi, đừng tự tiện xông vào. Hãy đợi trong nhà có người ra, lễ phép xin ngủ nhờ mới được.

Bát Giới buộc ngựa, ngồi ngả tựa vào chân tường. Tam Tạng ngồi trên mặt chiếc trống đá. Hành Giả, Sa Tăng ngồi bên hè nhà. Lúc lâu, chẳng thấy bóng người ra, Hành Giả sốt ruột, đứng dậy đi vào trong cửa nhìn, thấy ba gian nhà to ngoảnh mặt về hướng Nam, rèm cuốn cao. Phía trên cửa, treo một bức hoành phi vẽ cảnh núi thọ biển phúc. Hai bên cột thếp vàng, dán một câu đối bằng giấy đỏ:

Bên cầu liễu yếu tơ buông muộn, Trước viện mai thơm tuyết điểm xuân.
Chính giữa, đặt một chiếc kỷ nhang sơn đen bóng. Trên kỷ đặt một chiếc đỉnh đầu thú, xung quanh có sáu chiếc ghế tựa. Hai bên tường phía đông và phía tây có đặt bức bình phong treo
tranh tứ quý.

Hành Giả đang đứng xem trộm bỗng nghe thấy tiếng chân bước ở phía sau: Một người đàn bà đứng tuổi bước ra, giọng nói ngọt ngào hỏi:

- Ông là ai mà tự tiện vào nhà quả phụ này? Đại Thánh hốt hoảng, dạ dạ vài tiếng rồi nói:
- Tiểu tăng từ nước Đại Đường bên phương Đông, vâng mệnh nhà vua sang phương Tây lễ Phật, cầu kinh. Cả đoàn có bốn người, hành trình tới đây, trời đã tối xẩm, đành vào đây xin
[159]
bà         cho ngủ trọ một đêm.

Người đàn bà tươi cười nói:

- Trưởng lão cùng các vị ấy đâu, xin mời cả vào. Hành Giả cất tiếng gọi:
- Mời sư phụ vào.

Tam Tạng cùng Bát Giới, Sa Tăng dắt ngựa, gánh đồ tiến vào.
Người đàn bà bước ra đón, Bát Giới đưa mắt nhìn trộm, thấy người ấy trang điểm:

Mặc áo gấm nhuộm màu quan lục, Quấn khăn hồng rất mực xinh tươi.
Quần nhung thêu cảnh mĩ miều, Hài hoa chân xỏ ra chiều thướt tha. Đúng mốt mới tóc xòa đen nhánh, Nổi vô cùng óng ánh làn mây,
Lược ngà quý phái đẹp thay,

Trâm cài chênh chếch hây hây sắc vàng.

Tóc mai cánh phượng mơ màng,
Bên tai rủ hạt ngọc cườm long lanh.

Phấn son trẻ đẹp bội phần. Phong lưu hơn lúc thanh tân thuở nào.
Người đàn bà nhìn thấy ba người, càng tỏ vẻ vui hơn, lễ phép mời vào trong nhà. Chào hỏi xong, người đàn bà mời mọi người ngồi uống trà. Một tiểu đồng gái tóc búi, từ sau tấm bình phong bước ra, mang đến khay vàng chén ngọc, hương trà thơm ngát, vị quả ngọt ngào. Thiếu phụ vén tay áo, cánh tay trắng muốt thon thả, nâng chén mời từng người. Uống trà xong lại sai dọn cơm chay. Tam Tạng hỏi:

- Bà họ gì ạ? Nơi đây gọi là gì ạ? Thiếu phụ thưa:
- Nơi đây là đất Tây Ngưu Hạ Châu. Tôi họ Giả, nhà chồng tôi họ Mạc. Bố mẹ chồng tôi không may mất sớm, vợ chồng tôi thừa hưởng gia tài, tiền của hàng vạn quan, ruộng tốt hàng nghìn khoảnh. Chúng tôi xấu số, chẳng có con trai, chỉ sinh được ba cháu gái. Năm ngoái, nhà tôi không may qua đời, một mình tôi góa bụa, đến nay đã mãn tang, cơ nghiệp ruộng nương để lại, anh em họ hàng thì không, chỉ có mẹ con tôi thừa kế, muốn đi bước nữa, chẳng lẽ, vứt bỏ cơ nghiệp. May có trưởng lão quá bộ tới đây, thầy trò đúng bốn người. Mẹ con tôi cũng bốn người, đang muốn ngồi nhà kén chồng, thật là hợp quá. Không biết tôn ý các ngài thế nào?

Tam Tạng nghe nói vờ câm giả điếc, nhắm mắt lặng thinh không đáp.

Người đàn bà lại nói:

- Nhà tôi đây có hơn ba trăm mẫu ruộng cấy, hơn ba trăm khoảnh ruộng màu, trang trại vườn tược cũng hơn ba trăm mẫu, trâu bò hơn một nghìn con, lừa ngựa hàng đàn, lợn dê vô số, bốn
phía đông tây nam bắc có đến sáu bảy mươi cánh đồng cỏ, thôn trang, thóc lúa trong kho dùng tám chín năm không hết, lụa là mặc chục năm nay vẫn còn, tiền của tiêu xài suốt đời thừa thãi, đủ mọi thứ gấm vóc lụa là, bạc vàng châu báu. Nếu thầy trò nhà ngài đổi tâm chuyển ý, làm rể nhà này thì sẽ được thoải mái tự do, vui hưởng vinh hoa phú quý, chẳng hơn sang phương Tây vất vả sao?

Tam Tạng vẫn cứ như ngây như dại, chẳng nói chẳng rằng. Người đàn bà nói tiếp:

- Tôi sinh năm Đinh Hợi, ngày ba tháng ba, vào giờ Dậu, chồng tôi hơn tôi ba tuổi. Năm nay tôi bốn nhăm. Con gái lớn của tôi tên gọi Chân Chân, năm nay hai mươi tuổi; cháu thứ hai là Ái Ái, mười tám tuổi; cháu út là Liên Liên, mười sáu tuổi. Cả ba cháu đều chưa hứa gả bán cho ai. Tôi tuy xấu xí, nhưng các cháu đều có chút nhan sắc, việc nữ công thêu thùa đều giỏi cả. Vì chồng tôi hiếm hoi không có con trai, nên nuôi nấng dạy dỗ các cháu như con trai vậy. Lúc nhỏ các cháu cũng được đi học, cũng biết làm câu đối, thơ phú. Tuy ở núi rừng, nhưng cũng khác xa hạng quê mùa thô kệch, tưởng cũng xứng đáng kết duyên cùng các ngài được. Các ngài hãy vứt bỏ ý muốn cũ, để tóc dài, ở đây làm chủ nhà này, ăn sung mặc sướng, chẳng hơn áo thâm bát sành, giày rơm nón lá sao?

Tam Tạng ngồi ở đằng trước khác nào đứa trẻ sợ tiếng sấm, cò sợ gặp mưa, ngây ngây dại dại, ngả người lơ mơ đưa cặp mắt trắng nhìn lên trời. Bát Giới nghe nói đến gái đẹp, giàu sang như thế trong lòng thấy ngứa ngáy không yên, ngồi trên ghế mà như kim châm vào đít, ngả nghiêng nhấp nhổm, nhịn không nổi, bèn chạy lên níu lấy sư phụ nói:

- Thưa sư phụ, cô nương đây đã thưa chuyện với sư phụ, sao sư phụ cứ lặng thinh, phải chiếu cố một chút chứ!
Tam Tạng ngẩng phắt đầu, hừ một tiếng, mắng Bát Giới:

- Đồ nghiệt súc! Chúng ta là người xuất gia, há lại để giàu sang động tâm, gái đẹp loạn trí, thì còn ra thể thống gì nữa?

Người đàn bà cười nói:

- Khổ lắm, đi tu thì sướng nỗi gì? Tam Tạng hỏi lại:
- Thưa bà, thì người tại gia cũng sướng nỗi gì? Người đàn bà đáp:
- Xin trưởng lão ngồi yên, để tôi nói cái sướng của người tại gia cho trưởng lão nghe. Ngài không thấy sao, có bài thơ làm chứng rằng:

Mùa xuân tha thướt bộ quần là Mùa hạ thưởng sen mặc áo sa Thu tới làm men ngâm rượu nếp Đông về sưởi ấm ở lầu hoa
Bốn mùa hưởng thụ đều sung sướng, Tám tiết ăn chơi đủ ngọc ngà. Trướng gấm màn the đèn nến tỏ,
Còn hơn mỏi miệng niệm Di Đà.

Tam Tạng nói:

- Thưa bà, người tại gia hưởng vinh hoa phú quý, ăn sung mặc sướng, con trai con gái đầy nhà. Sướng thật. Nhưng bà không biết người xuất gia cũng có chỗ sướng. Bà không biết sao? Có bài thơ làm chứng rằng:

Xuất gia lập chí phi thường,

Ái ân rũ sạch mọi đường xưa nay.
Ngoại vật coi nhẹ, nhàn thay Âm dương vũ trụ đủ đầy trong ta. Công quả viên mãn chan hòa,
Sáng lòng thấy tính trở về cố hương.

Gấp trăm tham dục người phàm, Những túi da thối, ai màng chi đâu!
Người đàn bà nghe xong, nổi cáu nói:

- Lão hòa thượng này thật vô lễ! Ta không nể nhà ngươi từ phương Đông xa xôi tới đây thì sẽ tống cổ ra. Ta đã thực lòng thực dạ, mang cả gia tài mời các người ở rể, thế mà nhà ngươi lại khích bác ta. Nhà ngươi đã thụ giới, phát nguyện, suốt đời không hoàn tục nữa thì thôi, còn trong số đồ đệ, để cho nhà ta một người cũng được, tại sao lại cứ khăng khăng từ chối thế?

Tam Tạng thấy người đàn bà nổi cáu, chỉ biết ậm ờ cho qua, rồi bảo Ngộ Không:

- Ngộ Không, con ở lại đây nhé! Hành Giả thưa:
- Con từ bé không biết làm việc đó, sư phụ bảo Bát Giới ấy. Bát Giới nói:
- Anh đừng đùa thế. Phải bàn bạc cho kỹ chứ. Tam Tạng nói:
- Hai con không chịu, để ta bảo Ngộ Tĩnh ở lại vậy. Sa Tăng nói:
- Sư phụ, nghe con nói đây. Con chịu ơn Bồ Tát khuyến hóa, đã chịu giới hạnh, chờ đợi sư phụ. Từ ngày đội ơn sư phụ thu nhận con, được sư phụ dạy dỗ, đi theo sư phụ chưa đầy hai tháng, chưa tiến được nửa phân công quả nào, con đâu dám mưu
đồ phú quý! Con thà chết để sang phương Tây, quyết không chịu làm việc dối lòng như thế.

Người đàn bà thấy mọi người từ chối cả, vội vàng quay ngoắt người trở vào sau tấm bình phong, đóng chặt cửa lại, bỏ mấy thầy trò ở bên ngoài, cơm nước không có, chẳng một bóng người. Bát Giới trong lòng bực bội, oán giận Đường Tăng, nói:

- Sư phụ chẳng biết suy tính, cứ nói thẳng ruột ngựa làm hỏng bét cả. Sao sư phụ không tinh ý một chút, cứ ừ ừ bằng lòng để kiếm chút cơm ăn, hưởng một đêm khoan khoái đã, rồi ngay mai nghe hay không nghe là do thầy trò mình chứ. Bây giờ họ đóng chặt cửa không ra nữa, còn lại chúng ta bếp lạnh tro tàn, chịu sao nổi đêm nay!

Ngộ Tĩnh nói:

- Anh hai này, hay anh ở lại làm rể nhà này đi! Bát Giới nói:
- Chú em đừng đùa như thế, nên bàn bạc kỹ đã. Hành Giả nói:
- Còn bàn bạc gì nữa. Nếu chú bằng lòng thì nói với sư phụ làm thông gia với bà ấy. Chú sẽ là một chàng rể gửi thoải mái. Nhà họ giàu có như thế, nhất định sẽ cho chú món của hồi môn kếch sù, sửa soạn một bữa tiệc thật to mời thông gia, chúng tớ cũng được đánh chén, còn chú ở lại đây hoàn tục, thế là vẹn cả hai bề.

Bát Giới nói:

- Nói ra thì đúng như thế đấy. Nhưng chẳng lẽ tôi thoát tục lại hoàn tục, bỏ vợ lại lấy vợ à?

Sa Tăng hỏi:

- Anh hai vốn trước đã có bà chị rồi à?
Hành Giả nói:

- Chú chưa biết đấy thôi, chú ấy trước là con rể của ông Cao Thái Công ở thôn Cao Lão, nước Ô Tư Tạng, sau được lão Tôn đây thu phục. Vả lại, chú ấy trước cũng chịu giới hạnh Bồ Tát, song chưa kịp nghĩ ngợi đã bị tôi bắt về làm hòa thượng, bỏ cô vợ trước theo sư phụ sang phương Tây lễ Phật. Chắc chú xa cách lâu ngày, bây giờ lại tưởng đến cái món ấy, nên vừa nghe đến là sinh lòng dục vọng ngay. Chú ngốc ơi, hay ở lại làm rể nhà này đi! Chỉ cần lạy lão Tôn mấy lạy, lão Tôn sẽ lựa lời cho là xong.

Chú ngốc nói:

- Đừng nói lôi thôi! Ai mà chẳng có bụng ấy, mà cứ độc mang lão Trư ra bêu giếu. Người ta thường nói: Hòa thượng là con ma đói về nữ sắc. Anh nào mà chẳng muốn như vậy? Chẳng qua chỉ vì sĩ diện giả vờ, làm bộ làm tịch, đem việc lành quành ra việc dữ. Bây giờ chè cháo chẳng có, đèn đóm cũng không, người tuy miễn cưỡng chịu đựng một đêm, nhưng còn con ngựa, ngày mai nào là chở người, nào là đi đường phải nhịn đói suốt đêm, có đem mà lột da cho rảnh! Các anh cứ ngồi đây, để lão Trư đi chăn ngựa vậy.

Thế là chú ngốc vội vàng cởi cương, dắt ngựa đi. Hành Giả nói:

- Sa Tăng, chú hãy ngồi đây hầu sư phụ nhé, để lão Tôn đi xem hắn chăn ngựa ở đâu.

Tam Tạng dặn:

- Ngộ Không, con đi xem hắn thì cứ đi, nhưng đừng trêu ghẹo hắn nữa.

Hành Giả thưa:

- Vâng ạ.
Đại thánh ra ngoài hiên nhà, lắc mình một cái, biến thành một con chuồn chuồn ớt, bay về phía cổng đuổi theo Bát Giới.

Chú ngốc dắt ngựa đi, chỗ có cỏ chẳng để ngựa ăn, lại quát tháo đuổi ngựa vòng về phía cửa sau, bỗng thấy người đàn bà cùng ba cô con gái đang đứng ngắm hoa cúc bên ngoài cửa sau. Trông thấy Bát Giới, ba cô lẩn vào trong nhà. Người đàn bà đứng ở trước cửa chào:

- Chú tiểu đi đâu đấy?

Chú ngốc buông cương, dạ một tiếng, bước lên thưa:

- Thưa mẹ, con đi chăn ngựa ạ. Người đàn bà nói:
- Sư phụ nhà chú thật là lầm to. Làm rể nhà tôi lại không hơn làm ông sư vai vác tay mang, thất thểu sang phương Tây à?

Bát Giới cười, nói:

- Họ tuân theo chiếu chỉ của vua Đường không dám trái lệnh, không chịu làm việc ấy. Vừa rồi, ở ngoài nhà, bọn họ cứ vun vào cho con, song con còn ngại ngần chưa quyết, chỉ e mẹ chê con tai to mõm dài thôi.

Người đàn bà nói:

- Mẹ thì chẳng chê đâu, trong nhà đang không có người cai quản, có được một chàng rể là quý rồi. Chỉ ngại mấy em nó chê xấu thôi.

Bát Giới nói:

- Thưa mẹ, mẹ hãy thuyết phục các em đừng có quá kén chọn như thế. Như thầy Đường Tăng của con tuấn tú đẹp trai thật, mà không dùng được việc gì đâu. Con xấu thật, nhưng có mấy lời này…

Người đàn bà hỏi:
- Mấy lời gì? Bát Giới thưa:
- Con đây:











Tuy mặt mũi xấu xí, Nhưng tính rất cần cù.
Ruộng nhà nghìn khoảnh rộng, Cần gì trâu với bò!
Đinh ba con bổ xuống, Mọi việc xong ngay mà… Không mưa con cầu đảo, Không gió con thổi vù, Cửa nhà e lụp xụp,
Hai ba tầng con lo. Sân sướng bẩn con dọn, Cống rãnh tắc con mò. Mọi công to việc nhỏ,
Con đây, sức có thừa!

Người đàn bà nói:

- Đã như vậy thì anh đi thương lượng với sư phụ của anh xem, nếu được, ta sẽ cho ở rể.

Bát Giới nói:

- Không cần phải thương lượng. Ông ấy có phải bố đẻ con đâu. Muốn hay không là do con tất.

Người đàn bà nói:

- Cũng được, để mẹ hỏi các em.
Nói xong quay vào trong nhà, đóng cửa lại. Bát Giới cũng không chăn ngựa nữa, dắt về đằng trước, chẳng hề hay biết Đại Thánh đã nắm hết mọi chuyện. Đại Thánh nghiêng cánh bay vút về, hiện nguyên hình, ra mắt Đường Tăng thưa:

- Thưa sư phụ, Ngộ Năng chăn ngựa đã về kìa. Tam Tạng nói:
- Ngựa nếu không được chăn, chỉ sợ nó lại tung vó đi mất.

Hành Giả cười ngất, mang chuyện người đàn bà và Bát Giới ra kể hết một lượt. Tam Tạng nửa tin nửa ngờ.

Một lát, Bát Giới dắt ngựa về, buộc xong xuôi. Tam Tạng hỏi:

- Con chăn ngựa rồi chứ? Bát Giới thưa:
- Chẳng có cỏ non, không biết chăn ở đâu cả. Hành Giả nói:
-  Không  có  chỗ  chăn  ngựa,  thế  chỗ  nào  “dắt  ngựa”[160]
không?

Chú ngốc nghe nói, biết là lộ chuyện, cúi đầu rụt cổ chúm mõm cau mày, chẳng nói chẳng rằng. Bỗng nghe kẹt một tiếng, hai cánh cửa mở ra, thấy hai đôi đèn lồng, một chiếc lư hương, khói thơm nghi ngút, vòng ngọc leng keng, người đàn bà dẫn ba cô con gái đi ra, cất tiếng:

- Chân Chân, Ái Ái, Liên Liên, các con ra chào các vị hòa thượng đi lấy kinh nào!

Ba cô đứng sắp hàng trong nhà, chắp tay thi lễ. Thật là tuyệt sắc giai nhân. Cô nào cô ấy:

Mày ngài mềm mại, Da phấn xinh tươi,
Thướt tha yểu điệu, Mê mệt lòng người.
Vàng đeo tỏa ánh sáng ngời,

Dải áo phơ phất tuyệt vời thanh tao!

Môi xinh chúm chím hoa đào,

Bước đi mỗi bước hương ngào ngạt hương.

Tóc mây lóng lánh hạt cườm,

Áo hoa lẳn tấm thân tròn thơm tho.

Ngu Cơ, Tây Tử kém xa,

Khác nào tiên nữ, Hằng Nga giáng trần!

Tam Tạng chắp tay cúi đầu. Hành Giả lạnh lùng chẳng thiết ngó ngàng, Sa Tăng ngoảnh mặt quay lưng. Chỉ có Bát Giới mắt nhìn ngây dại, lòng dục sục sôi, sóng dâm dào dạt, ngượng ngùng rụt rè, nhỏ nhẹ cất tiếng:

- Phiền các nàng tiên quá, mời các cô hãy quay vào thôi.

Ba cô gái quay vào sau tấm bình phong, đặt đôi đèn lồng ở lại. Người đàn bà hỏi:

- Bốn vị trưởng lão đã bàn nhau để vị nào ở lại kết duyên với con gái chúng tôi chưa ạ?

Ngộ Tĩnh đáp:

- Chúng tôi đã bàn rồi, định để anh chàng họ Trư ở lại làm rể bà đấy.

Bát Giới nói:

- Chú em đừng có vun vén cho tôi, còn phải bàn bạc kỹ đã chứ.

Hành Giả nói:
- Còn bàn bạc quái gì nữa. Lúc ở cổng sau chú đã đàng hoàng gọi bà ấy là “mẹ” rồi còn gì. Bàn bạc gì nữa! Sư phụ sẽ đại diện họ nhà trai, bà đây đại diện nhà gái, tôi sẽ là chủ hôn, Sa Tăng là người mối. Cũng chẳng cần xem “thông thư” tìm ngày lành tháng tốt đâu, hôm nay chính là ngày thiên ân thượng cát rồi, chú lại lạy sư phụ rồi ở đây làm rể là xong.

Bát Giới nói:

- Không được! Không được! Sao lại quá dễ dàng thế. Hành Giả nói:
- Chú ngốc đừng vờ vịt nữa. Cái mồm kia đã gọi “mẹ” ngọt xớt mấy lần rồi lại còn làm bộ. Mau mau gật đầu đi, và dẫn chúng tớ vào đánh chén, thế là hay nhất.

Nói xong, Hành Giả một tay túm lấy Bát Giới, một tay giữ người đàn bà nói:

- Thưa bà thông gia, bà hãy dẫn chàng rể của bà vào.

Chú ngốc ngập ngừng đã định bước vào. Người đàn bà gọi tiểu đồng:

- Con lau bàn ghế, bưng cơm chay mời ba vị bên nhà trai xơi, để ta đưa chú rể vào phòng.

Rồi quay sang phía khác dặn dò nhà bếp sửa soạn đại tiệc sớm mai mời khách. Mọi người vâng mệnh. Ba thầy trò ăn xong, trải giường nệm nghỉ tại phòng khách. Chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện Bát Giới đi theo bà mẹ vợ vào bên trong, đi hết phòng nọ sang phòng kia, đụng đụng chạm chạm, rặt bị vấp chân vào bục cửa. Chú ngốc nói:

- Mẹ đi chậm chậm một chút, con lạ cửa lạ nhà, mẹ dắt con với.
Người đàn bà nói:

- Đây toàn là nhà kho, nhà xay lúa giã gạo, còn chưa tới nhà bếp nữa kìa.

Bát Giới tấm tắc:

- Nhà người giàu có khác!

Lại tất tất tả tả đi hết phòng nọ góc kia, một hồi lâu nữa mới đến phòng giữa nhà chính. Người đàn bà nói:

- Này con, vừa nãy sư huynh con nói rằng hôm nay là ngày thiên ân thượng cát, đưa con vào làm rể. Mẹ thảng thốt đễnh đãng quên khuấy chưa làm lễ tơ hồng, bây giờ con hãy quay lại đây lạy mẹ tám lạy là xong.

Bát Giới thưa:

- Mẹ dạy phải lắm. Xin mời mẹ ngồi lên để con lạy mấy lạy, vừa là lễ gia tiên, vừa là lạy mẹ, thật là nhất cử lưỡng tiện, đỡ nhiêu khê.

Bà mẹ vợ cười, nói:

- Cũng được. Đúng là một chàng rể thạo việc nhà. Mẹ ngồi đây con lạy đi!

Chà chà, đầy nhà đèn nến sáng trưng, Bát Giới lom khom cúi lạy. Lạy xong, bèn hỏi:

- Thưa mẹ, mẹ cho em nào lấy con ạ? Bà mẹ vợ nói:
- Mẹ khó nghĩ ở chỗ ấy đấy. Gả đứa lớn thì sợ đứa thứ hai tị. Gả đứa thứ hai thì sợ đứa út tị. Muốn gả em út cho con lại sợ đứa lớn tị, cho nên mẹ mới chù chừ chưa quyết.

Bát Giới nói:

- Mẹ ạ, nếu sợ các em tranh nhau, thì mẹ gả tất ba em cho con
là xong, đỡ phải cãi nhau ầm ĩ, làm rối gia đạo.

Bà mẹ vợ nói:

- Lẽ nào lại thế! Một mình con chiếm cả ba em thì không được.

Bát Giới nói:

- Mẹ cứ nói thế, chứ người ta ba thê bảy thiếp thì sao? Giá mà thêm mấy cô nữa, con rể mẹ cũng sẵn sàng thu nhận. Thuở nhỏ, con đã học được phép nhẫn nại, có bao nhiêu vợ con cũng có cách ăn ở được vừa lòng.

Người đàn bà nói:

- Không được, không được! Mẹ có chiếc khăn mặt đây, con trùm lên đầu, che kín mặt, mẹ cho mấy em đến trước mặt con, hễ con sờ phải em nào thì mẹ cho em ấy lấy con.

Chú ngốc nghe theo, nhận lấy chiếc khăn mặt, trùm lên đầu. Có bài thơ làm chứng rằng:

Ngu si không thấu rõ nguyên do, Gươm dục hại mình chẳng biết lo. Xưa nay hôn phối theo chu lễ  [161] Giờ rể trùm khăn khéo vẽ trò!
Chú ngốc trùm khăn đâu đấy rồi nói:

- Mẹ gọi các em ra đi! Bà mẹ vợ gọi:
- Chân Chân, Ái Ái, Liên Liên, các con ra cầu duyên trời, kén chú rể nào!

Bát Giới chỉ nghe thấy tiếng vòng ngọc leng keng, mùi lan xạ thơm ngát, khác nào tiên nữ giáng trần, vội vàng thật thà thò tay ra sờ soạng bên nọ bên kia chẳng đụng phải ai, rồi cứ sờ soạng
qua lại mãi, chẳng cần biết có bao nhiêu cô gái, trong bụng chỉ mong vơ được một cô. Nhưng, sờ sang bên đông thì vớ phải cột nhà; quờ sang bên tây thì đụng phải cánh cửa, đằng sau va phải tường gạch, tất tất tả tả, ngã sưng cả mõm, xanh xám mặt mày, ngồi thừ ra, thở hồng hộc nói:

- Mẹ ơi, con gái mẹ tinh quái quá, con chẳng sờ được em nào cả, biết làm thế nào bây giờ?



Người đàn bà nhấc chiếc khăn trùm đầu ra, nói:

- Con ạ, không phải con gái mẹ tinh quái đâu. Chúng nó khiêm nhường, không bằng lòng lấy con đấy.

Bát Giới nói:

- Mẹ ạ, các em không chịu lấy con, hay là mẹ lấy con vậy. Người đàn bà nói:
- Con rể giỏi nhỉ! Chẳng kể trên dưới, dám đòi lấy cả mẹ vợ?
Ba đứa con gái ta khéo tay lắm, đứa nào cũng có móc một chiếc áo lót bằng sợi gấm trân châu, con mặc vừa áo của đứa nào, thì mẹ gả đứa ấy cho.

Bát Giới nói:

- Vâng, vâng! Mẹ mang ngay cả ba chiếc áo ra đây để con mặc thử, con mặc vừa tất là con sẽ lấy tất đấy.

Người đàn bà quay vào trong nhà, rồi chỉ mang ra một chiếc đưa cho Bát Giới. Chú ngốc cởi ngay chiếc áo gấm xanh đang mặc ra, giật lấy chiếc áo lót, mặc vào người, chưa kịp thắt dây, thì phốc một cái, ngã quay ra đất. Thì ra mấy sợi thừng đã trói chặt lấy người, Bát Giới đau đớn không sao chịu nổi. Mấy mẹ con người đàn bà cũng không thấy đâu cả.

Lại nói chuyện Tam Tạng, Hành Giả, Sa Tăng ngủ dậy, đã thấy phương đông trắng bạch, mở mắt ngẩng đầu nhìn xung quanh, chẳng thấy lâu đài nguy nga tráng lệ đâu nữa, thì ra mấy thầy trò ngủ giữa rừng thông. Tam Tạng hốt hoảng gọi Hành Giả. Sa Tăng nói:

- Anh ơi, đúng là chúng ta gặp ma rồi!

Tôn Ngộ Không biết rõ cả, chỉ tủm tỉm cười, nói:

- Chú nói sao? Đường Tăng hỏi:
- Con xem, chúng ta ngủ ở đâu thế này? Hành Giả thưa:
- Ngủ trong rừng thông thích thật. Nhưng không biết chú ngốc ta chịu tội ở đâu rồi?

Tam Tạng hỏi:

- Sao, ai chịu tội? Hành Giả cười, đáp:
- Mẹ con mấy cô gái nhà này hôm qua, hẳn là Bồ Tát biến hóa thử thách chúng ta, chắc đã đi từ nửa đêm rồi, chỉ khổ cho Bát Giới phải chịu tội thôi.

Tam Tạng nghe nói, chắp tay làm lễ. Bỗng thấy một tờ thiếp bay phấp phới trên cành cây bách cổ thụ phía sau. Sa Tăng vội vàng chạy tới giật lấy đưa sư phụ xem. Tờ thiếp viết tám câu tụng rằng:

Lê Sơn lão mẫu ngại chi phàm, Bồ Tát Quan Âm cũng giáng trần, Thêm cả Phổ Hiền, Văn Thù nữa, Biến thành gái đẹp thử lòng tăng,
Đường Tăng đức trọng không nhơ tục, Bát Giới lòng phàm vẫn nặng căm. Nhắn nhủ từ đây nên sửa đổi,
Nếu không chính quả khó muôn phần!

Tam Tạng, Hành Giả, Sa Tăng đang đọc tờ thiếp, bỗng nghe thấy trong rừng sâu có tiếng gọi:

- Sư phụ ơi, trói chết con rồi, cứu con với! Từ nay con không dám thế nữa!

Tam Tạng nói:

- Ngộ Không, có phải Ngộ Năng gọi đấy không? Sa Tăng nói:
- Đúng đấy. Hành Giả nói:
- Chú em, mặc xác hắn. Chúng ta đi thôi. Tam Tạng nói:
- Chú ngốc tuy tâm tính ngu muội bướng bỉnh, nhưng được cái hồn nhiên, khỏe mạnh gánh được hành lý. Vả lại phải nghĩ tới lời Bồ Tát dặn ngày nào, cứu cho hắn đi theo thôi. Chắc từ nay về sau, hắn chẳng dám thế nữa đâu.

Sa Tăng bèn thu dọn chăn chiếu, sắp xếp hành lý. Tôn Đại thánh cởi cương dắt ngựa, đưa Đường Tăng vào rừng sâu tìm. Chà, thế mới là:

Theo chính tu hành nên cẩn thận, Rửa lòng ái dục để quy chận.
Cuối cùng không biết chú ngốc lành dữ thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ HAI MƯƠI BỐN


Núi Vạn Thọ Đại Tiên lưu bạn cũ


Quán Ngũ Trang, Hành Giả trộm nhân sâm


Lại nói chuyện ba người đi sâu vào trong rừng, thấy Bát Giới
bị trói trên ngọn cây, kêu la ầm ĩ, đau đớn vô cùng. Hành Giả bước tới cười, nói:

- Con rể quý nhỉ? Sáng bảnh mắt rồi mà không dậy đi lạy tạ mẹ vợ, không báo hỉ với sư phụ, còn cứ nằm ì ra đấy? Chà, thế mẹ vợ đâu, vợ đâu, mà treo con rể chặt chẽ thế này?



Chú ngốc thấy Hành Giả đến, xấu hổ quá, cắn răng chịu đau, chẳng dám kêu la nữa. Sa Tăng thấy vậy, động lòng thương hại,
đặt hành lý xuống, bước tới cởi trói cứu cho. Chú ngốc chỉ biết dập đầu lạy mọi người, nhưng thật ra trong lòng hổ thẹn vô cùng. Có bài từ Tây Giang nguyệt làm chứng rằng:

Nữ sắc thanh kiếm hại thân,

Mê tham ắt bỏ mạng mình như không.

Gái tơ đôi tám trẻ trung,

Dạ Xoa hung dữ có phần còn thua.

Ai ơi căn bản giữ cho

Lợi danh thanh sắc nhỏ to chớ màng

Chân tâm cẩn thận giữ gìn,

Ăn chơi phóng đãng thả mình là nguy!

Bát Giới vun đất thắp hương, ngẩng lên trời làm lễ, Hành Giả hỏi:

- Chú không nhận ra những vị Bồ Tát à? Bát Giới đáp:
- Tôi đã quay cuồng hôn mê, mắt hoa đầu váng, còn nhận ra ai được?

Hành Giả đưa tờ thiếp cho Bát Giới, Bát Giới xem xong mấy lời tụng, càng thêm xấu hổ, Sa Tăng cười, nói:

- Anh hai thế mà sướng thật! Được cả bốn vị Bồ Tát đến cầu thân!

Bát Giới nói:

- Chú em đừng khui ra nữa, xấu hổ lắm rồi! Từ nay, tôi chẳng bao giờ dám dại đến thế đâu. Dù có mỏi rũ xương đi nữa, cũng chịu để cho đòn gánh đè vai, theo sư phụ sang phương Tây thôi.

Tam Tạng nói:

- Nghĩ được như thế là tốt đấy.
Hành Giả bèn dẫn sư phụ ra đường cái. Mấy thầy trò đi được một lúc lâu, bỗng thấy quả núi cao sừng sững chắn đường.

Tam Tạng gò cương dừng ngựa nói:

- Đồ đệ này, trước mặt có ngọn núi, phải cẩn thận kẻo yêu ma quấy rối làm hại chúng ta.

Hành Giả nói:

- Đã có ba chúng con đây, sợ gì ma quỷ?

Tam Tạng nghe nói vững lòng tiến lên, thấy ngọn núi này đẹp tuyệt vời:

Thế núi cao chót vót, Dáng hùng vĩ nguy nga, Mạch Côn Lôn ăn xuống, Cao ngất tận Ngân Hà. Hạc trắng vờn ngọn trắc, Vượn đen đu cành la. Nắng rọi muôn tia đẹp, Gió thổi áng mây qua. Chim ríu rít ngọn trúc,
Gà xao xác khóm hoa. Đây Nghìn Năm, Ngũ Phúc Kia Phù Dung xa xa.
Thấp thoáng muôn đỉnh núi, Hào quang rọi nguy nga. Đây Răng Hùm, Vạn Tuế, Kia hòn Tam Thiên mà.
Nằm nhấp nhô la liệt, Vầng khí đẹp chan hòa Sườn non cỏ diễm lệ, Vách núi mai hương đưa, Gai góc mọc chằng chịt, Chỉ lan xanh lòa xòa.
Phượng hoàng, chim tụ tập, Kỳ lân, thú vào ra.
Suối quanh co, uốn lượn, Núi trập trùng gần xa. Đủ hòe lục, trúc đốm, Tùng xanh, xanh bao la.
Đủ đào hồng, mận trắng, Liễu biếc đón xuân về. Rồng ngân, hổ thét váng, Hạc múa, vượn ngân nga Bên hoa, hươu ngơ ngác, Nắng rọi, loan líu lo, Đúng là nơi tiên cảnh, Bồng Lai, Lãng Uyển mà.
Lại thấy: Đầu non hoa nở hoa tàn, Đỉnh núi mây đến, ngỡ ngàng lại đi,



Tam Tạng ngồi trên lưng ngựa thích thú nói:

- Các đồ đệ ơi, ta từ ngày sang phương Tây, trải qua nhiều núi non hiểm trở, nhưng chưa thấy đâu đẹp như ngọn núi này. Thật là nơi vô cùng u nhã! Hay là sắp tới chùa Lôi Âm chăng? Nếu vậy, chúng ta mau mau sửa soạn quần áo ngay ngắn yết kiến đức Thế Tôn?
Hành Giả cười, nói: [162]
- Còn xơi, còn xơi

Sa Tăng hỏi:

 mới tới chùa Lôi Âm!

- Sư huynh ơi, đến chùa Lôi Âm còn bao xa nữa? Hành Giả đáp:
- Mười vạn tám nghìn dặm nữa. Mười phần còn chưa đi được một phần.
Bát Giới hỏi:

- Này anh, phải đi mấy năm nữa mới tới? Hành Giả đáp:
- Đoạn đường này, cứ như sức hai chú, phải mười ngày mới tới. Sức tôi, đi gấp năm mươi lần hai chú, thì chưa đầy một buổi. Còn sư phụ thì đừng tưởng, đừng tưởng!

Đường Tăng hỏi:

- Ngộ Không, con nói bao giờ mới tới? Hành Giả thưa:
- Sư phụ đi từ trẻ cho tới già, già rồi lại trẻ, một nghìn lần như vậy vẫn còn khó. Chỉ mong sư phụ thành tâm kiên tính, tâm tâm niệm niệm, suy nghĩ giác ngộ, là tới ngay Linh Sơn đó.

Sa Tăng nói:

- Sư huynh, nơi đây tuy không phải Lôi Âm nhưng nhìn phong cảnh này, hẳn là nơi người tử tế cư trú.

Hành Giả nói:

- Đúng lắm! Đất này không có ma quỷ đâu, nhất định là nơi thánh tăng đạo sĩ ở. Chúng ta cứ đi thong thả mà ngắm cảnh.

Chuyện không nói tới nữa.

Lại nói chuyện tòa núi này tên gọi núi Vạn Thọ. Trong núi có một đạo quán gọi là quán Ngũ Trang. Trong quán có một vị tiên, đạo hiệu là Trấn Nguyên Tử, còn có tên là Dữ Thế Đồng Quân. Trong quán có một thức báu lạ thường, từ khi vũ trụ còn hỗn độn mới chia, trời đất còn mờ mịt chưa phân, đã có thứ cây linh thiêng này. Trong bốn đại bộ châu của thiên hạ chỉ có quán Ngũ Trang thuộc Tây Ngưu Hạ Châu là có cây này thôi, tên gọi là “thảo hoàn đơn”, lại có tên nữa là “nhân sâm quả”. Giống cây này ba nghìn năm mới nở hoa, ba nghìn năm mới kết quả, lại ba
nghìn năm nữa mới chín. Tính ra phải một vạn năm mới được ăn. Và trong một vạn năm ấy chỉ kết được ba mươi quả. Hình dáng quả này tựa đứa bé mới sinh chưa đầy ba ngày, tứ chi hoàn toàn, ngũ quan đủ cả. Ai có duyên được ngửi quả này một lần, thì sống lâu ba trăm sáu mươi tuổi; ăn một quả, sống mãi bốn vạn bảy nghìn năm.

Đúng hôm ấy, Trấn Nguyên đại tiên nhận được tờ thiếp của Nguyên Thủy thiên tôn mời đến cung Di La trên Thương Thanh Thiên nghe giảng về “Hỗn nguyên đạo quả”. Các vị tiên trưởng thành từ cửa của đại tiên tản đi các nơi đã không biết bao nhiêu mà kể, hiện nay ngài vẫn còn bốn mươi tám người đồ đệ nữa, cả thảy đều đắc đạo toàn chân. Hôm ấy, tiên ông dẫn dẫn bốn mươi sáu đồ đệ lên thượng giới nghe giảng, để hai vị ở lại trông nhà. Một vị tên là Thanh Phong, một vị tên là Minh Nguyệt. Thanh Phong mới một nghìn ba trăm hai mươi tuổi, Minh Nguyệt vừa tròn một nghìn hai trăm tuổi. Trấn Nguyên Tử dặn dò hai người rằng:

- Ta không thể sai lời mời của Đại Thiên Tôn, phải lên cung Di La nghe giảng, hai con gắng trông nom nhà cửa cẩn thận. Sắp tới, có một cố nhân của ta đi qua đây, hai con phải tiếp đón nồng hậu, mang hai quả nhân sâm ra mời ngài xơi, để tỏ chút tình cố cựu.

Hai tiên đồng nói:

- Bạn cũ của sư phụ là ai, sư phụ nói cho chúng con biết để tiện tiếp đãi.

Đại tiên nói:

- Đó là vị thánh tăng nước Đại Đường bên phương Đông, đạo hiệu là Tam Tạng, nay sang phương Tây lễ Phật cầu kinh.

Hai tiên đồng cười nói:

- Khổng Tử có nói: Đạo khác nhau, không quan hệ với nhau.
Chúng ta thuộc Thái Ất huyền môn, sao sư phụ lại quen biết vị hòa thượng đó?

Đại tiên nói:

- Các con không biết. Vị hòa thượng đó vốn là Kim Thiền Tử thác sinh, đồ đệ thứ hai của Tây phương thánh lão là đức Phật Như Lai. Năm trăm năm trước, ta với ngài ấy có quen biết nhau ở “Hội Lan Bồn”. Ngài đã từng tự tay mời trà ta, kính trọng ta. Từ đấy ta coi như bạn cũ.

Hai tiên đồng nghe nói, kính cẩn vâng lời sư phụ. Lúc sắp đi, đại tiên lại đinh ninh dặn dò thêm rằng:

- Nhân sâm quả đã có số, chỉ được mời ngài ấy hai quả, không được mời nhiều.

Thanh Phong nói:

- Lúc mở vườn, mọi người đã cùng ăn hai quả, chỉ còn hai mươi tám quả trên cây, không dám hái nhiều.

Đại tiên nói:

- Đường Tam Tạng tuy là bạn cũ, nhưng phải đề phòng bọn thủ hạ dò la biết được.

Hai tiên đồng vâng mệnh. Vị đại tiên cùng các đồ đệ bay thẳng lên thượng giới.

Lại nói chuyện bốn thầy trò Đường Tăng vừa đi vừa ngắm phong cảnh núi non, ngẩng đầu bỗng nhìn thấy mấy tầng lâu đài ẩn hiện trong rừng thông. Đường Tăng hỏi:

- Ngộ Không ơi, đây là nơi nào nhỉ? Hành Giả ngắm một lát rồi nói:
- Xem ra không phải là quán các, có lẽ là ngôi chùa. Chúng ta đến gần tí nữa chắc sẽ rõ.

Một lát, thầy trò đã tới cổng, nhìn thấy:
Rặng thông mát mẻ, Lối trúc thanh u.
Hạc trắng đón mây bay lượn, Vượn hầu dâng quả vào ra.
Trước cổng hồ quang cây soi bóng, Đá nứt rêu xanh hoa lờ mờ.
Cung điện ngất trời mây tía phủ, Lâu đài lộng lẫy ráng hồng sa. Thực là nơi phúc địa,
Bồng Lai tiên cảnh mà. Thanh hư việc đời vắng Tĩnh mịch đạo tâm về.
Chim xanh mang thư Vương Mẫu đến, Oanh tía gửi sách Lão Quân qua Một vẻ thanh kỳ đạo đức,
Thực chốn thần tiên đây mà!

Tam Tạng rời yên xuống ngựa, nhìn thấy một tấm bia dựng bên trái cổng, trên đó có khắc mười chữ lớn “Phúc địa núi Vạn Thọ, động trời quán Ngũ Trang”.

Tam Tạng nói:

- Các đồ đệ ạ, đúng là một tòa quán vũ. Sa Tăng nói:
- Thưa sư phụ, cảnh vật tươi sáng thế này, hẳn bên trong có người tốt ở, chúng ta vào thử xem. Khi nào cuộc hành trình xong, quay về phương Đông thì nơi đây cũng là một nơi cảnh đẹp, đáng dừng chân đấy.
Hành Giả nói:

- Đúng! Đúng!

Thầy trò bèn cùng nhau kéo vào, tới lần cửa thứ hai thấy dán đôi câu đối:

Phủ thần tiên sống mãi không già, Nhà đạo sĩ thọ ngang trời đất.
Hành Giả cười, nói:

- Ông đạo sĩ này nói phét quá trời! Năm trăm năm trước, khi lão Tôn đây đại náo thiên cung, ngay cả trước cửa Thái Thượng Lão Quân cũng không thấy treo câu đối có lời lẽ như thế này…

Bát Giới nói:

- Kệ người ta, ta cứ vào thôi! Hoặc giả vị đạo sĩ cũng có chút đức hạnh thì sao, biết đâu được!

Mấy thầy trò vào tới tầng cửa thứ hai, thấy hai tiểu đồng đon đả chạy ra đón. Hai người hình dáng:

Cốt cách thanh cao đẹp lạ lùng, Tóc đen chải mượt chấm ngang lưng. Thung dung áo rủ mây vương vấn, Phấp phới tay đưa gió phập phồng. Đai thắt mơ màng rồng uốn lượn,
Hài đi nhẹ nhõm sợi tằm băng. Khác thường phong cách không mùi tục, Minh Nguyệt, Thanh Phong ấy đạo đồng.
Hai tiểu đồng chắp tay lễ phép nói:

- Kính mong lão sư phụ tha tội việc không kịp đón tiếp. Xin mời sư phụ vào.
Tam Tạng vui vẻ cùng hai tiểu đồng bước lên chính điện. Đây là một tòa điện lớn năm gian quay mặt hướng Nam, cửa chạm trổ hoa lá trên sáng dưới tối. Tiên đồng mở then đẩy cửa mời Đường Tăng vào. Bên trong chỉ thấy trên tường treo một bức đại tự thêu hai chữ “thiên địa” thật to bằng chỉ ngũ sắc. Giữa điện đặt một chiếc hương án sơn son thếp vàng, trên bày chiếc bình hương bằng vàng, bên cạnh có đủ cả hương nến.

Đường Tăng bước vào thắp hương cắm vào bình, chắp tay lạy ba lạy. Lễ xong, ngoảnh lại hỏi:

- Tiên đồng ạ, quán Ngũ Trang đây thật đúng là nơi tiên cảnh chốn Tây phương. Nhưng tại sao không thấy thờ các thánh Tam Thanh, Tứ Đế, La Thiên, mà chỉ treo có hai chữ “thiên địa” thôi ư?

Tiên đồng cười nói:

- Chẳng giấu gì sư phụ, hai chữ này, chữ đầu thì xứng đáng thờ, còn chữ sau chẳng đáng để chúng tôi hương khói, sư phụ tôi
[163]
khiêm tốn

 đấy thôi.

Tam Tạng hỏi:

- Tại sao lại khiêm tốn? Tiên đồng thưa:
- Tam Thanh là bạn bè, Tứ Đế là bạn cũ, Cửu Diệu là hạng sau, Nguyên Thần là khách xoàng của sư phụ chúng tôi cả.

Hành Giả nghe nói, cười ngặt nghẽo, Bát Giới hỏi:

- Anh cười gì thế? Hành Giả đáp:
- Cứ bảo sao lão Tôn hay sinh sự. Chú tiểu đồng này nói phét lắm!

Tam Tạng hỏi:
- Sư phụ nhà ta đâu rồi? Tiên đồng thưa:
- Sư phụ tôi được Nguyên Thủy Thiên Tôn gửi thiệp mời lên cung Di La trên Thượng Thanh Thiên nghe giảng về “Hỗn Nguyên đạo quả”, nay đã đi rồi, không có nhà.

Hành Giả nghe nói, không nhịn nổi, hừ một tiếng, nói:

- Đồ tiểu đồng thối tha kia! Chẳng biết quái gì, chỉ được cái ba hoa khoác lác! Ở cung Di La ai là Thái Ất thiên tiên? Ai mời cái đồ trâu đực các ngươi đi giảng làm gì?

Tam Tạng thấy Hành Giả nổi cáu, lại sợ hai tiên đồng nói lại, sinh ra cãi cọ không hay, bèn nói:

- Ngộ Không, chớ có đôi co nữa! Chúng ta vừa vào đã ra ngay, như thế vô tình quá. Người đời thường có câu: Chó không
[164]
ăn thịt chó

. Sư phụ họ đi vắng, gây rắc rối làm gì! Con hãy
ra đầu núi chăn ngựa. Sa Tăng trông nom hành lý, bảo Bát Giới cởi tay nải lấy bơ gạo, mượn nồi thổi nhờ nồi cơm, trước khi đi, nhớ trả họ tiền củi. Mỗi người một việc, để ta nghỉ một lát, cơm xong là đi luôn.

Ba người, người nào đi làm việc của người nấy.

Hai tiên đồng Minh Nguyệt, Thanh Phong, bụng dạ rất khen ngợi Tam Tạng:

- Đúng là vị hòa thượng chân chính, một vị thánh giáng trần, chân nguyên sáng suốt. Sư phụ dặn chúng ta tiếp đãi Đường Tăng, mang quả nhân sâm mời ngài xơi để tỏ tình bạn cũ, lại dặn phải đề phòng bọn thủ hạ dò la bàn tán. Quả nhiên ba người ấy mặt mũi xấu xí hung tợn, tính nết thô tục. May mà ngài đã sai bọn họ đi rồi, chớ họ ở bên cạnh, thì tránh sao họ không trông thấy được.
Thanh Phong nói:

- Người anh em này, không biết Đường Tam Tạng có phải là bạn cũ của sư phụ không, ta phải hỏi xem kẻo nhầm.

Hai tiên đồng bèn bước tới thưa:

- Chẳng hay lão sư có phải là Đường Tam Tạng bên nước Đại
Đường sang phương Tây lấy kinh không ạ?

Tam Tạng lễ phép đáp:

- Thưa vâng. Chính là bần tăng. Các vị sao lại biết tên tôi? Tiên đồng thưa:
- Trước khi đi, sư phụ có dặn dò chúng tôi đón tiếp ngài. Không ngờ xa giá đến nhanh quá, chúng tôi không kịp đón. Xin mời lão sư ngồi xơi nước.

Tam Tạng nói:

- Không dám.

Minh Nguyệt rời gót quay vào, bưng ra một chén trà hương mời Tam Tạng. Uống trà xong, Thanh Phong nói:

- Người anh em, chớ sai lời sư phụ dặn, chúng ta đi hái quả thôi.

Hai tiên đồng chào Tam Tạng trở về phòng. Một ngươi cầm chiếc ngoèo bằng vàng; một người bưng chiếc khay đan, lòng khay lót chiếc khăn lụa, đi thẳng vào trong vườn nhân sâm. Thanh Phong leo lên cây ngoèo quả. Minh Nguyệt đứng dưới gốc, hứng khay đón lấy. Một lát, ngoèo xong hai quả, đặt trong khay, hai người về thẳng điện trước, dâng lên nói:

- Kính thưa Đường sư phụ, quán Ngũ Trang chúng tôi hoang vu cằn cỗi, chẳng có thức gì đàng hoàng, gọi là có vài quả thổ sản địa phương, mời ngài dùng tạm đỡ khát.

Tam Tạng nhìn thấy, run rẩy sợ hãi, lùi xa ba thước, nói:
- Lạ quá, lạ quá! Năm nay được mùa mà sao nơi đây thất bát đến nỗi phải ăn cả thịt người? Đứa trẻ này chưa đầy ba ngày mà mang cho tôi giải khát ư?

Thanh Phong nghĩ bụng:

- Vị hòa thượng này xét lời ăn tiếng nói, chỉ là hạng người trần mắt thịt, chẳng biết của quý nhà tiên.

Minh Nguyệt bước lên thưa:

- Thưa lão sư, quả này gọi là “quả nhân sâm” ngài cứ xơi đi, không sao đâu.

Tam Tạng nói:

- Nói bậy, nói bậy! Cha mẹ thai nghén, chịu đựng không biết bao nhiêu khổ cực mới sinh hạ được. Chưa đầy ba ngày trời mà đã mang ra, cho nó là quả ư?

Thanh Phong nói:

- Đúng là thứ quả do cây sinh ra đấy ạ. Tam Tạng nói:
- Nhảm nhí, nhảm nhí! Cây mà lại đẻ ra người sao? Bưng ngay đi! Không ra giống người nữa!

Hai tiên đồng thấy Tam Tạng từ chối nhất định không ăn đành phải bưng vào. Thứ quả này cũng nhiêu khê lắm, để lâu cứng ra, không ăn được. Hai người vào phòng trong, ngồi xuống mép giường đành chia nhau mỗi người ăn một quả.

Chà, câu chuyện rồi lại xẩy ra thế này: Căn phòng ấy ở liền sát tường căn bếp, bên này nói khẽ, bên kia cũng nghe thấy. Bát Giới đang lúi húi nấu cơm trong bếp. Lúc trước nghe thấy nói lấy ngoèo vàng, khay đan, hắn đã để ý. Giờ lại nghe thấy Đường Tăng không biết quả nhân sâm, họ đành mang vào phòng ăn với nhau. Bát Giới thèm quá, chảy nước dãi, nói:
- Giá mà được thưởng thức một quả nhỉ! Nhưng ta thân thể nặng nề ì ạch không hái được. Đợi Hành Giả về bàn mẹo với hắn mới xong.

Thế là Bát Giới chẳng còn bụng dạ nào ngồi nấu cơm nữa, chốc chốc lại thò đầu ra ngó. Một lát sau thấy Hành Giả dắt ngựa về buộc vào gốc cây hòe, rồi đi thẳng ra đằng sau. Chú ngốc vung tay vẫy rối rít gọi:

- Lại đây, lại đây!

Hành Giả quay lại đi đến cửa bếp hỏi:

- Chú ngốc, có việc gì mà gọi nheo nhéo thế? Cơm không đủ hả? Cứ để sư phụ ăn no đi, chúng ta sẽ đến nhà dân xin sau.

Bát Giới nói:

- Anh lại đây, không phải cơm ít đâu, mà là ở quán này có một của quý, anh đã biết chưa?

Hành Giả hỏi:

- Của quý gì?

Bát Giới cười, nói:

- Có nói cho anh, anh cũng chưa thấy; có đưa cho anh, anh cũng chẳng biết cơ mà.

Hành Giả nói:

- Chú ngốc coi thường lão Tôn này quá! Năm trăm năm trước, khi đi học đạo tiên, ta đã từng đi khắp chân trời góc biển, có cái gì mà ta chưa từng thấy?

Bát Giới nói:

- Thế quả nhân sâm anh đã thấy chưa nào? Hành Giả ngạc nhiên nói:
- Quả ấy thì anh chưa được thấy, chỉ nghe nói đó là một thứ
thảo hoàn đơn, ăn vào sẽ sống lâu. Thế quả đó ở đâu?

Bát Giới nói:

- Ở đây có. Tiểu đồng vừa mang hai quả ra mời sư phụ ăn. Nhưng sư phụ không biết, lại bảo đó là đứa trẻ sinh chưa đầy ba ngày, không dám ăn. Hai chú tiểu đồng - đồ vô lại - sư phụ không ăn thì phải mời bọn ta mới đúng. Đằng này chúng lại giấu bọn ta, mang vào phòng bên, mỗi đứa một quả, ăn ngốn ngấu, làm em thèm rỏ dãi. Phải làm thế nào để thưởng thức được một quả chứ nhỉ? Em nghĩ anh tháo vát, tìm cách nào lọt vào vườn trộm vài quả mang về đây bọn mình nếm thử xem sao.

Hành Giả nói:

- Điều đó khó gì, để lão Tôn đi lấy về cho.

Hành Giả co người định chạy vụt đi. Bát Giới giữ lại nói:

- Này anh, lúc nãy em nghe họ nói ở phòng bên rằng: phải dùng cài ngoèo bằng vàng nào ấy mới hái được cơ. Cẩn thận anh nhé, đừng để lộ ra đấy!

Đại Thánh bèn dùng phép tàng hình lẻn vào trong phòng xem xét. Hai người tiên đồng ăn quả xong lại lên điện chuyện phiếm với Đường Tăng, bỏ phòng không. Hành Giả ngó nghiêng bốn phía xem ngoèo vàng để đâu thấy phía trên cửa sổ treo một chiếc gậy một đầu thuôn nhỏ bằng vàng đỏ, dài khoảng hai thước, phía trên là một khối tròn như củ hành, có đục lỗ, xâu một sợi thừng tết bằng lụa xanh, bèn nói:

- Cây gậy này chắc là ngoèo vàng đây.

Bèn lấy xuống, vác ra khỏi phòng, đi thẳng ra phía sau, mở toang cửa, ngẩng đầu quan sát.

Ồ, hóa ra là vườn hoa!

Rào sen giậu báu,
Non bộ quanh co

Hoa lạ tranh đẹp với vầng hồng

Trúc thắm đua xanh cùng mây biếc.

Ngoài đình hóng mát, một vòm liễu rủ khói buông tơ; Trên gác ngắm trăng, mấy khóm tùng xanh màu tím nhạt Đỏ chót chót, lựu như thêu gấm.
Xanh rờn rờn, cỏ tựa thảm nhung. Lan bích sa xanh mướt mơ màng. Nước khe chảy rì rầm một giải.
Cây đan quế, cây ngô đồng bên giếng vàng phấp phới; Cây cẩm hòe luồn giàn ngọc đơm hoa,
Đào nghìn lá, lá hồng chen lá trắng bao la, Cúc tháng chín, vàng ươm hương ngan ngát, Bên đình mẫu đơn, giàn trà mi khép nép, Cạnh khu thược dược, bụi dâm bụt lơ thơ, Quân tử trúc nhìn chẳng chán bao giờ.
Đại phu tùng coi thường sương tuyết.

Chuồng hươu và lồng hạc, Ao vuông với hồ tròn. Nước gợn sóng dập dờn. Đất hoa đùn vàng chất.
Hoa mai nở sắc khoe trong gió bấc, Hải đường chúm chím đón xuân sang.
Thực là: Cảnh tiên đệ nhất chốn nhân gian, Cỏ hoa đệ nhất vùng tây vực.
Hành Giả ngắm nghía mãi, lại thấy một lần cửa, đẩy cửa vào thì ra là một vườn rau:

Rau cỏ bốn mùa đủ, Nào cần, nào nghệ gừng Nào dưa, nào bầu bí, Hành tỏi cùng rau thơm. Kia mướp leo xanh tốt. Đây cà mọc tốt um,
Mã thầy mầm vươn khỏe, Kinh giới, húng xanh rờn.
Hành Giả cười, nói:

- Ông này cũng là một đạo sĩ tự cấp tự túc!

Đi qua vườn rau, lại thấy một lần cửa nữa. Hành Giả đẩy cửa bước vào. Chà! Một cây cổ thụ cực to, cành xanh thơm ngát, lá biếc um tùm, lá trông từa tựa lá chuối, dựng đứng cao hơn nghìn thước, gốc to đến bảy tám ôm. Hành Giả tựa vào gốc cây nhìn lên, thấy cành phía Nam lấp ló một quả nhân sâm rất giống đứa trẻ, cuống quả dính vào ngọn cây, chân tay đung đưa, đầu mặt gật gù, gió thổi qua kẽ lá nghe như tiếng trẻ kêu. Hành Giả vui mừng khôn xiết, trong bụng tấm tắc khen thầm:

- Thứ quả quý quá! Thật là hiếm có, hiếm có!

Bèn bám vào gốc cây, trèo tót lên. Lần đầu trèo cây trộm quả này, Hành Giả quẳng luôn ngoèo xuống đất. Ngoèo vừa chạm đất, quả cũng rụng đánh độp. Hành Giả bèn tụt xuống tìm, nhưng tuyệt nhiên chẳng thấy quả ấy đâu cả. Hành Giả vạch cỏ tìm khắp bốn phía, cũng chẳng thấy dấu vết, bèn nói:

- Lạ thật, lạ thật! Cứ như là có chân biết chạy ấy. Nhưng nó nhảy qua tường thế nào được? Thôi, đúng rồi. Chính lão thổ địa
giữ vườn không cho mình lấy trộm, nên nhặt lấy rồi.



Hành Giả bèn bấm quyết, niệm chú, hô “úm” một tiếng, lôi thần thổ địa giữ vườn đến trước mặt. Vị thần chào Hành Giả:

- Kính chào Đại Thánh. Ngài gọi tiểu thần chắc là có việc gì dặn dò chăng?

Hành Giả nói:

- Nhà ngươi không biết lão Tôn đây là một thằng trộm nổi tiếng thiên hạ, đã từng trộm bàn đào, ngự tửu, linh đơn, chưa từng một kẻ nào dám đòi chia phần, thế mà nay ta mới ăn trộm có một quả nhân sâm, nhà ngươi đã dám cướp phần của ta sao? Quả ấy, nẩy ra ở trên cây, con chim bay qua còn có phần, huống hồ ta ăn một quả thì có hại gì? Thế mà ta vừa ngoèo xuống, nhà ngươi đã cuỗm của ta?

Thổ địa nói:
- Thưa Đại Thánh, ngài mắng oan tiểu thần rồi. Thứ quả quý đó là thức của địa tiên, tiểu thần là quỷ tiên, đâu có quyền dám lấy? Ngay ngửi cũng không có phúc được ngửi nữa là.

Hành Giả nói:

- Nhà ngươi không nhặt thì tại sao quả vừa rơi xuống đã không thấy?

Thổ địa nói:

- Đại Thánh chỉ biết quả này có thể kéo dài tuổi thọ nhưng chưa hiểu xuất xứ của nó.

Hành Giả hỏi:

- Xuất xứ thế nào? Thổ địa thưa:
- Thứ cây quý này, ba nghìn năm mới một lần ra hoa, ba nghìn năm nữa mới kết quả, lại ba nghìn năm nữa mới chín. Trong khoảng một vạn năm chỉ ra được ba mươi quả. Người nào có duyên ngửi được một lần thì sống lâu ba trăm sáu mươi tuổi, ăn một quả thì sống lâu bốn vạn bảy nghìn năm. Chỉ phải cái ngũ hành tương khắc thôi.

Hành Giả hỏi:

- Thế nào là ngũ hành tương khắc? Thổ địa thưa:
- Quả này gặp kim thì rụng, gặp mộc thì khô, gặp thủy thì hóa, gặp hỏa thì héo, gặp thổ thì nhập. Hái quả phải dùng đồ kim khí mới rụng được. Rụng rồi phải đựng trong một cái khay lót vải, nếu không chạm vào đồ gỗ là khô ngay, ăn vào cũng vô ích không thể kéo dài tuổi thọ được. Muốn ăn phải đựng vào đồ gốm, chiêu với nước trong. Quả này gặp hỏa là héo, vô dụng, gặp thổ là chui vào đất. Vừa nãy Đại Thánh chọc rụng, vừa
chạm đất là nó chui vào đất ngay, và đất ấy cũng thọ bốn vạn bảy nghìn năm, cứng hơn cả sắt, có khoan có bổ cũng chẳng ăn thua gì. Có thế, người ta ăn vào mới sống lâu chứ! Đại Thánh không tin, cứ bổ thử chỗ đất này mà xem.

Hành Giả lập tức rút ngay gậy sắt nạm vàng ra, bổ xuống choang một phát, nẩy cả gậy lên, mà chẳng thấy mặt đất có dấu vết gì, bèn nói:

- Đúng thật, đúng thật! Cây gậy của ta bổ đá nát vụn, nện sắt cũng quằn, thế mà chẳng thấy mặt đất xây xát gì. Ta mắng oan nhà ngươi rồi. Thôi, cho nhà ngươi về.

Thổ địa lập tức trở về bản miếu.

Đại Thánh nghĩ ra một cách: một tay dùng ngoèo chọc, một tay kéo vạt áo vải bông căng ra làm túi đựng, rồi chui cành rẽ lá chọc luôn ba quả, đựng vào vạt áo, nhảy xuống, chạy thẳng về nhà bếp. Bát Giới cười, hỏi:

- Anh ơi, có lấy được không? Hành Giả đáp:
- Sao lại không? Lão Tôn đã mang về đây. Cũng đừng giấu Sa
Tăng quả này, gọi hắn một tiếng!

Bát Giới lập tức vẫy tay gọi:

- Ngộ Tĩnh, lại đây!

Sa Tăng đặt gánh hành lý, chạy vào bếp hỏi:

- Có việc gì thế anh?

Hành Giả mở vạt áo ra nói:

- Chú thử đoán xem gì đây? Sa Tăng trông thấy nói:
- Quả nhân sâm.
Hành Giả nói:

- Đúng! Chú cũng biết à? Chắc chú được ăn ở đâu rồi chứ gì? Sa Tăng nói:
- Em chưa được ăn bao giờ, nhưng trước kia, khi làm Quyển Liêm đại tướng, hộ vệ xa giá đến hội Bàn Đào, thường thấy các vị tiên ngoài biển dâng quả này chúc thọ Vương Mẫu. Thấy thì có thấy, nhưng đã được ăn đâu. Anh cho tôi nếm với!

Hành Giả nói:

- Đây, mỗi người một quả.

Ba người chia nhau mỗi người một quả. Bát Giới mồm rộng bụng to, lúc trước thấy hai tiên đồng ăn, bụng đã thấy cồn cào, giờ vừa cầm lấy quả, đã phồng mồm trợn mắt, đút tỏm vào miệng, nhai ngốn ngấu nuốt ực xuống bụng, rồi trợn đôi mắt trắng dã ngớ ngẩn hỏi Hành Giả, Sa Tăng:

- Các anh ăn cái gì đấy? Sa Tăng đáp:
- Quả nhân sâm. Bát Giới lại hỏi:
- Mùi vị thế náo? Hành Giả nói:
- Ngộ Tĩnh, mặc kệ hắn, đã ngốn trước rồi còn hỏi lôi thôi gì. Bát Giới nói:
- Anh ạ, em ăn vội quá, không nhấm nháp thưởng thức như các anh, nên chẳng biết mùi vị ra sao cả, chẳng biết nó có hột hay không nữa, cứ thế nuốt liền. Anh này, đã thương thì thương
[165]
cho trót. Em đã đỡ thèm

  rồi, nhưng cho em thêm miếng
nữa, lần này em nhấm nháp thưởng thức từng miếng bé tí thôi.
Hành Giả nói:

- Chú chẳng biết “tri túc” gì cả, thứ này có phải cơm đâu mà nốc cho lắm! Thứ này một vạn năm chỉ kết có ba mươi quả, chúng ta mỗi người được ăn một quả là đã phúc to lắm, không phải thường đâu. Thôi, thôi, đủ rồi.

Nói xong, Hành Giả đứng dậy, cầm ngoèo vàng lao bừa qua cửa sổ, chẳng đếm xỉa gì nữa.

Chú ngốc ta cứ càu nhà càu nhàu mãi, không ngờ hai tiên đồng trở về phòng pha trà mời khách, nghe thấy Bát Giới đang làu bàu rằng: “quả nhân sâm ăn vẫn còn thèm, giá được quả nữa thì mới thỏa”. Thanh Phong nghe vậy, sinh nghi nói:

- Này Minh Nguyệt, anh có nghe thấy lão hòa thượng mõm dài nói rằng: “Quả nhân sâm ăn hãy còn thèm” không? Sư phụ lúc đi có dặn phải đề phòng bọn thủ hạ dò la biết được, hay là họ đã ăn trộm quả quý của chúng ta rồi?

Minh Nguyệt quay lại nói:

- Anh ơi, hỏng rồi, hỏng rồi! Tại sao ngoèo vàng lại rơi xuống đất thế này? Chúng ta mau mau ra vườn xem sao!

Hai người vội vàng chạy ra vườn, thấy cửa vườn hoa đã mở. Thanh Phong nói:
- Chính tay tôi đã đóng cửa vườn, ai lại mở ra thế này?

Vội vàng đi qua vườn hoa vào vườn rau, thấy cửa vườn rau cũng bị mở. Hai người lại vội vàng vào vườn nhân sâm, đứng dưới gốc, ngẩng mặt lên đếm, đếm đi đếm lại, vẫn chỉ còn hai mươi hai quả.

Minh Nguyệt nói:

- Anh biết tất cả có bao nhiêu không? Thanh Phong nói:
- Biết. Nhưng anh nói xem. Minh Nguyệt nói:
- Cả thảy vốn có ba mươi quả, sư phụ vào vườn hái đã chia cho chúng ta hai quả, còn hai mươi tám, vừa nãy hái hai quả mời Đường Tăng, còn hai mươi sáu. Tại sao bây giờ còn có hai mươi hai quả, mất đứt bốn quả! Đúng quân khốn kiếp này ăn trộm rồi. Chúng ta đi mắng cho Đường Tăng một trận.

Hai người rời khu vườn, lên thẳng trên điện, chỉ mặt Đường Tăng xỉ vả, mắng nhiếc, lời lẽ thô tục, nào là hạng đầu trộm đuôi cướp, xấu xa bỉ ổi. Đường Tăng không chịu nổi, nói:

- Các tiên đồng có việc gì mà làm ầm lên vậy. Cứ từ từ thư thả mà trình bày, việc gì phải nói năng hàm hồ thế!

Thanh Phong nói:

- Tai ngài điếc à? Tôi có nói thứ tiếng khác đâu, mà không hiểu. Đã ăn trộm nhân sâm mà lại còn không cho người ta nói!

Đường Tăng nói:

- Quả nhân sâm như thế nào? Minh Nguyệt nói:
- Vừa mang vào mời ngài ăn đấy, ngài chả nói giống đứa trẻ con là gì!

Đường Tăng nói:

- A Di Đà Phật, thứ ấy tôi vừa trông thấy đã sợ hết hồn, đâu dám lấy trộm ăn. Dù có đói chết, tôi cũng chẳng bao giờ làm chuyện trộm cắp, đừng có đổ oan cho người.

Thanh Phong nói:

- Ngài không ăn, nhưng bọn thủ hạ ngài đã lấy trộm. Tam Tạng nói:
- Cũng có thể như vậy. Các vị bớt nóng nảy, để tôi hỏi chúng xem. Nếu đúng họ lấy, thì phải bồi thường.

Minh Nguyệt nói:

- Bồi thường à? Có tiền cũng chẳng mua đâu được! Tam Tạng nói:
- Nếu có tiền cũng không mua được, thì người ta thường có câu “nhân nghĩa đáng nghìn vàng”, tôi bảo chúng lễ tạ xin lỗi cũng được chứ gì. Mà đã chắc đâu chúng ăn trộm!

Minh Nguyệt nói:

- Sao lại không chắc? Chúng chia nhau không đều, cãi nhau ầm ĩ kia kìa.

Tam Tạng gọi:

- Các đồ đệ, lại cả đây! Sa Tăng nghe thấy, nói:
- Hỏng bét, lộ hết rồi! Sư phụ gọi chúng ta, tiểu đồng đang làm ầm ĩ, chẳng phải lời nói gió bay, lộ rồi còn gì!

Hành Giả nói:

- Xấu hổ chết người đi được! Lại là chuyện ăn uống lèm nhèm nữa chứ! Giờ mà nói thực, thì đích thực chúng ta ăn trộm. Chi bằng chối phắt đi là hơn.

Bát Giới nói:

- Đúng lắm, đúng lắm! Cứ chối phắt đi! Ba người bèn ra khỏi nhà bếp, đi lên điện.
Chà, không biết họ chối cãi ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ HAI MƯƠI LĂM


Trấn Nguyên tiên đuổi bắt người lấy kinh


Tôn Hành Giả đại náo Ngũ Trang quán


Lại nói chuyện ba anh em kéo nhau vào trong điện nói với sư
phụ:

- Cơm sắp chín rồi, sư phụ gọi chúng con có việc gì ạ? Tam Tạng hỏi:
- Ta không hỏi chuyện cơm. Quán này có một thứ quả nhân sâm nào đó trông giống đứa trẻ con, ai trong số các con đã lấy trộm ăn rồi?

Bát Giới thưa:

- Con thật thà không biết, và cũng chưa thấy thứ quả ấy bao giờ.

Thanh Phong nói:

- Người nào cười là đúng! Người nào cười là đúng! Hành Giả nói lớn:
- Lão Tôn lúc nào chả cười, vì chuyện nhà ngươi vừa mất quả mà cấm ta cười sao?

Tam Tạng nói:

- Đồ đệ hãy bớt nóng. Chúng ta là người xuất gia, không được nói dối, ăn trộm. Nếu có trót lấy của người ta, thì phải xin lỗi tạ tội, việc gì phải che đậy không nhận!

Hành Giả thấy sư phụ nói có lý, bèn thú thực:

- Thưa sư phụ, không phải tại con. Tại Bát Giới nghe thấy hai
tiên đồng ăn quả nhân sâm nào đó ở phòng bên, hắn thèm quá muốn ăn, bèn xui con đi hái ba quả, ba anh em chúng con mỗi người ăn một quả. Bây giờ trót ăn rồi, biết làm thế nào?

Minh Nguyệt nói:

- Lấy trộm những bốn quả mà mồm vẫn cãi không phải ăn trộm.

Bát Giới nói:

- A Di Đà Phật, lấy những bốn quả mà sao mang về có ba quả để chia nhau, thì ra anh đã biển thủ một quả rồi!

Chú ngốc thế là làm ầm ĩ lên.

Hai tiên đồng biết chuyện đích thực, càng mắng nhiếc thậm tệ. Đại Thánh tức quá, răng nghiến ken két, mắt lửa tròn xoe, rút cây gậy sắt nạm vàng ra, mân mê trong tay, nhẫn nhục nghĩ thầm:

- Lũ tiên đồng đáng ghét quá, chẳng biết nể nang. Được rồi, cứ tạm nhịn chúng, sau ta dùng ngón “tuyệt hậu kế” cho lũ ngươi hết đường ăn quả!

Hành Giả bèn nhổ một sợi lông ở sau lưng, đưa lên mồm thổi phù, hô “biến”, sợi lông biến thành một Hành Giả giả, đứng cạnh Đường Tăng, cùng với Ngộ Năng, Ngộ Tĩnh nghe tiên đồng xỉ vả, còn chính mình thì xuất thần nhảy lên mây, bay thẳng vào vườn nhân sâm, rút gậy sắt ra, nhắm vào gốc cây nện choang một phát, lại dùng hết sức bình sinh đẩy cây đổ lăn kềnh ra. Đáng thương thay:

Cành lìa, rễ bật lá rơi,

Thảo hoàn đơn đã hết đời từ đây!



Đại Thánh đẩy đổ cây rồi, liền lần cây tìm quả, nhưng chẳng thấy một quả nào. Nguyên do thứ quả quý này gặp kim thì rụng. Gậy của Hành Giả hai đầu bịt vàng, bên trong lại là thứ sắt thuộc loại ngũ kim nên vừa chạm vào cây là quả rụng ngay, chạm vào đất, thì chui tọt vào đất, vì vậy trên cây chẳng còn một quả nào. Hành Giả thấy thế, bèn nói:

- Hay lắm, hay lắm, thế mới hả giận!

Nói xong, cất gậy sắt quay trở về, thu lại sợi lông hóa người, hạng người trần mắt thịt không ai hay biết gì hết.

Lại nói chuyện hai tiên đồng mắng mỏ một lúc lâu, Thanh
Phong nói:

- Minh Nguyệt này, lũ hòa thượng này cũng giỏi nhịn thực. Chúng ta mắng như chó ấy mà chẳng dám cãi nữa lời. Hay là chúng không ăn trộm chăng? Có thể là do cây cao lá rậm, mình đếm không kỹ, thành ra mắng oan họ. Chúng ta đi kiểm tra lại
lần nữa xem sao.

Minh Nguyệt nói:

- Đúng đấy!

Hai người bèn kéo nhau ra vườn, thì, ôi thôi, chỉ thấy cành gãy cây nghiêng, quả không lá rụng. Thanh Phong chân tay bủn rủn, Minh Nguyệt run rẩy sững sờ. Hai người hồn vía rụng rời. Có bài thơ làm chứng rằng:

Tam Tạng sang Tây tới Thọ Sơn, Ngộ Không quật đổ thảo hoàn đơn. Cành khô lá rụng không còn rễ.
Minh Nguyệt, Thanh Phong sợ hết hồn.

Hai người ngã lăn ra đất, mồm lắp bắp:

- Làm thế nào bây giờ? Làm chết cây hoàn đơn trong quán Ngũ Trang, dòng dõi nhà tiên ta thế là đứt tuyệt! Sư phụ về, biết ăn nói làm sao?

Minh Nguyệt nói:

- Anh đừng kêu ca nữa. Chúng ta tạm sửa quần áo cho ngay ngắn, đừng làm kinh động mấy lão hòa thượng ấy. Ở đây chẳng có ai khác, đúng thằng cha mặt lông lá như thiên lôi. Nó dùng phép xuất thần, phá hoại cây quý của chúng ta. Nay nói nó, thì nó ắt cãi lại. Một khi cãi nhau, dễ thành đánh nhau. Chúng ta có hai người địch với chúng bốn người sao nổi? Chi bằng cứ trí trá là số quả đủ cả, do chúng ta đếm nhầm, lại xin lỗi họ nữa. Chúng đã thổi cơm chín rồi, đợi chúng ăn cơm còn cho thêm chúng ít rau. Khi bọn chúng ăn cơm, anh đứng phía bên trái cửa, tôi đứng bên phải cửa, đóng sập cửa lại, khóa thật chắc chắn tất cả các tầng cửa, không cho chúng ra. Đợi khi nào sư phụ về, để mặc người xử lý. Người ấy lại là chỗ bạn cũ của sư phụ, tha cho chúng là ở tình cảm của sư phụ. Không tha thì chúng ta cũng đã
giữ chúng đấy. Có thể may ra chúng ta mới được tha tội.

Thanh Phong nghe vậy nói:

- Đúng đấy, đúng đấy!

Hai người lấy lại tinh thần, giả bộ tươi tỉnh, từ vườn sau đi thẳng lên điện, cúi mình cung kính nói với Đường Tăng:

- Thưa sư phụ, vừa rồi chúng tôi nói năng thô tục, làm ầm ĩ lên, mong sư phụ thứ lỗi cho.

Tam Tạng hỏi:

- Cái gì?

Thanh Phong thưa:

- Số quả nhân sâm vẫn đủ, tại cành lá rậm rạp, nhìn không rõ. Vừa rồi chúng tôi đi đếm lại, thấy đủ cả không mất quả nào.

Bát Giới được thể nói:

- Mấy chú trẻ con, ít tuổi chẳng hiểu quái gì, chưa chi đã chửi loạn lên, mắng mỏ ầm ĩ, oan cho chúng tớ thật. Thật chẳng ra giống người!

Hành Giả biết rõ hết chuyện, chẳng nói ra mồm, trong bụng nghĩ thầm:

- Láo thật, láo thật! Quả đã đi đời hết rồi, tại sao lại nói như vậy, hay chúng có phép cải tử hoàn sinh?

Tam tạng nói:

- Vậy thì mau bưng cơm lên ăn thôi.

Bát Giới đi bắc cơm. Sa Tăng dọn mâm bát. Hai tiên đồng vội vàng lấy thêm thức ăn, nào dưa muối, cà muối, rau muống, đậu phụ… đến bảy, tám đĩa mời thầy trò xơi cơm. Lại mang ra một ấm trà ngon, hai chiếc chén đặt ở trên bàn. Bốn thầy trò vừa cầm bát định ăn, thì hai tiên đồng, mỗi người đứng một bên cửa,
đóng sập cửa lại, lấy chiếc khóa đồng khóa chặt. Bát Giới cười, nói:

- Mấy chú tiểu đồng dở thật, mà phong tục ở đây cũng chẳng ra gì, ăn cơm thì việc gì phải đóng chặt cửa?

Minh Nguyệt nói:

- Chính thế, chính thế! Hay dở gì thì cũng ăn xong đã mới mở cửa được.

Thanh Phong quát mắng:

- Đồ trộm cắp đầu trọc tham lam kia, các ngươi đã ăn trộm quả tiên của chúng ta, phạm tội tự tiện vào vườn trộm quả, lại còn quật đổ cả cây, hủy hoại dòng tiên trong quán Ngũ Trang, thế mà còn già mồm à? Lại còn đòi sang phương Tây gặp Phật nữa kia chứ? Có mà quay ngược bánh xe luân hồi thác sinh lần nữa!

Tam Tạng nghe nói, buông bát cơm, lòng nặng như đá đeo. Hai tiên đồng khóa hết cửa trước, cửa sau, xong xuôi lại tới trước cửa điện chửi mắng thậm tệ, mãi đến khi tối trời mới đi ăn cơm. Ăn xong về phòng nghỉ.

Đường Tăng trách mắng Hành Giả:

- Con khỉ kia, rặt những gây vạ! Nhà ngươi ăn trộm quả của người ta, bị người ta mắng, thì hãy mặc người ta mắng mỏ vài câu là xong, tại sao còn quật đổ cả cây? Nếu người ta kiện việc này, thì dù ông già nhà ngươi có làm quan cũng không nói vào đâu được!

Hành Giả nói:

- Sư phụ đừng làm ầm lên nữa. Bọn chúng đi ngủ rồi, đợi chúng ngủ say, ta đang đêm đi ngay thôi.

Sa Tăng nói:
- Anh ơi, mấy tầng cửa khóa chặt cả, kín như bưng, ra làm sao được?

Hành Giả cười, nói:

- Đừng lo, lão Tôn sẽ có cách. Bát Giới nói:
- Lo gì anh không có cách! Anh biến thoắt một cái ra con sâu con bọ gì đó, chui qua lỗ cửa bay ra. Chỉ khổ chúng tôi không biết biến hóa đành nằm đây chịu tội thay cho anh thôi.

Đường Tăng nói:

- Nó mà giở trò ấy ra, không để cho chúng ta cùng đi, ta sẽ niệm mấy câu kinh cũ, thì nó chết ngay!

Bát Giới nghe xong, vừa bực vừa buồn cười, nói:

- Sư phụ nói gì vậy? Con chỉ nghe thấy trong Phật giáo có kinh Lăng Nghiêm, kinh Pháp Hoa, kinh Khổng Tước, kinh Quan Âm, kinh Kim Cương, chưa từng nghe thấy nói “kinh cũ” bao giờ!

Hành Giả nói:

- Chú em không biết. Cái vòng chụp trên đầu tôi là của Quan Âm Bồ Tát cho sư phụ đấy. Sư phụ lừa đội vào đầu tôi, khác nào mọc rễ, không tài nào dứt ra được. Lại có lời chú “khẩn cô nhi”, hay còn gọi là kinh “khẩn cô nhi”. Kinh “cũ” của sư phụ là nó đấy. Hễ sư phụ niệm lời chú đó, là tôi đau đầu ngay. Đó là pháp nạn của tôi vậy. Thưa sư phụ, mong sư phụ đừng niệm, con không bao giờ phụ sư phụ đâu. Con phải cứu mọi người cùng ra chứ!

Xong câu chuyện, trời đã tối. Chốc lát, phương đông vầng trăng đã hiện. Hành Giả nói:

- Lúc này bốn bề yên lặng, trăng sáng vằng vặc, chính là lúc
trốn đi rất hợp.

Bát Giới nói:

- Anh ơi, chớ có nói mồm, cửa đóng hết rồi đi lối nào được? Hành Giả nói:
- Chú trông đây!

Bèn rút gậy sắt nạm vàng ra cầm trong tay, dùng phép “mở khóa”, vừa chỉ gậy vào cửa đã nghe choang một tiếng, khóa kép mấy tầng cửa đều bung ra rơi xuống đất, cánh cửa kèn kẹt mở ra. Bát Giới cười, nói:

- Giỏi thật! Đến như bác thợ rèn quai búa cũng không nhẹ nhàng được như thế!

Hành Giả nói:

- Cái cửa quèn này đã ăn thua gì! Đến cả cửa Nam Thiên ta trỏ một cái cũng mở toang ngay.

Nói xong, mời sư phụ ra khỏi cửa, lên ngựa. Bát Giới gánh hành lý, Sa Tăng dắt ngựa, cứ thẳng đường sang phương Tây mà đi. Hành Giả nói:

- Mọi người đi chầm chậm một chút, để lão Tôn quay lại chiếu cố cho hai chú tiểu đồng này ngủ một tháng liền.

Tam Tạng nói:

- Con chớ có làm hại tính mạng của người ta nghe, nếu không là phạm vào tội cướp của giết người đấy!

Hành Giả nói:

- Con hiểu rồi.

Hành Giả bèn quay lại, đến bên ngoài cửa phòng hai tiên đồng đang ngủ, bên lưng đã giắt sẵn mấy con bọ ngủ, vốn là mấy  con  vật  mà  Hành  Giả  thắng  cuộc  Tăng  Trường  Thiên
Vương ở cửa Đông Thiên ngày nào. Hành Giả bắt ra hai con, đút qua lỗ cửa, chúng bò thẳng lên mặt hai tiên đồng, khiến họ ngủ say tít, không dậy được nữa. Xong xuôi, mới rảo cẳng đuổi theo Đường Tăng, thẳng đường lớn sang phương Tây!

Đêm ấy người ngựa đi liền một mạch, cho tới khi trời sáng. Tam Tạng nói:

- Con khỉ này làm ta mệt đến chết! Chỉ vì cái mõm nhà ngươi làm ta suốt đêm chẳng được ngủ.

Hành Giả noi:

- Sư phụ đừng ca thán nữa. Trời đã sáng rồi, ta tạm lẩn vào bóng cây ven đường nghỉ một lát, lấy lại sức lực rồi sẽ đi tiếp.

Tam Tạng  đành  xuống  ngựa,  tựa  vào  gốc  thông  tạm  làm giường ngồi xuống. Sa Tăng đặt gánh xuống làm một giấc. Bát Giới gối lên tảng đá ngủ khì. Riêng Tôn Đại Thánh còn khỏe, nhảy lên cành cây đu nghịch. Bốn thầy trò nghỉ ngơi, chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện vị đại tiên tan hội ở cung Nguyên Thủy dẫn các vị tiên khác ra khỏi tầng trời Đâu Suất, xuống thẳng Dao Thiên, rời đám mây lành, đã về ngay trước cửa quán Ngũ Trang núi Vạn Thọ. Nhìn quanh quẩn, vị đại tiên chỉ thấy cửa quán mở toang, mặt đất sạch sẽ, bèn nói:

- Thanh Phong, Minh Nguyệt trông nhà giỏi lắm! Hàng ngày mặt trời lên cao bằng con sào nhưng họ vẫn say sưa chẳng hề cựa mình. Chúng ta đi vắng ít ngày mà họ đã biết dậy sớm mở cửa quét nhà đấy!

Các tiên hài lòng lắm, kéo nhau vào cả trong điện, chỉ thấy khói hương lạnh lẽo, tịnh không bóng người, chẳng thấy Thanh Phong, Minh Nguyệt đâu cả, bèn nói:

- Có lẽ nhân thầy trò đi vắng, hai người vơ vét đồ đạc bỏ đi
rồi chăng?

Đại tiên nói:

- Chẳng lẽ người tu tiên lại dám làm chuyện bậy bạ đó sao? Hay tối qua họ quên không đóng cửa, cứ thế đi ngủ, bây giờ chưa dậy?

Các vị tiên bèn đến phòng họ xem xét. Quả nhiên cửa đóng then cài, hai người vẫn đang ngáy khò khò, mặc cho bên ngoài mọi người đập cửa thình thình, họ vẫn ngủ say tít không sao gọi dậy được. Mọi người phá cửa xông vào, lôi họ xuống đất mà vẫn không tỉnh. Đại tiên cười, nói:

- Các đồ đệ này, người đã tu thành tiên, tinh thần đầy đủ không thiết ngủ nữa, mà tại sao hai người lại ngủ mê mệt thế này? Hay là có kẻ nào trêu nghịch họ chăng? Mau đem nước vào đây!

Một tiên đồng vội vàng mang lưng chén nước vào. Đại tiên niệm thần chú, hớp một ngụm, phun lên mặt họ, lập tức giải ngay ma ngủ.

Hai người tỉnh dậy, giụi mắt xoa mặt, ngẩng đầu nhìn, nhận ra ngay tiên sư Dữ Thế Đồng Quân cùng các vị tiên huynh, sợ quá dập đầu thưa:

- Kính thưa sư phụ, bạn cũ của người, vị hòa thượng từ phương Đông tới ấy, đúng là lũ trộm cướp hung bạo!

Đại tiên cười nói:

- Đừng hốt hoảng, cứ thong thả kể lại xem nào. Thanh Phong nói:
- Kính thưa sư phụ, hôm ấy sư phụ đi được ít ngày quả có ngài Đường Tăng từ phương Đông tới. Cả đoàn có bốn người, với con ngựa là năm. Chúng con không dám trái lời sư phụ dặn, hỏi đúng sự thể mới trẩy hai quả nhân sâm dâng lên. Vị sư ấy
người trần mắt thịt, không nhận ra của quý nhà tiên chúng ta, lại nói là đứa trẻ sinh chưa đầy ba ngày, mời mãi không ăn. Thế là chúng con mỗi người ăn một quả. Không ngờ ngài ấy có ba người thủ hạ. Một người họ Tôn, tên Ngộ Không Hành Giả, trẩy trộm bốn quả ăn mất. Chúng con vặn hỏi, thực có nói mấy câu nặng lời. Tên ấy có vẻ bất bình, ngầm dùng thủ đoạn xuất thần này. Cực quá! Cực quá!

Nói đến đây, hai tiên đồng không kìm được, nước mắt ròng ròng chảy xuống hai gò má. Các vị tiên hỏi:

- Lão hòa thượng ấy đánh các anh à? Minh Nguyệt đáp:
- Không, chỉ quật đổ cây nhân sâm của chúng ta thôi. Đại tiên nghe thế vẫn không tỏ ra giận dữ, nói:
- Đừng khóc nữa. Các con không biết, người họ Tôn ấy cũng là một vị Thái Ất tiên tán đi, đã từng đại náo thiên cung, thần thông quảng đại nay lại quật đổ cây báu của ta. Các con còn nhớ mặt bọn chúng không?

Thanh Phong thưa:

- Có ạ.

Đại tiên nói:

- Nếu vậy đi theo ta.

Các vị tiên vâng mệnh. Đại tiên cùng Minh Nguyệt, Thanh Phong nhảy vút lên đám mây lành, đuổi theo Đường Tăng, trong chốc lát đã vượt qua nghìn dặm. Đại tiên đứng trên mây nhìn về hướng Tây chẳng thấy Đường Tăng đâu cả, bèn ngoảnh đầu về hướng Đông, thì thấy đã cách Đường Tăng hơn chín trăm dặm, bởi vì Đường Tăng cho ngựa đi suốt đêm, chỉ mới đi được một trăm hai mươi dặm đường, còn đại tiên đi trên mây, loáng một cái đã vượt qua chín trăm dặm. Tiên đồng nói:
- Thưa sư phụ, người ngồi dưới gốc cây ven đường kia chính là Đường Tăng đấy.

Đại tiên nói:

- Ta nhìn thấy rồi. Hai con quay về chuẩn bị thừng chão, để mặc ta tự bắt hắn.

Thanh Phong, Minh Nguyệt trở về trước. Chuyện không nói nữa.

Vị đại tiên dừng mây hạ xuống, lắc mình một cái, biến thành một nhà sư lang thang, ăn mặc:

Tấm áo vá trăm mụn, Sợi dây thắt ngang lưng. Tay phất trần phe phẩy Trống cơm gõ bập bùng. Chân xỏ đôi giày cỏ,
Đầu đội chiếc khăn chùng.

Phất phơ tay áo rộng, Miệng hát bài trăng trong.
Đại tiên đi thẳng tới gốc cây, cất tiếng chào Đường Tăng:

- Bần đạo xin kính chào trưởng lão. Đường Tăng vội vàng đáp lễ:
- Không dám, không dám! Đại tiên hỏi:
- Trưởng lão ở đâu tới đây mà ngồi nghỉ giữa đường vậy? Tam Tạng đáp:
- Bần tăng ở nước Đại Đường bên phương Đông, được nhà vua sai sang phương Tây lễ Phật cầu kinh, đường xa tới đây,
nghỉ tạm một chút.

Đại tiên giả vờ hỏi:

- Trưởng lão từ phương Đông lại, vậy chắc là có đi qua núi hoang của bần đạo?

Đường Tăng thưa:

- Chẳng hay ngọn núi quý của tiên quan ở đâu ạ? Đại tiên nói:
- Quán Ngũ Trang, núi Vạn Thọ chính là nơi bần đạo tu trì. Hành Giả nghe thấy thế, có tật giật mình, vội vàng nói:
- Không, không. Chúng tôi đi lối đường trên. Đại tiên chỉ thẳng vào mặt nói:
- Con khỉ hỗn láo kia, nha ngươi định giấu ai nữa! Chính nhà ngươi ở quán của ta, quật đổ cây nhân sâm của ta, rồi đang đêm chạy trốn đến đây, còn vờ vĩnh gì! Chớ có chạy, quay lại đền cây cho ta!

Hành Giả nghe nói, trong lòng giận dữ, rút luôn gậy sắt, chẳng cần phân bua, nhằm đầu đại tiên bổ xuống. Đại tiên nghiêng mình tránh, nhảy phắt lên mây. Hành Giả cũng nhảy lên, đuổi theo. Trên không trung, đại tiên hiện nguyên hình:

Đầu đội mũ vàng óng, Mình mặc áo cánh tiên. Gót chân giày nhẹ bước, Bên mình dải tơ buông.
Dáng dấp như đạo sĩ, Mặt mũi đẹp thần tiên,
Ba chòm râu quanh mép.
Hai món tóc đôi bên, Đánh nhau không khí giới, Phất trần nhẹ vung lên.
Hành Giả chẳng biết thấp cao, vung gậy đánh bừa. Đại tiên cũng giơ phất trần che phải đỡ trái. Hai người đánh nhau trong ba hiệp, đại tiên bèn dùng phép “càn khôn trong tay áo” đứng trên tầng mây, nhẹ nhàng vung tay áo đón gió, tay áo rộng tỏa ra khắp mặt đất, úp chụp lấy cả bốn thầy trò và con ngựa.



Bát Giới nói:

- Hỏng rồi, chúng ta bị nhốt ráo cả vào trong tay đẫy rồi. Hành Giả nói:
- Đồ ngốc! Không phải đẫy đâu. Chúng ta bị nhốt vào trong tay áo đấy.

Bát Giới nói:
- Không sao! Để em bổ một nhát đinh ba thủng một lỗ mà chui ra, chỉ sợ lão ta không cẩn thận, úp không chặt, là toi mạng!

Chú ngốc bèn vác đinh ba bổ lung tung, nhưng chẳng ăn nhằm gì. Tay áo sờ vào thì mềm, mà khi bổ vào lại rắn hơn sắt.

Đại tiên cưỡi mây trở về quán Ngũ Trang gọi đồ đệ mang thừng ra. Mọi người tuân mệnh răm rắp. Đại tiên khác nào điều khiển con rối, lôi Đường Tăng từ trong tay áo ra, trói vào cột ngoài hiên chính điện, lại lôi ba người ra trói mỗi người vào một cột; con ngựa buộc ở ngoài sân, vứt cho nắm cỏ; hành lý ném vào xó hành lang, rồi nói với đồ đệ:

- Lão hòa thượng này là người xuất gia, không nên dùng gươm giáo, búa rìu, hãy mang roi da ra đây để ta đánh cho hắn một trận, toát hết khí nhân sâm ra!

Mọi người mang ra một cây roi. Cây roi này chẳng phải da trâu, da bò hay da dê da hươu, mà là cây roi Thất Tinh làm bằng da rồng vẫn ngâm nước cất ở đây. Đại tiên sai một vị tiên lực lưỡng cầm roi đánh. Vị tiên này hỏi:

- Thưa sư phụ, đánh tên nào trước? Đại tiên nói:
- Đường Tam Tạng là người trên mà không biết tôn trọng, đánh hắn trước.

Hành Giả nghe thấy thế, trong bụng nghĩ thầm:

- Cụ hòa thượng già nhà mình cũng không thoát đòn. Giả sử, người bị một trận roi đánh chết, thì chẳng hóa bởi tại ta gây ra sao?

Nghĩ vậy, nhịn không được, đành phải mở mồm:

- Ngài nói sai rồi. Chính tôi là người trộm quả, ăn quả, và quật đổ cây cũng chính là tôi, vậy không đánh tôi trước, mà lại đánh người khác là cớ sao?
Đại tiên cười, nói:

- Con khỉ này nói năng có vẻ cứng rắn nhỉ? Vậy thì đánh nó trước.

Vị tiên kia hỏi:

- Đánh bao nhiêu roi ạ? Đại tiên đáp:
- Chiếu theo số quả, đánh ba mươi roi.

Vị tiên vung roi đánh liền. Hành Giả sợ phép của nhà tiên ghê gớm, giương cặp mắt tròn xoe nhìn kỹ xem họ đánh vào đâu. Thì ra họ đánh vào chân. Hành Giả bèn uốn người hô “biến” một cái, lập tức hai chân biến thành hai chân sắt luyện, để xem họ đánh ra sao. Vị tiên lần lượt đánh đủ ba mươi roi thì trời đã sắp trưa. Đại tiên lại dặn rằng:

- Phải đánh cả Tam Tạng về tội dạy dỗ không nghiêm, bỏ mặc đồ đệ phóng túng làm càn.

Vị tiên kia định vung roi đánh liền. Hành Giả nói:

- Ngài dạy sai rồi. Sư phụ tôi đâu có biết tôi ăn trộm quả. Khi ấy người ở trên điện trò chuyện với hai tiểu đồng. Chỉ có anh em chúng tôi làm chuyện này. Nếu ngài có phạt tội dạy dỗ không nghiêm đi nữa, thì tôi là đệ tử, tôi xin chịu thay. Cứ đánh tôi nữa đi!

Đại tiên nói:

- Con khỉ này tuy bướng bỉnh giảo hoạt, nhưng cũng có chút hiếu thảo. Đã vậy, đánh cho hắn trận nữa!

Vị tiên kia lại đánh tiếp ba mươi roi. Hành Giả cúi đầu nhìn xuống, thấy hai chân sáng bóng như gương, càng đánh càng sáng, chẳng thấy đau đớn ngứa ngáy chút nào. Lúc này, trời đã sắp tối. Đại tiên nói:
- Hãy đem roi đi ngâm nước, sáng mai đánh tiếp.

Vị tiên kia mang roi đi ngâm nước. Ai nấy về phòng ăn cơm tối xong, rồi đi nghỉ. Chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện Tam Tạng nước mắt đôi dòng, oán trách ba đồ đệ:

- Chúng bây gây ra tai họa, lại lụy cả đến ta phải chịu tội lây, giờ biết tính sao?

Hành Giả nói:

- Sư phụ đừng oán trách nữa. Chỉ mỗi mình con bị đánh trước, sư phụ chưa hề bị đánh roi nào, mà cứ than vãn mãi!

Đường Tăng nói:

- Tuy ta chưa bị đánh, nhưng cũng bị trói đau lắm. Sa Tăng nói:
- Sư phụ còn bị trói thêm ở đây nữa chứ. Hành Giả nói:
- Thôi đừng làm ầm ĩ lên. Nghỉ đi một chút rồi đi. Bát Giới nói:
- Ông anh lại nói khoác rồi. Thừng đay ngâm nước, trói chặt thế này, có như cửa điện khóa, bị anh dùng phép “mở khóa” mở ra mà đi thoát đâu!

Hành Giả nói:

- Chẳng nói khoác đâu. Ta đâu có sợ ba cái sợi dây thừng đay ngâm nước của họ. Dù to như sợi song kéo thuyền ta cũng coi thoảng như làn gió thu!

Đang lúc trò chuyện, trời đã bốn bề vắng lặng, khuya khoắt tịch mịch. Hành Giả rút người nhỏ lại, chui ra khỏi sợi thừng nói:
- Sư phụ ơi, đi thôi!

Sa Tăng hốt hoảng nói:

- Anh ơi, cứu chúng em với! Hành Giả nói:
- Khẽ mồm chứ!

Nói đoạn, bèn lần lượt cởi trói cho Tam Tạng, Bát Giới, Sa Tăng, buộc lại áo xống cho gọn gàng, đóng yên cương, lấy hành lý ở góc hành lang, cả bọn kéo nhau ra khỏi cửa. Hành Giả quay lại bảo Bát Giới:

- Chú đi đẵn bốn cây liễu ngoài sườn núi mang về đây! Bát Giới hỏi:
- Để làm gì? Hành Giả đáp:
- Có việc. Mau mau lên!

Chú ngốc khỏe mạnh, chạy đi ngay, mỗi cây một ngoạm, cả thảy bốn cây, một mạch mang về. Hành Giả bẻ hết cành lá, đoạn hai anh em mang vào trong nhà, lấy thừng buộc vào cột như đã trói mọi người hôm qua. Xong xuôi, Đại Thánh niệm chú, cắn vào đầu lưỡi, phun máu vào cây, hô “biến!”, lập tức một cây biến thành Tam Tạng, một cây biến thành chính mình, hai cây kia biến thành Sa Tăng, Bát Giới, dung mạo giống hệt, cũng hỏi nói gọi thưa. Lúc ấy, hai người mới rảo cẳng đuổi theo sư phụ.

Đêm ấy, người ngựa đi liền một hơi không nghỉ, thoát khỏi quán Ngũ Trang.

Mãi tới lúc trời sáng, Tam Tạng ngồi trên mình ngựa ngủ gật xiêu vẹo. Hành Giả thấy thế, bèn nói:

- Sư phụ dở quá. Người xuất gia gì mà lại khổ sở thế kia. Lão
Tôn đây dù có một nghìn đêm không ngủ cũng chẳng nhọc mệt
chút nào. Thôi sư phụ tạm xuống ngựa đi, kẻo người qua đường trông thấy cười chết! Và tìm nơi khuất gió trên sườn núi nghỉ tạm một lát rồi hẵng đi.

Tạm gác chuyện bốn thầy trò ngủ tạm ở dọc đường. Lại nói chuyện vị đại tiên kia, khi trời sáng hẳn, ăn bữa sáng xong, lại lên điện, truyền mang roi đến, ra lệnh:

- Hôm nay đến lượt đánh Tam Tạng.

Vị tiên kia vung roi, nhìn Đường Tăng nói:

- Đánh nhà ngươi đây! Cây liễu cũng trả lời:
- Đánh đi.

Vị tiên vun vút quật ba mươi roi liền, đoạn vung roi chỉ Bát
Giới, nói:

- Đánh nhà ngươi đây! Cây liễu cũng trả lời:
- Đánh đi.

Khi đánh đến Sa Tăng, cây liễu cũng trả lời “đánh đi”. Khi đánh đến Hành Giả, thì Hành Giả đang đi trên đường, bỗng rùng mình nói:

- Hỏng rồi! Tam Tạng hỏi:
- Con nói sao? Hành Giả thưa:
- Con biến bốn cây liễu thành bốn thầy trò mình, cứ tưởng rằng hôm qua họ đánh con hai trận rồi thì hôm nay không đánh nữa. Ai ngờ họ lại đánh vào hóa thân con, cho nên con thấy rùng mình, phải thu phép lại thôi!
Nói xong, Hành Giả vội vàng niệm chú thu phép về. Vị tiên đồng kia sợ hãi quá, rơi cả roi, báo rằng:
- Thưa sư phụ, người con đánh đầu tiên là nhà sư Đại Đường, lần này đánh thấy rặt là thân cây liễu.

Đại tiên nghe xong, khà khà cười nhạt, khen ngợi hết lời:

- Tôn Hành Giả thật là một chú hầu vương giỏi! Ta từng nghe hắn đại náo thiên cung, thiên la địa võng bủa kín đất mà không bắt nổi. Quả đúng thế không sai. Nhưng nhà ngươi đã bỏ chạy rồi thì thôi, cớ sao còn dám trói mấy cây liễu ở đây, đổi tên lừa bịp, ta quyết chẳng tha, phải đuổi bắt ngay!

Đại tiên vừa nói xong, đã nhảy vút lên mây, nhìn về hướng Tây, thấy mấy hòa thượng đang gánh đồ dắt ngựa đi đường. Đại tiên từ tầng mây nhảy xuống, quát:

- Tôn Hành Giả chạy đi đâu! Trả cây nhân sâm cho ta! Bát Giới nghe vậy, nói:
- Hỏng rồi, địch thủ lại đến rồi! Hành Giả nói:
- Sư phụ hãy gói “chữ thiện” lại để chúng con dùng đòn hiểm kết liễu đời hắn, mới đi thoát được.

Đường Tăng nghe nói, run rẩy sợ hãi, chưa kịp trả lời, thì Sa Tăng đã rút bảo trượng, Bát Giới vung đinh ba, Đại Thánh múa gậy sắt, nhất tề xông lên, vây chặt lấy đại tiên trên không trung, lao vào đánh tới tấp. Trận đấu rất quyết liệt. Có bài thơ làm chứng rằng:

Ngộ Không chẳng biết Đại tiên, Đồng Quân Dữ Thế đạo huyền diệu thay! Thần binh ba món bao vây,
Phất trần một chiếc tung bay oai hùng.

Che sau đỡ trước ung dung,

Đỡ trên gạt dưới vững lòng tự tin.

Trốn đêm sáng lại bắt liền,

Bao giờ mới được lên đường sang Tây.

Ba anh em, mỗi người một loại binh khí cùng xông cả vào đánh. Vị Đại tiên vung phất trần đón đỡ. Đánh nhau được nửa tiếng, Đại tiên vung rộng tay áo, lại chụp gọn cả bốn thầy trò, cùng con ngựa, hành lý vào trong tay áo như lần trước, rồi cưỡi mây trở về quán. Mọi người ra đón tiếp. Đại tiên ngồi trên chính điện, lôi từng người trong tay áo ra, trói Đường Tăng vào gốc cây hòe thấp; trói Bát Giới, Sa Tăng vào hai cây ở hai bên, Hành Giả bị trói gô dưới đất, nghĩ thầm:

- Chắc là sắp tra hỏi đây.

Lát sau, trói buộc đã xong, đại tiên lại sai mang ra mười súc vải dài. Hành Giả cười, nói:

- Bát Giới này, ngài đây có lòng tốt, mang vải ra may áo cho chúng ta đấy. Tiết kiệm một chút, mỗi người cũng may được
[166]
một chiếc áo chuông        .

Một vị đại tiên mang số vải tự dệt lấy ấy ra, Đại tiên nói:

- Lấy vải quấn Tam Tạng, Bát Giới, Sa Tăng lại!

Mọi người cùng bước lên lấy vải quấn chặt ba người lại. Hành Giả cười, nói:

- À, à, té ra họ khâm liệm cho tụi mình.

Trong giây lát, đã quấn xong. Lại sai lấy sơn ra. Mọi người vội vàng mang ra thứ sơn sống tự chế lấy, quét kín lượt vải bọc quanh ba người, chỉ để hở đầu mà thôi.
Bát Giới nói:

- Thưa ngài, trên đầu không thít chặt thì thôi, phía dưới phải chìa ra một lỗ, để chúng tôi còn ỉa chứ!

Đại tiên lại sai khiêng ra một cái vạc to. Hành Giả cười, nói:

- Bát Giới ơi, may quá, có lẽ mang vạc ra nấu cơm cho chúng ta chén đấy.

Bát Giới nói:

- Có lẽ thế. Cho chúng ta chén tí chút, rồi làm con ma no lại hóa hay.

Mọi người khiêng ra một cái vạc to đặt trước bậc điện. Đại tiên sai chất củi khô, châm lửa, rồi truyền:

- Đổ đầy dầu vào vạc, đun sôi lên, ném Tôn Hành Giả vào rán giòn, trả thù cho cây nhân sâm của ta!

Hành Giả nghe vậy, mừng thầm:

- Trúng ý lão Tôn rồi, lâu lắm chưa được tắm, da dẻ ngứa ngáy khó chịu. Hay dở gì mặc kệ cứ tắm đã. Cám ơn tấm thịnh tình của các ngài nhé!

Trong phút chốc, dầu sôi sùng sục. Hành Giả lại nghĩ rằng: “E phép tiên khó thoát, trong vạc dầu, ngộ có lỡ làm sao thì khốn, bèn ngó nghiêng nhìn xung quanh, thấy phía đông có chiếc đài xem bóng nắng mặt trời, phía tây có một con sư tử đá. Hành Giả co người lăn ra phía tây, cắn đầu lưỡi lấy giọt máu phun vào con sư tử đá rồi hô “biến!”, biến thành một Hành Giả giả bị trói nằm đấy, còn mình xuất thần, nhảy vút lên mây, cúi đầu nhìn xuống xem đạo sĩ làm gì. Chỉ thấy mọi người bảo rằng:

- Thưa sư phụ, dầu sôi kỹ lắm rồi ạ. Đại tiên ra lệnh:
- Ném Tôn Hành Giả vào!
Bốn tiên  đồng  khiêng  không  nổi,  tám  người  cũng  khiêng không nổi, lại thêm bốn người nữa cũng chịu.

Các vị tiên nói:

- Con khỉ này lưu luyến với đất, khó chuyển gớm nhỉ! Oắt con mà đã nặng ghê!

Rồi sai hai mươi vị tiên khênh Hành Giả lên, ném tủm vào vạc, khiến dầu bắn tung tóe, các vị tiên đứng xung quanh đều bị bỏng, phồng rộp cả mặt mày. Bỗng một tiên đồng kêu toáng lên:

- Vạc thủng rồi, vạc thủng rồi!

Nói chưa dứt lời, dầu đã chảy ra lênh láng. Đáy vạc bị thủng, nằm chỏng chơ một con sư tử đá.

Đại tiên nổi giận, nói:

- Con khỉ này thực vô lễ! Dám nhờn trước mặt ta! Nhà ngươi đã bỏ chạy rồi thì thôi, nhưng tại sao dám phá bếp của ta? Bắt con khỉ này thật công toi, mà có bắt được thì cũng chẳng khác trói bùn chém nước, bắt bóng đuổi hơi. Thôi, hãy tha cho hắn. Nhưng cởi Đường Tam Tạng ra, đun vạc dầu khác, ném hắn vào, trả thù cho cây nhân sâm của ta.

Mọi người tuân lệnh, xé lớp vải sơn ra. Hành Giả đứng trên không trung nghe rõ hết, nghĩ thầm:

- Sư phụ hỏng mất. Chúng mà bỏ vào vạc sôi thế kia thì chết ngay, một lát sau thì cháy vàng, mấy lát nữa thì rữa nát. Ta phải đi cứu ngay mới xong.

Thế là Đại Thánh từ trên mây nhảy xuống, khoanh tay bước tới nói:

- Đừng xé lớp vải sơn ra nữa. Tôi xin chịu vào thay cho sư phụ tôi.

Đại tiên kinh ngạc quát mắng:
- Con khỉ hỗn xược kia, tại sao dám bày trò phá bếp của ta? Hành Giả cười, nói:
- Ngài gặp tôi thì cái bếp này hỏng, việc ấy liên can gì đến tôi? Tôi cũng định lĩnh món quà quý là vạc dầu nóng của ngài, nhưng phiền nỗi mót đi ỉa, đi đá quá, mà bĩnh vào vạc của ngài thì e ô nhiễm cả vạc dầu, không nấu canh được. Bây giờ tôi đã giải quyết xong việc, sạch sẽ rồi, lại xin được vào trong vạc. Vậy đừng ném sư phụ tôi, ném tôi vào là xong.

Đại tiên nghe nói, khanh khách cười nhạt, từ trong điện bước ra, ôm chặt lấy Hành Giả.

Cuối cùng không biết Hành Giả nói năng ra sao, làm thế nào để thoát thân, xem hồi sau sẽ rõ.










Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét