Chủ Nhật, 18 tháng 1, 2015

TÂY DU KÝ - Hồi 45-65

HỒI THỨ BỐN MƯƠI LĂM




Quán Tam Thanh, Đại Thánh lưu danh


Nước Xa Trì, Hầu Vương hóa phép




Lại nói chuyện Tôn Đại Thánh tay trái khẽ hích Sa Tăng, tay
phải khẽ hích Trư Bát Giới. Hai người lúc ấy mới tỉnh ngộ, ngồi trên cao cứ cúi gằm mặt xuống, chẳng nói chẳng rằng, mặc kệ bọn đạo sĩ thắp đèn châm lửa, coi trước tìm sau. Ba người cứ ngồi trơ trơ như những pho tượng sơn son thếp vàng.


Hổ Lực đại tiên nói:


- Không có kẻ gian, mà sao đồ cúng bị ăn sạch sẽ nhỉ? Lộc Lực đại tiên nói:
- Mà lại hệt như người ăn vậy. Thức gì có vỏ thì bóc vỏ, quả
nào có hạt thì nhè hạt, mà tịnh không thấy bóng người đâu cả?


Dương Lực đại tiên nói:


- Sư huynh chớ có đa nghi. Có lẽ chúng ta lòng thành tâm
kính, tụng niệm đêm ngày, trước sau dâng sớ, thêm có danh hiệu triều đình nữa, cho nên cảm động tới Thiên tôn, các vị thánh ở Tam Thanh giáng lâm thụ hưởng những thức cúng dâng đó thôi. Nhân lúc các ngài chưa về, xe hạc còn đây, chúng ta hãy cầu khấn đức Thiên tôn, ban cho một ít kim đơn nước thánh, dâng
lên Nhà vua dùng, để được trường sinh bất lão, và công quả của chúng ta càng rõ rệt.


Hổ Lực đại tiên nói:


- Phải lắm. Bèn gọi:
- Các đồ đệ, hãy tấu nhạc tụng kinh! Một người mang pháp y
ra đây để ta làm lễ nhượng sao cầu thọ.


Đám tiểu đạo sĩ tuân lệnh răm rắp, sắp hàng thành hai ban tề chỉnh. Khi một tiếng khánh vừa vang lên, mọi người cùng niệm quyển kinh “Hoàng đinh đạo đức chân kinh”. Hổ Lực đại tiên khoác áo pháp y, tay cầm ngọc giản, đứng trước bàn thờ nhảy múa làm lễ, đoạn phủ phục xuống mặt đất dâng lời khấn rằng:



Nơm nớp lo sợ Cúi đầu quy y Lũ thần làm lễ
Ngưỡng vọng danh hư


Diệt sư mọi rợ Kính đạo quang huy Sắc dựng điện báu


Ngự chế cung vi Biện đủ lễ vật Treo cao long kỳ
Nến rực trời thẳm Hương trầm bay xa Lòng thành khấn khứa Trân trọng mời về
Đội ơn giáng hạ


Xe tiên chưa đi


Cúi xin ban chút linh đơn, nước thánh


Dâng đức thánh thượng thọ mãi không già




Bát Giới nghe lời khấn trong lòng phân vân, trao đổi khẽ với
Hành Giả:


- Cái này là tại chúng mình cả, ăn xong không chịu đi ngay, bây giờ họ cầu khấn, biết làm thế nào?


Hành Giả hích Bát Giới, rồi bật miệng nói:


- Lũ tiểu tiên con nít kia, đừng có lễ bái nữa. Chúng ta đi dự
hội bàn đào về qua, không mang theo linh đơn nước thánh. Đợi dịp khác ta sẽ ban cho.


Đám đạo sĩ lớn nhỏ thấy pho tượng nói ra tiếng người, ai nấy run rẩy sợ hãi, nói:


- Thưa đại tiên, đức Thiên tôn giáng trần, dù sao cũng cầu người ban phép trường sinh cho.


Lộc Lực đại tiên bước tới, sụp lạy khấn rằng:




Cúi đầu sụp lạy Bày tỏ lòng thành Tiểu thần theo mệnh
Ngưỡng mộ Tam Thanh Xuống cõi trần thế Phò đạo diệt tăng
Quốc vương mừng rỡ Kính trọng huyền linh Lập đàn chay lớn
Đêm ngày tụng kinh
Thiên tôn đoái tới Soi xét ngọn ngành Xin được thương đến Ngưỡng vọng ân vinh
Mong ngài ban cho ít liều nước thánh


Cho đệ tử được vĩnh thọ trường sinh




Sa Tăng hích Hành Giả, khe khẽ nói:


- Sư huynh ơi, gay go rồi, họ lại cầu xin nữa. Hành Giả nói:
- Thì cho họ một ít. Bát Giới thì thầm hỏi:
- Lấy đâu ra? Hành Giả đáp:
- Các chú em cứ nhìn tôi. Tôi có, các chú cũng có.


Đạo sĩ kia kêu cầu đã xong, Hành Giả bèn mở mồm nói:


- Lũ tiểu yêu con nít kia, không phải cúi lạy nữa. Ta không
muốn cho các ngươi nước thánh, nhưng e tuyệt mất dòng dõi. Muốn cho các ngươi, lại thành ra dễ dãi quá.


Các đạo sĩ nghe nói đều phủ phục dập đầu cả xuống, thưa:


- Muôn xin Thiên tôn nghĩ tới tấm lòng cung kính của đệ tử,
vui lòng ban cho chút ít. Đệ tử chúng con xin sẽ hoàng dương đạo pháp, và tâu với Quốc vương phổ kính huyền môn.


Hành Giả nói:


- Đã thế, hãy mang đồ đựng lại đây.


Đám đạo sĩ cúi rạp cả xuống tạ ơn. Hổ Lực đại tiên cậy khỏe,
bê ngay một cái vò to miệng đặt lên điện. Lộc Lực đại tiên mang chiếc chậu sành đặt lên bàn. Dương Lực đại tiên vớ chiếc lọ lục bình, vứt hoa ra, đặt dịch vào giữa.


Hành Giả nói:


- Các ngươi hãy ra cả trước điện, cài chặt then cửa, chớ có tiết
lậu thiên cơ, ta sẽ ban cho các ngươi chút nước thánh.


Đám đạo sĩ nhất tề phủ phục trước thềm son, đóng cửa điện lại. Lúc ấy Hành Giả mới đứng dậy, vén chiếc quần da hổ lên, đái một bãi vào trong chiếc lọ hoa. Bát Giới thấy thế mừng quá, nói:


- Sư huynh ơi, tôi kết làm anh em với sư huynh đã mấy năm nay, nhưng chưa làm cái trò này bao giờ. Vừa rồi tôi ăn nhiều quá, cũng đang mót đái đây.


[228]
Chú ngốc cũng vén quần, rồi tồ tồ như bò đái

, đầy phè
chiếc chậu sành. Sa hòa thượng cũng cho chảy đầy đến nửa vò, đoạn quay lại ngồi ngay ngắn trên đài như cũ, rồi gọi:


- Các tiểu tiên vào nhận nước thánh!


Đám đạo sĩ mở then đẩy cửa, dập đầu lạy tạ, rồi bưng cả vò,
chậu đi đặt vào một chỗ, đoạn ra lệnh:


- Đồ đệ, mang chén lại đây để nếm thử nào.


Tiểu đạo sĩ chạy đi lấy ngay chiếc chén uống trà mang đến
đưa cho lão đạo sĩ. Lão đạo sĩ múc một chén uống luôn một ngụm, rồi liếm môi chép miệng. Lộc Lực đại tiên hỏi:


- Đại huynh thấy có ngon không? Lão đạo sĩ bĩu môi, nói:
- Không được ngon lắm. Có vị khai khai ngang ngang. Dương Lực đại tiên nói:
- Để tôi nếm thử xem sao.


Nói xong cũng uống luôn một ngụm, rồi nói:


- Có mùi khai khai như nước đái lợn.




Hành Giả ngồi trên nghe thấy mấy lời nói đó, biết là sẽ vỡ
chuyện, bèn nói:


- Ta sẽ ra tay quyết để lưu danh. Đoạn gọi lớn:


Đạo hiệu! Đạo hiệu!


Chớ có vân vi


Tam Thanh mấy thánh


Xuống trần làm chi?
Dỏng tai mà nghe Ta nói cho rõ Đường Tăng đồ đệ Vâng chỉ sang Tây
Đêm thanh hôm nay Nhàn chơi cung khuyết Lễ vật xơi tiệt
Nán lại vui đùa Các ngươi xin quà Lấy gì cho nhỉ? Nước thánh thì bí
Dùng nước đái nghe!




Đám đạo sĩ nghe nói như vậy, chặn cửa ra vào, nhất tề vác
đinh ba, cán chổi, gạch ngói, đá củ, chẳng nể nang, ném loạn vào bên trong. Hành Giả tay trái cắp Sa Tăng, tay phải kẹp Bát Giới, xông vụt ra ngoài cửa, cưỡi đám mây sáng bay thẳng về phương trượng chùa Trí Uyên. Không dám làm kinh hoảng sư phụ, ba người lại rón rén nằm ngủ tiếp.


Chẳng mấy chốc, tiếng trống canh năm đã điểm ba hồi, quốc vương thiết triều, hội họp hai ban văn võ, bốn trăm triều quan. Chỉ thấy đèn lồng nến cháy sáng trưng, đỉnh báu hương trầm ngào ngạt. Lúc ấy Đường Tam Tạng tỉnh dậy, gọi:


- Các đồ đệ ơi, mau dậy theo hầu ta đi đổi điệp văn.


Hành Giả, Bát Giới, Sa Tăng trở dậy, mặc quần áo, đứng hầu
ở bên cạnh Đường Tăng, nói:


- Thưa sư phụ, đức vua này tin dùng đạo sĩ, hưng đạo diệt tăng, e nói năng thất thố, họ không chịu đổi điệp văn cho đâu, chi bằng chúng con hộ trì sư phụ, cùng vào cả.


Đường Tăng mừng lắm, mặc áo cà sa gấm, Hành Giả cầm tờ điệp văn, bảo Ngộ Tĩnh bưng chiếc bát lộ, Ngộ Năng cầm cây gậy tích trượng, giao hành lý cho các nhà sư chùa Trí Uyên coi giữ, rồi vào thẳng trước lầu Ngũ Phượng, vái chào quan Hoàng môn giữ cửa, nói rõ họ tên, rằng chúng tôi là hòa thượng nước Đại Đường bên phương Đông đi lấy kinh, đến đây xin đổi điệp văn, phiền ngài chuyển tấu cho. Viên quan Hoàng môn lập tức vào triều cúi rạp trước thềm son, tâu:


- Bên ngoài có bốn vị hòa thượng, nói là từ nước Đại Đường bên phương Đông đi lấy kinh, muốn xin vào đổi điệp văn, hiện đang đứng ngoài cửa lầu Ngũ Phượng đợi chiếu chỉ.


Quốc vương nghe xong lời tâu, nói:


- Lũ hòa thượng ấy không biết tìm cái chết ở đâu, mà lại đến
đây tìm sao? Các quan đi tuần tại sao không bắt giải chúng về?


Quan thái sư đứng bên cạnh bước ra tâu:


- Nước Đại Đường bên phương Đông, thuộc Nam Thiệm bộ
châu, gọi là nước Trung Hoa Đại Đường. Họ từ vạn dặm xa xôi tới đây, đường đi nhiều yêu quái, chắc phải có chút pháp lực mới dám sang Tây. Mong bệ hạ nể mặt họ là những nhà sư Trung Hoa xa xôi, cứ cho mời vào kiểm soát điệp văn rồi cho đi, gọi là không bỏ lỡ mất thiện duyên.


Quốc vương bằng lòng, cho vời đoàn Đường Tăng tới điện Kim Loan. Thầy trò bước vào đứng sắp hàng trước thềm, đệ điệp văn lên quốc vương.


Quốc vương vừa mở tờ điệp văn ra xem, vội vàng bước xuống khỏi ngai rồng, sai thị vệ trải đệm gấm, còn mình thì khom người đón tiếp.


Thầy trò Tam Tạng quay đầu nhìn, thấy ba vị đại tiên ngất nga ngất ngưởng đi thẳng vào trong, sau gáy hai món tóc bồng lên trông như tiểu đồng. Hai ban văn võ khom lưng cúi mình, không dám ngửng đầu lên. Ba đại tiên lên thẳng điện Kim Loan, không lạy chào quốc vương gì hết.


Quốc vương hỏi:


- Thưa quốc sư, trẫm không có lời mời, quốc sư tới có việc gì
vậy?


Lão đạo sĩ đáp:


- Có chút việc cần nói, nôn mới đến. Bốn hòa thượng kia từ
đâu tới?


Quốc vương nói:


- Họ từ nước Đại Đường bên phương Đông sang phương Tây
lấy kinh, đến đây xin đổi điệp văn.


Ba đạo sĩ vỗ tay cười ầm lên, nói:


- Tôi tưởng họ chạy trốn rồi, té ra vẫn còn ở đây à! Quốc vương sợ hãi, nói:
- Quốc sư có chuyện gì vậy? Họ vừa mới báo họ tên, trẫm
đang định bắt cho quốc sư sai dùng. Hiềm vì lời tấu của quan thái sư có lý, trẫm cũng thông cảm xa xôi, không muốn dứt thiện duyên với Trung Hoa, nên mới cho vời họ vào kiểm soát điệp văn, không ngờ quốc sư lại hỏi như vậy. Chắc là họ xúc phạm tôn nhan, mắc nhiều tội lỗi?


Đạo sĩ cười nói:


- Bệ hạ không biết. Chúng tới đây từ hôm qua, đánh chết hai
đồ đệ của chúng tôi ở ngoài cửa đông, thả hết năm trăm nhà sư bị tù, đập nát xe cộ. Ban đêm chúng còn xông vào quán, phá hủy tượng thánh Tam Thanh, ăn trộm đồ cúng. Chúng tôi bị chúng đánh lừa, nói là Thiên tôn giáng hạ, xin chúng ít linh đơn nước thánh, để dâng lên bệ hạ ngự dùng, mong bệ hạ sống lâu mãi mãi. Không ngờ chúng đái ra cho, lừa dối chúng tôi. Chúng tôi mỗi người uống thử một ngụm, nhận ra ngay mùi vị của nước đái, định ra tay tróc nã chúng, thì chúng chạy trốn mất. Ai ngờ hôm nay chúng vẫn còn đây. Thật là làm ác trước sau cũng bị
[229]
trừng phạt        .


Quốc vương nghe nói, bừng bừng nổi giận, định bắt ngay bốn
người.


Đại Thánh chắp tay, mở miệng cất cao giọng nói:


- Xin bệ hạ tạm nguôi cơn giận, cho phép tăng nhân chúng tôi
được bày tỏ.


Quốc vương nói:


- Các ngươi đã xúc phạm tới quốc sư. Lời quốc sư nói chẳng
lẽ lại sai?


Hành Giả thưa:


- Họ nói chúng tôi hôm qua đánh chết hai người của họ ở
ngoài thành, vậy có ai làm chứng? Mặc dù vậy, chúng tôi cũng xin nhận, bắt hai nhà sư đền mạng, xin tha cho hai người đi lấy kinh. Họ còn nói chúng tôi đập phá xe cộ, thả hết số tăng nhân tù phạm. Việc ấy cũng không có chứng cớ gì cả, không đáng tội chết, xin sai một hòa thượng nữa chịu tội là xong. Họ còn nói chúng tôi phá quán Tam Thanh, làm loạn đền miếu. Đó thực là gieo vạ cho chúng tôi!


Quốc vương hỏi:


- Gieo vạ thế nào? Hành Giả đáp:
- Chúng tôi là những nhà sư từ phương Đông tới, vừa chân
ướt chân ráo tới đây, phố xá còn chưa thuộc, làm sao mà biết chuyện trong quán của họ? Nếu có đái ra đấy, thì đã bị bắt ngay rồi. Vậy đây là họ chủ bụng đổ tội cho chúng tôi. Trong thiên hạ những chuyện mượn họ giả tên có vô số, tại sao lại cứ đổ riệt cho chúng tôi? Mong bệ hạ nguôi giận suy xét kỹ càng.


Quốc vương vốn là người ngu tối, bị Hành Giả thuyết cho một hồi, lòng phân vân không quyết.


Đang lúc nghi hoặc, lại có quan Hoàng môn vào tâu:


- Tâu bệ hạ, ngoài cửa có rất nhiều hương lão tới đợi chiếu
chỉ.


Quốc vương hỏi:


- Có việc gì?


Bèn ra lệnh cho vời vào. Khi vào tới trong điện, ba bốn chục
vị hương lão dập đầu thưa:


- Vạn tuế! Năm nay cả mùa xuân không mưa, e mùa hạ sẽ hạn hán. Vậy chúng thần tâu với bệ hạ, xin cho quốc sư lập đàn cầu mưa ngọt, cứu khắp muôn dân.


Quốc vương nói:


- Hương lão cứ tạm lui, sẽ có mưa ngay. Hương lão tạ ơn, lui ra.
Quốc vương nói:


- Các vị sư nhà Đường, có biết vì sao trẫm kính đạo diệt tăng
không? Đó là vào năm trước, trẫm cầu đảo, bọn nhà sư triều ta không cầu lấy nổi một giọt. May nhờ trời giáng xuống quốc sư, cứu dân ra khỏi lầm than. Nay các ngươi từ xa tới đây, xúc phạm quốc sư, lẽ ra đáng trị tội ngay. Nhưng trẫm tạm tha. Vậy các ngươi có dám thi cầu đảo với quốc sư không? Nếu cầu được một trận mưa ngọt, cứu vớt muôn dân, trẫm sẽ tha tội, đổi cho điệp văn sang phương Tây, nếu thua, trời không mưa, trẫm sẽ sai điệu các ngươi ra pháp trường, chém đầu làm gương cho dân chúng.


Hành Giả cười nói:


- Tiểu hòa thượng chúng tôi cũng biết chút ít cách thức cầu
đảo đấy ạ.


Quốc vương nghe nói như vậy, lập tức ra lệnh sửa soạn đàn tràng. Một mặt ra lệnh:


- Chuẩn bị xa giá để quả nhân thân lên lầu Ngũ Phượng xem xét.


Các quan chuẩn bị xa giá. Lát sau. Nhà vua đã ngồi trên lầu. Đường Tam Tạng đi theo Hành Giả, Sa Tăng, Bát Giới đứng hầu dưới lầu. Ba đạo sĩ ngồi cùng với quốc vương ở trên. Bỗng thấy một viên quan phi ngựa như bay tới báo:


- Đàn tràng đã xong xuôi, xin mời quốc sư đăng đàn.


Hổ Lực đai tiên khoanh tay cúi mình từ biệt quốc vương,
bước xuống lầu.


Hành Giả bước tới ngăn lại, hỏi:


- Tiên sinh đi đâu? Đại tiên đáp:
- Ta đăng đàn cầu mưa. Hành Giả nói:
- Ngài quên cả tự trọng, không nhường những nhà sư phương
xa chúng tôi à? Thôi được, thế mới là “rồng mạnh không đẻ rắn xó nhà”. Nhưng tiên sinh đi cầu trước, cũng phải nói với nhà vua đã.


Đại tiên hỏi:


- Nói gì?


Hành Giả đáp:


- Tôi và ngài cùng đăng đàn cầu mưa, thì biết mưa ấy là của
ngài hay của tôi? Và biết đó là công lao của ai?


Quốc vương ngồi trên lầu nghe nói như vậy, trong bụng mừng thầm, nói:


- Vị tiểu hòa thượng này nói năng cứng cỏi gớm nhỉ? Sa Tăng nghe như vậy, cũng cười thầm nói:
- Biết đâu anh ấy còn cả một bụng cứng cỏi chưa chịu lôi ra
đấy.


Đại tiên nói:


- Không cần nói, nhà vua biết rồi. Hành Giả nói:
- Tuy biết, nhưng tôi là nhà sư từ phương xa tới chưa từng
gặp ngài, lúc ấy hai bên lại cãi lộn nhau, chẳng ra thể thống gì, phải nói rõ ra mới tiện làm việc.


Đại tiên nói:


- Ta đăng đàn, cứ nhìn lệnh bài của ta làm hiệu. Lệnh bài gõ
một tiếng là gió nổi, hai tiếng là mây kéo, ba tiếng là sấm chớp vang rền, bốn tiếng là mưa rơi, năm tiếng mây tan mưa tạnh.


Hành Giả cười nói:


- Tuyệt quá! Sư tăng chúng tôi chưa từng thấy như thế bao
giờ! Xin mời! Xin mời!


Đại tiên rảo bước đi trước, bọn Tam Tạng theo sau, bước tới cửa đàn. Họ ngẩng đầu nhìn thấy một tòa đài cao chừng hơn ba trượng, hai bên cắm cờ hiệu hai mươi tám ngôi sao. Giữa đàn đặt một chiếc bàn. Trên bàn đặt một lư hương, khói bay nghi ngút. Hai bên có hai cây nến. Trên đài đèn nến sáng trưng. Cạnh lư hương đặt một cây kim bài, trên bài có khắc danh hiệu thần sấm. Dưới chân đài có năm cái chum lớn đựng đầy nước sạch. Một cành dương liễu nổi trên mặt nước. Trên cành dương liễu cài một chiếc bài bằng sắt, trên bài có viết chữ bùa “lôi đinh đô
tỵ”. Hai bên lại trồng năm cây cọc to. Trên cọc viết tên sứ giả man lôi năm phương. Cạnh mỗi cọc có hai đạo sĩ đứng, tay cầm búa sắt đợi lệnh gõ vào cọc. Sau đài còn có vô số đạo sĩ viết bùa sớ. Chính giữa còn đặt một cái lò hương bằng giấy và mấy người hình nhân làm sứ giả giữ bùa, thổ địa giúp việc.


Đạo tiên đi tới, chẳng chút khiêm tốn, lên thẳng trên đài cao đứng nghiêm. Bên cạnh có một tiểu đạo sĩ bưng mấy đạo bùa viết bằng giấy vàng. Người đạo sĩ dâng một thanh bảo kiếm cho đại tiên. Đại tiên cầm bảo kiếm, niệm thần chú, và châm một đạo bùa trên ngọn nến đốt đi. Mấy đạo sĩ đứng dưới cũng châm lửa đốt một người hình nhân cầm bùa và một tờ sớ. Một tiếng lệnh bài vang lên trên đài, lập tức trên không trung đã nghe vù vù tiếng gió thổi lại.


Trư Bát Giới lầm rầm trong miệng:


- Hỏng bét! Hỏng bét! Lão đạo sĩ này quả là cao tay. Lệnh bài
vừa gõ, đã thấy gió thổi.


Hành Giả nói:


- Chú nói khẽ chứ, đừng nói gì với tôi nữa, cốt giữ gìn sư phụ,
để tôi đi có việc.


Đoạn nhổ ngay một sợi lông, thổi khí tiên, hô “biến”, lập tức biến thành một Hành Giả giả đứng cạnh Đường Tăng, còn chân thân xuất nguyên thần, bay thẳng lên không trung cất tiếng gọi:


- Ai là người coi việc gió?




Phong bà bà sợ quá túm chặt túi vải, Tôn Nhị Lang thắt dây ở
miệng túi lại, rồi bước tới chào Hành Giả. Hành Giả nói:


- Ta hộ vệ vị thánh tăng nhà Đường sang phương Tây lấy kinh, dọc đường đi qua nước Xa Trì, cầu mưa đánh cuộc với đạo sĩ yêu quái, tại sao các ngươi không giúp lão Tôn mà lại giúp đạo sĩ? Ta tạm tha cho, nhưng phải thu ngay gió lại. Nếu còn có một chút gió nào thổi bay râu đạo sĩ, ta sẽ đánh mỗi người hai mươi gậy!


Phong bà bà nói:


- Không dám! Không dám!


Thế là không còn một tí gió nào nữa. Bát Giới không nhịn
được kêu loạn lên:


- Mời tiên sinh xuống cho! Lệnh bài rồi, mà sao không có gió? Xuống đi! Xuống đi! Để chúng tôi lên!


Đạo sĩ lại cầm lệnh bài, đốt tờ sớ, gõ chát một tiếng, bỗng thấy bầu trời mây đen kéo đến mù mịt. Hành Giả lại đón đầu hỏi lớn:


- Ai mang mây lại đó?


Thôi Vân đồng tử, Bố Vụ lang quân sợ quá, vội vàng bước tới
cúi lạy. Hành Giả như lần trước nói lại một lượt. Vân đồng, Vụ tử cũng thu ngay mây về. Mặt trời lại ló ra rực rỡ, bầu trời bát ngát không gợn chút mây.


Bát Giới cười nói:


- Tiên sinh kia chỉ lừa hoàng đế, lòe thứ dân, chứ có chút thực
tài nào đâu! Lệnh bài gõ đã hai lần, mà sao không thấy mây?


Đạo sĩ lòng như lửa đốt, chống bảo kiếm, xõa tóc niệm chú, đốt bùa, và lại gõ lệnh bài. Bỗng thấy trong cửa Nam Thiên, Đăng Thiếu Quân dẫn Lôi Công, Điện Mẫu đi tới giữa không trung, gặp Hành Giả chào hỏi. Hành Giả đem chuyện trước kể hết một lượt, đoạn nói:


- Tại sao các ngài lại đến một cách chí thành như thế? Có pháp chỉ gì không?


Thiên Quân nói:
- Phép ngũ lôi của đạo sĩ ấy là thật. Ông ta viết sớ đốt bùa làm kinh động Thượng đế. Thượng đế đã giáng chiếu thi hành xuống
cho phủ Thiên tôn[230]


  Chúng tôi vâng lệnh đến trước giúp
.
sấm, chớp, làm mưa.


Hành Giả nói:


- Đã như vậy, cứ tạm dừng lại, để lão Tôn hành sự đã.


Thế là chớp cũng không lóe, sấm cũng không rền. Đạo sĩ
càng sốt ruột, lại thắp thêm hương, đốt thêm bùa, niệm thần chú, gõ lệnh bài. Bỗng giữa bầu trời thấy Long vương bốn biển nhất tề kéo đến. Hành Giả đón đầu quát:


- Ngao Quảng, đi đâu thế kia?


Ngao Quảng, Ngao Thuận, Ngao Khâm, Ngao Nhuận bước
tới cúi chào. Hành Giả lại đem chuyện trước kể hết một lượt, đoạn nói:


- Bấy lâu vất vả, chưa được thành công. Hôm nay có chút việc, lại nhờ các ngài giúp đỡ.


Long vương nói:


- Xin tuân lệnh! Xin tuân lệnh! Hành Giả tạ ơn Ngao Thuận, nói:
- Ngày trước nhờ lệnh lang bắt yêu quái cứu sư phụ đấy!
Long vương nói:


- Tên ấy vẫn bị giam dưới biển, chúng tôi chưa dám tự tiện
xét xử, đang muốn nhờ Đại Thánh giúp cho.


Hành Giả nói:


- Ngài cứ xét xử thế nào cũng được mà. Còn hôm nay tạm
giúp tôi một việc đã. Lão đại sĩ kia gõ bốn tiếng lệnh bài đã xong rồi, giờ đến lượt lão Tôn đăng đàn cầu mưa. Nhưng tôi không biết làm sớ, đốt bùa, gõ lệnh bài, vậy các ngài phải giúp tôi hành sự.


Đặng Thiên Quân nói:


- Đại Thánh dạy bảo chúng tôi đâu dám trái. Nhưng phải có
hiệu lệnh mới dám theo lệnh mà thi hành. Nếu không, mưa gió tán loạn, hóa ra Đại Thánh làm việc không có điều khoản rõ ràng sao?


Đại Thánh nói:


- Ta dùng cây gậy làm hiệu nhé. Lôi Công cả sợ nói:
- Thưa Đại Thánh, chúng tôi đâu có xực được cái gậy đó? Hành Giả nói:
- Không phải là đánh các ngài đâu. Các ngài cứ nhìn cây gậy
này làm hiệu, ta giơ lên là nổi gió liền.


Phong bà bà và Tôn Nhị Lang cuống quýt đáp:


- Xin nổi gió ngay!


- Giơ gậy thứ hai là kéo mây.


Thôi Vân đồng tử và Bố Vụ lang quân nói:


- Xin kéo mây ngay!


- Giơ gậy lần thứ ba là sấm vang chớp giật. Lôi Công va Điện Mẫu nói:
- Xin tuân lệnh! Xin tuân lệnh!


- Giơ gậy lần thứ tư là mưa rơi. Long vương nói:
- Xin mưa ngay!


- Giơ gậy lần thứ năm là trời quang mây tạnh. Nhất nhất
không được trái lệnh.


Dặn dò xong xuôi, Hành Giả bèn dừng mây hạ xuống, rút sợi lông thu lại trên người. Lũ người đứng đó toàn là hạng người trần mắt thịt đâu có hay biết.


Hành Giả đứng bên cạnh cao giọng nói:
- Tiên sinh cầu khấn, bốn tiếng lệnh bài đã gõ rồi, mà không thấy gió mây sấm chớp mưa rơi gì cả, giờ thì nhường tôi nào.


Đạo sĩ không biết làm thế nào, cũng không dám nấn ná, đành bước xuống đài nhường cho Hành Giả, rồi cắn răng chạy lên lầu yết kiến nhà vua. Hành Giả nói:


- Để mình đi theo hắn xem hắn nói gì. Chỉ nghe thấy quốc vương hỏi:
- Quả nhân ở đây nghiêng tai lắng nghe, thấy bốn tiếng lệnh
bài đã gõ rồi mà tại sao chẳng thấy gió mưa gì cả?


Đạo sĩ đáp:


- Hôm nay Long thần đi vắng. Hành Giả liến thoắng nói:
- Tâu bệ hạ, Long thần ở nhà cả, chỉ vì phép của quốc sư
không thiêng nên không mời được. Để hòa thượng chúng tôi mời cho mà xem.


Quốc vương nói:
- Xin đăng đàn ngay cho, quả nhân vẫn đứng đợi mưa đây. Hành Giả được lệnh, quay người chạy về bên đàn túm lấy
Đường Tăng nói:


- Mời sư phụ lên đàn.


Đường Tăng nói:


- Đồ đệ, ta có biết đảo vũ đâu. Bát Giới cười nói:
- Anh ấy hại sư phụ đấy. Nếu không mưa, người ta sẽ ném sư
phụ lên đống củi, cho một mồi lửa thiêu cháy là xong.


Hành Giả nói:


- Sư phụ không biết cầu vũ, nhưng biết niệm kinh, con sẽ
giúp sư phụ.


Lúc ấy Tam Tạng mới cất bước lên đàn. Lên tới nơi, Đường Tăng ngồi xuống ngay ngắn, thần trí an định, rồi bắt đầu lầm rầm niệm Mật đa tâm kinh. Đang niệm, bỗng một viên quan phi ngựa như bay tới hỏi:


- Tại sao ngài không gõ lệnh bài, không đốt bùa sớ? Hành Giả lớn tiếng đáp:
- Không cần! Không cần! Chúng tôi chỉ cầu đảo trong tâm mà
thôi.


Viên quan trở về tâu lại cho nhà vua biết. Chuyện không nói nữa.


Hành Giả nghe thấy sư phụ đã tụng xong bài kinh, bèn rút gậy sắt trong tai ra, đón gió múa tít. Cây gậy dài ra tới hai trượng, to
bằng cái miệng bát. Đoạn giơ thẳng cây gậy lên không một cái. Phong bà bà trông thấy vội vàng lấy túi da ra, Tôn Nhị Lang cởi dây thắt miệng. Tiếng gió bỗng nổi lên vù vù, khắp thành ngói tung gạch vỡ, đá chạy cát bay. Xem ra, trận gió này thật khủng khiếp, gió thường đâu có sánh nổi. Chỉ thấy:



Liễu gãy hoa rơi


Rừng nghiêng cây đổ


Điện Cửu Trùng tường ngả vách rời Lầu Ngũ Phượng cột rung xà chuyển Mặt trời hông mây đen che kín
Đám cát vàng mặt đất chuyển rung Nơi hí trường, võ tướng nao lòng Gác hội văn, văn quan bạt vía
Ba cung phấn son bôi loạn xị Sáu viện phi tần tóc rối bung Các quan mũ áo dải đứt tung
Tể tướng lọng tàn bay phần phật


Cận thần muốn nói đành im bặt


Sứ giả cầm thư chẳng dám đưa Đai ngọc kim ngự dứt xạc xờ Tấm thẻ ngà voi rơi lấm bết Gác tía lầu son đổ la liệt
Cửa lục then lồng gãy chỏng chơ Điện Kim Loan ngói vỡ tường trơ Tòa Cẩm Vân cửa rơi then gãy
Trận cuồng phong khủng khiếp chưa bao giờ trông thấy Đến nỗi cha con quốc vương không thể gặp nhau Phố phường chợ búa thấy bóng ai đâu
Nhà cửa nơi nơi then cài im ỉm




Đang lúc trận cuồng phong bốc dữ dội, Hành Giả lại hóa phép
thần thông, giơ cây gậy sắt lên không một lần nữa. Bỗng thấy:



Thôi Vân đồng tử


Bố Vụ lang quân


Thôi Vân đồng tử trổ thần thông, mây kéo ùn ùn trời phủ kín


Bố Vụ lang quân khoe pháp lực, khói bay nồng nặc đất che trùm


Mênh mang chợ búa tối om om Mù mịt phố phường đen kịt kịt Gió bốc từ biển biếc
Mưa rơi tận Côn Lôn Khoảnh khắc gió mưa tuôn Phút giây tràn đất rộn Khác nào thuở hỗn độn Cửa lầu Phượng thấy đâu


Lúc ấy trời đất tối sầm mây phủ che kín. Tôn Hành Giả lại
giơ cây gậy sắt lên không một lần nữa. Khiến cho:



Lôi Công nổi giận


Điện Mẫu tức điên


Lôi Công nổi giận, cưỡi thú lửa thẳng xuống thiên quan


Điện Mẫu tức điên, rút rắn vàng tới ngay đầu phủ
Ầm ầm sấm nổ, sét đánh tan trái núi Thiết Xoa Loang loáng chớp lòa, tia bay tận Đông Dương đại hải Lộc cộc như xe chạy
Ầm ù tựa cối xay


Vạn vật nẩy mầm thấy cảnh đổi thay Côn trùng mê ngủ cũng liền thức dậy Vua tôi thót lòng kinh hãi
Buôn bán nghe hơi sợ run




Tiếng sấm rền, tia chớp rạch, inh inh oang oang, tưởng như
thể trời long đất lở, khiến cho mọi người trong thành hoảng sợ, nhà nào nhà nấy thắp hương đốt vàng van xin cầu cúng. Tôn Hành Giả quát lớn:


- Lão Đặng! Hãy xét xử cho ta mấy tên tham quan ô lại, mấy thằng bất hiếu vô lương, đánh chết tươi để làm gương kẻ khác!


Tiếng sấm sét càng nổ vang dữ dội. Đoạn Hành Giả lại giơ gậy lên trên không một lần nữa. Chỉ thấy:



Rồng thi hành hiệu lệnh


Tung mưa khắp đất trời
Thế như Ngân Hán đổ nghiêng rồi Nhanh tựa mây trôi qua biển rộng Trên nóc điện mưa rơi như phóng Rào rào chảy giàn giụa qua sân Trời cao lai láng sông ngân
Phố rộng mênh mông sóng trắng Tong tong rơi vào chum nặng Sầm sập chảy xuống vò to
Xóm vắng chìm nghỉm nóc nhà


Đồng không ngập tràn cầu bắc Thật là “nương dâu thành bể biếc” Phút giây đất phẳng nổi ba đào Thần long đến giúp trổ tài cao
Dốc cả trường giang tuôn mặt đất




Mưa rơi bắt đầu từ giờ thìn, và đến khoảng trước sau giờ ngọ
thì tạnh. Khắp trong ngoài thành Xa Trì, phố xá nước tràn lênh láng. Quốc vương xuống chiếu rằng:


- Trận mưa tốt quá, nhưng nếu mưa nữa sẽ ngập mùa màng,
thành ra hóa dở.


Quan chấp sự đứng dưới lầu Ngũ Phượng đội mưa phóng ngựa đến chỗ Đường Tăng báo:


- Thưa Thánh tăng, mưa thế là đủ rồi.


Hành Giả nghe nói, lập tức lại giơ cây gậy lên trời. Trong
giây lát sấm yên gió lặng, mưa tạnh trời quang. Quốc vương trong lòng vui vẻ, các quan văn võ hết lòng ca ngợi:


- Hòa thượng giỏi quá! Thật là “trong số người tài còn có người tài hơn”. Quốc sư chúng tôi cầu mưa tuy có linh ứng, nhưng muốn tạnh cũng phải tiếp tục lác đác tới nửa ngày vẫn chưa tạnh hẳn. Thế mà vị hòa thượng này muốn tạnh là tạnh ngay, trong giây lát mặt trời lại ló ra rực rỡ, muôn dặm trong xanh chẳng gợn chút mây.


Quốc vương truyền hồi loan, đổi điệp văn, cho phép Đường Tăng ra đi. Đang sắp đóng dấu ngự bảo, bỗng ba đạo sĩ bước tới ngăn lại, nói:


- Tâu bệ hạ, trận mưa đó hoàn toàn không phải là công của các hòa thượng, mà là sức của các đạo sĩ chúng tôi.


Quốc vương nói:


- Khanh vừa nói Long vương không có nhà, không cầu mưa
được. Sau đó họ bước lên chỉ cầu đảo bằng làm niệm, mà mưa đã rơi xuống. Vậy tại sao các ngươi còn tranh công với họ?


Hổ Lực đại tiên nói:


- Chúng tôi lên dâng sớ đốt bùa, gõ lệnh bài, Long vương nào
dám không đến? Có lẽ ở phương nào đó cũng cầu mời, nên ngũ ty phong, vân, lôi, vũ không có nhà, khi nghe lệnh tới, họ vội vã trở về vừa vặn lúc tôi xuống đài, họ lên đài gặp được cơ hội ấy nên mới có mưa. Suy cho cùng, chính là do chúng tôi mời Long vương đến làm mưa, tại sao lại coi là công của họ được?


Quốc vương vốn ngu tối, nghe nói như vậy thì nghi hoặc, phân vân. Hành Giả bước tới gần, chắp tay nói:


- Tâu bệ hạ, những phép thuật bàng môn ấy có thành công quả gì đâu, đáng kể gì là công quả của tôi hay của người khác. Có điều hiện giờ tứ hải Long vương vẫn đang đứng trên không trung, bên tăng chúng tôi chưa có lệnh cho về, họ không dám lui. Vậy quốc sư gọi được Long vương xuất hiện thì đó mới là có công.


Quốc vương mừng lắm, nói:


- Quả nhân tại ngôi vua đã hai mươi ba năm, chưa từng được
thấy mặt mũi hình thù Long vương như thế nào. Hai nhà tăng đạo hãy trổ pháp lực, bất kể bên tăng hay bên đạo, bên nào gọi được là có công, không gọi được là có tội.


Đạo sĩ kia làm gì có tài năng ấy, nhưng cũng cứ gọi. Long vương thấy Đại Thánh đứng đấy, sợ không dám ló mặt ra. Đạo sĩ nói:


- Chúng tôi không gọi được, các người hãy gọi xem.


Đại Thánh bèn ngửa mặt lên trời, cất tiếng gọi to:


- Ngao Quảng ở đâu, mấy anh em hãy hiện nguyên hình xem
nào!


Long vương nghe tiếng gọi, vội vàng hiện rõ bản tướng. Bốn con rồng giữa tầng không luồn mây lách mù, múa bay trên điện Kim Loan. Chỉ thấy:



Lượn bay biến hóa Đùa giỡn mây lành Móng ngà cong trắng Vẩy bạc long lanh Râu dài phấp phới Sừng vút oai danh
Vòi vọi vầng trán Lấp lánh mắt xanh Lượn bay tài giỏi Ẩn hiện ai giành
Cầu mưa, đến phun mưa khắp chốn
Xin tạnh, trời lập tức trong thanh


Ấy là tài chân long linh thành


Mây lành quấn quýt lượn trời xanh




Quốc vương trên điện thắp hương, công khanh trước thềm
sụp lạy. Quốc vương nói:


- Ngọc thể giáng lâm vất vả quá, xin mời các ngài trở về, quả nhân khi khác sẽ tạ ơn.


Hành Giả nói:


- Các vị linh thần đâu hãy về đấy. Ngày khác quốc vương sẽ
tạ ơn.


Long vương bèn về thẳng biển khơi, các thần ai nấy về trời. Thật là:



Phép màu rộng lớn vô bờ bến


Tính thẳng lòng ngay diệt đạo tà




Cuối cùng không biết trừ tà như thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ BỐN MƯƠI SÁU




Ngoại đạo cậy tài lừa chính pháp


Ngộ Không hiền thánh diệt yêu ma




Lại nói chuyện quốc vương thấy Tôn Hành Giả có tài gọi
rồng, sai thánh. Lập tức sai đóng bảo ấn vào điệp văn, đưa trả cho Đường Tăng để thầy trò lên đường sang phương Tây. Ba đạo sĩ vội vàng sụp lạy trước điện Kim Loan định thưa chuyện. Quốc vương bèn rời ngai vàng bước xuống vội đỡ dậy, nói:


- Quốc sư hôm nay làm đại lễ là cớ sao? Đạo sĩ nói:
- Tâu bệ hạ, chúng tôi tới đây, phù trì xã tắc, giữ nước yên
dân, gian khổ trải hơn hai mươi năm. Nay đám hòa thượng cậy pháp lực chiếm lấy công đầu, làm hại thanh danh của chúng tôi. Bệ hạ chỉ vì một trận mưa mà tha cho cả tội giết người, há chẳng phải là khinh rẻ chúng tôi lắm sao? Cúi xin bệ hạ tạm giữ điệp văn của chúng lại, để anh em chúng tôi thi tài với chúng lần nữa xem sao.


Quốc vương là hạng ngu dốt, nói sao nghe vậy, bèn thu điệp văn lại và hỏi:


- Thế quốc sư định thi tài gì với họ?
Hổ Lực đại tiên nói:


- Tôi thi ngồi thiền với hắn. Quốc vương nói:
- Quốc sư lầm rồi. Hòa thượng xuất thân từ thiền giáo, tất
nhiên phải biết rõ thiền hơn cả mới dám vâng mệnh nhà vua đi cầu kinh, thế mà khanh dám thi môn ấy với họ à?


Đại tiên nói:


- Phép ngồi thiền của tôi khác hẳn phép thường, có một tên
riêng gọi là “Vân thê hiển thánh”.


Quốc vương hỏi:


- Thế nào là phép “Vân thê hiển thánh”? Đại tiên thưa:
- Phải cần một trăm cái bàn, năm mươi cái làm thiền đài, cái
nọ chồng lên cái kia, không được vịn tay trèo lên, cũng không được bắc thang, mà phải cưỡi trên đám mây, rồi hạ đài ngồi xuống, trong vòng mấy giờ không được cử động nhúc nhích.


Quốc vương nghe nói có vẻ khó, bèn ra lệnh hỏi:


- Hòa thượng kia, quốc sư ta muốn thi phép ngồi thiền “Vân
thê hiển thánh” với nhà ngươi, có ai dám không?


Hành Giả nghe nói, trầm ngâm không đáp. Bát Giới hỏi:


- Sư huynh ơi, sao sư huynh chẳng nói năng gì thế? Hành Giả nói:
- Chú em ạ, chẳng giấu gì chú, nếu những trò tuyệt diệu như
đá trời lộn giếng, khuấy biển lật sông, gánh núi đuổi trăng, dời sao đổi vật, tôi đều làm được cả. Hoặc những trò chém đầu mổ bụng, rạch ruột cắt gan, thay hình đổi dạng tôi cũng không sợ. Duy có ngồi thiền thì tôi chịu. Tôi không thể nào ngồi được như thế. Chú có trói tôi vào cái cột sắt, tôi cũng nhoài lên nhoài xuống, chứ ngồi yên thế nào được!


Tam Tạng bỗng nhiên mở miệng nói:


- Ta biết ngồi thiền. Hành Giả mừng rỡ nói:
- Vậy được! Vậy được! Nhưng sư phụ ngồi được bao lâu? Tam Tạng nói:
- Thuở nhỏ ta gặp được một vị thiền tăng từ phương xa tới
giảng đạo, về căn bản tính mệnh, ta đã định được tính, tôn được thần, trong vòng sống chết, cũng ngồi được hai, ba năm.


Hành Giả nói:


- Nếu sư phụ ngồi hai ba năm thì chúng ta không đi lấy kinh
nữa à? Ngồi lâu nhất chỉ độ hai ba giờ là xuống thôi.


Tam Tạng nói:


- Đồ đệ ơi, nhưng ta không trèo được lên đài. Hành Giả nói:
- Sư phụ cứ trả lời đồng ý đi, con sẽ đưa sư phụ lên. Tam Tạng bèn chắp tay trước ngực nói:
- Bần tăng biết ngồi thiền.


Quốc vương lập tức ra lệnh dựng thiền đài. Đúng là quốc gia
có sức mạnh lật núi, chưa đầy nửa tiếng hai tòa đài đã dựng xong ở bên cạnh điện Kim Loan.


Hổ Lực đại tiên bước xuống điện, đứng ở giữa thềm nhẩy vút lên không, cưỡi trên một đám mây, rồi hạ xuống ngồi trên tòa đài bên phương Tây. Hành Giả nhổ một sợi lông hóa phép, biến thành Hành Giả cùng với Bát Giới, Sa Tăng. Còn mình thì biến thành đám mây ngũ sắc, đưa Đường Tăng lên không trung, rồi hạ xuống ngồi vào tòa đài bên phương Đông. Đoạn Hành Giả thu đám mây lành lại, biến thành con bọ mát bay tới mang tai Bát Giới, nói:


- Chú trông nom sư phụ cẩn thận, chớ có nói năng gì với lão
Tôn giả nhé!


Chú ngốc cười nói:


- Biết rồi! Biết rồi!
Lại nói chuyện Hổ Lực đại tiên ngồi trên chiếc đệm gấm xem ra đã khá lâu. Hai người ngồi trên đài cao bất phân thắng bại. Đạo sĩ kia muốn giúp sư huynh mình thắng cuộc, bèn nhổ một sợi lông ở sau gáy, vê vê ném lên đầu Đường Tăng, biến thành một con rệp cắn vào đầu Tam Tạng. Tam Tạng lúc đầu cảm thấy ngứa ngứa, sau thấy đau. Nguyên phép ngồi thiền không cho phép động đậy chân tay, động là thua. Đường Tăng đau quá không chịu được bèn rụt đầu, xoa xoa vào cổ áo. Bát Giới nói:


- Hỏng. Sư phụ lên cơn động kinh rồi. Sa Tăng nói:
- Không, chắc là váng đầu đấy. Hành Giả nghe thấy thế bèn nói:
- Sư phụ mình là bậc quân tử chí thành. Người nói biết ngồi
thiền là biết ngồi, bảo không biết là không biết. Người quân tử đâu có nói dối? Hai chú đừng nói nữa, để tôi lên xem sao.


Hành Giả bèn vo ve bay trên đầu Đường Tăng, và thấy ngay một con rệp to bằng hạt gạo đang cắn vào đầu sư phụ, bèn thò tay bắt lấy rồi xoa xoa cho sư phụ. Tam Tạng hết ngứa, lại ngồi thiền ngay ngắn.


Hành Giả nghĩ thầm:


- Hòa thượng đầu trọc lóc, đến một con chấy còn không ở
được, làm sao lại có rệp nhỉ? Hẳn là bọn đạo sĩ hóa phép hại sư phụ mình. Hà hà, uổng công mà chẳng thắng đâu. Để lão Tôn này cho một vố!


Thế là Hành Giả bay tới đậu xuống cái đầu thú đắp trên nóc
điện Kim Loan, lắc mình một cái, biến thành một con rết dài bảy tấc, bò thẳng lên sống mũi đạo sĩ cắn một miếng. Đạo sĩ đau quá ngồi không vững, lộn nhào một cái, ngã lăn xuống, tưởng như toi mạng, may có các quan lớn nhỏ đứng đấy vực dậy. Quốc vương sợ quá, lập tức sai quan đương giá thái sư đưa đạo sĩ vào điện Văn Hoa tắm rửa. Hành Giả lại biến thành đám mây lành đỡ sư phụ xuống trước thềm. Thế là Tam Tạng thắng cuộc.





Quốc vương đành ra lệnh cho thầy trò ra đi. Lộc Lực đại tiên
tâu:


- Tâu bệ hạ, lão sư huynh của thần vốn có chứng âm phong, do ngồi chỗ cao, bị cơn gió độc, chứng cũ lại tái phát, nên hòa thượng kia mới thắng cuộc. Bệ hạ tạm lưu họ lại để họ thi với
chúng tôi món “cách bản sai mai” đã.


Quốc vương hỏi:


- Thế nào là “cách bản sai mai”? Lộc Lực thưa:
- Bần đạo có phép biết được vật nào đó để cách một tấm ván.
Xem thử hòa thượng kia có biết được không. Nếu hắn đoán giỏi hơn thần, thì để cho chúng đi. Nếu không đoán nổi thì bệ hạ sẽ hỏi tội, rửa mối hận cho anh thần, không làm nhơ nhớp tới công ơn giữ nước hai mươi năm trời của chúng thần nữa.


Quốc vương thực là hạng người vô cùng ngu tối, tin lời xiểm nịnh, lập tức ra lệnh cho nội quan khiêng ngay một cái hòm sơn son đặt giữa cung điện. Lại truyền cho hoàng hậu bỏ vào trong hòm một thứ bảo bối. Một lát sau chiếc hòm được mang ra đặt trước thềm ngọc. Quốc vương bèn hạ lệnh cho hai bên tăng đạo:


- Nào, hai nhà tăng đạo các ngươi hãy trổ pháp lực đoán xem trong hòm có bảo bối gì?


Tam Tạng nói:


- Đồ đệ ơi, vật giấu trong hòm làm sao biết được?


Hành Giả bèn thu đám mây lành, lại biến thành con bọ mát
đậu lên đầu Đường Tăng, nói:


- Sư phụ cứ yên tâm, để con đi xem sao.
Thế là Đại Thánh nhẹ nhàng bay đến bên chiếc hòm, bò vào đáy hòm, nhìn thấy một khe ván, bèn chui vào. Thấy trong hòm có một cái khay sơn son, trên để một bộ quần áo kiểu cung y, đó là cái áo sơn hà xã tắc, chiếc quần địa lý càn khôn. Hành Giả cầm lên, giũ tung ra, đoạn cắn ngập đầu lưỡi cho chảy máu rồi phun vào, hô “biến”, lập tức biến thành một cái chuông mẻ vứt đi. Hành Giả đến bên, đái vào một bãi khai nặc, rồi chui qua khe hở bay ra đậu vào mang tai Đường Tăng, nói:


- Sư phụ cứ đoán rằng đó là cái chuông mẻ vứt đi nhé! Tam Tạng nói:
- Họ bảo đoán bảo bối cơ mà, chuông mẻ vứt đi đâu phải là
bảo bối?


Hành Giả nói:


- Kệ họ, sư phụ cứ nói như thế là được.


Đường Tăng bước lên một bước, đang định đoán, Lộc Lực
đại tiên nói:


- Để ta đoán trước. Trong hòm có chiếc áo sơn hà xã tắc và chiếc quần địa lý càn khôn.


Đường Tăng nói:


- Không đúng, không đúng. Trong hòm chỉ có chiếc chuông
mẻ vứt đi mà thôi.


Quốc vương nói:


- Hòa thượng thật vô lễ! Dám chê nước ta không có bảo bối
hay sao mà lại đoán là chiếc chuông mẻ vứt đi?


Đoạn ra lệnh:


- Bắt lại!


Hai ban hiệu úy định xông vào bắt. Đường Tăng sợ quá chắp
tay nói lớn:


- Tâu bệ hạ, hãy tạm tha cho bần tăng một lát, đợi lúc mở hòm, nếu quả là bảo bối, bần tăng xin chịu tội. Nếu không phải là bảo bối, chẳng hóa oan cho bần tăng sao?


Quốc vương bèn truyền lệnh cho mở hòm xem. Quan đương giá lập tức mở hòm, bưng chiếc khay sơn son ra, quả nhiên là một chiếc chuông mẻ vứt đi.


Quốc vương nổi giận quát:


- Ai đặt vật này vào?


Đứng sau ngai vàng, Tam cung hoàng hậu bước ra nói:


- Tâu bệ hạ, chính tay thiếp đặt chiếc áo sơn hà xã tắc và
chiếc quần địa lý càn khôn vào trong hòm, không biết làm sao lại biến thành vật ấy.


Quốc vương nói:


- Mời hoàng hậu lui gót. Quả nhân biết rồi. Những thứ trong
cung, toàn là lụa là gấm vóc, làm quái gì có cái của vứt đi ấy!


Bèn ra lệnh:


- Mang hòm lại đây, để chính tay trẫm bỏ vào một bảo bối
xem sao.


Quốc vương quay vào hậu cung, thẳng tới vườn ngự uyển, hái một quả đào to bằng cái bát từ trên một cây đào, đoạn đem đặt vào trong hòm, rồi bảo khiêng hòm ra bắt đoán. Đường Tăng nói:


- Đồ đệ ơi, họ lại bắt đoán nữa. Hành Giả nói:
- Sư phụ yên tâm, để con đi xem sao.


Đoạn lại vo ve bay đi, lách qua khe hở chui vào, thấy một trái
đào thực là vừa ý, bèn hiện nguyên hình, ngồi trong hòm cầm trái đào ăn một chập hết nhẵn, đến cả chỗ thịt dính ở hai bên khe múi cũng gặm kỳ tiệt, rồi đặt cái hột ở đó. Xong xuôi, Hành Giả lại biến thành con bọ mát bay ra, đậu bên tai Đường Tăng nói:


- Sư phụ đoán là cái hột đào nhé! Tam Tạng nói:
- Con chớ đùa ta nữa. Lần trước nếu không mau mồm thì đã
bị xử tội rồi. Lần này phải đoán là bảo bối mới được, chứ hột đào là bảo bối quái gì.


Hành Giả nói:


- Không sợ, cốt thắng họ là được.


Tam Tạng đang định nói, đã nghe thấy tiếng Dương Lực đại
tiên:


- Bần đạo xin đoán trước. Đó là một quả đào tiên. Tam Tạng đoán:
- Không phải quả đào, mà chỉ là cái hột đào thôi. Quốc vương quát lên:
- Chính tay trẫm đặt trái đào vào, tại sao lại bảo hột? Quốc sư
ta đã đoán đúng.


Tam Tạng nói:


- Tâu bệ hạ, cứ mở hòm ra sẽ rõ.


Quan đương giá khiêng hòm ra mở, bưng chiếc khay lên xem,
thấy quả là cái hột đào, thịt cùi mất hết. Quốc vương thấy vậy, cả sợ nói:


- Quốc sư ơi, đừng đấu với họ nữa, để họ đi thôi. Quả nhân tự tay bỏ trái đào tiên vào, thế mà bây giờ chỉ còn hột. Kẻ nào ăn mất nhỉ? Hay là quỷ thần ngầm giúp họ?


Bát Giới nghe vậy, khẽ tủm tỉm cười với Sa Tăng:
- Họ chẳng biết anh ấy ăn đào quen từ thuở nào rồi!


Đang trò chuyện, Hổ Lực đại tiên đã tắm rửa xong, từ điện
văn hoa bước ra tâu:


- Tâu bệ hạ, hòa thượng này có phép đánh tráo mang đi. Cứ cho mang hòm lại, tôi sẽ phá pháp thuật của hắn, cùng hắn cuộc một lần nữa.


Quốc vương hỏi:


- Quốc sư định đoán gì? Hổ Lực thưa:
- Phép ấy chỉ đánh tráo được vật, chứ không thay được người.
Bỏ một tiểu đồng vào đó thì hắn tráo làm sao nổi.


Thế rồi một tiểu đồng được giấu vào trong hòm, đậy nắp lại, khiêng ra ngoài.


Quốc vương ra lệnh:


- Hòa thượng đoán lần nữa, xem lần thứ ba này là bảo bối gì? Tam Tạng nói:
- Lại đoán nữa à? Hành Giả nói:
- Để con đi xem sao.


Đoạn lại vo ve bay đi, chui vào trong hòm, thấy ngay một tiểu
đồng. Đại thánh quả là người có kiến thức: tháo vát khôn ngoan thiên hạ hiếm, thông minh lanh lợi thế gian không! Bèn lắc người một cái, biến thành lão đạo sĩ đứng trong hòm cất tiếng gọi:


- Đồ đệ!


Tiểu đồng nói:


- Sư phụ vào bằng đường nào đấy? Hành Giả nói:
- Ta dùng phép độn. Tiểu đồng nói:
- Sư phụ vào có điều gì dạy bảo? Hành Giả nói:
- Hòa thượng kia đã nhìn thấy con chui vào hòm rồi. Nếu hắn
đoán là tiểu đồng thì ta lại thua mất. Vậy ta phải vào bàn mẹo với con là phải cạo trọc đầu đi để ta đoán là hòa thượng, có vậy thôi.


Tiểu đồng nói:


- Tùy sư phụ xử trí, cốt chúng ta thắng là được. Nếu thua họ
nữa, không những hại thanh danh, mà triều đình cũng không
kính trọng.


Hành Giả nói:


- Con nói phải lắm. Nào lại đây. Nếu thắng họ ta sẽ trọng
thưởng.


Bèn hóa phép biến cây gậy thành con dao cạo, tay ôm tiểu đồng vào lòng, miệng dỗ dành:


- Con ngoan, ráng chịu đau nhé, chớ có kêu, để ta cạo đầu cho.


Trong chốc lát, Hành Giả đã cạo xong, vơ tóc thành nắm ném vào một xó hòm, đoạn cất dao, xoa đầu trọc lóc của tiểu đồng nói:


- Con ngoan, đầu thì giống hòa thượng lắm rồi, chỉ còn quần áo thì chưa được. Nào cởi ra, ta thay cho.


Tiểu đồng đang mặc một chiếc áo cánh hạc bằng lụa có hoa văn màu xanh nhạt, mép có viền gấm, bèn cởi phăng ra. Hành Giả thổi khí tiên, hô “biến”, lập tức biến ra một chiếc áo dài màu nâu, đưa cho tiểu đồng mặc. Đoạn lại nhổ hai sợi lông, biến thành chiếc mõ cá bằng gỗ, nhét vào tay tiểu đồng dặn:


- Đồ đệ nghe đây này. Nếu gọi tiểu đồng thì chớ có ra. Gọi hòa thượng thì đội nắp hòm, gõ mõ tụng kinh chui ra nhé. Có thế mới thành công được đó.


Tiểu đồng cười nói:
- Con chỉ biết niệm kinh Tam Quan, kinh Bắc Đẩu, kinh Tiêu tai thôi, chứ không biết niệm kinh nhà Phật.


Hành Giả nói:


- Con không biết niệm Phật à? Tiểu đồng nói:
- Câu A di đà Phật thì ai mà không biết niệm? Hành Giả nói:
- Được, được, cứ niệm như thế, ta đỡ phải dạy. Thôi, nhớ kĩ
nhé, ta đi đây.


Đoạn lại biến thành con bọ mát chui ra, bay đến bên tai
Đường Tăng nói:


- Sư phụ đoán là hòa thượng nhé! Tam Tạng nói:
- Phen này thì họ chắc được. Hành Giả nói:
- Tại sao sư phụ khẳng định thế? Tam Tạng đáp:
- Kinh có nói: “Phật, pháp, tăng là tam bảo”. Vậy sao hòa
thượng cũng là bảo bối được!


Đang bàn bạc, bỗng Hổ Lực đại tiên nói:


- Tâu bệ hạ, lần thứ ba này, trong hòm là một tiểu đồng.


Và hắn gọi hoài, tiểu đồng chẳng chịu chui ra. Tam Tạng chắp
tay nói:


- Đó là một hòa thượng.


Bát Giới lấy hết sức gọi lớn:


- Hòa thượng ở trong hòm ơi!


Tiểu đồng vội vàng đội nắp hòm, gõ mõ cá, niệm kinh Phật
chui ra. Hai ban văn võ mừng rỡ đồng thanh khen ngợi. Ba đạo sĩ sợ quá, miệng câm như hến. Quốc vương nói:


- Hòa thượng kia hẳn là có quỷ thần giúp đỡ. Nếu không, bỏ đạo sĩ vào hòm làm sao lại biến thành hòa thượng được? Dù có người thợ cạo chui vào, thì chỉ cạo được trọc đầu, chứ làm sao thay đổi được cả quần áo, biết niệm cả kinh Phật? Quốc sư ơi, để cho họ đi thôi!


Hổ Lực đại tiên nói:


- Tâu bệ hạ, quả là kỳ phùng địch thủ, anh tài gặp nhau. Bần
đạo xin mang những món võ nghệ học ở núi Nam Sơn thuở nhỏ quyết đấu với hắn một phen.


Quốc vương hỏi:


- Những món võ nghệ gì? Hổ Lực đáp:
- Ba anh em chúng tôi đều có chút ít thần thông, chặt đứt đầu
lại ráp vào, mổ bụng moi gan lại mọc đủ, có thể tắm gội trong vạc dầu sôi.


Quốc vương cả sợ nói:


- Ba việc ấy đều đi tới chỗ chết cả! Hổ Lực nói:
- Chúng tôi có pháp lực ấy mới dám nói mạnh, quyết bắt
chúng phải đấu mới xong.


Quốc vương bèn gọi:


- Hòa thượng phương Đông kia, quốc sư ta không chịu buông
tha, còn muốn thi với các người môn chém đầu mổ bụng, tắm trong vạc dầu nữa cơ.


Hành Giả đang biến thành con bọ mát, bay qua bay lại, bỗng nghe thấy lời nói ấy, bèn thu sợi lông, hiện ra bản tướng, khành khạch cười vang, nói:


- May quá may quá! Món hời tới tay rồi! Bát Giới nói:
- Ba trò ấy đều là chuyện mất mạng cả, tại sao lại là “món hời tới tay”?


Hành Giả nói:


- Chú em vẫn không biết những cái tài ấy của ta à? Bát Giới hỏi:
- Thưa sư huynh, tưởng sư huynh chỉ có những cái tài biến
hóa, bay nhảy, hóa ra sư huynh còn có cả những cái tài ấy nữa à?


Hành Giả nói:


- Tôi ấy à:












Chém rụng đầu vẫn nói năng


Chặt đứt tay vẫn phăng phăng đánh người


Chân phạt cụt vẫn đi hoài


Bụng rạch toạc coi như chơi bình thường


Khác nào hàng gói dễ dàng Nặn ra đủ kiểu đàng hoàng dễ thôi Dầm trong vạc nóng sục sôi
Như tắm nước nóng, ghét thời sạch ngay




Bát Giới, Sa Tăng nghe nói khà khà cười ngất. Hành Giả
bước lên nói:


- Tâu bệ hạ, tiểu hòa thượng biết chặt đầu. Quốc vương hỏi:
- Làm sao nhà ngươi biết chặt đầu? Hành Giả đáp:
- Trước kia tôi tu hành trong chùa, có gặp một vị hòa thượng
từ phương xa tới dạy cho phép chặt đầu, không biết hay hay dở, nay xin thử cái trò mới lạ đó.


Quốc vương cười nói:


- Hòa thượng này ít tuổi, chưa trải việc đời, chặt đầu lẽ nào lại
coi là trò mới mà thử? Đầu là chỗ hội tụ của lục dương, chặt đứt sẽ chết liền.


Hổ Lực nói:


- Tâu bệ hạ, cứ để cho hắn làm như thế, mới hả cơn giận của
chúng tôi.


Hôn quân nghe lời, lập tức ra lệnh dựng pháp trường. Lệnh vừa ban ra, ba nghìn quân vũ lâm đã xếp hàng sẵn sàng ngoài cửa triều đình. Quốc vương hạ lệnh:


- Hòa thượng ra chặt đầu trước.


Hành Giả hăng hái đồng ý ngay, nói:


- Tôi làm trước! Tôi làm trước! Đoạn lại khoanh tay lớn tiếng nói:
- Quốc sư miễn phép cho nhé, tôi xin làm trước.


Rồi quay đầu bước thẳng ra bên ngoài. Đường Tăng níu lại
dặn:


- Đồ đệ ơi, cẩn thận nhé! Đây không phải là trò đùa đâu. Hành Giả nói:
- Sợ cái quái gì, bỏ tay ra để con đi!


Đại Thánh bước thẳng ra pháp trường. Bọn đao phủ túm lấy
hai tay trói gô lại, đặt trên một gò đất cao. Bỗng tiếng “khai đao” vang lên, rồi nghe đánh “phập” một cái, đầu Hành Giả đứt ngay rơi xuống, lại bị bọn đao phủ đá theo chẳng khác đá một quả dưa hấu lăn lông lốc, bắn xa tới bốn mươi thước. Nơi cổ bị chém đứt không thấy máu chảy, chỉ nghe thấy trong bụng có tiếng gọi:


- Đầu lại đây!


Hổ Lực đại tiên thấy Hành Giả có thủ đoạn cao cường như
vậy, sợ quá vội vàng niệm chú gọi các thần kỳ thổ địa đến bảo:


- Giữ đầu hắn lại. Khi nào ta thắng lũ hòa thượng, ta sẽ tâu
lên quốc vương sửa sang ngôi đền nhỏ của các ngài thành tòa miếu lớn, thay tượng đất bằng tượng vàng.


Mấy vị thần kỳ thổ địa ấy vốn sợ lão đạo sĩ có phép Ngũ lôi, đành vâng lời, ngấm ngầm giữ đầu Hành Giả lại. Hành Giả lại cất tiếng gọi:


- Đầu quay lại.






Chiếc đầu như mọc rễ không hề nhúc nhích. Hành Giả bực
tức, nắm hai tay lại, giằng mạnh một cái, dây thừng đứt tung, rồi quát:


- Mọc ra!
Lập tức nơi cổ bị đứt mọc ra một cái đầu khác. Bọn đao phủ đứa nào đứa nấy hoảng hồn, quân vũ lâm thằng nọ thằng kia mất vía. Quan giám trảm vội vã chạy vào triều tâu:


- Vạn tuế! Tiểu hòa thượng ấy bị chém đầu lại mọc đầu khác. Bát Giới cười nhạt nói:
- Chú Sa Tăng ạ, ai ngờ anh ấy lại có thủ đoạn cao cường đến
thế!


Sa Tăng nói:


- Anh ấy có bảy mươi hai phép thần thông biến hóa, tất phải
có bảy mươi hai đầu chứ.


Chưa dứt lời, Hành Giả đã bước tới cất tiếng gọi:


- Sư phụ!


Tam Tạng mừng lắm, nói:


- Đồ đệ vất vả quá! Hành Giả nói:
- Chẳng vất vả, lại còn khoái nữa là đằng khác. Bát Giới hỏi:
- Sư huynh ơi, có cần lấy thuốc rịt vào không?
Hành Giả đáp:


- Chú cứ sờ xem có thấy vết dao chém không? Chú ngốc đưa tay sờ thử, rồi cười ngặt nghẽo nói:
- Tuyệt vời! Tuyệt vời! Lại mọc ra hoàn toàn như cũ, chẳng
có một tí sẹo nào cả.


Mấy anh em đang chuyện vui, bỗng thấy quốc vương cho gọi tới nhận điệp văn:


- Tha tội cho các ngài. Hãy đi mau! Đi mau! Hành Giả nói:
- Điệp văn tuy được lĩnh, nhưng quốc sư cũng phải tới pháp
trường chém đầu chứ, phải cùng nếm thử cái món lạ này đã.


Quốc vương nói:


- Thưa đại quốc sư, hòa thượng kia không chịu buông tha
ngài. Ngài đã đánh cuộc với họ thì cũng đừng làm phiền đến quả nhân.


Hổ Lực đành phải đi, bị mấy tên đao phủ trói lại quật xuống đất. Rồi loáng một cái, chúng đã chặt đứt đầu Hổ Lực, đoạn vung chân đá đi xa tới ba chục bước. Chỗ cổ bị chém cũng không thấy máu chảy, và cũng gọi một tiếng:


- Đầu trở lại!
Hành Giả lập tức nhổ một sợi lông, thổi tiên khí, hô “biến”, biến  ngay  thành  một  con  chó  vàng,  chạy  vào  pháp  trường, ngoạm chiếc đầu đạo sĩ, chạy thẳng tới bờ sông Ngự Thủy, vứt tõm xuống nước.


Đạo sĩ gọi liền mấy tiếng, đầu vẫn không về. Hắn đâu có nhiều thủ đoạn như Hành Giả, đầu không mọc ra được, chỗ cổ bị chặt máu tươi ồng ộc chảy ra. Đáng thương thay!



Gọi gió kêu mưa tài hạng bét


Đâu sánh trường sinh bậc chính tiên!




Trong giây lát, cái thây lăn kềnh ra đất, mọi người tới xem,
hóa ra là một con hổ vàng không đầu.


Quan giám trảm trở về tâu:


- Vạn tuế! Đại quốc sư bị chặt đứt đầu, không mọc được đầu
khác, chết trên mặt đất, hóa ra một con hổ vàng không đầu.


Quốc vương nghe lời tâu, sợ hãi thất sắc, mắt đăm đăm nhìn hai đạo sĩ kia.


Lộc Lực đứng dậy nói:


- Sư huynh thần đã đến lúc số cùng lộc tuyệt, nhưng tại sao
lại hóa ra con hổ vàng? Đó chắc là do bọn hòa thượng quỷ quyệt dùng phép yểm hình, biến sư huynh thần thành loại súc sinh. Giờ đây thần quyết không tha, quyết thi môn mổ bụng moi gan với hắn!


Quốc vương nghe nói, mới tỉnh dần ra, lại gọi:


- Tiểu hòa thượng kia, quốc sư hai muốn thi với nhà ngươi. Hành Giả nói:
- Tiểu hòa thượng tôi đã lâu không ăn những thức nấu nướng.
Hôm trước trên đường sang phương Tây, có gặp một vị trai chủ cho ăn, trót ăn quá mấy chiếc bánh hấp, nên mấy hôm nay bụng thấy đau đau, chắc là có vi trùng, đang muốn nhờ lưỡi dao của bệ hạ, mổ phanh bụng ra, rửa sạch tỳ vị, thì mới sang phương Tây gặp Phật được.


Quốc vương nghe xong bèn ra lệnh:


- Đưa hắn ra pháp trường.


Rất nhiều người xúm vào, kẻ túm người lôi. Hành Giả gạt tay
ra nói:


- Không cần phải giữ, ta đi một mình. Cũng không cần phải trói, để ta còn có tay rửa ruột.


Quốc vương đành ra lệnh:


- Không trói hắn nữa.


Hành Giả nghênh ngang đi thẳng ra pháp trường, đứng dựa
vào cái cọc to, cởi quần áo, dây lưng, cho hở bụng ra. Bọn đao phủ lấy một dây thắt vòng vào cổ, một sợi buộc chặt hai cẳng, cầm con dao nhọn tai trâu, vung loáng một cái, rạch đứt da bụng
thành một đoạn dài. Hành Giả hai tay phanh bụng, moi hết ruột ra, lau chùi từng đoạn, rồi lại nhét vào trong theo thứ tự như cũ, xoa xoa chỗ da bụng, thổi tiên khí, hô “liền”, da bụng lại liền lại như trước. Quốc vương sợ quá, cầm tờ điệp văn trong tay, nói:


- Thánh tăng không nên để lỡ việc sang phương Tây, trẫm trả tờ điệp văn đây để các ngài đi.


Hành Giả nói:


- Điệp văn là việc nhỏ, xin mời quốc sư hai cũng mổ bụng
moi gan xem sao.


Quốc vương nói với Lộc Lực:


- Việc đấy không liên can gì đến quả nhân, đó là do khanh
muốn đối đầu với họ thôi. Xin mời! Xin mời!


Lộc Lực nói:


- Bệ hạ cứ yên tâm, tôi quyết không tha cho hắn đâu.


Hắn cũng bắt chước Đại Thánh, nghênh nghênh ngang ngang
đi ra pháp trường, bị bọn đao phủ trói lại, lấy con dao nhọn tai trâu, rạch đánh soạt một tiếng, đứt hẳn da bụng. Hắn cũng lấy tay moi hết ruột gan ra, lần giở từng món. Hành Giả lập tức nhổ một sợi lông, thổi khí tiên, hô “biến”, biến thành một con chim ưng đói, sải cánh giương vuốt, bay sà xuống cắp hết lục phủ ngũ tạng, chẳng biết tha về hướng nào ăn mất. Khiến cho đạo sĩ này: ma lai láng dạ không tỳ vị, quỷ đầm đìa bụng chẳng ruột gan. Bọn đao phủ đạp đổ cọc, kéo thi thể ra xem, thì hóa ra là một con hươu lông trắng!


Quan giám trảm sợ quá, chạy về tâu:


- Quốc sư hai xúi quẩy, lúc mổ bụng bị con ưng đói tha hết
sạch ruột gan, chết ở đó, hóa ra con hươu lông trắng.


Quốc vương sợ hãi hỏi:


- Tại sao lại là một con hươu? Dương Lực đại tiên tâu:
- Sư huynh của thần đã chết, làm sao lại biến ra hình thú
được? Đúng là do bọn hòa thượng này dùng pháp thuật hại chúng tôi. Thần xin báo thù cho sư huynh!


Quốc vương hỏi:


- Khanh có pháp thuật gì hơn hắn? Dương Lực thưa:
- Thần với hắn thi tắm trong vạc dầu sôi.


Quốc vương bèn sai khiêng đến một cái vạc to, đổ đầy dầu
thơm, để cho hai người thi. Hành Giả nói:


- Cảm ơn bệ hạ đã chiếu cố, tiểu hòa thượng tôi lâu nay chưa được tắm gội. Hai hôm nay da dẻ ngứa ngáy, hay dở cũng phải tắm một cái đã.


Quan đương giá bắc vạc dầu, chất củi khô, đốt lửa rừng rực,
khi dầu đã sôi sùng sục bảo bên hòa thượng nhảy vào tắm trước. Hành Giả chắp tay nói:


- Không biết là tắm kiểu văn hay tắm kiểu võ. Quốc vương hỏi:
- Thế nào là tắm kiểu văn, tắm kiểu võ? Hành Giả đáp:
- Tắm kiểu văn là không cởi quần áo, tựa như người hai tay
đan vào nhau, nhúng xuống, tung cho dầu bắn lên. Nhưng không được làm bẩn quần áo, một giọt dầu bắn vào là thua. Còn tắm kiểu võ là phải có một cái mắc áo, một chiếc khăn mặt, cởi quần áo nhảy vào, mặc sức nhào lộn, trồng cây chuối, chơi đùa tắm táp.


Quốc vương nói với Dương Lực:


- Khanh định thi tắm kiểu văn hay tắm kiểu võ với hắn? Dương Lực thưa:
- Tắm kiểu văn sợ hắn tẩm thuốc vào quần áo, dầu không
ngấm. Thi tắm kiểu võ thôi.


Hành Giả bước tới nói:


- Xin thứ lỗi cho, mấy lần tôi đều tranh trước cả.


Đoạn cởi chiếc áo vải, tụt chiếc quần da hổ, tung người nhảy
tõm vào vạc dầu, đùa sóng giỡn nước, chẳng khác nào bơi nghịch dưới sông.


Bát Giới thấy vậy, cắn đầu ngón tay nói với Sa Tăng:


- Chúng mình đánh giá sai con khỉ này. Lúc thường nghe anh
ấy nói vậy, cứ hay xúc xiểm chế giễu, ai ngờ anh ấy thực tài ba đến thế!


Hai người cười khúc kha khúc khích, khen ngợi hết lời. Hành
Giả nhìn thấy, trong bụng nghi hoặc, nói:


- Chú ngốc cười tôi đấy hả? Đúng là “người khôn chịu vất vả, ngu si hưởng thái bình”. Lão Tôn thì múa may vật lộn vất vả thể này, còn hắn thì ung dung. Để ta làm một sợi dây trói hắn, xem hắn có sợ không?


Đang tắm, Hành Giả bèn đánh tung bọt nước, lặn xuống dưới đáy vạc dầu, biến thành một cái đinh nhỏ, không nhô lên nữa.


Quan giám trảm tới tâu:


- Vạn tuế! Vị tiểu hòa thượng đã bị dầu luộc chết rồi.


Quốc vương mừng lắm, sai vớt hài cốt lên xem. Bọn đao phủ
lấy một cái vợt bằng sắt chao tìm trong vạc, nhưng cái vợt sắt thưa, Hành Giả lại biến thành cái đinh quá nhỏ, nên mò đi mò lại, vẫn không vớt được, bèn tâu:


- Hòa thượng người nhỏ xương mềm, nên nát hết rồi. Quốc vương bèn hạ lệnh:


- Bắt ba hòa thượng kia lại!


Hai bên hiệu úy thấy Bát Giới mặt mũi hung dữ, bèn túm
ngay lấy, trói giật cánh khuỷu ra đằng sau. Tam Tạng sợ quá, vội vàng lớn tiếng thưa:


- Tâu bệ hạ, tạm tha cho bần tăng một lát. Người đồ đệ ấy của tôi, từ ngày quy y, lập nhiều công tích, hôm nay xúc phạm tới quốc sư, chết trong vạc dầu, biết đâu người chết trước được làm thần. Bần tăng đâu dám tham sinh! Bệ hạ bảo chết phải chết, bần tăng đâu dám trái lệnh. Chỉ mong bệ hạ ban cho nửa chén nước trong, một lưng cháo loãng, ba tờ giấy tiền, để bần tăng được đến bên vạc cúng lễ, gọi là bộc bạch chút tình sư đệ, sau đó xin chịu tội.


Quốc vương nghe xong, nói:


- Cũng được. Người Trung Hoa nghĩa khí lắm!


Bèn sai mang nước, cháo, vàng giấy đưa cho Đường Tăng.
Đường Tăng bảo Sa hòa thượng cùng đi, khi bước tới trước thềm, thấy mấy viên hiệu úy túm tai Bát Giới lôi đến bên vạc dầu. Tam Tạng đứng trước vạc khấn rằng:



- Hỡi ôi đồ đệ Tôn Ngộ Không!


Từ ngày thụ giáo Thiền tông Sang Tây, giúp đỡ hết lòng mến yêu Trưởng thành chính quả vui nhiều


Ai ngờ con đã về triều Diêm vương


Sống cầu kinh Phật Tây phương Chết rồi niệm Phật hồn càng hiển linh Hỡi ôi khí phách Tôn Hành
Làm ma vẫn nhớ nghĩa tình Lôi Âm.




Bát Giới nghe vậy nói:


- Sư phụ ơi, không phải khấn như thế đâu. Sa hòa thượng, chú
đặt đồ cúng lên trên để tôi khấn cho.


Chú ngốc bị trói quăng dưới đất, vừa thở phì phò vừa khấn:




Khỉ khốn khiếp gây vạ


Bật Mã Ôn ngu đần! Khỉ khốn khiếp đáng chết, Bật Mã Ôn vạc hầm!
Đáng đời con khỉ


Tuyệt giống Mã Ôn!
Hành Giả nằm dưới đáy vạc, nghe thấy chú ngốc chửi bới om sòm, không nhịn được, hiện nguyên hình người trần trụi ướt đầm, đứng trong vạc dầu nói:


- Đồ ăn cám kia, mày chửi ai đấy? Đường Tăng thấy vậy nói:
- Đồ đệ ơi, làm ta sợ tưởng chết! Sa Tăng nói:
- Đại ca giả vờ chết đã thành thói quen rồi! Hai ban văn võ sợ quá, bước tới tâu:
- Vạn tuế! Hòa thượng kia vẫn chưa chết, lại từ trong vạc dầu
chui ra.


Viên quan giám trảm sợ mang tội nói dối triều đình, bèn tâu:


- Chết thì đúng chết thật rồi, nhưng phạm giờ hung, nên hồn
hòa thượng ấy lại hiện về.


Hành Giả nghe nói tức giận nhảy ra khỏi vạc, lau sạch dầu mỡ, mặc quần áo, rút gậy sắt nện cho một phát vào đầu viên giám trảm, thịt xương nát vụn, rồi nói:


- Ta hiện hồn quái nào đâu!


Các quan sợ hãi, vội vàng cởi trói cho Bát Giới, rồi quỳ
xuống đất van xin:


- Xin ngài tha tội! Xin ngài tha tội!


Quốc vương rời ngai vàng bỏ chạy, Hành Giả bước tới túm
lấy nói:


- Bệ hạ không được chạy, phải bảo quốc sư ba cũng nhảy vào vạc dầu đã.


Quốc vương sợ hãi, run run nói:


- Quốc sư ba ơi, cứu mạng trẫm với, nhảy ngay vào vạc đi,
đừng để hòa thượng này đánh trẫm!


Dương Lực bèn bước xuống điện, bắt chước Hành Giả cởi quần áo, nhảy vào vạc, cũng làm ra vẻ tắm táp nô đùa.


Hành Giả buông quốc vương ra, đến bên vạc dầu, gọi người chất thêm củi, đoạn lại thò tay vào xem. Chà! Tại sao dầu sôi mà lại lạnh ngắt thế này? Hành Giả nghĩ thầm trong bụng:


- Lúc ta tắm thì nóng sôi, hắn tắm thì lạnh ngắt. À, ta hiểu rồi, chắc có long vương nào giúp hắn đây.


Bèn tung người nhảy vút lên trời, niệm chú “úm” một tiếng, gọi ngay Bắc Hải Long Vương tới nói:


- Ta truyền đời cho cái giống giun có sừng, lươn có vẩy nhà ngươi, rằng tại sao nhà ngươi dám đem con rồng lạnh đặt dưới đáy vạc giúp cho đạo sĩ, để cho hắn hiển thánh thắng cuộc ta hả?


Long vương sợ quá, dạ dạ liền mấy tiếng, nói:


- Ngao Thuận này không dám giúp nữa. Đại Thánh không
biết, đồ nghiệt súc ấy đã khổ công tu hành một dạo, thoát khỏi bản xác, lại học được phép ngũ lôi, còn những món khác đều là tà thuật, không phải tiên đạo. Đó là hắn đã học được phép “đại khai bác” ở núi Tiểu Mao. Hai tên kia đã bị Đại Thánh phá mất pháp thuật, hiện rõ bản tướng. Còn tên này thì tự hắn đã luyện được rồng lạnh. Song đó cũng chỉ là trò chơi lừa thế tục thôi, lừa làm sao được Đại Thánh! Bây giờ thần xin thu lại con rồng lạnh của hắn để cho hắn xương tan thịt nát.


Hành Giả nói:


- Thu ngay đi thì ta tha đánh!


Long vương biến thành một trận cuồng phong bay đến bên
vạc dầu, bắt con rồng lạnh mang về biển lớn. Hành Giả từ trên không hạ xuống, cùng Tam Tạng, Bát Giới, Sa Tăng đứng trước điện, thấy đạo sĩ giẫy giụa, quằn quại trong vạc dầu sôi, không choài ra được. Trong giây lát, người hắn đã trụi xương, thịt nát nhừ, da cháy vàng. Quan giám trảm chạy về tâu:


- Vạn tuế! Quốc sư ba đã chết cháy.


Quốc vương nước mắt giàn giụa, đập tay xuống án, nức nở
khóc lớn:



















Thân người khó thoát gian truân


Chân truyền không gặp, luyện thần không nên


Dù cho tà thuật phép tiên


Nhưng không có thuốc bào nguyên trường tồn


U mê sao nới niết bàn


Tâm cơ uổng phí, mệnh toàn được đâu


Nếu mà sớm biết thua đau


Chẳng thà ẩn náu núi sâu cho rồi!




Thế mới là:




Luyện thuốc nấu vàng thành vớ vẩn


Kêu mưa gọi gió cũng lăng nhăng




Cuối cùng không biết thầy trò như thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ BỐN MƯƠI BẢY




Thánh tăng đêm vướng sông Thông Thiên


Hành Giả thương tình cứu con trẻ




Lại nói chuyện quốc vương ngồi tựa ngai vàng, nước mắt
luôn ra như suối, nức nở khóc mãi tới lúc chiều tối vẫn chưa thôi, Hàng Giả bước tới, lớn tiếng nói:


- Bệ hạ làm sao ngu muội đến thế! Thi hài bọn đạo sĩ quẳng ở đằng kia, một đứa là hổ, một đứa là hươu, còn Dương Lực là một con dê sồm. Không tin cứ vớt xương ra mà xem. Người ta đâu có loại xương cốt như thế? Chúng vốn là những con thú rừng thành tinh, hùa nhau đến đây để hại bệ hạ. Vì khí số của bệ hạ còn vượng, nên chúng chưa dám ra tay đấy thôi. Nếu quá hai năm nữa, khí số bệ hạ suy bại, chúng hãm hại tính mạng bệ hạ ngay, lúc ấy một giải giang san của bệ hạ sẽ lọt vào tay chúng. May có chúng tôi đến sớm, diệt trừ yêu quái cứu bệ bạ thoát chết, vậy bệ hạ còn khóc nỗi gì! Hãy mau mau trả lại điệp văn để chúng tôi đi cho rồi!


Quốc vương nghe nói như vậy mới tỉnh ngộ. Các quan văn võ đều tâu:


- Những xác chết quả nhiên là hươu trắng, hổ vàng, hài cốt trong vạc dầu đúng là xương dê. Lời nói của vị thánh tăng đúng đấy.


Quốc vương nói:


- Đã vậy, chúng tôi xin cảm tạ thánh tăng. Bây giờ trời đã tối
rồi.


Bèn ra lệnh:


- Quan thái sư, hãy tạm mời thánh tăng tới chùa Trí Uyên,
sớm mai khai triều mở cửa Đông các, sai quan Quang Lộc tự đặt tiệc chay để tạ ơn các ngài.


Đoạn tiễn thầy trò đến chùa nghỉ ngơi.


Sáng hôm sau, lúc tảng sáng, quốc vương thiết triều, hội họp
trăm quan, truyền lệnh:


- Mau mau treo khắp bốn cửa ô, các đường phố bảng gọi các nhà sư về.


Một mặt sai bày tiệc lớn, nhà vua ngồi xa giá ra khỏi triều, đến cổng chùa Trí Uyên mời đoàn Tam Tạng cùng vào điện Đông các dự tiệc. Chuỵện không nói nữa.


Lại nói chuyện số nhà sư thoát chết, nghe tin có bảng gọi sư, ai nấy mừng rỡ kéo nhau vào thành tìm Tôn Đại Thánh, nộp trả mẩu lông và tạ ơn. Khi tiệc đã tan, điệp văn đã đổi, quốc vương cùng hoàng hậu, phi tần, hai ban văn võ, tiễn thầy trò Tam Tạng ra ngoài triều đình. Số nhà sư kia quỳ xuống bên đường nói:


- Thưa ngài Tề Thiên Đại Thánh, chúng tôi là những nhà sư thoát nạn trên bãi cát hôm nào, nghe tin ngài đã diệt trừ yêu quái, cứu sống chúng tôi, lại đội ơn nhà vua treo bảng chiêu
tăng, hôm nay tới đây xin trả lại ngài mẩu lông và cúi đầu cảm tạ ơn trời biển.


Hành Giả cười, nói:


- Các ngài đến bao nhiêu người? Các nhà sư thưa:
- Đủ năm trăm người không thiếu một ai.


Hành Giả rùng mình, thu lại sợi lông, đoạn nói với tất cả mọi
người vua tôi, tăng tục rằng:


- Số hòa thượng này chính là do tôi tha ra. Xe tộ cũng do lão Tôn đẩy qua hai lần cửa, xuyên qua con đường sống trâu rồi đập nát vụn. Hai yêu quái kia cũng chính do tôi giết chết. Hôm nay diệt hết yêu tà mới biết là thiền môn có đạo. Vậy từ nay về sau, chớ có làm quàng tin nhảm. Mong mọi người hãy coi tam giáo là một, kính đạo trọng tăng, nuôi dưỡng nhân tài. Ta sẽ giữ gìn cho giang sơn các ngài vững bền mãi mãi.


Quốc vương nghe xong cảm tạ mãi không thôi, rồi tiễn đưa thầy trò ra tận ngoài thành.


Chuyến đi này:







Một dạ ân cần cầu kinh Phật


Nỗ lực tu tri sáng nhất nguyên.
Bốn thầy trò lên đường, ngày đi đêm nghỉ, khát uống, đói ăn, thấm thoắt xuân hết hè tàn, tiết thu đã đến. Một hôm, trời đã xẩm tối. Đường Tăng dừng cương ngựa, hỏi:


- Đồ đệ ơi, đêm nay ngủ trọ ở đâu nhỉ? Hành Giả đáp:
- Thưa sư phụ, người xuất gia không nên nói lời của người tại
gia như thế.


Tam Tạng hỏi lại:


- Thế nào là người tại gia? Người xuất gia? Hành Giả thưa:
- Người tại gia lúc này là giường êm đệm ấm, trong lòng ủ
con, bên lưng quàng vợ, ung dung khoan khoái đánh giấc ngon lảnh. Còn chúng ta là những người xuất gia đâu có được như thế! Mà là dầm sương dãi nắng, ăn gió nằm mưa, có đường thì đi, không đường thì nghỉ.


Bát Giới nói:


- Sư huynh ơi, sư huynh chỉ hiểu một mà không biết hai. Như
hôm nay đường đi gồ ghề khấp khểnh, vai tôi gánh nặng thực là vất vả, vậy phải tìm chỗ trọ, đánh một giấc thoải mái, di dưỡng tinh thần, thì sáng mai mới gánh được chứ. Nếu không, tôi lại không ngã gục xuống ấy à?


Hành Giả nói:


- Nhân lúc trăng sáng đi thêm một đoạn nữa, gặp chỗ nào có
nhà dân thì nghỉ.


Mấy thầy trò chẳng biết làm thế nào, đành nghe theo Hành
Giả tiếp tục tiến bước.


Đi được một lát, bỗng nghe thấy tiếng sóng ầm ầm. Bát Giới nói:


- Thôi, thế là đến chỗ cùng đường rồi! Sa Tăng nói:
- Chắc là một con sông chặn ngang lối. Đường Tăng hỏi:
- Vậy làm sao vượt qua được? Bát Giới thưa:
- Để con đo xem nông sâu thế nào. Đường Tăng nói:
- Ngộ Năng, chớ có nói lung tung, nước nông sâu làm cách
nào đo được?


Bát Giới, thưa:


- Lấy một hòn đá bằng quả trứng ngỗng ném xuống nếu bọt
bắn tóe lên là nông, còn nếu thấy ùng ục, chìm xuống là sâu.


Hành Giả nói:


- Chú em thử đi xem nào.


Chú ngốc vớ một hòn đá ném xuống mặt nước chỉ nghe thấy
tiếng ùng ục tăm cá nổi lên, hòn đá chìm xuống đáy, bèn nói:


- Sâu lắm, sâu lắm! Không qua được! Đường Tăng nói:
- Con mới thử nông sâu, nhưng chưa biết nó rộng hẹp ra sao. Bát Giới thưa:
- Cái đó thì con chịu. Hành Giả nói:
- Để con xem xem.


Đoạn nhảy vèo một cái lên không trung, đăm đăm quan sát.
Chỉ thấy:



















Mênh mang ánh trăng bạc.


Bát ngát nước liền trời. Dòng thiêng chìm Hoa Nhạc,


Sông rộng chứa muôn nơi. Nghìn tầng sóng cuồn cuộn. Vạn dặm nước đầy vơi.
Đầu bến không ánh lửa.


Bãi xa cỏ loi thoi. Bao la như biển cả, Bến bờ tít mù khơi.


Đại thánh vội thu mây, hạ xuống bờ sông, nói:


- Sư phụ ơi, rộng lắm! Rộng lắm! Không qua được! Cặp mắt
lửa ngươi vàng của lão Tôn ban ngày nhìn xa được nghìn dặm, việc dữ lành biết hết. Ban đêm cũng nhìn được xa khoảng dăm trăm dặm, thế mà hôm nay con chẳng nhìn thấy bờ, vậy không biết rộng đến chừng nào?


Tam Tạng cả sợ, chẳng nói nên lời, chỉ nghẹn ngào hỏi:


- Đồ đệ ơi, vậy thì biết làm thế nào? Sa Tăng đáp:
- Sư phụ đừng khóc, thử nhìn xem cái gì đứng đằng kia kìa,
có phải là người không?


Hành Giả nói:
- Có lẽ là người đánh cá đang quăng lưới, để tôi đi hỏi xem. Bèn cầm gậy sắt, chạy rảo tới hỏi xem. Chà! Không phải
người mà là một tấm bia đá. Trên tấm bia có ba chữ triện to, phía dưới là hai dòng chừng mười chữ nhỏ. Ba chữ lớn là “sông Thông Thiên”. Mười chữ nhỏ là: “Rộng quá tám trăm dặm, từ xưa ít người qua”. Hành Giả gọi:


- Sư phụ ơi. Lại đây mà xem.






Tam Tạng xem xong, nước mắt lã chã, nói:


- Đồ đệ ơi, năm xưa ta từ biệt Tràng An, cứ tưởng đường sang
phương Tây dễ dàng, có ngờ đâu lắm yêu ma cách trở, nhiều
sông núi ngăn đường thế này!


Bát Giới nói:


- Sư phụ ơi, nghe mà xem, có tiếng trống chiêng ở đâu đây.
Hay là người ta làm cơm chay nhỉ? Chúng ta tạm đến xin cơm ăn; hỏi bến tìm đò, rồi ngày mai qua sông.


Tam Tạng lắng tai nghe, quả nhiên có tiếng chiêng trống, bèn nói:


- Không phải là nhạc khí của đạo gia, mà đúng là nhà chùa làm lễ. Chúng ta đến đó thôi.


Hành Giả đi trước dắt ngựa, nhằm chỗ có tiếng nhạc đi tới. Chỗ này có đường sá gì đâu, phải bước thấp bước cao, vượt qua bãi cát, thì thấy một xóm nhà dân chừng độ bốn năm trăm nóc nhà, xem ra cũng có vẻ phong quang. Chỉ thấy:



Đường thông sườn núi biếc, Bờ dọc con khe xanh. Chốn chốn cửa cài khép. Nhà nhà rào trúc quanh Đầu bãi cò ngủ chợp. Ngọn liễu quạ kêu rinh.
Nhịp chày xa văng vẳng, Tiếng sáo gợi ân tình. Ngổ tía trăng lay động, Lau vàng gió rung rinh, Chó sủa quanh đầu xóm, Ngư ông ngủ bên ghềnh. Đèn tắt đêm thanh vắng,
Giữa trời vầng trăng thanh. Hương bèo đưa thoang thoảng. Bờ tây gió dập dềnh.


Tam Tạng xuống ngựa, nhìn thấy một ngôi nhà ngay đầu
đường, ngoài cửa có trồng một cây phướn, trong nhà đèn nến sáng choang, khói hương nghi ngút, bèn nói:


- Ngộ Không ơi, chỗ này còn hơn hốc núi bãi sông. Dưới mái hiên che chắn sương lạnh, yên tâm ngủ kỹ. Con đừng vào vội nhé, để ta đến cổng nhà chủ hỏi đã. Nếu họ bằng lòng cho trọ, ta sẽ gọi các con. Nếu họ không ưng, cũng đừng giở trò hung bạo. Các con mặt mũi xấu xí, người ta dễ sợ, thành ra rắc rối, chẳng có chỗ mà trọ đâu.


Hành Giả nói:


- Đúng lắm, sư phụ cứ đi trước đi, chúng con chờ ở đây.


Tam Tạng bèn bỏ nón là đi đầu trần, vuốt lại tà áo, chống gậy
tích trượng, bước vào cổng ngôi nhà thấy cánh cửa mở hé, nhưng không dám tự tiện đi vào. Được một lát thấy một cụ già từ trong bước ra, cổ đeo tràng hạt miệng niệm A Di Đà Phật. Cụ già ra đóng cổng. Tam Tạng vội vàng chắp tay cất tiếng gọi:


- Chào cụ, cụ cho bần tăng hỏi một chút. Cụ già chào lại, rồi nói:
- Vị hòa thượng này đến chậm rồi. Tam Tạng nói:
- Cụ nói sao ạ? Cạ già nói:
- Đến chậm chẳng còn gì nữa. Nếu đến sớm một chút, nhà tôi
đây có làm cơm mời tăng, tha hồ ăn no, ba thưng gạo giã, một tấm vải trắng, mười đồng tiền đồng. Thế mà tại sao ngài bây giờ mới tới?


Tam Tạng nghiêng mình nói:


- Thưa cụ, bần tăng không phải là người đến xin cơm chay. Cụ già hỏi:


- Không đến xin cơm chay thì đến đây có việc gì? Tam Tạng đáp:
- Chúng tôi là nhà sư nước Đại Đường bên phương Đông
vâng mệnh nhà vua sang phương Tây lấy kinh, hôm nay qua xóm nhà, trời đã tối xẩm, lại nghe thấy có tiếng chuông trống, nên đến xin ngủ nhờ một đêm, sang mai lên đường.


Cụ già xua tay, nói:


- Hòa thượng ạ. người xuất gia không nên nói dối. Từ nước
Đại Đường bên phương Đông tới chỗ chúng tôi đây có đến bốn năm trăm nghìn dặm đường, ngài đi một mình làm sao tới được?


Tam Tạng thưa:


- Cụ nói rất phải. Tôi còn ba người đồ đệ gặp núi mở lối, gặp
sông bắc cầu, hộ vệ bần tăng suốt dọc đường nên mới tới đây được.


Cụ già nói:


- Có đồ đệ, sao họ không cùng đi với ngài? Đoạn, cụ già nói:
- Mời vào! Mời vào! Nhà chúng tôi có chỗ nghỉ đấy. Tam Tạng quay đầu gọi to:
- Các đồ đệ ơi, vào đây.


Hành Giả vốn tính nóng nảy, Bát Giới sinh ra đã thô lỗ, Sa
Tăng thì lì lợm. Ba người nghe thấy tiếng sư phụ gọi, bèn dắt ngựa, gánh hành lý, bất kể hay dở ùa cả vào như một trận gió. Cụ già nhìn thấy, sợ quá ngã lăn ra đất, miệng lắp bắp:


- Yêu quái đến! Yêu quái đến! Tam Tạng đỡ cụ già dậy, nói:
- Cụ đừng sợ, không phải yêu quái đâu, đồ đệ của tôi đấy. Cụ già run rẩy nói:
- Sư phụ trông đẹp như vậy, mà sao đồ đệ lại xấu thế kia? Tam Tạng nói:
- Tuy xấu người nhưng lại có tài hàng long phục hổ, bắt quái
tróc yêu.


Cụ già nửa tin nửa ngờ, đỡ Đường Tăng thong thả đi vào.


Lại nói chuyện ba người thô lỗ cứ xông bừa vào hiên nhà
buộc ngựa đặt gánh. Trong nhà lúc ấy đang có mấy vị hòa thượng đang ngồi tụng kinh. Bát Giới dẩu cái mõm ra hỏi lớn:


- Các ngài niệm kinh gì đấy?


Mấy hòa thượng nghe tiếng hỏi, vội vàng ngẩng đầu nhìn ra:


Nhìn thấy người đứng ngoài, Mồm dài tai to vểnh.
Người thô, lưng tấm phản.


Tiếng ồm ồm sấm vang. Hành Giả và Sa Tăng. Mặt mũi dáng dữ tợn.
Trong nhà mấy hòa thượng, Đều hoảng hốt giật mình. Sư chủ còn đọc kinh.
Sư cụ bảo dừng lại. Chuông khánh chẳng ai đoái. Tượng Phật vứt chỏng chơ. Đèn nến tắt, tối mờ,
Người người bỏ chạy ráo, Sờ soạng, chân lảo đảo. Bậu cửa bước không qua.


Đầu vào đụng đầu ra, Như bầu khô trong lốc.
Đạo tràng đang nghiêm túc. Bỗng thành trận cười rền!


Ba anh em thấy mấy hòa thượng ngã lăn ngã lộn, vỗ tay cười
ầm cả lên, làm cho mấy nhà sư càng sợ hãi, chạm trán đụng đầu, bỏ chạy thục mạng chẳng còn một ai cả.


Tam Tạng dìu cụ già bước vào trong nhà, thấy đèn nến tắt tối om, ba người vẫn đang cười ngặt nghẽo, bèn mắng:


- Đồ súc vật khốn kiếp, thật là bất thiện! Ta sớm sớm dạy dỗ, ngày ngày dặn dò. Cổ nhân nói: “Không dạy mà thiện chẳng thánh là gì? Dạy rồi nên thiện, chẳng hiền là gì? Dạy mãi không thiện, chẳng ngu là gì?”. Vậy mà các ngươi cứ hỗn láo mãi như thế thì chẳng phải là loại chí hạ chí ngu sao? Bước vào nhà chưa biết nếp tẻ, làm cụ già đây ngã lăn, các nhà sư tụng kinh chạy ráo, làm hỏng mọi việc hay của nhà người ta, như thế có phải là đổ tội lên đầu ta không?


Sư phụ mắng xong, ba anh em im thin thít chẳng ai dám nói gì. Lúc ấy cụ già mới tin đó là đồ đệ của nhà sư thật bèn cúi chào, nói:


- Thưa ngài, không sao, không sao, mới rồi chỉ có làm lễ châm đèn bày hoa thôi, việc Phật cũng sắp xong mà.


Bát Giới nói:


- Đã tới lúc cúng xong, công đức viên mãn, thời phải dọn cỗ
ra, chúng tôi ăn xong còn đi ngủ chứ!


Cụ già gọi:


- Mang đèn lên đây! Mang đèn lên đây! Người trong nhà nghe tiếng, sợ hãi nói:
- Trên nhà tụng kinh, đèn hương la liệt, việc gì lại phải sai
mang đèn?


Mấy chú nhỏ bước ra nhìn thấy tối om om. Bèn châm đóm cầm đèn lồng mang lên. vừa ngẩng đầu nhìn thấy Bát Giới, Sa Tăng, sợ quá đánh rơi cả đèn, rồi quay người đóng chặt lần cửa giữa, vừa chạy vào vừa kêu:


- Yêu quái đến! Yêu quái đến!


Hành Giả nhặt lấy đóm châm vào đèn, nến, kéo một chiếc ghế
tựa, mời Đường Tăng ngồi. Mấy anh em ngồi ở hai bên. Cu già ngồi đối diện, vừa ngồi xuống bỗng thấy cánh cửa phía trong mở ra, một cụ già nữa chống gậy bước ra, hỏi:


- Yêu quái nào đang đêm đến cửa nhà lương thiện ta đấy? Cụ già ngồi đối diện vội vàng đứng dậy đón, nói:
- Ca ca đừng làm ồn lên, không phải yêu quái đâu, mà là vị
La hán nước Đại Đường bên phương Đông đi lấy kinh. Đồ đệ
của ngài ấy tuy mặt mũi xấu xí dữ tợn, nhưng quả là tướng ác lòng lành.


Cụ già kia nghe nói mới buông gậy, cúi chào bốn người. Chào xong, cụ già cũng ngồi đối diện, và gọi:


- Mang trà lại đây, rồi sửa soạn cơm chay mời mấy ngài.


Gọi liền mấy tiếng mới thấy mấy chú nhỏ bước ra, run rẩy
chẳng dám tới gần.


Bát Giới nhịn không nổi, hỏi:


- Thưa cụ, những người hầu tản ra hai bên làm gì thế? Cụ già đáp:
- Bảo họ đi mang cơm chay phục dịch các ngài. Bát Giới lại hỏi:
- Mấy người phục dịch? Cụ già đáp:
- Tám người.


Bát Giới hỏi tiếp:


- Tám người ấy phục dịch ai? Cụ già đáp:


- Phục dịch bốn người các ngài. Bát Giới nói:
- Sư phụ mặt trắng của tôi chỉ cần một người. Anh mặt lông
mồm như thiên lôi kia thì hai người. Anh mặt đen sì này thì phải tám người, còn tôi thì phải hai mươi người phục dịch mới no.


Cụ già nói:


- Thế chắc dạ dày ngài to lắm nhỉ? Bát Giới nói:
- Cứ mang ra khắc biết. Cụ già nói:
- Xin có đủ người ạ, đủ người ạ.


Bảy tám người lớn nhỏ gọi thêm ba bốn chục người nữa nữa
bước ra.


Hòa thượng cùng cụ già, bên hỏi bên đáp trò chuyện, mọi người lúc ấy mới không thấy sợ nữa. Họ đặt ở trên nhà một chiếc bàn, mời Đường Tăng ngồi vào. Hai bên kê ba chiếc cho ba anh em. Chiếc bàn đối diện là chỗ hai cụ già ngồi.


Thoạt tiên bày trên bàn các thức hoa quả rau dưa, sau đó mới là bánh bao, cơm tẻ, cháo bột mì, canh miến. Các thứ bầy biện ngăn nắp chỉnh tề. Đường Tăng cầm đôi đũa lên, niệm quyển
“Khải trai kinh”. Chú ngốc một là có tính háu ăn, hai là cũng đói bụng, chẳng cần đợi Đường Tăng đọc kinh xong, vơ ngay lấy chiếc bát gỗ sơn son, xới một bát cơm tẻ trắng nuốt một miếng hết nhẵn.


Chú nhỏ ngồi bên cạnh nói:


- Ngài này chẳng biết tính toán, không nuốt bánh bao mà lại
nuốt cơm.


Bát Giới cười, nói:


- Nuốt đâu, ăn đấy chứ. Chú nhỏ nói:
- Không thấy ngài há mồm, sao gọi là ăn? Bát Giới nói:
- Nhóc con mà đã biết nói dối. Rõ ràng là ta ăn. Không tin, ta
ăn lại cho mà xem.


Chú nhỏ cầm bát xới một bát nữa đưa cho Bát Giới, chú ngốc loáng một cái đã tống vào miệng rồi nuốt sạch. Mấy chú nhỏ nhìn thấy nói:


- Cha mẹ ơi, cổ họng ngài này có lẽ xây bằng gạch bóng nên mới trơn tuột nhanh đến như thế!


Đường Tăng chưa niệm xong quyển kinh. Bát Giới đã chén hết năm sáu bát rồi. Sau đó lại cùng mọi người cầm đũa ăn cơm
chay tiếp. Chú ngốc chẳng kể là bánh bao, cơm tẻ, hoa quả, rau ghém, cứ mặc sức, vừa và lem lém vào mồm, vừa kêu lớn:


- Lấy thêm cơm! Lấy thêm cơm!


Nhưng mãi chẳng thấy ai mang cơm lên. Hành Giả bảo:


- Hiền đệ này, ăn bớt đi một chút. Dẫu sao vẫn còn hơn nhịn
đói trong hốc núi chán, cứ được ăn lửng bụng là tốt rồi.


Bát Giới nói:


- Sĩ diện! Thường có câu: “Cho sư ăn đói, chẳng bằng chôn
sống” đấy à!


Hành Giả gọi:


- Dọn dẹp đi, mặc kệ hắn!


Hai cụ già nghiêng mình nói:


- Chẳng giấu gì ngài. Giá ban ngày thì không ngại, dạ dày to
như vị trưởng lão này, chỉ ăn bằng khoảng một trăm người thôi chứ mấy. Nhưng bây giờ tối rồi, dọn tất cả cơm chay còn lại, hấp thêm một nòi bánh bao, thổi năm ca gạo, bày biện mấy bàn thức ăn là để mời mấy nhà sư tới ban phước và mấy người hàng xóm. Không ngờ các ngài tới, các nhà sư sợ quá bỏ chạy cả, mấy ông hàng xóm cũng chẳng dám mời, phải bưng tất cả ra mời các ngài đấy. Nếu chưa no để chúng tôi bảo đi nấu thêm.


Bát Giới nói:
- Nấu thêm đi! Nấu thêm đi!


Nói xong, dọn dẹp hết mâm bát, bàn ghế lại.


Tam Tạng cúi người cảm tạ các cụ già cho ăn cơm chay xong
mới hỏi:


- Thưa cụ, cụ họ gì ạ? Cụ già đáp:
- Tôi họ Trần.


- Tam Tạng chắp tay nói:


- Thế là cụ cùng họ với bần tăng. Cụ già nói:
- Ngài cũng họ Trần? Tam Tạng thưa:
- Vâng, bần tăng cũng họ Trần. Xin hỏi cụ cúng chay có việc
gì đấy ạ?


Bát Giới cười, nói:


- Sư phụ hỏi cụ ấy làm gì? Chẳng lẽ sư phụ lại không biết hay
sao? Chỉ có mấy loại “chay cầu lúa tốt”, “chay cầu bình an” và
“chay độ người chết” thế thôi.


Cụ già nói:


- Không phải, không phải. Tam Tạng lại hỏi:
- Vậy cầu việc gì? Cụ già thưa:
- Đây là cúng chay dự trước cho người chết. Bát Giới cười lăn ra, nói:
- Ông cụ thực không có mắt. Chúng tôi toàn là hạng bịa đặt,
bịp người cỡ vua cả, thế mà lại dám nói dối bịp chúng tôi! Là nhà sư há lại không biết việc chay sao? Chỉ có mấy loại: “Chay dự gửi vào kho”, “chay dự trữ bổ sung” chứ làm gì có loại “chay dự trước cho người chết”? Vả lại nhà ta đây làm gì có người sắp chết, mà phải cúng chay độ vong trước?


Hành Giả nghe vậy, mừng thầm nói:


- Chú ngốc lý sự cũng cứng cỏi ra phết! Đoạn quay sang nói với cụ già:
- Thưa cụ, cụ nhầm rồi. Tại sao lại gọi là “chay dự trước cho
người chết”?


Hai cụ già nghiêng mình nói:
- Các ngài đi lấy kinh, tại sao không đi đường lớn, mà lại rẽ vào xóm chúng tôi?


Hành Giả nói:


- Chúng tôi vẫn đi theo đường lớn, nhưng gặp một con sông
chắn lối không qua được, lại nghe thấy tiếng chuông trống nữa, nên vào đây ngủ trọ.


Cụ già hỏi:


- Các ngài đến bờ sông có nhìn thấy cái gì không? Hành Giả thưa:
- Chỉ thấy một tấm bia, trên có ba chữ “sông Thông thiên”,
dưới có mười chữ “rộng hơn tám trăm dặm, từ xưa ít người qua”. Ngoài ra không thấy vật gì khác.


Cụ già nói:


- Đi quá lên phía trên một ít, cách tấm bia chừng một dặm có
ngôi miếu “Linh cảm đại vương”, ngài không thấy sao?


Hành Giả nói:


- Không thấy, xin cụ nói rõ thế nào là Linh cảm? Hai cụ già đều sa nước mắt, nói:
- Các ngài ơi đại vương ấy:


Cảm ứng một phương xây miếu vũ, Uy linh nghìn dặm giúp dân tình. Quanh năm đồng ruộng rơi mưa ngọt. Suốt tháng thôn cư rợp ráng vàng.


Hành Giả nói:


- Mưa ngọt, ráng vàng thì tốt quá, tại sao các cụ lại còn buồn
rầu phiền não?


Cụ già giậm chân vỗ ngực, hừ một tiếng, nói:




- Các ngài ơi!


Tuy đội ơn sâu thành oán nặng, Từ tâm mà lại hóa vô nhân.
Trẻ con nộp mạng ngài ăn thịt, Chẳng phải chiêu chương chính trực thần!


Hành Giả nói:


- Đòi ăn thịt trẻ con trai gái à?
Cụ già nói:


- Thưa vâng. Hành Giả hỏi:
- Chắc lần này đến lượt nhà cụ? Cụ già nói:
- Năm nay đến lượt nhà tôi. Nơi chúng tôi đây có khoảng
trăm gia đình cư trú, thuộc sự cai quản của huyện Nguyên Hội, nước Xa Trì, tên gọi Trần gia trang. Vị đại vương này một năm một lần tế, phải dâng cho ngài ấy một đứa bé trai, một đứa bé gái, cả lợn, dê, rượu, ngài ấy xơi một bữa no, rồi phù hộ cho chúng tôi mưa thuận gió hòa. Nếu không tế như thế, thì gieo tai giáng họa ngay.


Hành Giả hỏi:


- Nhà ta đây được mấy anh chị? Cụ vuốt bụng đáp:
- Đau lòng lắm! Đau lòng lắm! Nói đến con cái, chúng tôi hổ
thẹn đến chết! Ông này là em ruột tôi tên là Trần Thanh. Còn tôi gọi là Trần Trừng, năm nay tôi sáu mươi ba tuổi, còn em tôi năm mươi tuổi vẫn chưa có con, mọi người khuyên tôi lấy vợ lẽ. Chẳng còn cách nào, cũng đành kiếm thêm một phòng, sinh được một cháu gái, năm nay vừa lên tám tuổi, đặt lên cháu là Nhất Xứng Kim.


Bát Giới nói:


- Tên hay quá nhỉ! Tại sao lại đặt là Nhất Xứng Kim? Cụ già nói:
- Cũng do đường con cái hiếm hoi nên mọi việc sửa đường
bắc cầu, xây chùa dựng tháp, bố thí trai tăng tôi đều có món quyển sổ ghi chép món tiền cúng vào những việc ấy, chỗ thì ba lạng, chỗ thì năm lạng. Tính đến năm sinh cháu vừa đúng cúng hết ba mươi cân vàng ròng, ba mươi cân là một xứng, nên mới đặt tên cháu là Nhất Xứng Kim.


Hành Giả hỏi:


- Thế cụ kia có con không? Cụ già đáp:
- Chú em tôi đây cũng có một con trai, do người vợ bé sinh
ra. Năm nay cháu lên bảy, đặt tên là Trần Quan Bảo.


Hành Giả lại hỏi:


- Tại sao lại đặt tên như thế? Cụ già đáp:
- Nhà chúng tôi đây thờ đức thánh Quan. Nhờ cầu tự trước
bàn thờ ngài mà sinh được cháu, nên đặt tên là Quan Bảo. Hai anh em chúng tôi vừa đúng một trăm hai mươi tuổi, chỉ được hai mụn con nối dõi. Không ngờ đến lượt nhà chúng tôi phải tế lễ,
không thể không hiến các cháu được. Nhưng cha con tình nặng, không nỡ đành lòng, chúng tôi lập đàn chay cầu siêu cho các cháu trước, vì vậy gọi là “chay dự trước cho người chết” là vì thế.


Tam Tạng nghe xong, không nén được hai hàng lệ nhỏ, nói:


- Thật đúng như người xưa nói:




“Lá vàng còn ở trên cây,


Lá xanh rụng xuống, trời hay chăng trời!”[231] Hành Giả cười, nói:
- Để con hỏi thêm. Thưa cụ, gia sản nhà ta có khá không?


Hai cụ già đáp:


- Cũng kha khá. Ruộng cấy có bốn năm mươi khoảnh, ruộng
màu có sáu bảy mươi mẫu, bãi cỏ đến tám chín mươi nơi, trâu bò khoảng hai ba trăm con, ngựa lừa cũng dăm ba chục, lợn dê gà vịt thì vô kể. Trong nhà gạo cũ ăn không hết, quần áo mặc có thừa, sản nghiệp gia tài cũng gọi là dư dật.


Hành Giả nói:


- Sản nghiệp gia tài như thế, chắc do cụ chắt bóp tằn tiện mà
có?


Cụ già nói:


- Tôi nào có chắt bóp tằn tiện! Hành Giả nói:
- Vậy có gia sản như thế, nỡ lòng nào dứt tình dâng con hiến
tế? Cứ bỏ ra độ năm mươi lạng bạc là mua được một bé trai, một trăm lạng bạc mua được một bé gái, bất quá chỉ mất độ hai trăm lạng là có thể giữ được con mình để nối dõi về sau lại không hơn à?


Hai cụ già rơi nước mắt, nói:


- Ngài ơi, ngài đâu có biết. Đại vương ấy rất linh ứng, thường
đến nhà chúng tôi luôn.


Hành Giả hỏi:


- Hắn đến, các cụ thấy mặt mũi thế nào? Cao hay thấp? Hai cụ thưa:
- Không trông thấy hình thù, chỉ ngửi thấy một làn gió thơm
là biết đại vương đến. Trong nhà vội vàng thắp hương, già trẻ hướng vào làn gió mà lặy. Trong nhà chúng tôi, mọi việc từ chổi cùn giẻ rách, ngài đều biết hết. Ngày tháng năm sinh của mọi người ngài đều nhớ cả, phải đúng là con chúng tôi ngài mới nhận cho. Nói gì hai ba trăm lạng, cho dù mấy nghìn lạng cũng mua đâu được đứa trẻ giống hệt và cùng ngày tháng năm sinh như con chúng tôi?


Hành Giả nói:


- Hóa ra là thế. Thôi được, thôi được, cụ dắt các cháu ra đây
xem nào.


Trần Thanh bèn quay vào bế Quan Bảo ra, đặt đứng trước ngọn đèn.


Trẻ con nào có biết sống chết gì đâu, nhét đầy hai tay áo hoa quả, nhảy nhót múa may vừa ăn vừa đùa. Hành Giả thế thì lẳng lặng niệm thần chú, lắc mình một cái, biến thành một đứa trẻ giống hệt Quan Bảo. Hai đứa trẻ dắt tay nhau nhảy múa trước ánh đèn. Cụ già kia sợ quá vội vã quỳ xuống. Đường Tăng nói:


- Thưa cụ, không dám, không dám! Cụ già nói:
- Ngài ấy vừa đang trò chuyện, mà sao đã biến thành đứa trẻ
giống con tôi như đúc, tôi gọi một tiếng cả hai đứa cùng thưa cùng đến. Tôi sợ đến giảm thọ mất. Thôi, xin ngài hiện nguyên hình, hiện nguyên hình cho!


Hành Giả vuốt mặt một cái, hiện lại nguyên hình. Cụ già quỳ xuống trước mặt nói:


- Ngài có cả cái tài như thế này cơ ạ? Hành Giả cười, nói:
- Có giống con cụ không?
- Cụ già nói:


- Giống, giống, giống lắm! Giống từ mặt mũi, giọng nói, quần
áo, dáng người…


Hành Giả nói:


- Cụ còn chưa xem kỹ, nếu lấy cân đem cân, còn cân nặng hệt
như nó nữa kia.


Cụ già nói:


- Phải, phải, cũng nặng như nhau. Hành Giả nói:
- Giống như vậy có mang tế được không? Cụ già nói:
- Được, được, tế được ạ! Hành Giả nói:
- Hôm nay tôi sẽ thay đứa trẻ này, để cháu nó còn giữ hương
hỏa sau này cho nhà cụ, tôi sẽ đi làm đồ hiến tế đại vương.


Trần Thanh quỳ xuống, dập đầu nói:


- Ngài quả có lòng từ bi hỉ xả. Tôi xin biếu ngài họ Đường
đây một ngàn lạng bạc trắng để làm tiền ăn đường sang phương
Tây.


Hành Giả nói:


- Thế không tạ ơn lão Tôn à? Cụ già nói:
- Ngài đi tế thay thì làm gì còn nữa? Hành Giả nói:
- Tại sao lại không còn? Cụ già nói:
- Sẽ bị đại vương ăn thịt. Hành Giả nói:
- Hắn dám ăn thịt tôi kia à?


- Không ăn? Dễ thường nó chê tanh chắc? Hành Giả cười nói:
- Mặc cho số trời. Nó ăn thịt tôi, là tôi đoản mệnh. Bằng
không là may cho tôi. Dù sao tôi vẫn đi tế thay cho con cụ.


Trần Thanh chỉ còn biết dập đầu tạ ơn, và sai biếu thêm năm trăm lạng bạc nữa. Riêng Trần Trừng vẫn không cúi đầu, không cảm tạ, cứ ngồi dựa vào chiếc bình phong khóc thảm thiết. Hành Giả thấy thế, bèn bước tới đỡ dạy nói:


- Thưa cụ, cụ không biếu tôi, không cảm ơn tôi, chắc là không
dứt nổi con gái chứ gì?


Trần Trừng bèn quỳ xuống, thưa:


- Thưa vâng, không sao dứt nổi được. Đội ơn tấm thịnh tình
của ngài, thằng cháu tôi đã thoát. Nhưng già này không có con trai, chỉ có một mụn con gái. Tôi mà chết đi, chắc nó cũng khóc thống thiết lắm, nên dứt làm sao được.


Hành Giả nói:


- Vậy thì cụ hãy mau mau đong năm đấu gạo thổi cơm, nấu
một vài món rau ghém ngon lành, mời vị sư phụ mõm dài kia ăn no. Tôi sẽ bảo chú ấy biến thành con gái cụ, rồi anh em chúng tôi cùng đi tế, quyết làm một việc phúc đức, cứu con cháu các cụ. Như thế có được không?


Bát Giới nghe nói như vậy, trong bụng sợ quá, nói:


- Thưa anh, anh cứ hứng lên là chẳng kể đến sống chết của
tôi, kéo nhằng tôi vào làm gì.


Hành Giả nói:


-  Này  chú  em,  thường  có  câu:  “Ăn  quả  nhớ  kẻ  trồng
[232]
cây”

 tôi với chú đến đây, được người ta cho ăn đầy đủ, mà
chú còn kêu chưa no cơ mà! Thế tại sao người ta gặp hoạn nạn lại không cứu?


Bát Giới nói:


- Nhưng thưa anh, việc biến hóa thực tình tôi không giỏi. Hành Giả nói:
- Chú cũng có ba mươi sáu phép biến hóa, tại sao lại không
giỏi?


Tam Tạng nói:


- Ngộ Năng, sư huynh con nói chí phải, cư xử đúng đắn.
Thường có câu: “Cứu một người còn hơn xây bảy tầng tháp phù đồ”, vả lại một là để cảm tạ tấm thịnh tình, hai là tích góp âm đức. Hơn nữa đêm thanh nhàn nhã, anh em con nên đi chơi một chuyến.


Bát Giới nói:


- Anh xem sư phụ nói đấy! Nhưng tôi chỉ biết biến ra núi, ra
cây, ra tảng đá, ra voi ghẻ, ra trâu bò, ra thằng bụng phệ còn khả dĩ, chứ biến thành đứa bé gái thì khó lắm đấy.


Hành Giả nói:


- Cụ đừng có tin chú ấy, cứ bế cháu ra đây.


Trần Trừng vội quay vào bế Nhất Xứng Kim ra ngoài. Mọi
người trong nhà, bất kể thê thiếp, già trẻ nội ngoại đều cúi đầu lễ bái, xin cứu cho tính mạng đứa trẻ. Nhất Xứng Kim đầu đội chiếc mũ thóp bát bảo thùy châu thêu hoa biếc, mình mặc một chiếc áo lụa màu hồng, bên ngoài khoác một chiếc áo bằng đoạn màu quan lục, cổ vuông bàn cờ, mặc một chiếc quần nhiễu hoa
hồng đại đóa, chân đi đôi giày tơ nõn màu hồng nhạt và một đôi tất lụa màu vàng. Cô bé cũng đang ăn hoa quả.


Hành Giả nói:


- Chú Bát Giới, cô bé đấy, chú biến đi mau lên để chúng ta đi
hiến tế.


Bát Giới nói:


- Sư huynh ơi cô bé xinh xắn kháu khỉnh thế kia, làm sao tôi
biến được?


Hành Giả quát:


- Mau lên, không đánh đòn bây giờ! Bát Giới sợ quá, nói:
- Sư huynh đừng đánh, em xin biến đây.




Chú ngốc bèn niệm thần chú, lắc đầu một cái, hô “biến”, cũng
biến thành một đứa bé gái, mặt mũi giống hệt Xứng Kim chỉ phải cái bụng thì béo phệ chảy xuống là không giống. Hành Giả cười, nói:


- Biến lại đi! Bát Giới nói:
- Sư huynh có đánh thì em cũng chịu, biến không nổi biết làm
thế nào được?


Hành Giả nói:


- Đầu không phải đầu trẻ con, mình vẫn là hòa thượng, biến ra
cái loại ái nam ái nữ ấy thì dùng được việc quái gì? Chú phải biến lại đi!


Nói xong, bèn thổi một hơi tiên khí vào người Bát Giới, Bát Giới lắc người biến lại, lần này giống hệt bé gái. Xong xuôi, Hành Giả nói:


- Hai cụ bảo gia quyến và hai cháu vào trong nhà kẻo nhầm lẫn đấy. Anh em chúng tôi biến hình nghịch ngợm chạy vào trong nhà, thành ra khó phân biệt. Các cụ cứ đưa hoa quả cho các cháu ăn, đừng để các cháu khóc. Sợ đại vương biết, lộ mất việc. Hai chúng tôi sắp sửa đi chơi đây!


Đại Thánh dặn dò Sa Tăng hộ vệ Đường Tăng:


- Tôi biến làm Trần Quan Bảo, Bát Giới biến thành Nhất
Xứng Kim.


Hai người sửa soạn đâu đấy, rồi hỏi:


- Nghi thức hiến tế thế nào nhỉ? Trói cả chân tay hay là trói
tay không? Luộc chín hay là chặt từng miếng?


Bát Giới nói:


- Sư huynh đừng có trêu em nữa, em chẳng có thủ đoạn cao
cường đến thế đâu!


Cụ già nói:


- Không dám, không dám! Chỉ việc lấy hai chiếc mâm son,
mời hai vị ngồi lên, đặt lên bàn, sai hai trai tráng khỏe mạnh
khiêng bàn đặt vào trong miếu là xong.


Hành Giả nói:


- Hay lắm! Hay lắm! Mang ngay mâm ra đây để chúng tôi
ngồi nào.


Cụ già lập tức sai lấy ra hai chiếc mâm son, Hành Giả và Bát Giới ngồi vào. Bốn chàng trai khiêng hai chiếc bàn đi ra sân rồi lại khiêng vào đặt trong nhà.


Hành Giả khoái chí, nói:


- Chú Bát Giới ơi, chơi nghịch cái trò này, chúng ta chẳng
khác nào những hòa thượng ngồi trên phẩm đài nhỉ!


Bát Giới nói:


- Nếu cứ khiêng đi khiêng về, khiêng mãi tới lúc trời sáng, tôi
cũng không sợ. Còn khiêng vào miếu, bị nó ăn thịt, thì chẳng còn là trò chơi nữa!


Hành Giả nói:


- Chứ em cứ trông vào tôi, khi nào thấy nó ăn thịt tôi, thì chú
sẽ chạy.


Bát Giới nói:


- Biết nó ăn thế nào? Nếu nó ăn con trai trước thì tôi mới chạy
thoát. Giả dụ nó ăn con gái trước thì làm sao?


Cụ già nói:


- Mọi năm khi tế lễ, có người to gan trong chúng tôi chui vào
nấp đằng sau miếu hoặc nấp dưới gậm bàn, thấy nó ăn con trai trước, ăn con gái sau.


Bát Giới nói:


- Thế thì may quá! May quá!


Hai anh em đang bàn bạc, bỗng nghe bên ngoài tiếng chiêng
trống ầm ĩ, đèn đuốc sáng trưng, người trong thôn dã kéo đến mở cổng gọi:


- Khiêng cháu trai, cháu gái ra nào!


Hai cụ già sụt sùi khóc lóc, bốn chàng trai khiêng Hành Giả,
Bát Giới đi ra.


Cuối cùng không biết tính mạng hai người thế nào xem hồi sau sẽ rõ.


HỒI THỨ BỐN MƯƠI TÁM




Ma nổi gió hàn sa tuyết lớn,


Sư mong bái Phật giẫm băng dầy




Lại nói chuyện người thôn Trần Gia Trang khiêng đồ cúng tế
dê, lợn, rượu cùng Hành Giả, Bát Giới rầm rầm, rộ rộ tới bày trong miếu Linh Cảm. Hai đưa trẻ trai và gái được đặt lên trên cùng. Hành Giả ngoảnh đầu nhìn thấy trên bàn thờ bày hương hoa đèn nến chính giữa đặt một cỗ bài vị chữ vàng, trên có dòng chữ “Thần Linh Cảm đại vương”, ngoài ra không có một tượng thần nào khác. Mọi người bày biện xong xuôi, đoạn quay mặt vào miếu dập đầu khấn rắng:


- Tâu đại vương, năm này, tháng này, ngày này, giờ này, tế chủ Trần Gia Trang là Trần Trừng cùng mọi người lớn bé, già trẻ kính tuân lệ thường, xin hiến một bé trai tên là Trần Quan Bảo, một bé gái tên là Nhất Xứng Kim, cùng lợn, dê, rượu đủ số, dâng đại vương hưởng dùng để phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt.


Khấn xong, đốt vàng mã rồi ai về nhà nấy. Chuyện không nói nữa.


Bát Giới thấy mọi người về rồi, bèn nói với Hành Giả:


- Chúng mình cũng về nhà thôi!
Hành Giả hỏi:


- Nhà chú ở đâu? Bát Giới đáp:
- Về nhà cụ Trần ngủ. Hành Giả nói:
- Chú ngốc lại nói lăng nhăng rồi. Đã nhận lời với người ta,
phải làm cho người ta vừa ý mới phải chứ.


Bát Giới nói:


- Anh ngốc thì có, chứ tôi đâu có ngốc! Chỉ lừa họ làm trò
chơi, chứ tại sao lại đi hiến mình làm lễ cho họ thật sự thế này.


Hành Giả nói:


- Giúp người phải giúp đến cùng, nhất định phải đợi đại
vương kia đến ăn thịt bằng được mới gọi là có thủy có chung. Nếu không, chẳng hóa gieo tai, gieo vạ cho họ, thành ra không tốt.


Đang nói, bỗng nghe tiếng gió nổi vù vù. Bát Giới nói:


- Hỏng, gió nổi là thằng cha ấy đến đấy. Hành Giả dặn ngay:
- Đừng nói nhé, mặc tôi đối phó..


Trong giây lát, một yêu quái đã bước tới cửa miếu. Trông
hình dáng hắn:















Giáp vàng, mũ cũng vàng tươi.
Lưng đeo đai báu, dáng người hung hăng.


Hai mắt sáng tựa sao băng.


Hai hàm răng nhọn sắc bằng đinh ba.


Khói mây lãng đãng chiều tà. Sương mù cuồn cuộn bay là quanh thân. Bước đi trận trận gió hàn,
Đứng lại sát khí từng làn bốc thêm.


Khác nào vị tướng Quyển Liêm,


Hệt như thần tướng trấn bên cổng chùa.




Yêu quái đứng chặn ở cửa miếu hỏi:


- Năm nay nhà nào sửa lễ? Hành Giả cười, tủm tỉm đáp:
- Thưa ngài, là nhà Trần Trừng, Trần Thanh trong thôn ạ. Yêu quái nghe tiếng trả lời, trong lòng nghi hoặc nói:
- Thằng bé này to gan gớm nhỉ, nói năng thật linh lợi! Mọi
khi những đứa trẻ dâng cho ta hưởng, ta hỏi lần đầu, thì không dám trả lời, hỏi lần thứ hai đã sợ hết hồn, khi lấy tay sờ đến thì đã chết cứng. Thế mà hôm nay thằng ranh này ứng đối trôi chảy thế?


Yêu quái chưa dám cầm lên ăn thịt, lại hỏi tiếp:


- Đứa con trai và đứa con gái tên là gì? Hành Giả cười, đáp:
- Con trai tên là Trần Quan Bảo, con gái tên là Nhất Xứng
Kim.


Yêu quái nói:


- Lễ hiến tế này vẫn theo lệ cũ, nay dâng cho ta thì ta ăn thịt
chúng bay.


Hành Giả nói:


- Chúng tôi không dám chống cự, xin mời ngài cứ việc ăn
thịt.


Yêu quái nói xong vẫn không dám động thủ, đứng chặn ở cửa quát:


- Chớ có bẻm mép! Mọi năm ta ăn thịt thằng con trai trước, năm nay ta lại muốn ăn thịt đứa con gái trước!


Bát Giới sợ quá, nói:
- Đại vương cứ chiếu theo lệ cũ, không nên phá lệ như thế. Yêu  quái chẳng thèm nghe, cứ thò tay tóm Bát Giới. Chú
ngốc phịch một cái nhảy xuống, hiện nguyên hình rút đinh ba bổ thẳng cẳng. Yêu quái rút tay lại, chạy ra phía trước. Bỗng nghe
soạt một tiếng, Bát Giới nói:


- Thủng áo giáp rồi!


Hành Giả cũng hiện nguyên hình chạy tới xem, thì ra là hai
cái vẩy cá to bằng cái khay, bèn quát lớn:


- Đuổi mau! Đuổi mau!


Hai người nhảy lên không trung. Yêu quái do đi ăn lễ nên
không mang theo binh khí, tay không đứng trên đám mây hỏi:


- Các ngươi là hòa thượng phương nào mà đến đây lừa người,
[233]
dám phá lễ vật



 làm hại thanh danh của ta?
Hành Giả đáp:


- Yêu quái khốn kiếp kia không biết à? Chúng ta là đồ đệ của
vị thánh tăng nước Đại Đường bên phương Đông là Tam Tạng vâng mệnh nhà vua sang phương Tây lấy kinh, nhân đêm qua ngủ nhờ nhà cụ Trần, nghe nói có yêu quái, giả hiệu là Linh cảm, hàng năm bắt phải dâng trẻ con trai gái. Chúng ta là những người từ bi, muốn cứu vớt sinh linh, nên đến bắt đồ yêu quái khốn kiếp nhà ngươi. Vậy hãy mau mau khai thực ra, cứ một năm ăn thịt hai đứa trẻ trai gái, vậy nhà ngươi xưng làm đại vương ở đây đã bao nhiêu năm? Ăn thịt bao nhiêu đứa trẻ? Tính từng đứa trả lại cho ta, thì ta sẽ tha chết cho!


Yêu quái nghe nói, liền bỏ chạy ngay, bị Bát Giới bổ cho một phát đinh ba nữa, nhưng không trúng, bèn biến thành một trận cuồng phong, chui biến xuống sông Thông Thiên.


Hành Giả nói:


- Không cần đuổi nữa, chắc nó là yêu quái ở dưới sông này,
đợi sáng mai nghĩ cách bắt nó, rồi đưa sư phụ sang sông.


Bát Giới nghe lời quay về miếu, cùng Hành Giả khiêng cả bàn lễ vật lợn, dê, rượu về nhà cụ Trần. Khi ấy Đường Tăng, Sa Tăng cùng hai anh em cụ già họ Trần đang ngồi ở nhà trông đợi tin, bỗng thấy hai người khiêng lễ vật lợn, dê về đặt ở ngoài sân. Tam Tạng bước ra đón, hỏi:


- Ngộ Không, công việc tế lễ thế nào?


Hành Giả đem chuyện xưng danh đuổi quái chui xuống lòng
sông kể hết một lượt. Hai cụ già mừng lắm, lập tức sai quét dọn phòng khách, sửa soạn giường chiếu, mời thầy trò Đường Tăng đi nghỉ. Chuyện không nói nữa.


Lai nói chuyện yêu quái thoát chết, về đến lòng sông, bước vào trong cung, trầm ngâm chẳng nói. Các loài thủy tộc lớn nhỏ bèn hỏi:


- Đại vương hàng năm đi hưởng lễ trở về vui vẻ lắm, tại sao năm nay lại buồn thế?


Yêu quái đáp:


- Hàng năm hưởng lễ xong, ta còn lấy phần về cho các ngươi
cùng hưởng. Năm nay, ngay ta cũng chẳng được miếng gì. Xúi quẩy quá, gặp ngay đối thủ, suýt nữa toi mạng.


Các loài thủy tộc hỏi:


- Thưa đại vương, bọn nào vậy? Yêu quái đáp:
- Đó là bọn đồ đệ của vị thánh tăng nước Đại Đường bên
phương Đông, sang phương Tây lễ Phật cầu kinh, biến thành hai đứa trẻ trai gái ngồi trong miếu. Ta bị chúng hiện nguyên hình, đánh một trận suýt toi mạng. Lâu nay ta vẫn từng nghe nói: Đường Tam Tạng là người đã trải qua mười kiếp tu hành, chỉ cần ăn được một miếng thịt của hắn, thì sẽ tăng thọ sống lâu. Không ngờ hắn có những thủ hạ cao cường! Ta bị chúng hủy hoại thanh danh, cướp phá lễ vật, nay muốn bắt Đường Tăng nhưng sợ không làm nổi.


Trong đám thủy tộc, có một mụ Quyết Bà mặc áo hoa lốm đốm bước ra, cung kính mỉm cười, nói:


- Thưa  đại  vương,  muốn  bắt  Đường  Tăng  thì  có  khó  gì! Nhưng nếu bắt được hắn, thì đại vương có thưởng rượu, thịt cho thần không?


Yêu quái đáp:


- Nhà ngươi có mưu gì bắt được Đường Tăng thì ta sẻ cùng
nhà ngươi kết làm anh em, cùng hưởng thịt hắn.


Quyết Bà cảm tạ, rồi hỏi:


- Vẫn biết đại vương có thần thông gọi gió kêu mưa, có sức
khỏe nghiêng sông lật biển từ lâu, nhưng không hiểu đại vương
có biết làm mưa tuyết không?


Yêu quái nói:


- Biết! Biết! Quyết Bà lại hỏi:
- Biết làm tuyết rơi, nhưng không hiểu đại vương có biết làm
đóng băng không?


Yêu quái đáp:


- Càng giỏi.


Quyết Bà vỗ tay cười, nói:


- Nếu vậy thì có khó gì. Yêu quái nói:
- Nhà ngươi nói cái công việc ấy ra xem nào? Quyết Bà nói:
- Khoảng canh ba đêm nay, đại không không được chậm trễ,
làm phép nổi một cơn gió lạnh, mưa một trận tuyết dầy; làm cho nước sông Thông thiên đóng băng cứng lại, sai những người giỏi biến hóa như chúng tôi, biến ra mấy người đứng ở đầu đường, cầm dù khoác đẫy, quẩy gánh đun xe, đi đi lại lại trên mặt băng. Đường Tăng nóng lòng, nóng ruột lấy kinh, thấy có người đi như vậy, chắc cũng sẽ đạp băng mà vượt sông. Đại
vương cứ việc ngồi chơi dưới lòng sông, hễ nghe thấy tiếng bước chân của họ thì xé băng ra, thầy trò chúng sẽ chìm cả xuống sông lúc ấy nổi một tiếng trống là tóm gọn hết!


Yêu quái nghe xong, trong lòng mừng rỡ, nói:


- Tuyệt diệu! Tuyệt diệu!


Đoạn bước ra ngoài thủy phủ nhảy lên không trung nổi gió
lạnh, làm mưa tuyết ngưng nước thành băng.


Lại nói chuyện bốn thầy trò nghỉ ở nhà cụ Trần, lúc trời sắp sáng, bỗng thấy chăn gối lạnh lùng. Bát Giới rét run cầm cập không ngủ được, cất tiếng gọi:


- Sư huynh ơi, lạnh quá! Hành Giả nói:
- Đồ ngốc kia chẳng có chí lớn! Người xuất gia nóng lạnh
không phạm được, tại sao còn sợ lạnh?


Tam Tạng nói:


- Đồ đệ ơi, quả có lạnh thật. Xem kìa:




Chăn bông không hơi ấm, Tay áo tựa vải băng.
Lá rụng sương đẫm cành.


Tùng xanh đọng nước trắng


Đất nứt do quá lạnh.


Ao băng bởi nước ngưng. Thuyền câu ông chài vắng, Chùa núi chẳng sư tăng. Chú tiều buồn ít củi,
Vương tôn vui nhiều than.


Người đi râu cứng lại. Thi nhân bút khô cằn. Áo da hiềm vẫn mỏng, Áo cừu chê nhẹ thân. Sư chùa run cầm cập.
Dặm thẳm khách kinh hồn. Chăn thêu, chăn bông đắp.
Toàn thân vẫn lạnh run.




Thầy trò Đường Tăng không ngủ được, choàng cả dậy mặc
quần áo, rồi mở cửa ra nhìn. Chà! Ngoài trời trắng mang mang, thì ra là tuyết rơi! Hành Giả nói:


- Thảo nào mọi người kêu rét, tuyết xuống dầy thế kia cơ mà! Bốn người lặng nhìn tuyết rơi. Chỉ thấy:


Mây đen giăng kín, Mù xám trùm dày.
Mây đen giăng kín, gió bấc rít tầng không; Mù xám trùm dày, hoa tuyết tả tơi rơi kín đất.


Thực là:




Sáu tầng hoa, cánh cánh châu bay. Nghìn cây núi, cành cành ngọc dát.
Phút giây tích góp, Khoảnh khắc thành gò. Vẹt trắng hót giọng rè, Hạc vàng lông ủ rũ.
Thế tựa nghìn dòng sông Ngô Sở


Đông nam đè bẹp xuống cành mai,


Khác nào ba trăm vạn rồng ngọc thua chạy dài, Vẩy róc vây tàn bay tung trời đất.
Tìm đâu thấy Đông Quách đứng, Viên An nằm, Tôn Khang ngồi đọc sách;
Càng không thấy thuyền Tử Du, tiền Vương Cung.


Tô Vũ nuốt lông chiên.


Chỉ thấy xóm thôn trắng như bạc, Núi sông muôn dặm ngọc long lanh. Tuyết đẹp liễu phơi bông.
Mái nhà hoa lê trắng.


Bên cầu ông chài khoác tơi đứng. Lão nông dưới mái sưởi cành khô, Khách lạ mua rượu khó dò,
Người hầu tìm mơ không đặng. Phần phật tả tơi cánh bướm trắng,


Ào ào rối nát áo lông ngan. Cuồn cuộn theo gió rít bay tràn, Lớp lớp tuyết rơi mở đường sá. Từng trận gió hàn thêm buồn bã, Từng cơn khí lạnh lật màn the. Mùa tốt điềm lành trời giáng kia.
Đâu phải việc hay mừng dân chúng.




Trận mua tuyết lả tả tơi bời chẳng khác nào bông bay cườm
dát. Bốn thầy trò lặng ngắm hồi lâu, bỗng thấy cụ Trần sai hai người ở nhỏ quét tuyết dọn đường, và hai người bưng nước nóng cho thầy trò rửa mặt. Lát sau, lại thấy bung đến trà nóng, bánh sữa và cả chiếc hỏa lò. Mọi người lên cả nhà trên, thầy trò ngồi xuống cùng trò chuyện. Tam Tạng hỏi:


- Thưa cụ, xứ mình đây thời tiết không phân biệt xuân hạ thu đông nhỉ?


Cụ Trần cười, đáp:


- Nơi đây hẻo lánh, nên phong tục nhân vật không được như
bên thượng quốc. Còn các việc cày cấy chăn nuôi, cũng trời đất ấy, thì có lý nào lại không chia bốn mùa.


Tam Tạng lại hỏi:


- Đã chia bốn mùa, tại sao bây giờ lại có trận tuyết lớn, rét
lạnh ghê gớm?


Cụ Trần đáp:


- Bây giờ tuy là tháng bảy, nhưng hôm qua đã sang tiết hạch
lộ, thế là vào tiết tháng tám rồi. Ở xứ chúng tôi đây, thường tháng tám đã có sương tuyết.


Tam Tạng nói:


- Thật khác bên phương Đông chúng tôi xa lắm. Nước chúng
tôi thì tới mùa đông tuyết mới rơi.


Đang trò chuyện, lại thấy chú nhỏ dọn bàn mời ăn cháo. Ăn cháo xong, tuyết rơi càng dày hơn hồi sáng. Trong khoảnh khắc, đất bằng tuyết đã phủ dày tới hai thước. Tam Tạng nóng lòng sa nước mắt. Cụ Trần nói:


- Ngài cứ yên tâm, chớ thấy tuyết lớn mà lo phiền. Lương
[234]
thực, nhà chúng tôi đây còn đến vài ngàn thạch
dưỡng mấy ngài đến nửa đời người.



, đủ để cung
Tam Tạng hỏi:


- Cụ vẫn chưa biết cái khổ của bần tăng đâu. Năm xưa tôi đội
ơn thánh thượng ban xuống chiếu chỉ sang phương Tây. Nhà vua bày xa giá thân tiễn tôi ra cửa thành, lại tự tay nâng chén rượu tiễn biệt mời tôi và hỏi: “Bao giờ trở về?”. Bần tăng đâu có biết núi non hiểm trở, bèn thuận miệng thưa rằng: “Chỉ trong vòng ba năm là mang kinh về”. Từ khi ra đi tới nay đã bảy tám năm
trời qua mà vẫn chưa được gặp Phật, sợ sai mất hẹn vua, lại thêm lo lắng về yêu ma hung hãn, cho nên trong lòng bồn chồn. Hôm nay có duyên được nghỉ trọ ở nhà ta đây, đêm qua mấy đồ đệ của tôi cũng gọi là đã có chút ơn nhỏ báo đáp rồi, giờ đây thực tình chỉ mong tìm được một chiếc thuyền qua sông, không ngờ tuyết rơi to quá, đường sá mịt mờ, chẳng biết đến bao giờ thành công trở về cố hương được.


Cụ Trần nói:


- Ngài cứ yên tâm nán lại vài hôm nữa, qua những ngày tuyết
to này, đến ngày trời lạnh băng tan, tôi sẽ không ngại phí tổn, đưa các ngài qua sông.


Một lát, người ở mời đi ăn cơm sáng. Ăn xong, trò chuyện hồi lâu, lại mời ăn bữa trưa. Tam Tạng thấy thức ăn thịnh soạn, trong lòng áy náy, nói:


- Nhờ ơn cụ cho ở lại, xin cứ cho dùng bữa thường thôi ạ. Cụ Trần nói:
- Thưa ngài, đội ơn các ngài tế thay cứu mạng hai cháu, thì dù
ngày nào cũng đặt tiệc khoản đãi, vẫn gọi là chưa báo đáp trọn.


Sau rồi tuyết lớn cũng tạnh, đã có người đi lại. Cụ Trần thấy Tam Tạng không được vui, lại sai quét dọn vườn hoa, đốt thêm củi sưởi vào chậu lớn, mời thầy trò vào trong động tuyết ngắm cảnh cho đỡ buồn.


Chú ngốc cười, nói:
- Cụ già thật vớ vẩn! Tháng hai, tháng ba mùa xuân mới dạo vườn thưởng hoa, chứ tuyết rơi giá rét thế này thưởng ngoạn cái gì?


Hành Giả nói:


- Chú ngốc chẳng biết gì cả! Cảnh tuyết mới ở tính tự nhiên.
Một là đi thưởng ngoạn, hai là để sư phụ thư thái một chút.


Cụ Trần nói:


- Chính thế! Chính thế!


Đoạn, mời mọi người vào vườn hoa. Chỉ thấy:




Đang là lúc tam thu. Cảnh vật như tháng chạp. Tùng xanh kết nhụy ngọc. Liễu yếu rủ hoa cườm.
Rêu xanh phấn rắc trắng trước thềm, Trúc biếc nảy mầm bên song cửa. Đầu non đá lạ,
Cá lượn trong ao…
Đầu non đá lạ, đỉnh non nhọn hoắt hàng măng ngọc; Cá lượn trong ao, làn nước trong veo mảnh kính băng. Bên bờ khoe sắc thắm phù dung,
Vách núi rủ cành non dâm bụt


Mơn mởn hải đường thu tuyệt đẹp. Thanh tân cành mai tháng chạp rung rinh.
Đình Mẫu Đơn, đình Hải Lựu, đình Đan Quế, tuyết rơi trắng long lanh,


Lầu Phong Hoài, lầu Đãi Khách, lầu khiển hứng, cánh bướm bay dìu dặt.


Bờ rào cúc vàng thơm ngát, Mấy cây đan phượng trắng hồng…
Còn bao nhàn đinh do lạnh chẳng tới thăm. Dành đứng ngắm nhìn động tuyết như băng phủ. Bên kia đặt chậu sươit chân đồng đầu thú,
Lửa đang lên rực rỡ đỏ hồng,


Hai bên kê mấy bộ trường kỷ sơn son,
Phủ da bò êm đềm ấm áp.




Trên bốn vách lại thấy treo mấy bức tranh cổ của những danh
họa. Đó là các bức tranh:

































Nói sao hết:

Bảy người hiền qua cửa. Sông lạnh bác chài câu.
Tô Vũ nuốt lông cừu. Núi non tuyết trắng xóa.
Bẻ một cành mai tặng sứ giả, Rừng quỳnh cây ngọc tả hàn văn.








Nhà cạnh thủy đình mua cá rẻ, Tuyết mờ đường núi rượu khôn mua. Rung đùi ngồi khểnh bao thi vị,
Hà tất phải tìm chốn đế đô.




Mọi người ngắm nghía giờ lâu, rồi vào ngồi chơi trong động
tuyết, trò chuyện việc đi lấy kinh cùng với mấy ông già hàng xóm. Cạn chén trà hương, cụ Trần hỏi:


- Các ngài uống ít rượu nhé? Tam Tạng thưa:
- Bần tăng không uống, mấy đồ đệ thì uống qua quýt được
mấy chén rượu ngang.


Cụ Trần mừng rỡ, sai:


- Mang hoa quả và rượu nóng mời các ngài uống cho ấm
bụng.


Mấy chú nhỏ bèn bày cốc thứ lên bàn, quanh lò sưởi. Mọi người cùng hai cụ già hàng xóm mỗi người uống vài chén rồi cho thu dọn.


Một lát, trời đã tối sẫm, cụ Trần lại mời thầy trò về nhà trên ăn cơm tối. Bỗng nghe thấy có tiếng người ngoài phố nói:


- Trời lạnh quá đến nỗi nước sông Thông Thiên đông cứng lại rồi.


Tam Tạng nghe thấy thế, nói:


- Ngộ Không này, nước sông đóng băng, ta tính sao đây? Cụ Trần nói:
- Thời tiết bất chợt trở lạnh, chắc chỉ những chỗ nông gần bờ
đóng băng thôi. Những người đi đường nói:


- Tám trăm dặm đều đóng băng phẳng lỳ như mặt gương. Có người đi lại ngoài sông kia kìa!


Tam Tạng nghe nói có người đi lại ngoài sông, toan đi xem. Cụ Trần nói:


- Xin ngài chớ vội. Hôm nay tối rồi, để sáng mai.


Đoạn từ biệt mấy ông hàng xóm. Ăn cơm tối xong, thầy trò
nghỉ luôn tại phòng.


Sớm hôm sau, Bát Giới trở dậy nói:


- Sư huynh ơi, đêm qua lạnh quá, khéo cả dòng sông đông
cứng lại mất!


Tam Tạng ra trước cửa, ngẩng mặt lên trời lạy, khấn:


- Kính xin các vị đại thần hộ giá, đệ tử một niềm sang Tây,
lòng thành bái Phật, trải bao sông núi, không lời oán thán. Hôm nay tới đây được hoàng thiên phù hộ, làm sông đóng băng, đệ tử chân thành cảm tạ! Khi nào lấy kinh trở về, xin tâu với vua Đường hết lòng báo đáp.


Khấn xong, bèn sai Ngộ Tĩnh đỡ lên ngựa, để nhân lúc nước sông đóng băng vượt qua. Cụ Trần nói:


- Ngài đừng vội, đợi mấy hôm nữa cho tuyết chảy băng tan, tôi sẽ tìm thuyền đưa ngài sang.


Sa Tăng nói:


- Đi ngay cũng không phải, ở lại cũng không nên, lời nói
không có bằng cứ, trăm nghe không bằng một thấy. Con đỡ sư phụ lên ngựa, mời sư phụ đích thân đến tận nơi xem sao.


Cụ Trần nói:


- Phải đấy. Bèn gọi:
- Mấy đứa nhỏ đâu, dắt sáu con ngựa ra đây, và đừng có dắt
con ngựa của ngài Đường Tăng.


Sáu người đầy tớ cùng đi theo. Cả đoàn người tới thẳng bờ sông xem xét.


Chỉ thấy:







Tuyết ngập cao như núi, Mây tan trời xanh trong.
Rét ngưng hiên tái nghìn non quạnh, Băng đóng sông hồ mặt trắng bong.
Gió bấc thổi căn cắt, Khí lạnh bốc hơi xông.


Cá ao núp bờ cỏ, Chim én chụi tổ nồng.
Ngoài đường chinh phu run cầm cập, Bác chài đầu bến buốt thấu lòng. Bụng rắn nứt,
Chân chim rời,


Quả thật núi non băng dầy nghìn thước.


Muôn khe như bạc nổi, Trăm suối tựa cườm trong.
Đích thị tằm lạnh cứng phương đông, Quả nhiên đất bắc có hang chuột. Vương Tường nằm, Quang Vũ vượt, Một đêm nước cứng dưới chân cầu. Tầng tầng băng đóng đáy ao sâu, Lớp lớp băng dầy nơi vực thẳm.
Thông Thiên mênh mông êm sóng lắm,


Đóng băng trắng xóa tựa đường đi. 




Tam Tạng cùng mọi người đến bên bờ sông dừng ngựa quan
sát, thấy đúng là trên sông có người đi lại, bèn hỏi:


- Thưa cụ, mấy người đi lại trên băng kia, họ đi đâu vậy? Cụ Trần thưa:
- Bên kia sông là Tây Lương nữ quốc. Mấy người kia đều là
thương nhân cả. Thứ hàng bên chúng tôi giá trăm đồng, sang đến bên kia đáng giá vạn đồng. Có thứ bên kia chỉ độ trăm đồng, sang tới bên này cũng đáng giá vạn đồng. Vốn ít lời nhiều. cho nên họ ham lắm, chẳng kể gì đến sống chết. Thường thường họ cứ  dăm  bảy  người  một  thuyền;  hoặc  mười  lăm  người  một thuyền, lênh đênh vượt sang bên kia, năm nay nước sông đóng băng, họ cũng cứ liều mạng đi bộ.


Tam Tạng nói:


- Việc đời chỉ có danh lợi là tối trọng. Bọn họ chỉ vì lợi mà
liều chết quên sống. Thầy trò tôi vâng mệnh vua giữ vẹn lòng trung cũng là vì danh. So với họ cũng chẳng khác nhau mấy tý.


Đoạn bảo:


- Ngộ Không, về ngay nhà cụ Trần, thu xếp hành lý, dắt ngựa,
nhân  lúc  băng  đóng  phải  nhanh  chóng  vượt  sông  để  sang phương tây.


Hành Giả cười tủm tỉm vâng lời.


Sa Tăng nói:


- Sư phụ thường có câu: “Nghìn ngày ăn hết nghìn thúng
gạo”. Nay đã nhờ nhà cụ Trần đây, thì hãy nán lại thêm mấy ngày nữa, đợi trời tạnh băng tan, tìm đò qua sông. Vội vã không hay đâu!


Tam Tạng nói:


- Ngộ Tĩnh, con ăn nói sao mà ngu thế! Nếu là tháng giêng,
tháng hai, một ngày một ấm lên, thì bảo đợi băng tan. Chứ bây giờ đang tiết tháng tám, một ngày một lạnh, đợi bao giờ cho băng tan được. Không khéo lại lỡ cả hành trình nửa năm nay ấy à?


Bát Giới xuống ngựa nói:


- Thôi mọi người đừng bàn tán hão nữa, để lão Trư này thử
xem băng dầy mỏng ra sao.


Hành Giả nói:


- Chú ngốc này, hôm trước thử nước sâu còn có thể lấy đá
ném xuống. Hôm nay băng đóng cứng lại, thì thử cách gì?


Bát Giới nói:


- Sư huynh không biết. Tôi sẽ bổ một phát đinh ba xuống.
Nếu vỡ ra là băng mỏng, không đi được. Nếu không vỡ là băng dày, thì có gì mà không đi nổi?


Tam Tạng nói:


- Phải đấy! Con nói có lý lắm!


Chú ngốc xắn tay áo, rảo bước đi xuống bờ sông, hai tay vung
đinh ba, lấy hết sức bình sinh bổ một phát, chỉ nghe kêu đánh “cốp” một tiếng bắn tung tóe vài mảnh nhỏ trắng xóa. Bát Giới cánh tay đau ê ẩm, bèn cười nói:


- Đi được! Đi được! Đóng cứng đến tận đáy sông rồi.


Tam Tạng nghe nói, vô cùng mừng rỡ, cùng mọi người trở về
nhà cụ Trần, bảo thu xếp hành lý lên đường. Hai cụ Trần cố giữ thế nào cũng không được, đành sửa soạn ít lương khô, bánh nướng tiễn chân thầy trò Đường Tăng. Đoạn tất cả mọi người trong nhà dập đầu lạy tạ. Cụ Trần lại sai bưng ra một mâm bạc vụn, quỳ xuống trước mặt thưa:


- Đội ơn sâu nặng trưởng lão cứu sống các cháu, gọi là có chút bạc vụn làm bữa dọc đường, tỏ lòng tôn kính.


Tam Tạng xua tay lắc đầu, nhất định không nhận, nói:


- Bần Tăng là người xuất gia, dùng tiền bạc làm gì. Có thì dọc
đường cũng chẳng dám lấy ra, chỉ xin cơm chay qua ngày là đủ. Xin nhận một ít lương khô kia là được rồi.


Hai cụ già cứ nằn nì mãi, Hành Giả bèn nhón một miếng nhỏ, nặng chừng bốn năm đồng cân, đưa cho Đường Tăng nói:


- Sư phụ cũng nên cầm một chút làm tiền bố thí, để khỏi phụ lòng hai cụ.


Đoạn hai bên chào từ biệt. Mọi người lại tiễn thầy trò tới tận
bờ sông. Con ngựa trượt chân, suýt nữa hất Tam Tạng ngã xuống. Sa Tăng nói:


- Sư phụ ơi, khó đi lắm! Bát Giới nói:
- Khoan đã, hỏi cụ Trần xem có rơm xin một ít để tôi có việc. Hành Giả hỏi:
- Dùng rơm làm gì? Bát Giới đáp:
- Sư huynh thì biết quái gì! Rơm quấn vào vó ngựa thì mới
không trơn, sư phụ mới khỏi ngã.


Cụ Trần đứng trên bờ nghe nói vậy, vội vàng sai người về ôm ra một bó rơm, mời Đường Tăng lên bờ xuống ngựa. Bát Giới lấy rơm quấn vào chân ngựa. Xong xuôi thầy trò bước trên băng vượt sông.


Từ biệt cụ Trần rời khỏi bờ sông, đi được chừng ba bốn dặm, Bát Giới đưa cây gậy tích trượng chín vòng cho Đường Tăng, nói:


- Sư phụ cứ cầm ngang cây gậy này khi ngồi trên mình ngựa nhé?


Hành Giả nói:


- Chú ngốc gian trá! Cây gậy để chú gánh chứ tại sao chú lại
bắt sư phụ cầm?


Bát Giới nói:


- Sư huynh chưa đi trên băng bao giờ nên chẳng hiểu gì cả.
Phàm đi trên băng, tất có những chỗ mắt thủng. Giẫm phải những chỗ ấy, người bị lọt thỏm xuống đáy, khác nào cái nồi đậy chặt vung lại, làm sao chui lên được nữa. Vậy phải có cái giá đỡ như thế mới xong.


Hành Giả cười thầm, nói:


- Chú ngốc chắc là người đi quen trên băng lâu năm!


Quả nhiên mọi người làm theo lời Bát Giới, Tạm Tạng cầm
ngang cây gậy tích trượng Hành Giả cầm ngang cây gậy sắt, Sa Tăng cầm ngang cây bảo trượng hàng yêu, Bát Giới gánh hành lý, đặt ngang cây đinh ba. Bốn thầy trò vững lòng tiến bước.


Đi tới lúc trời xẩm tối, mọi người ăn một chút lương khô, rồi không dám dừng lâu, nhân lúc ánh trăng bàng bạc soi xuống mặt băng lấp lánh trắng mang mang, vội vã bước đi, ngựa không dừng vó. Mấy thầy trò chẳng được chợp mắt, đi suốt đêm. Sáng ra, ăn một chút lương khô, lại nhằm hướng tây thẳng tiến.


Đang đi, bỗng nghe thấy những tiếng ầm ầm vang lên từ đáy sông, làm con ngựa bạch suýt nữa ngã lăn ra. Tam Tạng cả sợ, hỏi:


- Đồ đệ ơi, tiếng gì ầm ầm vậy? Bát Giới thưa:
- Sông này băng đóng rất chắc. Có lẽ là tiếng đất trụt hoặc là
tiếng nước từ giữa lòng cho đến tận đấy sông chưa đông quánh lại đấy.


Tam Tạng nghe nói vừa mừng vừa sợ, thúc ngựa bước lên.


Lại nói chuyện yêu quái từ lức quay về thủy phủ, dẫn bọn yêu
tinh rình dưới đáy băng. Đợi khá lâu, bỗng nghe thấy tiếng vó ngựa, yêu quái bèn trổ phép thần thông, khiến cho mặt băng tan ra ầm ầm. Đại Thánh sợ quá, nhảy vọt lên không trung. Con ngựa bạch và ba người giây lát chìm nghỉm xuống đáy.





Yêu quái trói nghiến Tam Tạng, dẫn bọn tiểu yêu về thủy phủ,
lớn tiếng gọi:


- Em Quyết đâu?


Quyết Bà ra cửa đón cúi chào, nói:


- Thưa đại vương, không dám! Không dám! Yêu quái nói:




















[235]
- Hiền muội sao lại nói thế? “Quân tử nhất ngôn”

  chứ.
Ta đã nghe theo kế của hiền muội, bắt được Đường Tăng. Vậy ta cùng hiền muội kết nghĩa anh em. Hôm nay diệu kế đã thành, bắt được Đường Tăng lẽ đâu lại nuốt lời nói trước?


Đoạn ra lệnh:


- Tụi nhỏ, khiêng bàn ra, mài dao sắc, mổ bụng moi gan, lột
da xẻo thịt lão hòa thượng! Lại cho tấu nhạc, ta và hiền muội cùng xơi thịt hắn để sống lâu mãi mãi.


Quyết Bà nói:


- Thưa đại vương, tạm khoan ăn thịt vội, ngại lũ đồ đệ của
hắn tìm đến quấy rối. Cố đợi dăm ngày, nếu bọn chúng không tìm đến, bấy giờ hãy làm thịt mời đại vương ngồi trên, mọi người trong quyến thuộc ngồi xung quanh, gảy đàn múa hát, dâng lên đại vương, thung dung thụ hưởng, lại chẳng tốt hơn sao?


Yêu quái nghe lời, giấu Đường Tăng nơi hậu cung, bỏ vào trong chiếc hòm đá dài sáu thước, đậy nắp kín. Chuyện không nói nữa.


Lại nói chuyện Bát Giới, Sa Tăng mò được hành lý, đặt lên mình ngựa, rẽ nước lật sóng thành đường chui ra khỏi làn nước. Hành Giả đứng trên tầng không trông thấy, bèn hỏi:


- Sư phụ đâu? Bát Giới đáp:
- Sư phụ họ “Trần”, tên “Tới Đáy”, chẳng tìm thấy đâu cả.
Tạm lên bờ đã rồi sẽ liệu.


Nguyên Bát Giới vốn là Thiên Bồng nguyên soái giáng trần, xưa kia chỉ huy tám vạn thủy binh. Sa hòa thượng xuất thân từ sông Lưu Sa, ngựa bạch vốn là cháu của Long vương Tây hải, nên họ quen thuộc sông nước. Đại Thánh đứng trên không chỉ dẫn. Lát sau, họ về cả bờ Đông, chải chuốt con ngựa. Vắt khô quần áo. Đại Thánh từ tầng mây hạ xuống, rồi cùng mọi người quay lại Trần Gia Trang.


Mọi người kíp về báo với hai cụ già:


- Bốn vị đi lấy kinh, nay chỉ có ba vị quay về.


Anh em cụ Trần vội vàng ra ngoải cổng đón, quả nhiên thầy
ba người quần áo còn ướt, bèn nói:


- Các ngài ơi, chúng tôi cố sức giữ các ngài nán lại, các ngài chẳng nghe, nên mới đến nỗi này. À mà tại sao không thấy ngài
Tam Tạng?


Bát Giới nói:


- Không còn gọi Tam Tạng mà nên gọi là “Trần Tới Đáy”. Hai cụ già sa nước mắt, nói:
- Đáng thương quá! Đáng thương quá! Chúng tôi đã nói đợi
cho băng tan sẽ tìm đò đưa sang, ngài ấy cứ một mực không nghe đến nỗi mất mạng!


Hành Giả nói:


- Các cụ ơi, chớ có lo buồn thay cho cổ nhân. Sư phụ tôi chưa
chết được đâu, sống còn lâu. Lão Tôn này biết rồi, đích thị thằng Linh Cảm đại vương bày kế bắt mất đấy thôi. Các cụ yên lòng, giặt hộ quần áo, phơi hộ điệp văn, cho ngựa ăn cỏ, để anh em chúng tôi tìm diệt yêu quái ấy cứu sư phụ, nhổ cỏ phải nhổ tận rễ, trừ họa cho thôn ta, may ta mới bình yên lâu dài được.


Cụ Trần nghe xong, trong lòng mừng rỡ, sai dọn cơm chay.


Ba anh em ăn no xong, giao ngựa, hành lý cho nhà cụ Trần
giữ hộ, rồi ai nấy chuẩn bị khí giới, đi thẳng ra bờ sông tìm sư phụ bắt yêu quái. Thật là:



Nhầm giẫm mặt băng nguy tính mạng


Dại đan thoát lậu khó chu toàn
Cuối cùng làm thế nào cứu được sư phụ, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ BỐN MƯƠI CHÍN




Tam Tạng gặp nạn chìm đáy sông, Quan Âm trừ tai hiện làn cá


Lại nói chuyện Đại Thánh cùng Bát Giới, Sa Tăng từ biệt cụ
Trần tới bờ sông.


Hành Giả nói:


- Hai chú thử bàn xem ai xuống trước nào? Bát giới nói:


- Sư huynh ơi, hai chúng em tài nghệ chẳng ra làm sao, hay là
sư huynh xuống trước xem sao.

Hành Giả nói:


- Chẳng giấu gì chú, nếu trong núi có yêu tinh thì chẳng để
hai chú phải phí sức, nhưng gặp việc dưới nước thì tôi chịu. Ví bằng phải xuống biển qua sông thì tôi phải bắt quyết tị thủy hoặc là phải biến thành loài tôm cá gì đấy mới đi được. Mà bắt quyết như vậy thì khó múa gậy sắt, khó vận thần thông không đánh nổi yêu quái đâu. Tôi vẫn biết hai chú là người thông thạo sông nước từ lâu, nên mói cần hai chú xuống xem sao.

Sa Tăng nói:


- Sư huynh ơi, em đi được, nhưng không biết dưới đáy ra sao.
Hay chúng ta cùng đi. Sư huynh biến ra loài gì đó, em sẽ cõng sư huynh, rẽ nước tìm tới sào huyệt yêu quái, rồi sư huynh vào trước nghe ngóng. Nếu sư phụ chưa bị làm sao, vẫn còn trong đó, chúng ta sẽ cố sức đánh. Nếu không phải do yêu quái hóa phép, sư phụ bị chết đuối, hoặc bị yêu quái ăn thịt rồi, thì chúng ta khỏi phải khổ công cứu vớt, sớm tìm đường kiếm nẻo. Sư huynh thấy thế nào?

Hành Giả nói:


- Chú nói phải lắm! Ai cõng tôi nào? Chú ngốc mừng thầm nghĩ:


- Con khỉ chơi xỏ mình mấy vố. Phen này hắn không quen
nước, lão Trư này cõng sẽ chơi lại hắn một vố mới được!

Chú ngốc bèn cười hí hí, nói:


- Sư huynh ơi, để em cõng cho.

Hành Giả biết ý, bèn tương kế tựu kế nói:


- Ừ cũng được. Chú còn khỏe hơn Ngộ Tĩnh đấy.

Bát Giới liền cõng Hành Giả. Sa Tăng rẽ nước mở đường, ba
anh em cùng lặn xuống sông Thông Thiên. Ba người nhằm hướng đáy nước, đi được khoảng một trăm mười dặm, chú ngốc bèn định chơi xỏ Hành Giả. Biết ý, Hành Giả bèn nhổ một sợi lông biến thành Hành Giả ngồi trên lưng Bát Giới, còn chân thân biến thành một con rận to bám chặt vào mang tai Bát Giới. Đang đi, Bát Gới trượt chân ngã đánh uỵch rồi thừa cơ quật Hành Giả một phát bắn về đằng trước. Hành Giả vốn do sợi lông biến thành, bay vèo đi mất tăm mất dạng.


Sa Tăng nói:


- Anh hai ơi, anh giở trò gì thế? Không đi cho cẩn thận, bị ngã
lăn ra bùn, thế là xong, bắn anh cả đi đằng nào mất rồi?

Bát Giới nói:


- Con khỉ ấy không chịu được ngã. Vừa mới ngã đã ngoẻo
đâu rồi. Chú ạ, mặc kệ hắn chết hay sống, tôi với chú ta đi tìm sư phụ thôi.

Sa Tăng nói:


- Không được. Phải tìm bằng được anh ấy về. Tuy không
quen sông nước, nhưng anh ấy tài giỏi hơn chúng ta. Nếu không tìm thấy anh ấy, tôi sẽ không đi với anh đâu.

Hành Giả bám bên mang tai Bát Giới, chịu không nổi, quát lớn:


- Ngộ Tĩnh, lão Tôn ở đây!

Sa Tăng nghe tiếng, cười nói:


- Thôi, chú ngốc chết rồi! Tại sao anh dám chơi xỏ anh ấy.
Bây giờ nghe tiếng mà chẳng thấy người biết làm sao đây?

Bát Giới sợ quá, quỳ xuống bùn dập đầu nói:


- Sư huynh ơi, đúng là em không phải. Chờ khi nào cứu được
sư phụ, lên bờ, em sẽ tạ tội. Sư huynh nói ở đâu làm em sợ chết khiếp! Xin mời sư huynh hiện lại nguyên hình, em sẽ cõng sư huynh, từ rầy không dám gây sự nữa đâu.

Hành Giả nói:


- Nếu chú cõng tôi, tôi sẽ không trêu chú nữa. Chúng ta đi mau lên, mau lên!

Chú ngốc lúng ta lúng túng, tạ tội luôn mồm, rồi bò dậy tiếp tục cùng đi với Sa Tăng.


Đi được khoảng một trăm dặm, ba người ngẩng đầu nhìn, bỗng thấy một tòa lâu đài, bên trên có bốn chữ đại tự “Tòa nhà Thủy Nguyên”. Sa Tăng nói:


- Chắc đây là nơi ở của yêu quái. Bọn em không biết hư thực, làm sao đến cửa khiêu chiến được.

Hành Giả nói:


- Ngộ Tĩnh, bên trong bên ngoài tầng cửa ấy có nước không? Sa Tăng đáp:


- Không có. Hành Giả nói:


- Nếu không có nước, các chú hãy ẩn náu ở hai bên, để Lão
Tôn đi nghe ngóng xem sao.

Đoạn Đại Thánh bò ra khỏi mang tai Bát Giới, lắc mình một cái, biến thành một con tôm cái chân dài nhảy phóc dăm cái đã vào tới trong cửa, giương mắt quan sát, thấy rõ yêu quái ngồi ở trên, các loài thủy tộc đứng thành hàng ở hai bên, mụ Quyết Bà mặc áo hoa lốm đốm ngồi ngay bên cạnh. Tất cả đang bàn chuyện ăn thịt Đường Tăng.


Hành Giả để ý hai bên không thấy Đường Tăng đâu. Bỗng thấy một tôm bà bụng phệ đi thẳng tới hành lang phía tây rồi
đứng lại. Hành Giả bèn nhảy tới trước mặt cất tiếng:


- Thưa mẹ, đại vương đang cùng mọi người bàn chuyện ăn thịt Đường Tăng. Vậy Đường Tăng đang ở đâu ạ?

Tôm bà nói:


- Đường Tăng bị đại vương làm mưa tuyết đóng băng, hôm
qua bị bắt giải về nhốt trong chiếc hòm đá để ở hậu cung, đợi ngày mai, nếu lũ đồ đệ không tới làm rầy rà thì sẽ cho tấu nhạc ăn thịt.

Hành Giả nghe nói, vờ vịt một lúc, rồi tìm đến thẳng hậu cung xem xét, thấy quả có một cái hòm đá, tựa như cái cũi nuôi lợn, và cũng giống như chiếc quan tài đá, dài chừng sáu thước, bèn nằm phục ở trên nghe ngóng, thấy tiếng Tam Tạng khóc rưng rức bên trong. Hành Giả vẫn lẳng lặng nghiêng tai lắng nghe tiếng sư phụ đau xót nghiến răng, hừ một tiếng than thở:



Tự giận so Giang Lưu oan trái, Nạn đắm chìm mắc phải liên miên, Đẻ ra đã bị sông dìm,
Sang Tây bái Phật bị chìm vực sâu Trước Hắc Thủy sông sâu gặp nạn Nay băng tan mệnh giáng suối vàng Đồ đệ ơi, gặp tai ương
Bao giờ thoát khỏi tìm đường lấy kinh?




Hành Giả không nhịn được, cất tiếng gọi:


- Sư phụ ơi, chớ oán hận! Kinh Thủy tài có câu “Thổ là mẹ
của ngũ hành, thủy là nguồn của ngũ hành. Không có thổ không sinh, không có thủy không lớn”. Có Lão Tôn đến đây!

Tam Tạng nghe tiếng nói:


- Đồ đệ ơi, cứu ta với! Hành Giả nói:


- Sư phụ cư yên lòng, chờ chúng con bắt được yêu quái, tự
khắc sư phụ thoát nạn.

Tam Tạng nói:


- Mau lên nhé! Chậm một ngày ta buồn khổ chết mất! Hành Giả nói:


- Không việc gì! Không việc gì! Con đi đây!

Bèn vội vàng quay đầu nhảy ra ngoài. Tới ngoài cửa, Hành
Giả hiện nguyên hình, cất tiếng gọi:


- Bát Giới!

Chú ngốc và Sa Tăng đến gần hỏi:


- Sư huynh ơi, thế nào? Hành Giả đáp:
- Đúng là yêu quái lừa bắt sư phụ. Sư phụ chưa việc gì, chỉ bị yêu quái nhốt vào trong hòm đá. Hai chú mau đến khiêu chiến. Tôi tạm ra khỏi mặt nước. Nếu hai chú bắt được nó thì thôi. Bằng không cứ giả thua, nhử nó lên bờ để tôi đánh.

Sa Tăng nói:


- Sư huynh cứ đi lên trước đi, để hai chúng em đi xem mặt
mũi nó ra sao.

Hành Giả bắt quyết “tị thủy” chui ra khỏi làn nước, đứng đợi ở trên bờ. Chuyện không nói nữa.

Trư Bát Giới hung hãn, xông đến trước cửa, lớn tiếng quát:


- Đồ yêu quái khốn kiếp, mang trả sư phụ ta ngay! Bọn tiểu yêu bên trong cửa sợ quá, vội vàng vào báo:


- Thưa đại vương, ngoài cửa có người đòi sư phụ! Yêu quái nói:


- Đó tất là bọn hòa thượng khốn kiếp ấy đến. Đoạn ra lệnh:


- Mau mang binh khí ra cho ta!

Bọn tiểu yêu vội vàng mang ra. Yêu quái nai nịt gọn gàng, tay
cầm binh khí, sai mở cửa bước ra. Bát Giới, Sa Tăng đứng ở hai bên thấy yêu quái ăn mặc trông thật hùng dũng:



Trên đầu lấp lánh kim khôi,


Mình khoác giáp đỏ ráng trời đẹp sao


Ngang lưng đai biếc ngọc châu, Chân đi hài nhỏ vàng au đậm đà.
Mặt to, mũi nhọn dọc dừa,


Trán cao nở rộng nguy nga như rồng


Mắt tròn sáng quắc dữ hung, Hàm răng lộ xỉ nhọn vòng đến kinh. Tóc ngắn xoăn tít rối tinh,
Râu dài quặp lại cứng vành bên môi.


Miệng ngậm một ngọn rong tươi,


Cây chùy chín ngạnh sáng ngời cầm tay.


Ầm ầm cửa mở ra ngay,


Thét vang như sấm kinh bầy bọ sâu.


Hình thù lạ lẫm khác mầu,


Đại vương Linh Cảm bấy lâu tiếng đồn!




Yêu quái bước ra ngoài cửa, một bọn hơn trăm tiểu yêu theo
sau, con nào con nấy hoa thương múa kiếm, đứng thành hai hàng. Yêu quái nói với Bát Giới:

- Nhà ngươi là hòa thượng chùa nào? Tại sao tới đây làm ầm
ĩ?

Bát Giới quát:


- Đồ quái vật khốn kiếp bị ta đánh thoát chết kia. Đêm trước
nhà ngươi đã giáp mặt với ta. Hôm nay lại còn vờ vĩnh hỏi gì? Ta  chính  là  đồ  đệ  của  vị  thánh  tăng  nước  Đại  Đường  bên phương Đông, sang phương Tây lễ Phật cầu kinh. Nhà ngươi giở trò bịp bợm, mạo xưng là Linh Cảm đại vương, chuyên ăn thịt trẻ con trai gái ở Trần Gia Trang. Ta vốn là Nhất Xứng Kim, con gái cụ Trần Thanh đây, nhà ngươi không nhận ra ta à?

Yêu quái nói:


- Đồ hòa thượng ngu xuẩn kia, nhà ngươi biến làm Nhất
Xứng Kim đã là phạm tội mạo danh rồi. Ta đã không ăn thịt được nhà ngươi, lại bị đánh bị thương ở cánh tay, nhường nhịn nhà ngươi đến thế, vậy tại sao còn đến cửa nhà ta?

Bát Giới nói:


- Nhà ngươi đã nhường ta, tại sao còn nổi gió lạnh làm mưa
tuyết, đóng băng cứng mặt sông để hại sư phụ ta? Hãy mau mau trả sư phụ cho ta thì mọi sự tốt lành. Nếu hé răng nói nửa lời “không” thì hãy coi chừng cây đinh ba trong tay ta đây. Ta quyết không tha đâu!

Yêu quái nghe xong, tủm tỉm cười nhạt, nói:


- Lão hòa thượng lưỡi dài này chỉ được cái khua môi múa
mép. Chính ta làm trời lạnh tuyết rơi, nước sông đóng băng, lập mưu bắt sư phụ nhà ngươi đấy. Bây giờ nhà ngươi đến đây làm ầm ĩ, gây sự hạch sách phỏng? Chỉ sợ lần này không giống lần
trước đâu. Hôm ấy ta đi dự hội, không mang theo binh khí, lỡ bị nhà ngươi đánh trúng. Hôm nay thì đừng có chạy nhé, ta với nhà ngươi giao chiến ba hiệp, ngươi thắng được ta, thì ta trả sư phụ cho. Bằng không, ta ăn thịt nốt cả nhà ngươi!

Bát Giới nói:


- Con ngoan của bố ơi, giữ đúng lời ấy nhé! Nhìn kỹ cây đinh
ba này!

Yêu quái hỏi:


- À, té ra nhà ngươi là hạng hòa thượng nữa đời mới xuất gia
hả?

Bát Giới đáp:


- Con trai của bố ơi, con thực cũng có chút linh cảm đấy. Tại
sao con biết bố đây là hòa thượng nửa đời mới xuất gia?

Yêu quái nói:


- Nhà ngươi biết dùng đinh ba, có lẽ trước kia cuốc vườn thuê
cho người ta, nên bây giờ mới vác đinh ba đi theo chứ gì?

Bát Giới nói:


- Con ơi, cây đinh ba của bố đây, đâu có phải thứ đinh ba xới
đất! Con xem đây:









Răng to như thể vuốt rồng,
Tựa hình rắn lượn bên trong dát vàng.


Gặp đối thủ nổi gió hàn,
Gặp tay địch thủ sinh làn lửa thiêu.


Giúp thánh tăng trừ quái yêu Đường sang Tây Trúc diệt nhiều ác tinh. Múa lên nhật nguyệt ẩn hình.
Phát ra ráng đẹp phân minh tỏ tường.


Bổ non Thái nghìn hổ rung,


Lật nghiêng biển lớn rồng đàn thất kinh.


Dù ngươi thủ đoạn oai linh, Đinh ba bổ, chín lỗ tanh máu đào!


Yêu quái vung chùy đồng nện xuống đầu Bát Giới. Bát Giới
giơ cây đinh ba gạt ra, nói:


- Đồ yêu quái khốn khiếp kia, nhà ngươi là hạng tà ma nửa đời mới thành tinh hẳn?

Yêu quái hỏi:


- Tại sao nhà ngươi biết ta nửa đời mới thành tinh? Bát Giới đáp:


- Nhà ngươi biết sử dụng chùy đồng, vậy chắc nhà ngươi đi
kéo bễ thuê cho nhà thợ bạc nào rồi ăn cắp mang theo chứ gì?
Yêu quái nói:


- Cái này đâu có phải thứ chùy đánh bạc! Nhà ngươi coi:


Chín ngạnh kết thành hoa một đóa, Thân cây cán rỗng vạn năm xanh, Vật phàm chớ có mang so sánh, Sản xuất vườn tiên đã nổi danh, Dao Trì nhuộm vẻ màu xanh biếc,
Bích chiểu đượm hương chất trắng tinh Thêm tớ dầy công tôi luyện nữa, Cứng như dùi sắt lại oai linh:
Gươm dao, kiếm kích khôn bề thắng, Rìa búa, qua mâu chẳng dám tranh, Đinh ba chú mày tuy có sắc,
Chùy đồng ta bổ cũng cong quằn.




Sa hòa thượng thấy hai người lải nhải mãi, nhịn không nổi
bước tới gần, lớn tiếng quát:


- Quái vật kia chớ có bẻm mép! Người xưa nói: “Khẩu chứng vô bằng, việc làm mới rõ”. Chớ có chạy! Nếm một trượng của ta đây!

Yêu quái vung chùy lên gạt ra, nói:


- Nhà ngươi cũng là đồ hòa thượng nửa đời xuất gia! Sa Tăng hỏi:


- Tại sao nhà ngươi biết? Yêu quái đáp:


- Trông bộ dạng nhà ngươi chẳng khác xuất thân một anh phó
cối.

Sa Tăng hỏi tiếp:


- Tại sao nhận ra ta là phó cối? Yêu quái đáp:


- Không là phó cối, tại sao lại sử dụng cái giằng xay đó? Sa Tăng quát:


- Đồ nghiệt súc kia, nhà ngươi chưa từng thấy sao?

Binh khí loại này hiếm lắm thay, Bảo trượng là tên mấy kẻ hay, Lấy từ cung Quảng vô hình ấy, Gỗ tiên mài đẽo mới thành dày,
Ngoài khảm ngọc ngà ngời lấp lánh.


Lõi đổ vàng ròng rực sắc mây. Ngự yên ngày xưa từng bảo vệ, Nay phò Tam Tạng nẻo sang Tay,
Đường thẳm Tây phương không kẻ biết, Tiên cung thượng giới nổi danh đây. Tên gọi hàng yêu chân bảo trượng,
Bổ ngươi một phát nát tan thây!




Yêu quái chẳng cần nói năng, cả ba người đều trở mặt quay ra
đánh nhau. Một trận đánh nhau dưới đáy nước vô cùng dữ dội:



Chùy đồng bảo trượng với đinh ba, Ngộ Năng, Ngộ Tĩnh đánh yêu tà. Một kẻ Thiên Bồng sa thế giới,
Một người thượng giới xuống trời xa.


Hai kẻ giáp công đâm thủy quái, Một mình yêu quái vẫn chẳng la.
Có phận có duyên nên đạo lớn, Tương sinh tương khắc Cát Hằng Hà. Thổ khắc thủy, thủy khô tới đáy,
Thủy sinh mộc, mộc vượng đâm hoa.


Thiền pháp tu hành quy một thể, Linh đơn nấu luyện phục ba nhà.
Thổ là mẹ sinh mầm kim đó


Kim sinh thần thủy sản anh oa[236] Thủy là gốc tưới nhuần cây cỏ Mộc sinh lửa nóng rực trời xa Ngũ hành tụ lại đều khác biệt


Bởi nên trở mặt quyết hơn thua Chùy đồng chín ngạnh ngời lấp lánh Bảo trượng nghìn tơ đẹp nõn nà Đinh ba hội âm dương cửu diệu Đánh đỡ kỳ cùng chẳng chịu tha


Cứu nạn Đường Tăng nên vất vả, Sống chết liều mình tại Thích Ca
Chùy đồng loang loáng không ngơi nghỉ


Đỡ bên bảo trượng, lại đinh ba…




Ba người đánh nhau dưới đáy sông lâu đến hai giờ đồng hồ
không phân thắng bại. Bát Giới liệu không thắng được yêu quái, bèn đưa mắt ra hiệu cho Sa Tăng. Hai người bèn giả thua, kéo lê binh khí quay đầu chạy.


Yêu quái ra lệnh:


- Bọn nhỏ đóng nguyên ở đáy để ta đuổi theo bọn chúng bắt
về giết thịt cho chúng bay chén!

Đoạn như một luồng gió quét sạch lá khô, hệt một cơn mưa dập vùi hoa nở, yêu quái đuổi miết theo hai người ra khỏi mặt nước.


Tôn Đại Thánh đứng trên bờ phía Đông, mặt đăm đăm nhìn xuống mặt sông, bỗng thấy sóng nước cuồn cuộn, tiếng hò ầm ĩ. Bát Giới nhảy vọt lên bờ, nói:


- Nó đến nơi rồi! Nó đến nơi rồi! Sa Tăng cũng nhảy lên theo, nói:


- Đến rồi! Đến rồi!

Yêu quái đuổi theo sau, quát:


- Có chạy đằng trời!

Vừa nhô đầu ra đã bị Hành Giả quát luôn:


- Coi cây gậy đây!



Yêu quái né mình tránh, vung cây chùy đồng lên gạt ra. Một kẻ mặt sông nổi sóng, một người bờ dốc ra oai. Đánh nhau chừng ba hiệp, yêu quái đỡ không nổi, đánh dứ một miếng, rồi lặn xuống lòng sông. Từ lúc ấy lại sóng êm gió lặng.


Hành Giả quay lại chỗ bờ cao an ủi:


- Các chú vất vả quá! Sa Tăng nói:


- Sư huynh ạ, yêu quái này lên bờ thì thường thôi, nhưng ở
dưới nước lợi hại lắm. Tôi và anh hai cùng xông vào đánh mà chỉ ngang sức. Vậy biết làm thế nào cứu được sư phụ?

Hành Giả nói:


- Phải đánh gấp ngay kẻo nó hại sư phụ mất. Bát Giới nói:


- Sư huynh ơi, lần này tôi đi nhử nó ra, sư huynh chớ lên
tiếng, cứ đứng trên tầng không đợi, cứ mặc kệ nó thò đầu ra, rồi dùng miếng giã tỏi, nhằm đúng đầu, nện xuống một phát. Dù nó không chết hẳn, thì cũng phải đau điếng ngất lịm, lúc ấy lão Trư xông tới bồi thêm cho một nhát đinh ba nữa, kết liễu đời nó.

Hành Giả nói:


- Phải, phải! thế gọi là “trong đánh ra, ngoài đánh vào”, mới
xong việc được.

Hai người lại lặn xuống sông. Chuyện không nói nữa.


Lại nói chuyện yêu quái thua trận bỏ chạy thoát thân, quay về
bản phủ. Lũ tiểu yêu đón vào trong cung, Quyết Bà bước tới hỏi:


- Đại vương đuổi theo hai hòa thượng ấy tới đâu? Yêu quái đáp:


- Bọn hòa thượng ấy có một tên nữa giúp sức, hai tên này
nhảy lên bờ, còn tên kia vung gậy sắt đánh ta. Ta nghiêng người tránh và đánh nhau với hắn, chẳng biết cây gậy của hắn nặng bao nhiêu cân, mà chùy đồng của ta đỡ không nổi. Đánh nhau chưa được ba hiệp, ta thua trận chạy về.

Quyết Bà hỏi:


- Đại vương có nhớ tên đánh giúp ấy, tướng mạo thế nào
không?

Yêu quái đáp:


- Hắn mặt dầy lông, mồm như ông thiên lôi, tai bẹp mũi gãy,
mắt lửa ngươi vàng.

Quyết Bà nghe xong, thất sắc nói:


- Đại vương ơi, may cho ngài đã biết liệu trước, nên mới thoát
chết! Nếu đánh thêm ba hiệp nữa thì nhất định ngài khó toàn tính mạng. Tên hòa thượng ấy tôi biết rồi.

Yêu quái hỏi:


- Hiền muội biết hắn là ai? Quyết Bà thưa:


- Ngày tôi còn ở Đông Dương đại hải đã từng nghe lão Long
Vương nói đến oai danh của hắn. Hắn chính là Thái Ất kim tinh, Mỹ Hầu vương, Tề Thiên đại thánh đại náo thiên cung năm trăm năm trước, nay đã quy y Phật giáo, hộ vệ Đường Tăng sang phương Tây lấy kinh đổi tên là Tôn Ngộ Không Hành Giả. Hắn thần thông quảng đại, biến hóa khôn lường. Tại sao đại vương lại gây chuyện với hắn? Từ nay trở đi đừng dại đánh nhau với hắn nữa.

Vừa dứt lời, đã thấy bọn tiểu yêu canh cửa chạy vào báo:


- Thưa đại vương, hai hòa thượng lại tới trước cửa thách
đánh.

Yêu quái nói:


- Kiến thức cửa hiền muội cao thật! Ta không ra nữa xem hắn
giở trò gì.

Bèn ra lệnh:


- Bọn nhỏ, đóng chặt cửa lại! Thế mới là “mặc hắn gọi ngoài
cửa, nhất định không mở ra”. Cứ để cho chúng nấn ná lại vài ngày, chán nản bỏ về, ta sẽ ung dung tự tại ăn thịt Đường Tăng.

Bọn tiểu yêu nhất tề đi khuân đá, bê đất lấp kín các cửa, Bát Giới, Sa Tăng gọi mãi không thấy yêu quái ra. Chú ngốc sốt ruột, vác đinh ba bổ vào cửa. Nhưng cánh cửa kiên cố đóng chặt, không sao phá nổi. Bát Giới bổ tiếp bảy, tám phát nữa, phá vỡ được cánh cửa, nhưng bên trong lại là tầng tầng đất đá chất cao ngất, Sa Tăng thấy vậy nói:


- Anh hai ơi, yêu quái sợ đóng chặt cửa không dám ra. Tôi và anh hãy lên bờ gặp anh cả bàn tính xem sao đã.

Bát Giới nghe lời, quay lên bờ sông.


Hành Giả đứng trên tầng không cầm gậy sắt đợi thấy hai
người chui lên, không thấy yêu quái, bèn dừng mây bước xuống, đón hai người ở bờ sông hỏi:


- Các chú, tại sao không thấy yêu quái lên? Sa Tăng nói:


- Yêu quái đóng chặt các cửa không dám ra. Khi anh hai phá
tung cửa ra xem, thì thấy bên trong chất toàn đất đá rất rắn chắc, vì vậy không đánh nhau được, phải trở về bàn mẹo với anh xem cứu sư phụ bằng cách nào.

Hành Giả nói:


- Như thế thì cũng chẳng có cách nào trị được nó. Hai chú cứ
đi tuần trên bờ sông, không được để nó chạy đi đâu nhé, đợi tôi đi đằng này.

Bát Giới hỏi:


- Sư huynh định đi đâu? Hành Giả đáp:
- Tôi đến núi Phổ Đà gặp Bồ Tát hỏi xem nó là loại yêu quái
xuất thân ở đâu, họ tên là gì, để tìm đến tận quê quán gốc gác ông bà nhà nó, bắt hết cả gia thuộc hàng xóm nhà nó, rồi đến đây bắt nốt cả nó cứu sư phụ.

Bát Giới cười nói:


- Sư huynh ơi, làm như vậy chỉ phí công vô ích, vì mất nhiều
thì giờ quá.

Hành Giả nói:


- Bảo đảm với các chú là không phí công, không lề mề. Tôi đi
sẽ về ngay.

Đoạn co người nhảy vút lên đám mây lành, rời khỏi bờ sông, thẳng tới Nam Hải. Khoảng nửa giờ sau, đã nhìn thấy núi Lạc Già, bèn hạ mây bước xuống đi thẳng vào sườn núi Phổ Đà, đã thấy các vị người trời của hai mươi tư lộ, cùng đại thần giữ núi Mộc Soa hành giả, Thiện Tài đồng tử, Phụng Châu long nữ, tất cả cùng bước tới đón, cúi chào Hành Giả, rồi hỏi:


- Đại Thánh đi đâu đấy? Hành Giả đáp:


- Có việc cần gặp Bồ Tát. Các vị thần nói:


- Sáng hôm nay Bồ Tát ra ngoài động không cho ai đi theo,
một mình vào rừng trúc ngoạn cảnh. Ngài biết hôm nay Đại Thánh thể nào cũng đến, nên dặn dò chúng tôi tiếp Đại Thánh ở đây, không được đưa vào gặp. Xin mời Đại Thánh tạm ngồi chơi ở Thủy Nhai đây một lát, đợi Bồ Tát về.

Hành Giả nghe lời, chưa kịp ngồi xuống đã thấy Thiện Tài đồng tử bước tới cúi chào, nói:


- Thưa Tôn Đại Thánh, trước kia đội ơn lòng tốt của ngài, nay được Bồ Tát thu nhận không nỡ vứt bỏ, nên sớm tối không rời hầu hạ dưới tòa sen, rất được ngài mở lòng từ thiện.

Hành Giả biết đó là Hồng Hài Nhi ngày nào, bèn cười nói:


- Ngày ấy chỉ bị ma nghiệt làm mê mẩn, nay thành chính quả
mới biết lão Tôn là người tốt.

Hành Giả đợi mãi chẳng thấy Bồ Tát về sốt ruột nói:


- Các vị đi truyền báo giúp tôi một tiếng. Nếu chậm, e tính
mạng sư phụ tôi khó toàn mất.

Các vị người trời nói:


- Không dám báo, Bồ Tát đã dặn dò rằng để đợi ngài về.

Hành Giả tính nóng đâu có chịu đợi, lập tức ưỡn người đi
luôn. Chà!











Con khỉ Mỹ Hầu vương,


Nóng tính và ngỗ ngược Người trời lưu không được Muốn gặp Bồ Tát ngay
Rảo bước vào rừng cây Mắt giương nhìn mọi lộ Xa trông đấng Cứu khổ Ngồi thiền bên trúc xanh
Lược gương chẳng bận mình Dung nhan trông thanh tú Chưa từng thắt giải mũ Buông xòa búi tóc tơ
Lam bào chẳng mặc cho Che thân manh áo sẫm Son đỏ đòi gót chân
Trắng muốt cánh tay trần


Giải thêu vai chẳng khoác


Tay ngọc cầm dao sắc


Đan vót cật trúc xanh.




Hành Giả thấy vậy, không nhịn nổi, cất tiếng gọi lớn:


- Thưa Bồ Tát, đệ tử Tôn Ngộ Không một lòng kính chào. Bồ Tát bảo:


- Hãy đứng đợi ở bên ngoài. Hành Giả dập đầu nói:


- Thưa Bồ Tát, sư phụ con gặp nạn, con đến muốn hỏi rõ gốc
tích con yêu quái ở sông Thông Thiên.

Bồ Tát nói:


- Nhà ngươi cứ ra ngoài, lát nữa ta ra.

Hành Giả chẳng dám trái lời, đành bước ra ngoài rừng trúc,
nói với các vị người trời:


- Bồ Tát hôm nay đang bận việc nhà. Tại sao ngài không ngồi tòa sen, không trang sức, mà lại ngồi trong rừng vót nan, nét mặt không vui nhỉ?

Các vị người trời nói:


- Chúng tôi cũng không biết, sáng hôm nay ngài rời động,
chẳng hề trang điểm, đi ngay vào rừng dặn chúng tôi ở đây tiếp
Tôn Đại Thánh. Chắc là vì việc của Đại Thánh đấy.

Hành Giả chẳng biết làm thế nào, đành đứng đợi.


Được một lát, thấy Bồ Tát tay xách chiếc làn trúc từ trong
rừng bước ra nói:


- Ngộ Không, ta với nhà ngươi đi ngay để cứu Đường Tăng. Hành Giả vội vàng quỳ xuống, nói:


- Đệ tử đâu dám giục giã. Xin mời Bồ Tát hãy mặc áo lên tòa. Bồ Tát nói:


- Không cần, cứ thế này đi luôn.

Bồ Tát bèn từ biệt các vị người trời, cưỡi mây lành đi ngay.
Ngộ Không bay theo sau.


Trong giây lát, hai người đã tới sông Thông Thiên. Bát Giới, Sa Tăng thấy vậy nói:


- Sư huynh nóng nảy, khôn biết làm ầm ĩ gì ở Nam Hải đến nỗi Bồ Tát chưa kịp ăn mặc chỉnh tề mà đã bị bắt ép đi luôn như thế kia?

Vừa dứt lời, hai người đã tới bờ sông. Bát Giới, Sa Tăng cúi lạy, nói:


- Kính chào Bồ Tát, chúng con hành động tự tiện thật có tội!

Bồ Tát bèn cởi một sợi tơ thắt áo buộc chặt vào chiếc làn, đoạn cầm lấy sợi tơ, đứng trên đám mây ngũ sắc thả xuống dòng sông, cho chiếc làn dừng lại chỗ thượng lưu, miệng niệm thần chú một bài tụng:


- Chết trôi đi, sống ở lại! Chết trôi đi, sống ở lại.
Niệm đúng bảy lần, Bồ Tát bèn nhấc chiếc làn lên thấy trong làn có một con cá vàng vẩy sáng lấp lánh, mắt vẫn nhấp nháy, đuôi vẫn ngoe nguẩy. Bồ Tát gọi:


- Ngộ Không, mau xuống sông cứu sư phụ! Hành Giả nói:


- Chưa bắt được yêu quái, cứu làm sao được sư phụ? Bồ Tát nói:


- Ở trong làn kia kìa!

Bồ Tát và Sa Tăng cúi lạy, hỏi:


- Con cá kia mà lắm thủ đoạn thế cơ ạ? Bồ Tát nói:


- Nó vốn là con cá vàng được nuôi lớn trong ao sen của ta,
hàng ngày nhô đầu nghe kinh tu thành thủ đoạn. Chiếc trùy đồng chín ngạnh kia, là một cành hoa sen chưa nở được nó tu luyện thành binh khí, rồi chẳng biết hôm nào, theo thủy triều dâng lên bơi đến nơi này. Sáng nay ta tựa lan can thưởng hoa, không thấy nó nhô đầu lên lạy. Ta bèn bấm tay bắt độn biết hắn đã thành tinh ở đây, hãm hại sư phụ các ngươi. Bởi vậy ta chẳng kịp điểm trang, vận thần công đan chiếc làn này bắt nó.

Hành Giả nói:


- Thưa Bồ Tát, đã như vậy, xin Bồ Tát chờ một lát, để chúng
con đi gọi thiện nam tín nữ ở Trần gia trang tới ngưỡng vọng kim nhan Bồ Tát. Một là tỏ lòng biết ơn Bồ Tát, hai là cho họ biết rõ việc hàng yêu, để người phàm tin tưởng cùng trời.
Bồ Tát nói:


- Thôi được, nhà ngươi đi gọi mau lên.

Bát Giới và Sa Tăng cùng chạy như bay về trước xóm, cất cao
giọng gọi:


- Mời mọi người đến xem Quan Âm Bồ Tát sống! Đến xem
Quan Âm Bồ Tát sống!

Già trẻ trai gái cả xóm ùa cả ra phía bờ sông, chẳng kể bùn lầy, quỳ cả xuống, dập đầu lễ bái. Trong đám người có mấy người thợ vẽ giỏi, vẽ bức truyền thần. Đó chính là bức Quan Âm hiện thân xách làn cá. Xong xuôi, Bồ Tát quay trở về Nam Hải.


Bồ Tát và Sa Tăng rẽ nước, tới thẳng tòa Thủy Nguyên tìm sư phụ, thấy bao nhiêu thủy quái, ngư tinh đều chết nát cả. Hai người bèn ra phía hậu cung mở nắp hòm đá, cõng Đường Tăng, bơi lên khỏi mặt nước, ra mắt mọi người.


Anh em cụ Trần Thanh cúi đầu lạy tạ nói:


- Tại ngài không nghe lời khuyên của chúng tôi, nên mới khổ
như vậy.

Hành Giả nói:


- Thôi, không cần nói nữa. Mọi người ở đây từ sang năm trở
đi không phải cúng tế gì cả. Lão đại vương ấy đã bị nhổ đến tận rễ rồi, vĩnh viễn không gây hại được nữa. Còn cụ Trần ạ, bây giờ phiền cụ một chút, cụ tìm giúp cho một chiếc thuyền đưa chúng tôi qua sông.

Cụ Trần Thanh nói:


- Xin có ngay, xin có ngay!

Bèn sai xẻ gỗ đóng thuyền. Mọi người trong thôn biết tin, ai cũng vui lòng bỏ tiền giúp đỡ. Người này nói xin mua cột buồm; người kia nói xin mua mái chèo. Người xin mua thừng chão, người nhận thuê lái đò.


Mọi người đang bàn tán ầm ĩ ở bờ sông, bỗng nghe thấy dưới sông có tiếng nói lớn:


- Tôn Đại Thánh không phải đóng thuyền, làm hao tổn tài sản của chúng dân. Tôi xin đưa thầy trò qua sông.

Mọi người nghe nói, ai nấy sợ hãi. Người nhút nhát bỏ chạy về nhà, người bạo dạn run rẩy ngơ ngác. Một lát, thấy một quái vật nhô lên khỏi mặt nước. hình thù nó:



Đầu vuông thần vật khác loài trần, Giúp chín linh cơ hiệu Thủy Tiên. Đuôi lết sống lâu hàng vạn kỷ, Thân chìm ẩn mãi mấy nghìn niên. Bờ sông rẽ sóng tung làn nước,
Bãi biển nằm phơi đón gió rền. Dưỡng khí hàm linh nên đạo lớn, Sống lâu rùa mốc tiếng lưu truyền.


Rùa già lại gọi:


- Đại Thánh đừng đóng thuyền nữa, để tôi đưa thầy trò qua
sông.

Hành Giả múa tít gậy sắt nói:


- Đồ nghiệt súc kia, hễ bơi đến bờ sông, cây gậy này sẽ đập
chết tươi!

Rùa già nói:


- Tôi đội ơn Đại Thánh, tình nguyện dốc lòng đưa thầy trò
qua sông, tại sao ngài lại đánh tôi?

Hành Giả nói:


- Ta có ơn huệ gì với nhà ngươi đâu? Rùa giả nói:


- Thưa Đại Thánh, Đại Thánh không biết, chính cung Thủy
Nguyên là nhà ở của tôi. Tổ tiên tôi lưu truyền đến đời tôi đã mấy đời rồi, sau đó tôi tỉnh ngộ căn nguyên, nuôi dưỡng linh khí, tu hành ở đây. Tôi lại xây cất nơi ở của tổ phụ thành cung điện Thủy Nguyên. Chín năm trước đây, yêu quái kia theo thủy triều, rẽ sóng tới đây, hắn giở thói hung đồ đánh nhau với tôi giết hại rất nhiều con cháu tôi, cướp đi rất nhiều quyến thuộc tôi. Tôi đánh nó không lại, sào huyệt bị nó cướp trắng mất. Nay nhờ có Đại Thánh đến cứu sư phụ, mời Quan Âm tới quét sạch yêu khí, thu phục yêu quái trả lại nhà cửa cơ nghiệp cho tôi. Ngày nay già trẻ nhà tôi lại được đoàn viên, không phải rúc bùn đội đất, được trở lại nơi ở xưa. Công ơn ấy thật cao như núi, sâu như biển, không những chúng tôi đội ơn, mà người cả thôn này cũng
không phải hàng năm cúng tế, cứu sống được bao nhiêu mạng con gái con trai. Đấy mới thực sự là công ơn “nhất cử lưỡng tiện”, tôi đâu dám không báo đền?

Hành Giả nghe nói, trong lòng mừng thầm, thu gậy sắt lại nói:


- Những lời nhà ngươi nói có thực lòng không? Rùa già nói:


- Vì ân đức sâu rộng của Đại Thánh, tôi đâu dám sai lời. Hành Giả nói:


- Đã thực lòng, thì nhà ngươi ngửa mặt lên trời thề đi! Rùa già bèn há cái miệng đỏ, ngửa mặt lên trời thề:


- Nếu tôi không thực lòng đưa Đường Tăng qua sông Thông
Thiên, thì thân tôi sẽ hóa thành máu, nước!

Hành Giả cười nói:


- Vậy thì nhà ngươi lên đây, lên đây!

Rùa già bèn bơi vào gần, vươn người bò lên bờ sông. Mọi
người tới gần ngắm nghía, thấy một cái mai trắng bệch chu vi tới bốn trượng.


Hành Giả nói:


- Sư phụ ơi, chúng ta trèo cả lên lưng nó để qua sông. Tam Tạng nói:


- Đồ đệ ơi, băng đóng dày cứng như thế ta còn gặp tai nạn,
huống hồ là lưng con rùa sợ không chắc chắn.
Rùa già nói:


- Sư phụ yên lòng, lưng tôi chắc chắn hơn tảng băng kia
nhiều. Tôi mà làm chòng chành sẽ không thành công quả!

Hành Giả nói:


- Sư phụ ạ, phàm các chúng sinh biết nói tiếng người, đều
không nói dối đâu.

Bèn bảo:


- Các chú mau dắt ngựa đến đây.

Già trẻ gái trai ở Trần gia trang đếu tới bờ sông cúi lạy tiễn
đưa. Hành Giả bảo dắt ngựa lên mai rùa đoạn mời Đường Tăng đứng bên trái, cạnh đầu ngựa, Sa Tăng đứng bên phải, Bát Giới đứng đằng sau con ngựa, Hành Giả đứng phía trước con ngựa. Sợ con rùa vô lễ, Hành Giả cởi sợi dây thắt quần bằng gân hổ xuyên qua mũi con rùa, y như sợi dây cương ngựa, một chân dẫm lên mai, một chân đặt lên đầu, tay nắm gậy sắt, tay cầm sợi dây, mồm gọi:


- Rùa già, đi chậm chậm thôi nhé! Nếu làm chòng chành ta sẽ nện gậy vào đầu!

Rùa già nói:


- Không dám! Không dám!



Đoạn con rùa xoạc rộng bốn chân, bơi trên mặt nước vững vàng như đi trên đất bằng. Mọi người đứng trên bờ sông thắp hương cúi lạy, miệng niệm “Nam mô Ai Di Đà Phật”. Thế mới thật là La Hán giáng trần, Bồ Tát sống xuất hiện. Mọi người lễ bái mãi tới khi không nhìn thấy thầy trò Đường Tăng nữa mới quay về.


Lại nói chuyện Đường Tăng cưỡi rùa già mất một ngày vượt qua sông Thông Thiên rộng tám trăm dặm, chân tay khô ráo bước lên bờ, bèn chắp tay tạ ơn nói:


- Ta làm phiền rùa quá, chằng có quà gì biếu, khi nào lấy được kinh trở về ta sẽ hậu tạ.

Rùa già nói:


- Không dám phiền sư phụ biếu gì. Nghe nói Phật tổ bên
phương Tây bất sinh bất diệt, biết hết mọi chuyện quá khứ tương lai. Tôi ở nơi đây, dốc lòng tu hành đã hơn một nghìn ba trăm năm, tuy thân nhẹ sống lâu, nói được tiếng người, nhưng vẫn chưa lột được xác cũ, muốn lần nhờ sư phụ đến phương Tây gặp Phật tổ hỏi giùm hộ một tiếng, rằng bao giờ tôi trút được xác cũ, thành được thân người.

Tam Tạng nhân lời, nói:


- Được, ta sẽ hỏi cho, ta sẽ hỏi cho.

Lúc ấy rùa mới lặn xuống sông. Hành Giả đỡ Đường Tăng lên
ngựa, Bồ Tát gánh hành lý, Sa Tăng hầu bên cạnh. Thầy trò tìm ra đường lớn thẳng bước sang Tây. Thật là:



Thánh tăng đi bái Di Đà,


Sông sâu núi thẳm đến là gian nan.


Thành tâm quyết chí băng miền


Rùa già giúp vượt Thông Thiên dễ dàng.




Sau đó cuối cùng phải vượt qua bao nhiêu đoạn đường nữa,
còn gặp bao nhiêu lành dữ, xem hồi sau sẽ rõ.



HỒI THỨ NĂM MƯƠI Tình loạn, tình theo vi ái dục, Thần mờ, tâm động gặp yêu ma
Có bài thơ rằng:

Tâm địa dần quét sạch Bụi trần thảy tẩy trừ, Đừng để rơi mũ tì lư,
Bản thể thường thanh tĩnh, Mới bàn nổi nguyên sơ Tính sáng phải chọn lựa, Tòa Khê mặc thở vô,
Chớ để khỉ ngựa hơi thở thô, Đêm ngày thở đều đặn. Mới hiện rõ công phu
Bài thơ này có tên là Nam Kha tử, nói về chuyện Đường Tăng
thoát khỏi tai nạn băng tan ở sông Thông Thiên, cưỡi trên lưng con rùa già bước sang bờ bên kia. Bốn thầy trò thuận theo đường cái, nhằm hướng Tây phương thẳng tiến. Đúng lúc gặp tiết đông lạnh lẽo chỉ thấy: Rừng quang man mác tầng mây nhạt núi ôm mơ màng bóng nước trong. Thầy trò đang đi bỗng nhiên lại gặp một trái núi sừng sững chặn ngang lối đường hẹp vực sâu, đá bày hiểm trở, người ngựa rất khó đi. Tam Tạng ghìm cương ngựa, cất tiếng gọi:

- Đồ đệ ơi!
Một lát, Tôn Hành Giả dẫn Bát Giới, Sa Tăng bước tới đứng hầu ở bên cạnh hỏi:

- Sư phụ có việc gì dặn dò vậy? Tam Tạng đáp:
- Các con xem, trước mặt có trái núi cao, sợ có hổ báo yêu ma hãm hại người đi, lần này các con phải hết sức cẩn thận!

Hành Giả nói:

- Sư phụ cứ yên tâm đừng lo lắng gì cả, ba anh em chúng con đồng tâm hiệp lực, theo chính cầu chân, trổ hết các phép bắt quái hàng yêu, thì sợ gì các loài lang trùng hổ báo!

Tam Tạng nghe nói, vững lòng tiến bước. Đến chân núi, Tam Tạng quất ngựa đi lên sườn núi, ngẩng đầu quan sát kỹ càng. Thấy trái núi này:
































Lại thấy:


Sừng sững vút cao, Nguy nga hiểm trở.
Sừng sững vút cao xông trời thẳm Nguy nga hiểm trở trấn tầng không. Đá la liệt tựa hồ ngồi trông
Tùng nghiêng ngả như rồng lượn bay

Đỉnh núi véo von chim hót rộn Sườn non thoang thoảng vị mai nồng Lòng suối róc rách làn nước trong Đầu non chập chờn đám mây bạc.



Tuyết lả tả, Gió căm căm
Hổ đói gầm vang giữa núi rừng Quạ lạnh chọn cây tìm chốn ngủ Hươu chẳng có nơi làm hang ổ Ái ngại người đi bước rã rời Buồn bã nhíu mày che mặt tới!


Bốn thầy trò run rẩy xông pha trong mưa tuyết gió rát, vượt qua đỉnh núi hiểm trở, thấy trong thung lũng xa xa bóng lâu dài thấp thoáng, nhà cửa thanh u. Đường Tăng lập tức trở lại vui vẻ nói:

- Đồ đệ ơi, hôm nay vừa đói vừa rét, may gặp lại nhà cửa lâu đài trong thung lũng kia. Đây chắc là thôn xóm cư dân, chùa chiền am quán, chúng ta tới đó xin ít cơm chay, ăn xong lại đi tiếp.

Hành Giả nghe nói, vội vàng căng mắt nhìn, thấy nơi đó mây
dữ u ám, ác khí mịt mờ, bèn quay đầu nói với Đường Tăng:

- Sư phụ ơi, chỗ ấy không lành đâu. Tam Tạng nói:
- Thấy có bóng lâu đài nhà cửa, tại sao không lành? Hành Giả cười nói:
- Sư phụ đâu có biết? Đường sang phương Tây lắm yêu ma quỷ quái giỏi biến ra nhà cửa. Bất luận là lâu đài điện các, quán vũ, đình chùa chúng vẫn có thể biến ra để lừa người. Sư phụ có biết trong chín giống rồng có một giống gọi là “Thẩn” không? Khí của loài Thẩn này phát sáng, xa trông giống như lầu các ao hồ. Nếu gặp sóng to mờ mịt, thì loài Thẩn hiện ra kiểu ấy. Chim chóc bay lượn tưởng nhà cửa định hạ xuống nghỉ cánh, lúc ấy dù có hàng nghìn hàng vạn con, thì cũng bị thứ khí ấy nuốt hết. Thứ khí ấy hại người ghê gớm lắm, nên đằng kia khí sắc hung ác, chớ có vào.

Tam Tạng nói:

- Không vào thì thôi, nhưng ta đói bụng lắm rồi. Hành Giả nói:
- Nếu quả sư phụ đói, thì mời sư phụ xuống ngựa, ngồi tạm chỗ bằng để con đi nơi khác tìm cơm chay mời sư phụ.

Tam Tạng nghe lời, xuống ngựa. Bát Giới đỡ lấy cương. Sa Tăng đặt hành lý, mở tay nải lấy chiếc bát tộ đưa cho Hành Giả. Hành Giả cầm lấy chiếc bát dặn dò Sa Tăng:

- Hiền đệ đừng đi đâu, cẩn thận giữ gìn sư phụ ngồi nguyên ở đây, đợi tôi đi xin cơm chay về, lại tiếp tục lên đường.

Sa Tăng vâng lời. Hành Giả lại quay sang Tam Tạng nói:

- Sư phụ ạ, chuyến đi này lành ít dữ nhiều, mong sư phụ chớ có đi đâu cả, lão Tôn đi xin cơm chay đây.
Đường Tăng nói:

- Bất tất phải nói nhiều, cốt sao con đi mau về mau, ta đợi con ở đây.

Hành Giả quay người định đi, nhưng lại quay về nói:

- Con biết tính sư phụ chẳng thích ngồi yên, để con cho sư phụ một cách an thân đã.

Bèn rút một cây gậy, sắt nạm vàng ra, múa tít, rồi vẽ một cái vòng tròn trên đất bằng, mời sư phụ ngồi vào trong, bảo Bát Giới, Sa Tăng đứng hầu ở hai bên, dắt cả con ngựa và hành lý để ngay cạnh người, đoạn chắp tay nói với Đường Tăng:

- Cái vòng lão Tôn vẽ kiên cố như thành đồng vách sắt, hổ báo lang trùng, yêu ma quỷ quái cũng không dám tới gần. Vậy mọi người đừng bước ra ngoài, cứ ngồi yên trong đó là không phải lo lắng gì hết. Nếu bước ra khỏi vòng là gặp tay độc thủ ngay. Muôn nghìn lần mong sư phụ nhớ lấy lời con dặn!

Tam Tạng nghe lời, thầy trò đều ngồi xuống ngay ngắn trong vòng.

Hành Giả nhảy vút lên tầng mây, tìm thôn xóm xin cơm, đi thẳng về hướng Nam, bỗng thấy đám cổ thụ cao ngất trời, hẳn là một thôn xóm, bèn hạ mây bước xuống, ngắm nghía kỹ càng. Chỉ thấy:

Tuyết rơi cành liễu yếu, Băng đóng mặt ao vuông
Lơ thơ khóm trúc ngả xanh rờn Ngan ngát hàng tùng phô vẻ biếc Mấy gian nhà cỏ tường vôi quét
Một chiếc cầu cong gạch phấn thoa

Thủy tiên hé mở phía rào xa,
Đũa băng rũ xuống thềm hiên trước, Gió bấc từng cơn đưa hương ngát Chẳng thấy mai cười bởi tuyết bay
Hành Giả vừa đi, vừa ngắm phong cảnh, bỗng nghe kẹt một tiếng, cánh cửa hé mở, một ông lão bước ra, tay chống gậy lê, đầu đội mũ da dê, mình mặc chiếc áo vá, chân đi đôi giày cỏ, chống gậy ngẩng mặt lên trời, nói:

- Nổi gió Tây Bắc, ngày mai là lạnh đây.

Vừa dứt lời, một con chó cụp đuôi từ đằng sau chạy đến, chợt trông thấy Hành Giả, cất tiếng sủa oang oang. Cụ già quay đầu lại nhìn thấy Hành Giả tay bưng chiếc bát tộ. Hành Giả bước tới, hỏi:

- Chào cụ, tôi là hòa thượng nước Đại Đường bên phương Đông, vâng mệnh nhà vua sang phương Tây bái Phật cầu kinh, dọc đường tới xứ ta, vừa lúc sư phụ tôi bụng đói, sai tôi tới tôn phủ đây xin ít cơm chay.

Cụ già nói:

- Thưa trưởng lão, ngài đừng xin cơm nữa, đi lầm đường rồi

Hành Giả nói:

- Không lầm đâu. Cụ già nói:
- Đường lớn sang phương Tây ở phía chính Bắc, từ đây tới đấy xa hơn nghìn dặm, tại sao lại không tìm đường lớn mà đi?

Hành Giả cười nói:

- Thưa vâng, đúng là ở chính Bắc, sư phụ tôi đang ngồi trên đường cái, đợi tôi đem cơm về.

Cụ già nói:
- Hòa thượng này nói bậy quá, sư phụ ngài ngồi trên đường cái đợi ngài xin cơm chay về, đường xa nghìn dặm như thế, dù ngài đi giỏi cũng phải mất sáu, bảy ngày, quay về mất sáu bảy ngày nữa, thì sư phụ ngài lúc ấy không chết đói rồi ấy à?

Hành Giả cười nói:

- Chẳng giấu gì cụ, tôi vừa chia tay với su phụ chỉ chưa uống hết chén trà nóng đã tới đây rồi, bây giờ đi xin cơm, quay về cho kịp bữa trưa.

Cụ già nghe nói như vậy trong lòng sợ hãi kêu lên:

- Hòa thượng này là ma! Là ma!

Rồi quay người toan chạy tọt vào trong. Hành Giả bèn túm chặt lấy cụ già, nói:

- Cụ định đi đâu? Có cơm chay cho xin một ít. Cụ già nói:
- Không có! Không có! Mời ngài sang nhà khác! Hành Giả nói:
- Cụ này quả không bết điều. Cụ xem, tôi tới đây đã phải đi xa nghìn dặm, giờ sang nhà khác mất nghìn dặm nữa thì sư phụ tôi sẽ chết đói mất!

Cụ già nói:

- Chẳng giấu gì ngài, nhà tôi già trẻ sáu bảy miệng ăn, mới vo được có ba bơ gạo đổ nồi, cơm còn chưa chín. Ngài hãy đi nơi khác tí nữa lại đây.

Hành Giả nói:

- Người xưa có câu “Đi ba nhà không bằng ngồi một nhà”, bần tăng cứ ngồi đợi ở đây.

Cụ già thấy Hành Giả bám chặt lấy mình, bèn nổi nóng cầm
gậy đánh. Hành Giả chẳng chút sợ hãi, bị cụ già nện bảy tám gậy vào đầu, chẳng khác nào phủi bụi. Cụ già bèn nói:

- Lão hòa thượng này cứng đầu thực! Hành Giả cười nói:
- Cho cụ tha hồ đánh, tôi chỉ cần nhớ rõ số gậy, cứ mỗi gậy là một bát gạo, cụ cứ đong ra mà trả.

Cụ già nghe vậy vội quẳng cả gậy, chạy vào nhà đóng chặt cửa kêu to:

- Có ma! Có ma!

Cả nhà sợ run như cầy sấy, đóng chặt mọi cửa đằng trước, đằng sau lại. Hành Giả thấy họ đóng cửa, nghĩ thầm trong bụng:

- Lão giặc già này vừa nói mới vo gạo đổ nồi, không biết có đúng không. Thường có câu “Đạo hóa hiền lương, Phật hóa ngu”. Để lão Tôn thử vào xem sao.

Đại Thánh bèn bắt quyết, dùng phép tàng hình vào thẳng trong bếp xem xét. Quả nhiên nồi cơm đang bốc hơi nghi ngút, vừa chín tới. Hành Giả bèn vục một cái được đầy bát, đoạn cưỡi mây bay về.

Lại nói chuyện Đường Tăng ngồi trong vòng chờ đã lâu, chẳng thấy Hành Giả trở về, ngó ngửa nhìn nghiêng, nói:

- Con khỉ này chẳng biết đi tận đâu xin cơm chay! Bát Giới bèn cười nói:
- Khéo anh ấy lại đi chơi ở đâu đó thôi, chứ xin cơm cháo gì, chỉ bắt tội thầy trò mình ngồi trong chuồng thế này.

Tam Tạng nói:

- Tại sao lại ngồi trong chuồng? Bát Giới nói:
- Sư phụ không biết, cổ nhân vạch đất làm chuồng. Nay anh ấy cũng vạch gậy sắt thành vòng, nói bốc là thành đồng vách sắt. Giả sử có hổ báo yêu ma đến thì làm sao mà ngăn nổi chúng? Chỉ còn cách là dâng tận mồm chúng, cho chúng ăn thịt.

Tam Tạng hỏi:

- Ngộ Năng, vậy làm thế nào bây giờ? Bát Giới thưa:
- Chỗ này trống trải, không tránh được gió rét, cứ như ý lão Trư thì cứ thuận đường đi luôn sang phương Tây. Sư huynh thì đi xin cơm chay, bay trên mây nhanh lắm, tất nhiên theo kịp. Nếu có cơm về, ăn xong lại đi tiếp. Còn ngồi đây mới có một lúc chân đã lạnh buốt!

Tam Tạng nghe lời, thế là vận đen đã tới. Thầy trò bước ra khỏi vòng, Bát Giới dắt ngựa, Sa Tăng gánh hành lý, Tam Tạng thuận đường đi bộ bước trước. Được một lát, tới chỗ có lâu đài. Đó là một tòa nhà xây mặt về hướng Nam, ngoài cửa có tường quét vôi xây hình chữ bát, lại có một tòa lầu xây kiểu hoa sen úp cửa tò vò, tất cả đều quét màu ngũ sắc. Cánh cửa nửa mở nửa khép. Bát Giới buộc ngựa vào tảng đá kè trông ở ngoài cửa. Sa Tăng đặt gánh hành lý xuống. Tam Tạng sợ gió, ngồi xuống bậc cửa. Bát Giới nói:

- Sư phụ, có lẽ đây là dinh cơ của vị công hầu tể tướng nào dó. Trước cửa không có người, dễ thường họ ngồi sưởi trong nhà. Sư phụ ngồi đây để con vào xem sao.

Sa Tăng nói:

- Cẩn thận nhé! Chớ có gây sự với người ta. Chú ngốc nói:
- Con hiểu rồi, từ dạo quy y cửa thiền, con cũng đã học được chút lễ độ, không quê mùa lỗ mãng nữa đâu.
Chú ngốc giắt đinh ba vào mạng sường, sửa lại chiếc áo ngắn bằng gấm xanh, ra vẻ nho nhã bước vào, thấy ba gian nhà khách, rèm cửa cuốn cao, vắng tanh vắng ngắt chẳng thấy bòng người, và cũng chẳng thấy có bàn ghế đồ đạc gì cả. Bát Giới bước qua tấm bình phong, vào tiếp bên trong, thấy đó là một gian nhà ngang. Đằng sau có một tòa lầu lớn, trên lầu cửa sổ hé mở, thấp thoáng treo chiếc màn lụa vàng. Chú ngốc nghĩ:

- Hay là họ sợ lạnh, vẫn còn ngủ.

Đoạn chẳng kể lạ quen, rảo bước lên lầu, lấy tay đẩy cửa nhòm vào, bỗng chú ngốc sợ rủn cả người. Số là trong màn, trên chiếc giường trắng như ngà voi, có một đống xương người trắng ởn, chiếc đầu lâu to bằng cái đấu, xương ống chân dài đến bốn năm thước. Chú ngốc định thần lại, không ngăn được hai hàng nước mắt giàn giụa bên má, gật gù thương cảm cho đống xương khô:

Ngài là nguyên soái phương nào Hay là đại tướng nước nào vậy thay? Nhớ xưa hào kiệt ra oai,
Mà nay một đống xương bày thê lương

Vợ con đâu chẳng vấn vương

Nào đâu sĩ tốt thắp hương phụng thờ?

Chạnh nhìn lòng luống ngẩn ngơ,

Đồ vương tranh bá bây giờ đáng thương!

Bát Giới đang than thở, chợt nhìn thấy đằng sau tấm màn có ánh lửa lóe lên một cái, bèn nghĩ:

- Chắc là có người lo hương khói ở bên trong.

Bèn quay người bước vào, đi qua tấm màn xem xét, thì hóa ra là tia sáng từ cánh cửa sổ nhà ngang chiếu tới. Phía ấy lại thấy một chiếc bàn sơn nhiều màu, trên bàn vứt bừa bãi mấy chiếc áo
bông và gấm thêu. Chú ngốc nhắt lên coi, té ra là ba chiếc áo lót bằn gấm.

Chẳng kể hay dở, chú ngốc cầm lấy, chạy ngay xuống lầu, ra ngoài nhà khách, về tới ngoài cửa, nói:

- Thưa sư phụ, nơi đây chẳng một bóng người, chỉ là chỗ thờ vong linh. Con đã vào hẳn trong nhà, nước lên lầu cao, thấy một đống xương người trong chiếc màn lụa màu vàng. Gần đó có ba chiếc áo lót bằng gấm, con bèn nhặt về, âu cũng là cái may trước mắt của thầy trò mình, trời rét thế này, hẳn là được việc. Sư phụ tạm cởi chiếc áo cánh ra, mặc cái này vào trong, đi đường cho đỡ rét.

Tam Tạng nói:

- Không được! Không được! Luật có câu: “Lấy trước mặt hay sau lưng cũng đều là ăn trộm”. Hoặc giả có người biết đuổi theo chúng ta, lôi đến cửa quan, thì rõ ràng phạm vào tội trộm cắp. Thôi, mang vào để nguyên chỗ cũ trả người ta! Chúng ta tạm ngồi tránh gió ở đây một chút, đợi Ngộ Không về rồi đi. Người xuất gia không nên thèm những cái nhỏ nhặt như vậy.

Bát Giới nói:

- Bốn phía chẳng có bóng người, đến gà chó cũng chẳng biết, chỉ có mỗi chúng ta biết, ai dám tố cáo? Mà nào có bằng chứng gì? Cũng như là nhặt được của rơi, đâu có phải “lấy trước mặt lấy sau lưng” gì đâu!

Tam Tạng nói:

- Con làm bậy đấy, tuy người không biết, nhung giấu được trời sao? Kinh Nguyên đế có để lại lời răn rằng: “Nhà tối xấu lòng, mắt thần như điện”. Con hãy mau mau trả lại cho họ, đừng dùng những vật phi nghĩa.

Chú ngốc đâu có chịu nghe, cười nói với Đường Tăng:
- Sư phụ à, từ khi con làm người, cũng đã mặc nhiều áo lót, nhưng chưa được mặc một cái nào bằng gấm thêu cả. Sư phụ không mặc thì để con mặc một cái, thử một tí cái đồ mới cho nó ấm cật. Chừng nào sư huynh về, con sẽ cởi trả người ta rồi đi.

Sa Tăng nói:

- Đã như vậy, con cũng mặc một cái.

Hai người cùng cởi chiếc áo ngoài ra, mặc chiếc áo lót vào. Vừa thắt dây xong, thì chẳng biết vì sao, hai người đứng không vững, ngã lăn kềnh ra đất. Hóa ra tấm áo lót ấy trói còn chặt hơn cả thừng chão. Trong chớp mắt, chiếc áo đã trói hai cánh tay dán chặt vào bụng. Tam Tạng sợ quá giậm chân oán trách, vội vàng bước tới cởi. Nhưng đâu có cởi được?

Ba người kêu la om sòm không ngớt, làm kinh động đến yêu ma.

Nguyên lâu đài nhà cửa ấy đúng là do yêu tinh hóa phép ra, suốt ngày nó đợi ở đó để bắt người. Yêu quái đang ngồi trong động bỗng nghe thấy tiếng ai oán, bèn vội vàng mở cửa nhìn, thấy quả có người bị trói, bèn sai bọn tiểu yêu đến đó, thu hết hình lâu đài nhà cửa, bắt giữ Đường Tăng, dắt ngựa, gánh hành lý cùng cả Bát Giới, Sa Tăng đưa tất cả về động. Lão yêu quái ngồi trên đài cao. Bọn tiểu yêu lôi Đường Tăng đến bên đài bắt quỳ phủ phục xuống đất. Yêu quái hỏi:

- Nhà ngươi là hòa thượng ở đâu? Tại sao dám to gan, giữa ban ngày ăn trộm quần áo của ta?

Tam Tạng nước mắt giàn giụa trả lời:

- Bần tăng là người nước Đại Đường bên phương Đông, vâng mệnh nhà vua sang phương Tây lấy kinh. Nhân lúc bụng đói, sai đồ đệ cả đi xin cơm chay chưa về, lại không chịu nghe lời hắn dặn dò, đi nhằm vào sân tiên tránh gió. Không ngờ hai đồ đệ của tôi tắt mắt, nhặt lấy mấy chiếc áo ấy đem về. Bần tăng quyết
không có bụng xấu, bắt chúng đem trả lại chỗ cũ. Nhưng chúng không nghe lời, muốn mặc một lát cho ấm cật, không ngờ trúng phải mưu kế của đại vương, bắt bần tăng về đây. Muôn nghìn lần mong đại vương rủ lòng thương, tha cho tấm thân tàn, lấy được chân kinh, thì tôi mãi mãi ghi sâu công ơn của đại vương, chừng nào về tới phương Đông sẽ ngợi khen, lưu tên muôn thuở!

Yêu tinh cười nói:

- Ta ở đây thường nghe người ta nói: người nào ăn được một miếng thịt Đường Tăng, thì tóc bạc lại đen, răng rụng lại mọc. May sao hôm nay không mời mà Đường Tăng tự đến, vậy thì làm gì có chuyện tha nhà ngươi? À, còn đồ đệ cả của nhà ngươi tên là gì? Đi xin cơm chay ở đâu?

Bát Giới nghe yêu quái hỏi như vậy, bèn mở mồm ca ngợi luôn:

- Sư huynh tôi là Tề Thiên đại thánh Tôn Ngộ Không, đại náo thiên cung năm trăm năm về trước.

Yêu quái nghe nói là Tề Thiên đại thánh Tôn Ngộ Không, trong lòng có vẻ sợ hãi, nhưng không nói ra, nghĩ thầm trong bụng:

- Từ lâu ra đã nghe tiếng hắn thần thông quảng đại, không ngờ hôm nay gặp gỡ.

Bèn ra lệnh:

- Bọn nhỏ, trói Đường Tăng lại, cởi bảo bối cho hai tên kia rồi lấy hai sợi thừng trói cả lại, khiêng chúng quẳng ở đằng sau, đợi ta bắt nốt tên đồ đệ cả, tắm rửa sạch sẽ, bỏ tuốt vào lồng hấp chín ăn thịt.

Bọn tiểu yêu dạ ran vâng lệnh, trói nghiến cả ba người lại khiêng ra đằng sau, buộc con ngựa bạch vào trong tầu, và cất
hành lý vào trong nhà, đoạn chuẩn bị mài sắc binh khí để bắt
Hành Giả. Chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện Tôn Hành Giả từ lúc xúc được bát cơm của một nhà ở xóm phía Nam, bèn cưỡi mây theo lối cũ về thẳng chỗ bãi đất bằng bên sườn núi, hạ mây bước xuống nhìn quanh chẳng thấy Đường Tăng, không biết sư phụ đi đằng nào. Cái vòng vạch bằng gậy vẫn còn đó, mà người ngựa chẳng thấy đâu. Cả nhà cửa lâu đài cũng không thấy nốt, chỉ thấy toàn đá bày lởm chởm dưới chân núi. Hành Giả trong lòng sợ hãi, nói:
- Chẳng cần phải hỏi, đích thị thầy trò gặp phải tay độc thủ rồi! Bèn vội vàng lần vết chân ngựa đuổi theo về hướng Tây. Đi
được chừng năm sáu dặm, đang khi lo lắng, bỗng nghe thấy ở
sườn núi phía Bắc có tiếng người nói. Hành Giả bèn để ý quan sát, thấy một ông già áo lông chiên che kín người, mũ ấm trùm đầu, chân xỏ một đôi giày da đã hơi cũ, tay chống chiếc gậy chạm đầu rồng. Một chú tiểu đồng đi theo sau bẻ một cành hoa mai vừa đi vừa hát ở phía trước sườn núi. Hành Giả dặt chiếc bát, bước tới gần cất tiếng:

- Chào cụ, cụ cho bần tăng hỏi một chút. Cụ già đáp lễ, rồi hỏi lại:
- Trưởng lão ở đâu tới đây? Hành Giả đáp:
- Chúng tôi từ tận phương Đông sang phương Tây lễ phật cầu kinh. Cả đoàn có bốn người. Nhân sư phụ tôi đói bụng, tôi đi xin cơm chay, và dặn họ ngồi đợi ở bãi đất bằng bên sườn núi này. Khi tôi quay về chẳng thấy họ đâu cả, không biết họ đi lối nào. Dám xin hỏi cụ, rằng cụ có gặp họ không ạ?

Cụ già nghe xong, khà khà cười nhạt nói:

- Ba vị ấy có phải có một người tai to mõm dài không?
Hành Giả nói:

- Phải, phải!

Cụ già nói tiếp:

- Lại còn một người mặt đen sì, dắt con ngựa bạch, dẫn dường cho một vị hòa thượng mặt trắng béo tốt.

Hành Giả nói:

- Đúng! Đúng! Cụ già nói:
- Họ đi lạc đường, ai nấy đã bỏ mạng rồi, ngài đừng tìm nữa. Hành Giả nói:
- Người mặt trắng là sư phụ tôi, hai người mặt mũi xấu xí là sư đệ của tôi. Chúng tôi đã cùng nhau nguyện quyết một lòng sang phương Tây lấy kinh, không tìm họ thì làm sao được?

Cụ già nói:

- Tôi vừa mới qua đây thấy họ đi lầm đường, vào thẳng chỗ miệng yêu quái.

Hành Giả nói:

- Phiền cụ chỉ giùm đó là yêu quái gì? Ở nơi nào? Biết rõ, tôi mới có thể đến tận cửa nhà nó mà đòi về, để còn sang phương Tây chứ!

Cụ già nói:

- Ngọn núi này gọi là núi Kim Đâu, trước núi có động Kim Đâu, trong động có một yêu quái tên là Độc Giác Tỷ đại vương. Đại vương ấy thần thông quảng địa, võ nghệ cao cường. Ba người ấy chuyến này khéo chết mất. Ngài mà đi tìm họ thì e rằng ngay ngài cũng khó toàn tính mạng, chi bằng ngài đừng đi còn hơn. Tôi chẳng dám ngăn, cũng chẳng dám giữ ngài, tùy
ngài suy tính cho kỹ.

Hành Giả lạy hai lạy cảm tạ, rồi nói:

- Đa tạ cụ đã chỉ giáo. Lẽ nào tôi lại không đi tìm?

Đoạn trút bát cơm chay cho cụ già, còn mình chỉ giữ lại chiếc bát không. Cụ già đặt gậy, đỡ lấy chiếc bát đưa cho tiểu đồng, rồi hiện rõ chân tướng, quỳ gối dập đầu nói:

- Thưa Đại Thánh, tiểu thần không dám giấu, hai chúng tôi đây là sơn thần, thổ địa núi này đến đây đón Đại Thánh. Cơm chay và chiếc bát, tiểu thần xin giữ hộ, để Đại Thánh nhẹ người dễ thi thố pháp lực. Khi nào cứu Đường Tăng thoát nạn, lại xin dâng cho Đường Tăng bát cơm này, để tỏ rõ tấm lòng chí thảo chí hiếu của Đại Thánh.

Hành Giả quát mắng:

- Đồ ma quỷ hèn mọn, đáng đánh đòn các ngươi! Đã biết ta đến, tại sao không ra đón sớm, lại giở trò giấu đầu hở đuôi là nghĩa lý gì?

Thổ địa nói:

- Bởi Đại Thánh nóng tính, nên tiểu thần không dám đường đột, e xúc phạm oai danh, đành phải ẩn tướng báo cho Đại Thánh biết.

Hành Giả tạm nguôi cơn giận noi:

- Ta cho nợ đòn đấy! Giữ lấy chiếc bát cho ta, để ta đi bắt yêu quái!

Thổ địa, sơn thần tuân lệnh.

Đại Thánh bèn thắt lại chiếc dây quần bằng gân hổ xắn gọn ống quần bằng da hổ, tay cầm cây gậy sắt bịt vàng, đến thẳng trước núi tìm động yêu quái. Khi đi qua sườn núi, Hành Giả chỉ thấy đá xếp bừa bãi lởm chởm, bên sườn núi xanh biếc có hai
tấm cửa đá, ngoài cửa có rất nhiều tiểu yêu đang hoa thương múa kiếm, thật là:

Khói mây ngưng vẻ đẹp, Rêu thẳm nổi gò xanh, Đá tầng tầng xếp đặt,
Đường khấp khểnh len quanh

Vượn hót chim kêu phong cảnh đẹp Oanh bay phượng múa chốn bồng doanh Mai đón ánh dương cười chúm chím
Trúc phơi nắng ấm nhuộm xanh xanh Chân núi suối sâu băng đóng cứng Đỉnh non tuyết phủ trắng long lanh. Đôi rừng tùng bách nghìn năm đẹp Mấy gốc sơn trà đượm vẻ thanh
Đại Thánh ngắm mãi không chán, rồi rảo bước thẳng tới trước cửa, lớn tiếng gọi:

- Bọn tiểu yêu kia, hãy mau mau vào báo cho chúa động chúng bay, rằng ta là Tề Thiên đại thánh, đồ đệ của vị thánh tăng nhà Đường đây, hãy mau mau vào báo cho hắn trả ngay sư phụ cho ta, thì ta tha chết cho chúng bay!

Bọn tiểu yêu vội vàng chạy vào báo:

- Thưa đại vương, ngoài cửa có một hòa thượng mặt lông mõm dài, xưng là Tôn Ngộ Không Tề Thiên đại thánh đến đòi sư phụ.

Ma vương nghe vậy, trong lòng mừng rỡ, nói:

- Ta đang mong hắn đến đây. Từ ngày ta rời bản cung xuống trần thế, chưa từng đấu thử võ nghệ một lần nào. Hôm nay hắn đến, tất là một đối thủ.
Đoạn lập tức sai bọn tiểu yêu mang binh khí ra. Tiểu yêu lớn nhỏ trong động, con nào con ấy tinh thần phấn chấn, vội vàng khiêng ra một cây thương điểm gang dài một trượng hai thước đến cho lão quái.

Ma vương hạ lệnh:

- Lũ nhỏ, tất cả phải chỉnh tề. Đứa nào tiến sẽ thưởng, đứa nào lui sẽ giết!

Bọn tiểu yêu vâng lệnh theo sau ma vương ra ngoài động. Ma vương cất tiếng quát:

- Đứa nào là Tôn Ngộ Không?

Hành Giả nhìn qua, thấy một ma vương cực kỳ hung dữ:

Một sừng nhô cong vút, Hai mắt sáng long lanh, Dưới tai thịt xám xanh, Trên đầu da thô xám, Lưỡi dài thò liếm mũi,
Mồm rộng răng vàng khè, Da lông xanh lè lè,
Gân cốt cứng như thép Giống tê mà sợ nước Giống trâu chăng biết cày
Tuy cày bừa sớm tối không hay Nhưng dối đất lừa trời nức tiếng Hai tay nổi gân xanh lấp lánh
Sử thương dài báu vật hiên ngang

Trong hình thù dữ tợn hung hăng
Tên Tỷ đại vương thật xứng đáng.

Tôn Đại Thánh bước tới, nói:

- Ông ngoại họ Tôn của nhà ngươi đây! Mau mau trả sư phụ cho ta, thì cả hai bên vô sự. Nếu còn nói nửa lời “không”, thì ta nện cho một gậy không có đất mà chôn!

Ma vương quát lớn:

- Đồ con khỉ to gan khốn kiếp kia! Nhà ngươi có những mánh khóe gì mà dám khoác lác như vậy?

Hành Giả nói:

- Đồ yêu quái khốn kiếp, nhà ngươi chắc là chưa được thấy tài của lão Tôn?

Yêu quái nói:

- Sư phụ nhà ngươi ăn trộm quần áo của ta, bị ta bắt sống, đang định mổ thịt chén. Nhà ngươi là thằng cha nào mà dám tới cửa ta đòi?

Hành Giả nói:

- Sư phụ ta là nhà sư hiền lành ngay thẳng, lẽ điều lại lấy trộm vật mọn của nhà ngươi?

Yêu quái nói:

- Ta biến hóa ra một tòa lâu đài bên đường núi, sư phụ nhà ngươi lẻn vào bên trong, động lòng tham lấy trộm ba chiếc áo lót bằng vải bông viền gấm của ta mặc vào người, có tang chứng rõ ràng nên ta mới bắt. Bây giờ nhà ngươi thực có tài thì hãy đọ sức với ta, nếu ba hiệp địch được ta, thì ta tha chết cho sư phụ nhà ngươi. Bằng không, ta cũng cho nhà ngươi về âm phủ nốt!

Hành Giả cười, nói:

- Đồ yêu quái khốn kiếp, không cần lắm lời, chính hợp ý lão
Tôn. Nào, lại đây, nếm thử một gậy của ta!
Yêu quái đâu có sợ giao đấu, chĩa thẳng cây thương, ưỡn ngực xông vào. Trận đánh nhau thật khủng khiếp:

Gậy sắt vung lên, Thương dài múa tít,
Gậy sắt vung lên, ánh loang láng như rắn vàng uốn lượn Thương dài múa tít, chớp lòe lòe tựa rồng vượt biển xa Bọn tiểu yêu trước động hò la,
Bầy trận thế giúp sức thủ lĩnh, Bên này Đại Thánh tấn công mạnh, Ngang dọc tung hoành trổ võ oai Bên kia yêu quái múa thương dài,
Quyết được thua tinh thần phấn chấn.

Kẻ hảo hán gặp người hảo hán Đúng là hai địch thủ kỳ phùng Ma vương phun hơi đỏ tứ tung
Đại Thánh mắt lóa vầng mây sáng Cũng chỉ tại Đường Tăng gặp nạn Nên hai bên vô nghĩa đánh nhau!
Hai người đánh nhau đến ba hiệp không phấn thắng bại. Ma vương thấy Tôn Ngộ Không đường gậy tề chỉnh, tiến thoái nhịp nhàng, không một miếng sơ hở, bèn khoái trá hét tiếng khen ngợi:

- Con khỉ khá lắm! Con khỉ khá lắm! Thật đúng là có bản lĩnh đại náo thiên cung!

Đại Thánh cũng thích phép đánh thương phân minh, che phải đỡ trái, rất có phép tắc của yêu quái, cũng cất tiếng khen:
- Yêu quái giỏi lắm! Yêu quái giỏi lắm! Quả đúng là con ma ăn trộm linh đơn!

Hai bên lại đấu tiếp hai mươi hiệp nữa. Đoạn ma vương chống mũi thương xuống đất, ra lệnh cho bọn tiểu yêu nhất tề xông ra. Bọn tiểu yêu con nào con nấy cầm đao vác gậy, múa kiếm hoa thương, vây chặt Đại Thánh vào giữa. Hành Giả bình tĩnh như không, lớn tiếng gọi:

- Lại đây! Lại đây! Chính hợp ý ta!



Bèn sử cây gậy sắt, che trước đỡ sau, đánh dông chặn tây. Lũ tiểu yêu vẫn không chịu lùi bước. Hành Giả không kìm được tức giận, bèn tung cây gậy sắt lên, hô “biến”, tức thì biến thành hằng trăm, hàng nghìn cây gậy sắt đầy khắp không trung, loang loáng như rắn lượn, rồng bay đánh xuống tơi bời. Bọn tiểu yêu thấy vậy, con nào con nấy hồn bay phách tán, ôm đầu rụt cổ chạy tháo thân vào trong động.
Ma vương cười nhạt, nói:
- Con khỉ không được vô lễ! Hãy nhìn tài nghệ của ta đây! Đoạn rút trong tay áo ra một cái vòng trắng sáng lấp lánh, ném
vút lên tầng không, miệng hô “thu”, bỗng ầm một tiếng, bao nhiêu cây gậy sắt bị thu lại thành còn có một cây, ma vương cướp lấy đem đi, khiến cho Đại Thánh còn trơ tay không, phải tìm đường chạy trốn thoát thân.

Yêu quái thắng trận quay về động. Hành Giả đầu óc tối tăm chẳng còn biết làm thế nào nữa. Thế mới thật là:

Đạo một thước ma cao một trượng, Tính hôn mê nhầm tưởng nhà dân Giận ai chẳng vững pháp thân,
Nghĩ sai, hành động lần lần cũng sai.

Cuối cùng không biết phen này kết quả ra sao xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ NĂM MƯƠI MỐT Nghìn mưu Đại Thánh thành vô dụng, Nước lửa không công khó diệt ma
Lại nói chuyện Tề Thiên Đại Thánh tay không bị thua trận,
chạy về ngồi ở phía sau núi Kim Đâu, hai dòng nước mắt chứa chan nói:

- Sư phụ ơi, con chỉ mong cùng với sư phụ:

Phật ân có đức có hòa dung. Cùng trẻ cùng sinh ý chẳng cùng. Cùng trụ cùng tu cùng giải thoát. Cùng từ cùng niệm hiển linh công.
Cùng duyên cùng tướng tâm khăng khít, Cùng thấy cùng hay đạo đạt thông Không gậy giờ đây toan tính chịu,
Tay không tấc sắt khó thành công.

Đại Thánh khóc lóc thê thảm hồi lâu nghĩ thầm trong lòng:

- Yêu quái nhận ra ta. Ta nhớ lúc đánh nhau nó khen ngợi ta: “Thật xứng đáng đại náo thiên cung!”. Vậy thì xem ra, nó không phải là yêu quái dưới trần, chắc chắn là hung tinh trên trời, nhớ nhung phàm trần mà xuống. Nhưng cũng không biết là ma quái ở nơi nào giáng hạ, phải lên thượng giới kiểm tra xem sao.

Hành Giả lòng lại hỏi lòng, tự mình chủ trương tính toán như vậy rồi bèn co người nhảy vút lên đám mây lành, đến thẳng bên ngoài cửa Nam Thiên, ngẩng đầu nhìn, đã thấy Quảng Mục
Thiên Vương ra đón, vái dài một cái rồi hỏi:

- Đại Thánh đi đâu đấy? Hành Giả nói:
- Có việc cần gặp Thượng Đế. Ngài ở đây làm gì? Quảng Mục thưa:
- Hôm nay đến phiên tôi canh gác ở cửa Nam Thiên.

Vừa dứt lời, lại thấy bốn đại nguyên soái Mã, Triệu, Ôn, Quan tới chào, nói:

- Thưa Đại Thánh, chúng tôi không kịp đón. Xin mời Đại
Thánh xơi nước đã.

Hành Giả nói:

- Đang có việc cần lắm.

Bèn từ biệt Quảng Mục và bốn nguyên soái vào thẳng bên trong cửa Nam Thiên, tới bên ngoài điện Linh Tiêu, lại thấy cả bốn vị thiên sư Trương Đạo Lãng, Cát Tiên Ông, Hứa Tinh Dương và Khâu Hoằng Tế cùng sáu ty Nam Đẩu, bảy nguyên Bắc Đẩu đón Hành Giả ở trước điện. Mọi người giơ tay hỏi:

- Đại Thánh tại sao lại tới đây? Đoạn hỏi tiếp:
- Công việc bảo vệ Đường Tăng hoàn thành chưa? Hành Giả nói:
- Chưa đâu! Chưa đâu! Đường xa ma nhiều, mới đi được nửa đường. Bây giờ đây lại đang gặp trở ngại ở động núi Kim Đâu. Có một giống yêu quái tựa loài tê giác, bắt mất sư phụ nhốt trong động. Lão Tôn đã tìm đến cửa động, đánh nhau với nó một trận. Nhưng yêu quái ấy thần thông quảng đại, cướp mất cả gậy sắt của lão Tôn, vì vậy không bắt được nó. Lão Tôn ngờ rằng
chắc là một vị hung tinh nào đó trên thượng giới nhớ nhung phàm trần nhưng chẳng biết ma quái từ nơi nào giáng hạ, nên đành phải lên đây tìm Thượng Đế, chất vấn ngài ấy về tội quản thúc không nghiêm.

Hứa Tinh Dương cười, nói:

- Con khỉ này vẫn giữ chứng hỗn hào! Hành Giả nói:
- Không phải hỗn hào, Lão Tôn này cả đời mồm miệng thẳng thắn, như thế mới tìm ra đầu mối chứ!

Trương Đạo Lãng nói:

- Chẳng phải nói nhiều, vào truyền đạt giúp hắn cho xong. Hành Giả nói:
- Xin đa tạ! Xin đa tạ!

Bốn vị thiên sư vào điện Linh Tiêu báo và dẫn Hành Giả vào yết kiến Thượng Đế.

Hành Giả ngước lên chào một tiếng thật to, rồi nói:

- Thưa lão quan, phiền ngài quá! Phiền ngài quá! Lão Tôn tôi hộ vệ Đường Tăng sang phương Tây lấy kinh, dọc đường dữ nhiều lành ít, việc đó cũng chẳng cần nói. Hiện tại có một con yêu quái nom tựa loài tê giác ở động núi Kim Đâu bắt mất Đường Tăng vào động, chẳng biết định đem hấp, đem hầm, hay đem quay. Lão Tôn đã tìm tới cửa động đánh nhau với nó. Yêu quái có nhận ra lão Tôn, và hắn thực là thần thông quảng đại, cướp mất cả cây gậy sắt nạm vàng của lão Tôn nữa. Vì vậy lão Tôn không bắt được nó. Lão Tôn ngờ rằng hắn là một vị hung tinh trên trời nhớ nhung phàm trần mà xuống.Nay lão Tôn lên đây tâu với Thượng Đế, mong Thiên Tôn rủ lòng thương, xuống chiếu kiểm tra các hung tinh, điều quân tiễu trừ yêu quái. Được như vậy thì lão Tôn cảm tạ khôn xiết!
Nói xong lại cúi rạp người, nói:

- Xin chờ lệnh!

Cát Tiên Ông đứng bên cạnh, cười nói:

- Con khỉ này trước thì nhờn sau lại kinh thế nhỉ? Hành Giả nói:
- Không dám! Không dám! Không phải là trước nhờn sau kính gì đâu. Lão Tôn bây giờ làm gì có gậy sắt múa nữa!

Lúc ấy Ngọc Hoàng Thiên Tôn nghe tâu xong, lập tức ra lệnh cho Khả Hàn Ty rằng:

- Nếu đúng như lời tâu của Ngộ Không, hãy cho kiểm tra tinh đẩu khắp trời, tinh tú thần vương khắp nơi, xem có ai nhớ phàm trần xuống hạ giới không. Nếu có, phải tâu lên ngay để thi hành!

Trương Nhân chân quân ở Khả Hàn Ty vâng lệnh cùng Đại Thánh đi kiểm tra ngay. Đầu tiên, kiểm tra các vị thần vương quan lại ở ngoài bốn cửa Thiên Môn; thứ đến kiểm tra các vị chân tiên lớn nhỏ ở ba cung Tử Vi; lại kiểm tra cả quan tướng ở lôi đình: Đào, Trương, Tân, Đặng. Cẩu, Tất, Bàng, Lưu. Cuối cùng kiểm tra ở ba mươi ba tầng trời, tầng nào cũng thấy đủ cả. Lại kiểm tra đến Nhị Thập Bát tú, bảy vị ở phương Đông là: Giốc, Cang, Đê, Phòng, Sâm, Vĩ, Cơ. Bảy vị ở phương Tây là: Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Tất, Bích; Bảy vị ở phương Nam, bảy vị ở phương Bắc, vị nào cũng có mặt. Lại kiểm tra đến Thất chính: Thái Dương, Thái Âm, Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ: đến bốn vị dư là: La Hầu, Kế Đô, Khí, Bột. Tinh tú khắp trời, không một ai nhớ nhung phàm trần lẻn xuống hạ giới cả. Hành Giả nói:

- Đã thế này, lão Tôn chẳng cần phải đến điện Linh Tiêu quấy quả Ngọc Hoàng đại đế làm gì, như thế bất tiện lắm. Mình ngài trở về tâu lại, tôi ngồi đây đợi ngài cũng được.

Trương Nhân chân quân nghe lời trở về.
Tôn Hành Giả ngồi đợi giờ lâu, bèn làm bài thơ ghi cảm hứng rằng:

Mây quang gió mát thăng bình, Sao ngời thần tĩnh điềm lành hiện ra. Yên vui trời đất giao hòa
Năm phương tám cực vui ca thái bình,

Vị Trương Nhân chân quân ở Khả Hàn Ty kiểm tra xong xuôi trở về tâu với Thượng Đế:

- Tinh tú khắp trời đều không thiếu, thần tướng các phương đều còn nguyên, tịnh không một ai nhớ nhung phàm trần xuống hạ giới.

Thượng Đế nghe tâu xong, nói:

- Cho phép Tôn Ngộ Không được chọn mấy viên thiên tướng xuống hạ giới bắt yêu quái.

Bốn đại thiên sư vâng lệnh Thượng Đế, lập tức ra ngoài điện
Linh Tiêu nói với Hành Giả:

- Thưa Đại Thánh, Thượng Đế ban ơn nói rằng ở cung trời không có vị thần nào nhớ cõi phàm xuống hạ giới cả, cho phép Đại Thánh được chọn mấy viên thiên tướng đi bắt yêu quái.

Hành Giả cúi đầu nghĩ thầm, rồi nói:

- Tướng tá nhà trời hạng kém lão Tôn thì nhiều, hạng hơn lão Tôn thì ít. Trước kia, khi ta đại náo thiên cung, Thượng Đế điều mười vạn tinh binh, chăng kín thiên la địa võng, thế mà không một viên tướng nào dám đọ sức với ta. Về sau, sai Tiểu Thánh Nhị Lang, có hắn mới là đối thủ. Giờ đây, yêu quái này thủ đoạn còn cao cường hơn ta, thì làm sao giành thắng lợi được?

Hứa Tinh Dương nói:

- Thời ấy khác, thời này khác, không thể giống nhau được.
Thường có câu: “Vật này trị vật kia” cơ mà. Đại Thánh dám trái chiếu chỉ của Thượng Đế chăng? Tốt nhất là nên tuyển chọn thiên tướng chớ có chần chừ mà lỡ việc.

- Đã vậy thì xin đa tạ ơn trên, không dám trái lệnh. Vả lại một là chẳng lẽ để chuyến đi này công cốc? Vậy phiền Tinh Dương tâu lại với Thượng đế chỉ xin cho Thác Tháp Lý Thiên Vương và thái tử Na Tra đi là đủ. Các ngài ấy còn có mấy thứ binh khí hàng yêu, xuống hạ giới đánh thử một trận với yêu quái xem sao. Nếu quả bắt được yêu quái, thì đó là cái may cho lão Tôn. Bằng không, lúc ấy sẽ tính sau.

Vị thiên sư vào tâu với Thượng Đế. Thượng Đế lập tức sai cha con Lý Thiên Vương đem thiên binh bản bộ đi giúp Hành Giả. Thiên Vương vâng lệnh đến gặp Hành Giả. Hành Giả nói với Thiên sư:

- Nhờ ơn Thượng Đế điều thiên vương đi, tôi cảm tạ khôn xiết. Còn một việc nữa, xin ngài tâu thêm cho điều cả hai vị Lôi Công đi nữa để sử dụng, đợi khi Thiên Vương đánh nhau với nó, bảo Lôi Công đứng bên đám mây, nhằm trúng đỉnh đầu yêu quái mà quất roi điện xuống, như thế mới là diệu kế!

Thiên sư cười, nói:

- Được! Được!

Bèn vào tâu với Thượng Đế, Thượng Đế bèn hạ lệnh sai hai Lôi công là Đặng Hỏa, Trương Phồn cùng Thiên Vương hợp sức đi bắt yêu quái giúp Đại Thánh. Hai người lập tức cùng Thiên Vương, Tôn Đại Thánh đi thẳng ra ngoài cửa Nam Thiên.

Trong khoảnh khắc đã tới nơi. Hành Giả nói:

- Núi này là núi Kim Đâu. Trong núi có động Kim Đâu. Các ngài bàn bạc, xem nên cử ai đi khiêu chiến trước?

Thiên Vương dừng mây bước xuống, đóng trại thiên binh ở
sườn núi phía nam rồi nói:

- Đại Thánh vốn đã biết thằng bé Na Tra Hồi đấy. Nó đã từng hàng phục yêu ma chín mươi sáu động rất giỏi biến hóa, bên mình có giắt binh khí hàng yêu, nên sai nó xuất trận trước.

Hành Giả nói:

- Đã vậy để lão Tôn dẫn thái tử đến.

Thái tử hùng uy phấn chấn, cùng Đại Thánh nhảy lên núi cao, tới thẳng cửa động, thấy cửa động đóng im ỉm, bên sườn núi tịnh không có một bóng yêu quái nào. Hành Giả bước tới lớn tiếng gọi:

- Đồ yêu quái khốn kiếp! Mau mau mở cửa, trả sư phụ cho ta! Bọn tiểu yêu giữ cửa nhìn thấy vội vàng chạy vào báo:
- Thưa Đại Vương, Tôn Hành Giả mang theo một tiểu đồng nam tới trước cửa thách đánh nhau.

Ma Vương nói:

- Con khỉ ấy bị ta cướp mất gậy sắt, tay không bất lực, chắc là hắn đi cầu viện binh tới.

Bèn ra lệnh:

- Mang binh khí ra đây!

Ma Vương cầm thương trong tay, bước ra ngoài cửa xem xét, thấy chú tiểu đồng tướng mạo thanh kỳ, tinh thần mạnh mẽ. Thật là:

Mặt ngọc đẹp tựa vầng trăng,

Môi son, miệng rộng, hàm răng màu ngà.

Long lanh mắt sáng chớp lòa, Vầng trán nở rộng tóc xòa như mây. Đai thêu phượng múa rồng bay.
Áo bào lấp lánh như rây hoa vàng.

Hộ tâm kinh sáng như gương. Áo giáp oai vệ giày vàng đẹp sao. Tiếng ấm áp, người thanh tao.
Tam thiên hộ giáo sánh nào Na Tra!

Ma Vương cười, nói:

- Chú mày là con thứ ba của Lý Thiên Vương tên là Na Tra thái tử, vậy cớ sao lại tới cửa ta hò hét?

Thái tử nói:

- Nhà ngươi là đồ ma quái khốn kiếp làm loạn, hãm hại vị thánh tăng bên phương Đông, nay ta vâng lệnh Thượng Đế đến bắt nhà ngươi!

Ma Vương cả giận, nói:

- Chắc là Tôn Ngộ Không mời nhà ngươi đến. Chính ta bắt vị thánh tăng ấy đấy! Bộ nhãi mép nhà ngươi có mấy ban võ nghệ mà dám khoác lác? Chớ có chạy, nếm một thương của ta đây!

Thái tử cầm kiếm trảm yêu vung lên đón đánh. Hai người lao vào đánh nhau, Đại Thánh vội vàng quay lên sườn núi cất tiếng gọi:

- Lôi Công đâu? Mau mau quất roi điện xuống đầu yêu quái, giúp thái tử bắt yêu quái!

Hai vị thần Đặng, Trương lập tức đạp áng mây sáng, đang định ra tay, bỗng thấy thái tử hóa phép biến mình thành ba đầu sáu tay, cầm sáu thứ binh khí, chém tới tấp vào yêu quái. Ma Vương cũng biến thành ba đầu sáu tau cầm ba cây thương dài chống đỡ. Thái tử lại trổ tài pháp lực hàng yêu, tung sáu thứ binh khí lên không trung. Sáu thứ binh khí đó là những thứ nào? Đó là kiếm chém yêu, đao chặt yêu, thừng trói yêu, chày giã
yêu, quả cầu thêu và bánh xe lửa. Thái tử hét to một tiếng “biến”, lập tức một biến mười, mười biến trăm, trăm biến ngàn, ngàn biến vạn, biến thành một loạt binh khí như gió nổi mưa sa, dày đặc kín mít đánh xuống người yêu quái. Song Ma Vương bình tĩnh như không, chẳng hề sợ sệt, một tay rút ra chiếc vòng trắng phau phau tung lên không, miệng hô “thu”, nghe xoảng một tiếng, sáu thứ binh khi lập tức đều bị cuốn đi hết. Na Tra thái tử sợ quá, tay không vội vàng bỏ chạy tháo thân. Ma Vương thắng trận quay về.

Hai vị Trương, Đặng đứng trên không trung cười thầm, nói:

- May mà ta sớm trông thấy, chưa phóng roi sét ra. Có phóng cũng bị nó thu mất, thì về ăn nói với Thượng Đế ra sao?

Hai vị bèn hạ mây bước xuống, cùng thái tử trở về sườn núi phía nam thưa với Lý Thiên Vương:

- Yêu ma quả là thần thông quảng đại! Ngộ Không đứng bên cạnh cười, nói.
- Thần thông của yêu quái chỉ có vậy thôi. Cái vòng ấy thật lợi hại. Không biết đó là thứ bảo bối gì, tung ra một cái là thu hết mọi vật?

Na Tra tức giận, nói:

- Đại Thánh chẳng ra làm sao! Bọn ta thua quân bại trận, đang rất buồn bực, tất cả chỉ vì Đại Thánh, mà Đại Thánh còn cười được à?

Hành Giả nói:

- Thái tử buồn bực, còn lão Tôn này không buồn bực chắc? Bây giờ chẳng biết làm thế nào, khóc không nổi, đành cười vậy.

Thiên Vương nói:

- Vậy thì làm thế nào bây giờ?
Hành Giả nói:

- Các ngài tính thế nào cũng được, cốt sao cướp được cái vòng là bắt được nó.

Thiên Vương nói:

- Cuốn không được, họa chỉ có nước lửa. Thường có câu: “Nước lửa vô tình”.

Hành Giả nghe xong, nói:

- Có lý đấy! Các ngài cứ ở đây, để lão Tôn lên trời một phen nữa.

Hai vị Đặng, Trương hỏi:

- Đi làm gì? Hành Giả đáp:
- Lão Tôn đi chuyến này, không cần phải vào tâu Thượng Đế, chỉ qua cửa Nam Thiên, vào cung Đồng Hoa mời Huỳnh Hoặc hỏa đức tinh quân đến phóng hỏa, đốt yêu quái một trận, và đốt luôn cả cái vòng, bắt sống yêu quái. Một là lấy lại binh khí trả các ngài về trời, hai là cứu nạn cho sư phụ tôi.

Thái tử nghe xong mừng lắm, nói:

- Đừng chần chừ nữa, mời Đại Thánh đi ngay cho. Chúng tôi chờ ở đây.

Hành Giả nhảy vút lên đám mây lành, bay thẳng tới cửa Nam
Thiên. Quảng Mục và bốn tướng ra nghênh đón hỏi:

- Đại Thánh có việc gì quay lại? Hành Giả nói:
- Lý Thiên Vương sai thái tử ra trận. Mới một trận đã bị yêu quái thu mất sáu thứ binh khí. Bây giờ ta phải vào cung Đồng Hoa mời Hỏa đức tinh quân đi giúp đánh giặc.
Bốn tướng không dám giữ lâu, để Đại Thánh đi. Đến cung
Đồng Hoa, đã thấy các vị thần ở bộ Hỏa vào báo:

- Có Tôn Ngộ Không muốn gặp chúa công.

Tam Khí hỏa đức tinh quân ở phương Nam sửa lại quần áo bước ra cửa đón Đại Thánh, nói:

- Hôm qua ty Khả Hàn kiểm tra cung chúng tôi, không có một ai nhớ nhung phàm trần cả.

Hành Giả nói:

- Biết rồi. Nhưng Lý Thiên Vương và thái tử thua trận, bị mất cả binh khí sai tôi đến mời ngài đi cứu viện cho.

Tinh quân nói:

- Na Tra và Tam đàn hải hội đại thần, từ ngày ra đời, đã hàng phục yêu ma chín mươi sáu động, thần thông quảng đại. Thái tử không thắng được, thì hy vọng gì được ở tiểu thần?

Hành Giả nói:

-  Chúng  tôi  đã  bàn  bạc  với  Lý  Thiên  Vương  rồi.  Trong khoảng trời đất, lợi hại nhất chỉ có nước với lửa mà thôi. Yêu quái có một cái vòng, cuốn được hết mọi đồ vật, chẳng biết là thứ bảo bối gì. Bởi chỉ lửa có thể diệt được hết mọi vật, nên mời tinh quân chỉ huy bộ Hỏa xuống hạ giới phóng hỏa đốt yêu quái, cứu sư phụ tôi thoát nạn.

Hỏa Đức tinh quân nghe xong, lập tức điểm thần binh bản bộ, cùng với Hành Giả xuống ngay phía nam sườn núi Kim Đâu yết kiến thiên vương và lôi công.

Thiên Vương hỏi:

- Tôn Ngộ Không, nhà ngươi lại đi gọi yêu quái tới để ta giao chiến với nó. Khi nào nó giơ vòng tra thì ta tránh đi, và bảo Hỏa Đức tinh quân dẫn quân ra đốt nó.
Hành Giả cười, nói:

- Đúng thế. Tôi và ngài đi nào.

Hỏa Đức cùng thái tử, hai vị lôi công Đặng, Trương đứng trên đỉnh núi cao.

Còn Đại Thánh tới thẳng cửa động Kim Đâu cất tiếng gọi:

- Mở cửa! Trả sư phụ cho ta!

Bọn tiểu yêu vội vàng chạy vào báo:

- Tôn Ngộ Không lại đến!

Ma Vương dẫn quân ra ngoài động, thấy Hành Giả bèn nói:

- Con khỉ khốn kiếp kia, lại mời quân nào đến đấy?

Ở bên này, Thác Tháp Lý Thiên Vương bước ra quát lớn:

- Yêu quái khốn kiếp, không nhận ra ta à? Ma vương cười, nói:
- Lý Thiên Vương, nhà ngươi đến báo thù cho lệnh lang và đòi lại binh khí hả?

Thiên Vương nói:

- Một là báo thù và đòi binh khí, hai là bắt nhà ngươi cứu
Đường Tăng. Chớ có chạy, nếm một đao của ta đây!

Ma Vương nghiêng người tránh, đoạn chĩa thẳng ngọn thương đâm sang. Hai bên đánh nhau rất quyết liệt ngoài cửa động:

Thiên vương đao chém, Yêu quái thương đâm.
Đao chém sáng lòe phun lửa nóng, Thương đâm khí bốc át mây sầu. Một kẻ yêu quái núi Kim Đâu.
Một người thiên thần Linh Tiêu xuống,
Kẻ dối Phật khoe tài cao thượng. Người cứu thầy trổ hết tài cao. Thiên vương hóa phép cát đá ào ào, Yêu quái ra oai bụi đất mù mịt.
Bụi tung trời đất đen kịt kịt, Cát bay sông bể réo ầm ầm, Hai bên đánh đỡ thật bạo hung
Chỉ tại Đường Tăng đi bái Phật.

Tôn Đại Thánh thấy hai người đánh nhau, bèn nhảy lên núi cao, nói vởi Hỏa đức tinh quân:

- Tam khí chú ý hộ cho nhé!

Yêu quái đánh nhau với Thiên vương đến lúc quyết liệt, bèn rút chiếc vòng ra. Thiên vương nhìn thấy, vội vàng nhảy lên đám mây lành, chực thua bỏ chạy. Từ đỉnh núi cao Hỏa đức tinh quân vội vàng truyền hiệu lệnh cho các hỏa thần nhất tề phóng hỏa. Trận lửa vô cùng lợi hại:

Kinh nói: “Phương Nam là tinh lửa” Tuy một đốm lửa nhỏ như sao,
Mà đốt trụi cánh đồng vạn khoảnh.

Đó chính là oai Tam khí mạnh, Biến ra trăm thứ lửa khác nhau
Nào thương lửa, đao lửa, cung lửa, tên lửa nhiệm mầu, Thần kỳ các bộ mỗi người một kiểu.
Kia lưng trời quạ lửa kêu reo réo, Đầu non cao ngựa lửa chạy ầm ầm. Từng đôi chuột đỏ…
Từng cặp rồng vàng…

Từng đôi chuột đỏ phun lửa nóng, vạn dặm đỏ ngòm, Từng cặp rồng vàng nhả khói đen, nghìn phương tối mịt, Xe lửa đẩy tới trước.
Hồ lô lửa mở ra.

Cờ lửa phần phật ráng đỏ sa, Gậy lửa vèo vèo đất nóng rực.
Ninh Thích cưỡi trâu nói làm chi cho mệt, Còn hơn nhiều trận Xích Bích của Chu Lang. Thật là lửa trời lợi hại, đâu phải lửa phàm, Cuồn cuộn bùng bùng gió bay đỏ rực.
Yêu quái thấy lửa bốc, chẳng sợ hãi một chút nào, vẫn tung chiếc vòng lên không trung đánh xoảng một tiếng, bao nhiêu rồng lửa, ngựa lửa, quạ lửa, chuột lửa, đao lửa, cung lửa, tên lửa, thương lửa đều bị chiếc vòng cuốn đi hết. Yêu quái thắng trận thu binh quay về động.



Hỏa đức tinh quân còn trơ chiếc cán cờ không trong tay, gọi các tướng về, hội họp với bọn thiên vương, ngồi cả ở sườn núi phía nam, nói với Hành Giả:

- Đại Thánh ạ, yêu quái ghê gớm thế này thật ít thấy! Nay tôi cũng bị mất hết cả khí cụ phun lửa, biết làm thế nào?

Hành Giả cười, nói:

- Bất tất phải oán thán. Các ngài tạm thư thả ngồi đấy một chút, lão Tôn lại đi chuyến nữa.

Thiên Vương hỏi:

- Đại thánh định đi đâu? Hành Giả đáp:
- Yêu quái không sợ lửa, ắt hẳn sợ nước. Thường có câu: “Thủy khắc hỏa”. Để lão Tôn tới cửa Bắc Thiên mời Thủy đức tinh quân dùng thế nước, làm mưa xối xuống động nó, dìm chết
yêu quái, thu hồi vũ khí trả lại các ngài.

Thiên Vương nói:

- Kế ấy tuy hay, nhưng chỉ sợ cả sư phụ của Đại thánh cũng bị chết chìm luôn.

Hành Giả nói:

- Không sao, sư phụ tôi chết chìm, tôi sẽ có cách cứu sống. Bây giờ để các ngài phải đợi lâu, thực là áy náy.

Hỏa Đức nói:

- Đã như vậy, mời Đại Thánh đi ngay cho.

Đại Thánh lập tức dùng phép cân đẩu vân, đến thẳng bên ngoài cửa Bắc Thiên, ngẩng đầu nhìn đã thấy Đa Văn thiên vương bước tới vái chào, hỏi:

- Tôn Đại Thánh đi đâu vậy? Hành Giả đáp:
- Có việc muốn vào cung Ô Hạo gặp Thủy đức tinh quân. Ngài ở đây làm gì?

Đà Văn thưa:

- Hôm nay đến phiên tôi đi tuần.

Đang hỏi chuyện, lại thấy bốn đại thiên tướng Bàng, Lưu, Cẩu, Tất đến chào và mời uống trà. Hành Giả nói:

- Cảm ơn! Cảm ơn! Tôi đang có việc gấp lắm!

Bèn từ biệt mấy thần giữ cửa, đi thẳng vào cung Ô Hạo. Các thủy thần ở thủy bộ lập tức vào thông báo:

- Có Tề Thiên đại thánh Tôn Ngộ Không tới.

Thủy đức tinh quân nghe báo, vội vàng cho các vị long vương ở Tứ hải Ngũ hồ, Bát hà Tứ độc, Tam giang Cửu phái, và long vương ở các nơi tạm lui, rồi sửa lại mũ áo cho ngay ngắn, ra cửa
cung nghênh đón, mời Hành Giả vào trong cung, nói:

- Hôm qua ty Khả Hàn đã kiểm tra cung chúng tôi, sợ rằng có vị thần nào trong bản bộ nhớ cõi phàm xuống đó tác quái. Hiện đang kiểm tra các vị thần ở suối khe sông biển vẫn chưa xong.

Hành Giả nói:

- Ma Vương không phải là thần ở sông ngòi, mà là yêu quái thần thông quảng đại. Trước đó tôi đã được Thượng Đế sai cha con Lý Thiên Vương cùng hai vị lôi công xuống hạ giới đánh bắt, nhưng bị yêu quái dùng chiếc vòng thu hết cả các thứ binh khí. Lão Tôn chẳng biết làm thế nào, đành đến cung Đồng Hoa mời Hỏa đức tinh quân dẫn các vị thần ở bộ Hỏa xuống phóng hỏa. Song chiếc vòng cũng thu tất cả các vật rồng lửa, ngựa lửa. Tôi nghĩ yêu quái không sợ lửa, ắt sợ nước, nên đến mời Tinh quân xuống dùng thế nước giúp tôi bắt yêu quái, lấy lại binh khí trả cho thiên tướng về trời, và cứu sư phụ tôi thoát nạn.

Thủy đức nghe xong lập tức ra lệnh cho Thủy Bá thần vương
Hoàng Hà:

- Theo Đại Thánh đi trợ chiến!

Thủy Bá rút trong tay áo ra một viếc vò bằng ngọc trắng nói:

- Tôi có cái này để đựng nước. Hành Giả nói:
- Xem ra cái vật này đựng được bao nhiêu? Yêu ma chết chìm làm sao được?

Thủy Bá nói:

- Chẳng giấu Đại Thánh, cái vò này là của tôi đựng tất cả nước sông Hoàng Hà đấy. Lưng vò là nửa sông, đầy vò là cả sông.

Hành Giả mừng lắm, nói:
- Chỉ độ nửa vò là đủ.

Đoạn từ biệt Thủy Đức, cùng thần sông Hoàng Hà rời khỏi cửa trời.

Thủy Bá múc lưng vò nước ở sông Hoàng Hà rồi đi theo Đại Thánh đến phía nam sườn núi Kim Đâu yết kiến Thiên Vương, thái tử, Lôi Công, Hỏa Đức. Mọi người nói rõ mọi việc. Hành Giả nói:

- Chẳng cần phải kể kỹ càng, cứ để Thủy Bá đi theo tôi, chờ khi nào tôi gọi yêu quái mở cửa, và cũng chẳng cần phải đợi nó ra, cứ việc đổ nước xuống cửa nhà nó, cho cả ổ nhà nó chết chìm. Lúc ấy tôi đi vớt sư phụ cứu sống cũng không muộn.

Thủy Bá vâng lệnh, theo sát Hành Giả, vượt qua sườn núi, đến thẳng cửa động, cất tiếng gọi:

- Yêu quái mở cửa!

Lũ tiểu yêu giữ cửa nhận ra giọng nói của Đại Thánh, vội vàng trở vào báo:

- Tôn Ngộ Không lại đến!

Yêu quái nghe báo, bèn giắt bảo bối, cầm thương dài bước ra. Ầm một tiếng, tấm cửa đá mở toang. Thủy Bá liền dốc ngược chiếc vò bằng ngọc trắng. Yêu quái thấy nước chảy ra, vội vàng bỏ cây thương xuống, rút chiếc vòng ra bịt lấy cửa. Chỉ thấy dòng nước ầm ầm tuôn ra lai láng. Tôn Đại Thánh sợ quá vội vàng tung người cùng Thủy Bá nhảy lên đỉnh núi cao. Thiên Vương cùng mọi người cưỡi mây đứng ở phía trước đỉnh nói ngắm dòng nước mênh mông cuồn cuộn, sóng vỗ ầm ầm. Dòng nước thực là khủng khiếp:

Một gáo là bao

Mà sao ghê gớm,

Đúng là nhờ thần công giỏi biến hóa,
Lợi muôn vật và đầy ắp trăm sông,

Chỉ nghe thấy trước hang nước chảy cuốn như rồng, Lại nhìn thấy thế nước mênh mông đầy trời thẳm, Oai hùng như thiên lôi vang nghìn dặm,
Dũng mãnh tựa sông tuyết cuộn non dương, Nghìn trượng sóng băng ngập kín mặt đường, Muôn tầng nước nhận chìm sườn núi dựng. Lành lạnh như thấu ngọc,
Dào dạt tựa đàn rung.

Vỗ đá xanh bọt ngọc bắn tứ tung,

Vòng quanh chảy xoáy sâu dòng thăm thẳm.

Chỗ trũng bờ khe nước dâng ngập trắng, Lòng suối, sườn non ánh bạc một vùng.

Hành Giả thấy thế sợ hãi, nói:

- Hỏng bét rồi! Nước chảy khắp nơi, ngập trắng cả ruộng nương của dân chúng, mà chẳng chảy vào trong động của yêu quái một giọt, làm thế nào bây giờ?

Bèn gọi Thủy Bá cho thu nước về. Thủy Bá nói:

-  Tiểu  thần  chỉ  biết  đổ  nước,  chứ  không  biết  thu  nước. Thường có câu: “Nước đổ khó thu” mà.

Chà! Ngọn núi này cao ngất, mà dòng nước chỉ cuồn cuộn chảy ở dưới chân. Trong giây lát, nước chảy khắp nơi lại dồn về khe, suối.

Lúc ấy, lại thấy ngoài cửa động có mấy đứa tiểu yêu nhảy ra hò hét ầm ĩ, vung gậy múa thương, vui đùa nhảy nhót như trước. Thiên Vương nói:

- Dòng nước không chảy vào trong động tí nào, phí cả công sức!

Hành Giả kìm không nổi bực tức trong lòng, hai tay múa quyền, xông đến trước cửa động quát lớn:

- Chạy đi đâu! Coi ta đánh đây!

Mấy đứa tiểu yêu sợ quá vứt thương quẳng gậy, chạy tọt vào trong động, run rẩy báo:

- Đại vương ơi, nguy rồi, họ lại đánh tới nơi! Ma vương vác thương dài bước ra cửa nói:
- Con khỉ khốn kiếp hỗn láo kia! Nhà ngươi đã mấy phen không địch nổi ta, phóng lửa phun nước cũng vô ích, cớ sao lại dám đến nộp mạng?

Hành Giả nói:

- Thằng bé này nói ngược rồi! Không biết ta nộp mạng hay nhà ngươi nộp mạng? Lại đây, ông ngoại mày cho một đấm!
Yêu quái cười, nói:

- Con khỉ này chỉ được cái miễn cưỡng cà khịa! Ta sử dụng thương, nhà ngươi giở quyền, cái nắm đấm da bọc xương bé bằng quả đào kia địch sao nổi một chùy này? Được, được! Ta cũng quẳng thương đi, cùng nhà ngươi đi một đường quyền xem sao!

Hành Giả cười, nói:

- Nói được đấy! Nào lại đây!

Yêu quái phất áo bước đến, đứng tấn, vung hai nắm tay lên, trông chẳng khác cái chùy sắt ngoáy dầu. Đại Thánh cũng đưa chân nghiêng người tạo một thế đánh, cùng với Ma Vương đọ quyền ngay trước cửa động. Trận đánh này rất dữ dội! Chà!

Đánh miếng đại tứ bình, Đá ngón song phi cước. Móc sườn thụi vào ngực, Rách mật đấm trúng gan. Thế người tiên chỉ đường, Miếng Lão Tử cưỡi hạc. Hổ đói vồ xơi xác,
Thuồng luồng giỡn nước xanh.

Ma Vương đánh miếng trăn uốn mình, Đại Thánh đi bài ngựa đá cất Kiễng chân dìm rồng đất,
Úp bát thành túi trời.

Sư tử há mồm xơi, Cá chép tung vây bạc.
Quanh sườn non dây buộc, Đỉnh đầu hoa nở xòe. Cơn gió căng quạt che,
Mưa rơi hoa rụng xuống,

Ma Vương sử miếng Quan Âm chưởng, Đại Thánh đi bài La Hán quyền, Trường quyền dù thoáng, dù tự nhiên, So với đoản quyền không kín đáo.
Hai ben đánh nhau thật táo bạo,

Tài nghệ ngang nhau chẳng được thua.

Hai người đánh nhau trước cửa động, trên đỉnh núi cao, Lý Thiên Vương thích thú reo hò không ngớt. Hỏa đức tinh quân vỗ tay khen ngợi. Hai vị lôi công và Na Tra thái tử dẫn các vị thần chạy tới gần định xông vào giúp sức. Bên kia bọn tiểu yêu phất cờ gióng trống, múa kiếm vung đao, nhất tề cổ vũ. Tôn Đại Thánh thấy việc không xong, bèn nhổ một sợi lông, tung lên trên không hô “biến”, lập tức biến thành dăm ba chục con khỉ nhỏ, xông ùa cả vào túm chặt lấy yêu quái, con ôm chân, con túm sườn, con móc mắt, con vặt lông. Yêu quái sợ quá, vội vàng rút chiếc vòng ra. Đại Thánh và bọn thiên vương thấy yêu quái rút vòng ra, cuống quýt nhảy lên mây, nhảy lên đỉnh núi chạy trốn. Yêu quái tung chiếc vòng lên trời đánh xoảng một tiếng, thu hết cả mấy chục con khỉ con do sợi lông biến thành, biến lại thành sợi lông cuốn vào trong động, thắng trận dẫn quân về, đóng chặt cửa ăn mừng vui vẻ.

Thái tử khen:

- Tôn Đại Thánh thật là một trang hảo hán! Đi bài quyền ấy khác nào như gấm thêu hoa: sử phép phân thân tựa trước mặt
người quý hiển.

Hành Giả cười, hỏi:

- Các ngài đứng xa xem thấy tài nghệ của yêu quái so với lão
Tôn thế nào?

Lý Thiên Vương đáp:

- Đường quyền của nó rời rạc chậm chạp, không được kín đáo, nhanh nhẹn như Đại Thánh. Nó thấy chúng tôi đến, đã có vẻ lúng túng. Sau lại thấy Đại Thánh sử phép phân thân thì cuống cả lên, vội giở chiếc vòng ra.

Hành Giả nói:

- Ma Vương dễ trị, chỉ có chiếc vòng là khó trừ. Hỏa Đức và Thủy Bá nói:
- Muốn thắng, trừ phi phải lấy được thứ bảo bối đó, thì sau mới bắt được nó.

Hành Giả nói:

- Bảo bối của nó làm cách nào lấy được? Chỉ có bằng cách ăn trộm.

Hai vị lôi công Đặng, Trương cười, nói:

- Muốn làm kiểu đi xoáy, ngoài Đại thánh thì không ai làm nổi. Hồi nào đại náo thiên cung, ăn trộm rượu ngự, đào tiên, gan rồng, tủy phượng, và linh đơn của Lão Quân, ai có nổi tài nghệ ấy? Bây giờ chính là lúc nên giở cái trò ấy ra.

Hành Giả nói:

- Đúng! Đúng! Đã như vậy, các ngài cứ tạm ngồi đây nghỉ nghỉ để lão Tôn nghe ngóng xem sao.

Đoạn nhảy từ đỉnh núi xuống, lẻn đến trước động lắc người một cái, biến thành một con nhặng xanh, nom rất đẹp:
Đôi cánh mỏng tựa làn sương, Thân người bé tẹo tìm đường dò la. Tay chân phủ kín lông tơ,
Đôi mắt nhấp nháy như là sao rơi.

Có tài ngửi gió đánh hơi,

Bay thì nhanh nhẹn giữa trời veo veo.

Xem ra chỉ bé tẹo teo,

Thế mà tài nghệ hàng yêu có thừa.

Hành Giả nhẹ nhàng bay đến đậu trên tấm cửa, lần đến khe cửa chui vào trong, thấy yêu quái lớn nhỏ, con múa, con hát, đứng xếp hàng hai bên. Ma Vương ngồi trên đài cao, trước mặt bày những thức ăn: thịt rắn, nem hươu, tay gấu, bướu lạc đà, rau rừng, hoa quả, một bầu rượu bằng đá xanh. Mùi sữa dê, rượu dừa thơm phức, đựng trong bát lớn trông mà thèm.


Hành Giả lẫn vào trong đám tiểu yêu, biến thành một tiểu yêu đầu cầy, mon men bước lại gần bên đài xem xét một lúc lâu, chẳng biết bảo bối yêu quái để ở chỗ nào. Hành Giả bèn quay người vòng ra phía sau đài, thấy trong nhà sau rồng lửa, ngựa lửa đang bị treo ngược kêu gào rên rỉ. Hành Giả ngẩng đầu nhìn thấy cây gậy sắt nạm vàng dựa ở bức tường bên đông thì mừng quýnh, quên cả thay hình đổi dạng, chạy bổ tới chộp lấy cây gậy, hiện nguyên hình, múa gậy mở đường đánh thốc ra ngoài cửa. Lũ tiểu yêu sợ quá hồn bay phách tán. Ma Vương trở tay không kịp, bị Đại Thánh xô ngã, đẩy ngã đến hai ba lần. Hành Giả mở một con đường máu đánh thẳng ra ngoài cửa. Thế mới là:

Yêu ma kiêu ngạo không phòng bị, Gậy sắt lại về với chủ nhân.
Cuối cùng không biết lành dữ ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ NĂM MƯƠI HAI Ngộ Không đại náo động Kim Đâu Như Lai ngầm mách cho ông chủ
Lại nói chuyện Tôn Đại Thánh lấy được gậy sắt, đánh ra
ngoài cửa động, nhảy lên đỉnh núi cao, nơi các vị thần đứng, trong lòng hết sức vui vẻ. Lý Thiên Vương hỏi:

- Đại Thánh, trận vừa rồi thế nào? Đại Thánh đáp:
- Lão Tôn biến hóa lẻn vào động, thấy yêu quái đang múa hát, ăn tiệc mừng thắng trận, nhưng vẫn chưa dò la được bảo bối của nó để ở đâu. Tôi bèn vòng ra phía sau, bỗng nghe thấy tiếng rồng gào ngựa hét, biết ngay là các vật của bộ Hỏa. Chợt nhìn thấy cây gậy sắt dựng ở vách tường phía đông, lão Tôn vội vớ luôn, rồi mở đường đánh ra ngoài.

Các vị thần nói:

- Bảo bối của Đại Thánh được lấy lại rồi, còn bảo bối của chúng tôi biết bao giờ mới được về tay?

Hành Giả nói:

- Không khó đâu! Không khó đâu! Tôi đã có cây gậy sắt này rồi, dù thế nào cũng phải đánh gục nó lấy bảo bối về cho các ngài.

Đang trò chuyện, bỗng nghe thấy tiếng chiêng trống reo hò vang trời dậy đất phía sườn núi bên kia. Ấy là Tỷ Đại Vương dẫn bọn tiểu yêu đuổi theo Hành Giả. Hành Giả thấy vậy bèn cất tiếng nói:
- Tốt lắm! Tốt lắm! Chính hợp ý ta! Các ngài cứ ngồi đây, để lão Tôn đi bắt nó.

Đoạn vung gậy sắt, sấn đến trước mặt yêu quái, quát lớn:

- Đồ yêu quái khốn khiếp, chạy đi đâu? Hãy coi cây gậy đây! Yêu quái múa thương gạt ra, quát mắng:
- Con khỉ giặc kia thực là vô lễ! Tại sao lại đến ăn cướp đồ vật của ta giữa ban ngày ban mặt?

Hành Giả nói:

- Đồ nghiệt súc không biết sợ chết kia! Chính nhà ngươi giữa ban ngày tung vòng cướp cây gậy của ta, cây gậy đấy của nhà ngươi đấy à? Chớ có chạy, hãy nếm một gậy của lão Tôn đây!

Yêu quái múa thương đánh lại. Trận đánh này rất quyết liệt:

Đại Thánh ra oai mạnh

Ma Vương chẳng nhún nhường.

Hai bên cùng hăng hái. Ai nấy chí phương cường.
Người này gậy sắt như rồng múa Kẻ kia thương dài tựa rắn trườn. Người này gậy đánh như gió nổi. Kẻ kia thương đỡ tựa mưa tuôn. Mây mù dầy đặt rừng cây thẳm. Ráng dựng đầu non sắc núi buồn.
Khắp trời chim bay đều ngừng cánh.

Dã thú sơn lâm ẩn đáy hang. Bên kia bọn tiểu yêu hò hét.
Bên này Hành Giả đánh thêm cường.
Một cây gậy sắt không người địch. Đánh khắp phương tây vạn dặm trường. Một chiếc thương dài nên đối thủ.
Trấn giữ Kim Đâu tiếng dội vang. Trận này gặp gỡ không lùi bước.
Không phân thắng bại, quyết không hàng.

Ma Vương đánh nhau với Tôn Đại Thánh suốt ba giờ đồng hồ không phân thắng bại. Trời đã nhá nhem tối. Ma Vương chống cây thương nói:

- Ngộ Không dừng tay đã. Trời mờ đất tối không phải lúc đánh nhau, hai bên về nghỉ ngơi, sáng mai đánh tiếp.

Hành Giả mắng luôn:

- Đồ nghiệt súc khốn khiếp chớ có nói nữa! Lão Tôn đang cao hứng sá kể gì trời tối! Nhất định cùng nhà ngươi quyết được thua!

Yêu quái hét vang một tiếng, đâm dứ một thương, rồi bỏ chạy, dẫn theo bọn tiểu yêu vác giáo mác chạy vào động đóng chặt cửa lại.

Đại Thánh bèn cắp gậy trở về, các thiên thần đứng trên đỉnh núi mừng rỡ nói:

- Quả là Tề Thiên Đại Thánh võ nghệ cao cường, bản lĩnh vô biên!

Hành Giả cười, nói:

- Các ngài cứ quá lời, quá lời! Lý Thiên Vương bước tới, nói:
- Nói thực thà đấy chứ không phải khen nịnh đâu. Thật là một trang hảo hán! Trận này chẳng kém gì hồi quây thiên la địa võng
ngày xưa!

Hành Giả nói:

- Không nói chuyện cũ nữa. Ma Vương bị lão Tôn đánh trận này, tất có mệt mỏi. Lão Tôn cũng phờ cả người. Các ngài cứ yên tâm ngồi đây nhé, để tôi lại vào trong động dò la chiếc vòng của nó, cốt là trộm bằng được, bắt sống yêu quái, thu hồi binh khí trao lại cho các ngài về trời.

Thái tử nói:

- Bây giờ trời tối rồi, chi bằng ngủ một giấc, sáng mai hãy đi. Hành Giả cười, nói:
- Thái tử chẳng hiểu gì cả! Làm gì có chuyện đi ăn trộm lại khoét ngạch giữa ban ngày? Làm cái trò lần mò này phải đi vào ban đêm, không ai biết, không ai hay, mới kiếm chác được.

Hỏa Đức và Lôi Công nói:

- Thái tử đừng nói nữa. Việc này chúng ta đâu có biết. Đại Thánh đi lúc này, một là nhân lúc Ma Vương mệt mỏi, hai là đêm tối hắn không phòng bị chứ. Vậy mời Đại Thánh đi ngay, đi ngay thôi!

Đại Thánh cười hì hì, giấu gậy sắt, từ đỉnh núi nhảy xuống mò đến cửa động, lắc mình một cái, biến thành một con dế nhỏ. Thật là:

Miệng cứng râu cong da sạm. Mắt tinh móng sắc chân dài. Đêm vắng chân tường tỉ tỉ. Như là trò chuyện cùng ai. Cảnh vật sương rơi tịch mịch. Tiếng kêu đứt nối u hoài.
Lữ khách nhớ quê lòng rộn. Gậm giường thềm vắng dế ngơi.
Hành Giả dướn hai càng, nhảy dăm ba bước tới bên cửa, chui qua khe cửa vào trong, đậu dưới chân tường, lợi dụng ánh đèn quan sát tỉ mỉ, chỉ thấy bọn tiểu yêu lớn nhỏ miệng hùm răng sứa đang đánh chén lu bù. Hành Giả kêu tỉ tỉ một hồi. Lát sau, bọn tiểu yêu thu dọn rồi quay ra dọn giường chiếu đi ngủ. Ước chừng vào khoảng canh một, Hành Giả vừa bò vào phía nhà sau đã nghe thấy tiếng Ma Vương ra lệnh:

- Bọn nhỏ giữ cửa phải thức canh, kẻo Tôn Ngộ Không biến ra loài gì đó lẻn vào ăn trộm đấy.

Lại thấy cả một bọn trực đêm đi đi lại lại đánh chiêng rộn rã. Đại Thánh càng dễ hành động, lẻn ngay vào phòng, thấy một chiếc giường bằng đá, hai bên có mấy tên tinh núi ma cây lo việc son phấn. Bọn chúng trải giường hầu hạ Ma Vương cởi quần áo xong. Hành Giả nhìn thấy chiếc vòng trắng phau phau trên cổ tay trái của nó, chẳng khác nào một chiếc vòng ngọc. Ma Vương không tháo chiếc vòng ra, lại đẩy cao lên, khít chặt vào cánh tay, rồi mới đi ngủ. Hành Giả thấy vậy lại biến một lần nữa thành một con rệp vàng, bò lên giường chui vào trong chăn, lần tới cánh tay yêu quái đốt nhói một phát, yêu quái “á” một tiếng, trở mình chửi:

- Đồ gia nô đáng đánh đòn nhà chúng mày! Chăn không giũ, giường không quét để con gì nó cắn ông một phát đau nhói!

Đoạn đẩy cái vòng lên một chút nữa, rồi ngủ tiếp. Hành Giả bò lên chiếc vòng lại cắn một phát nữa. Yêu quái ngủ không được, lại trở mình càu nhàu:

- Ngứa thế này thì chết mất!

Hành Giả thấy yêu quái phòng bị cẩn thận, bảo bối giữ rịt bên người, không chịu tháo ra, liệu ăn trộm không nổi, bèn nhảy
xuống giường, biến lại thành con dế, chui ra ngoài, đến thẳng đằng sau, thấy rồng, ngựa lửa đang kêu la ở trong. Số là cánh cửa khóa chặt, rồng lửa, ngựa lửa bị treo ngược ở bên trong. Hành Giả hiện nguyên hình, bước tới trước cửa dùng phép tháo khóa, niệm thần chú, lấy tay giật một cái, hai tầng khóa đứt tung hết. Hành Giả đẩy cửa xông vào xem xét, hóa ra là những đồ hỏa khí ở bên trong phát sáng chói chang chẳng khác mặt trời. Chợt thấy những thứ để ở hai bên đông tây đều là mấy thứ binh khí giết yêu của thái tử, cùng những cung lửa, tên lửa của Hỏa Đức. Nhờ ánh lửa sáng, Hành Giả quan sát hết một lượt, lại thấy đằng cửa sau có một chiết bàn đá, trên bàn đặt một chiếc khay đan bằng tre, trong đựng một dúm lông tơ. Đại Thánh vui mừng khôn xiết, cầm dúm lông lên, hà vào một luồng hơi nóng, miệng hô “biến”, lập tức biến thành dăm ba chục con khỉ, sai chúng vơ hết lấy đao, kiếm, chày, dây, quả cầu thêu, bánh xe lửa, chuột lửa, ngựa lửa gồm tất cả các vật đã bị yêu quái cướp mất. Đoạn Hành Giả cưỡi trên rồng lửa, tung lửa ra đốt cháy suốt từ trong ra ngoài. Tiếng đùng đùng đoàng đoàng, ràn rạt đôm đốp bỗng chốc vang lên chẳng khác nào tiếng sét vang, pháo nổ liên hồi. Tiểu yêu lớn, nhỏ đang mơ mơ màng màng hoảng sợ vội trùm chăn ôm đầu, khóc lóc kêu la, con nào con nấy chẳng có lối chạy, bị lửa thiêu chết đến quá nửa. Mỹ Hầu Vương thắng trận quay về. Lúc này mới khoảng canh ba.

Lại nói chuyện Lý Thiên Vương cùng các vị thần đứng trên đỉnh núi cao, bỗng thấy ánh lửa sáng rực, vội vàng kéo cả đến, thấy Đại Thánh đang cưỡi con rồng lửa hò hét vang trời, dẫn bọn khỉ con lên thẳng đỉnh núi, miệng lớn tiếng gọi:

- Đến lấy binh khí! Đến lấy binh khí!

Hỏa Đức và Na Tra dạ một tiếng to, Hành Giả bèn rùng mình một cái, thu lấy những sợi lông lên trên người. Na Tra thái tử nhận lấy sáu thứ binh khí. Hỏa Đức tinh quân dẫn các vị thần ở
bộ Hỏa thu lấy các hỏa cụ như rồng lửa… Tất cả tươi cười, vui mừng khen ngợi, chúc mừng Hành Giả. Chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện lửa cháy khắp nơi trong động Kim Đâu, khiến cho Tỷ Đại Vương sợ hãi hoảng hốt, vội vàng cúi người mở cửa phòng, hai tay cầm lấy chiếc vòng, giơ sang bên đông, bên đông lửa tắt; giơ sang bên tây, bên tây lửa tắt. Lửa khói mờ mịt đầy trời, yêu quái cầm bảo bối giơ khắp một lượt, tự nhiên bốn bề lửa khói tắt sạch. Sau đó hắn vội vàng đi cứu bọn tiểu yêu, lúc ấy bọn chúng bị thiêu cháy đến quá nửa. Tất cả đực cái thu lại không đầy một trăm con. Kiểm tra đến chỗ cất binh khí, lại thấy mất sạch. Yêu quái đi ra phía sau xem xét, thấy Bát Giới, Sa Tăng và Đường Tăng vẫn bị trói chặt, con ngựa bạch vẫn còn trong tàu, gánh hành lý vẫn nằm trong nhà, bèn tức giận quát:

- Không biết thằng tiểu yêu nào vô ý để lửa cháy đễn nỗi thế này?

Một tên đứng hầu bên cạnh nói:

- Thưa đại vương, trận cháy này chẳng liên can gì đến người trong nhà. Đa phần là do thằng giặc trộm cướp doanh trại, thả những hỏa khí của bộ Hỏa ra đốt trại để lấy trộm thân binh mang đi đấy.

Ma Vương khi ấy mới tỉnh ngộ, nói:

- Không ai khác, đúng là thằng giặc Tôn Ngộ Không. Hèn nào ta ngủ cũng chẳng được yên. Đúng là con khỉ ấy biến ra con bọ gì đó bò vào đốt ta hai phát vào cánh tay. Hắn định ăn trộm bảo bối, nhưng bị ta giữ rất chặt, không lấy nổi, bèn ăn trộm binh khí, thả rồng lửa, buông lòng độc ác, định đốt cháy ta. Con khỉ giặc kia, nhà ngươi chỉ uổng công thôi, đâu có biết bản lĩnh của ta? Ta còn thứ bảo bối này bên người, là xuống biển không chìm, vào lửa không cháy! Lần này ta mà bắt được thằng giặc ấy, thì phải băm ra từng miếng mới hả lòng!
Yêu quái bực tức lầm bầm hồi lâu, bất giác đã nghe tiếng gà gáy sáng.

Đứng trên đỉnh núi cao, Thái tử lấy lại được sáu thứ binh khí, nói với Hành Giả:

- Đại Thánh ạ, trời đã sáng rồi, đừng chần chừ nữa. Bọn ta nhân lúc yêu quái nhụt hết nhuệ khí, lại có các vị thần ở bộ Hỏa giúp sức, phải đánh mạnh một phen nữa, may ra bắt được yêu quái chăng?

Hành Giả cười nói:

- Thái tử  nói có lý đấy. Chúng ta  đồng lòng “chơi”  một chuyến nữa!

Thế là ai nấy tinh thần phấn chấn, khoa chân múa tay, kéo đến thẳng cửa động. Hành Giả lớn tiếng gọi:

- Đồ yêu quái khốn khiếp, ra đây đánh nhau với lão Tôn!

Hai tấm cửa đá đã bị lửa đốt cháy thành tro bụi, bên trong chỉ có mấy tiểu yêu đang quét dọn. Bọn chúng bỗng thấy các vị thần kéo đến, sợ quá quăng chổi vứt xẻng, chạy tọt vào trong báo:

- Tôn Ngộ Không dẫn rất nhiều thiên thần kéo tới ngoài cửa mắng chửi thách đánh nhau.

Tỷ Đại Vương nghe thấy bảo vừa sợ vừa tức, nghiến răng ken két, mồ hôi lấm tấm, hai mắt căng tròn, vác cây thương dài, mang theo bảo bối bước ra cửa, chửi mắng loạn xị:

- Đồ con khỉ giặc lẻn vào trại ta phóng hỏa kia, nhà ngươi có bao nhiêu thủ đoạn mà dám coi khinh ta như vậy?

Hành Giả cười gằn, mắng lại:

- Đồ yêu quái khốn khiếp, nhà ngươi muốn biết thủ đoạn của của ta? Nào, bước gần đây, ta nói cho mà nghe:

Sinh ra nổi tiếng anh hùng.
Tiếng tăm đồn đại khắp trong đất trời.

Tu tiên tỉnh ngộ tức thời.

Được thầy truyền đạo muôn đời sống lâu.

Bái đất thánh, lập chí cao

Tìm nơi tu đạo không nao cõi lòng.

Thần thông bao phép học xong. Tùy mình biến hóa vẫy vùng khắp nơi. Lúc nhàn bắt hổ hàng chơi.
Khi buồn xuống biển trị loài rồng thiêng.

Núi Hoa Quả thế giới riêng.

Động Thủy Liêm ấy oai thiêng lẫy lừng.

Thượng giới ngấp nghé đã từng.

Mấy lần toan tính thanh trừng thiên cung.

Tề Thiên Đại Thánh trời phong.

Mỹ Hầu Vương tước lập công anh hào.

Vương Mẫu mở hội Bàn Đào.

Thiếp mời không gửi lòng nào chẳng điên?

Tức mình lẻn trộm rượu tiên.

Quỳnh tương ngọc dịch chẳng phiển lụy ai.

Gan rồng tủy phượng chén hoài.

Chân tu bách vị cứ xơi tì tì. Đào tiên, linh dược chi chi.
Chén xong thỏa thích sá gì người trông.

Của ngon vật lạ thiên cung.

Ăn xong chưa hả còn hòng lấy đi.
Thượng Đế coi chẳng ra gì.

Sai ngay thần tướng ra uy đánh liền.

Ác tinh Cửu điệu bốn bên.

Năm phương tinh tú tớ khiền đến nơi.

Khắp trời thần tướng thua rồi.

Thiên binh mười vạn ai người dám đương?

Nghe tin, Thượng Đế kinh hoàng.

Vội sai tiểu thánh Quân Giang dẹp loàn.

Hai bên biến hóa vô vàn.

Tinh thần phấn chấn gậy càn thương đâm.

Giúp họ có đức Quan Âm.

Nước cành dương liễu tay cầm vẩy xa.

Lão Quân tung chiếc vòng ra. Bắt ngay được tớ về tòa thiên cung. Trói dâng trước mặt cửu trùng.
Tào quan xét xử quyết lòng chẳng tha.

Sai Đại Lực chém ngay mà. Quằn đao, đầu tớ tóc da cứng đờ. Trăm nghìn kể chẳng ăn thua,
Bèn đem thiêu tớ trong lò Lão Quân.

Lục Đinh quạt lửa rần rần.

Luyện thân người tớ cứng gần kim cương.

Bốn chín ngày mở xem tường, Nhảy ra lại đánh bốn phương tơi bời. Thiên thần đóng cửa sợ rồi.
Các thánh bàn bạc bèn mời Như Lai.

Quả là Phật tổ kỳ tài.

Thần thông pháp lực hơn đời xiết bao!

Xòe tay thi nhảy thấp cao.

Đè ta dưới núi, khác nào chim ưng.

Thượng Đế mở hội ăn mừng.

Tây Phương cực lạc tưng bừng tiếng xa.

Năm trăm năm nhốt chặt ta. Miếng cơm ngụm nước đâu là ân nhân? Kim Thiền sau đó giáng trần.
Sang Tây bái Phật ân cần cầu Kinh.

Mang về thượng quốc đệ trình. Vua Đường chủ tế độ linh cứu hồn. Quan Âm khuyến bái Thiền Tôn.
Quy y chính quả tâm hồn sáng trong.

Chân non vừa thoát nạn xong.

Xin phò Tam Tạng quyết cùng sang Tây.

Yêu ma chớ giở bài bây.

Trả ngay sư phụ để đây lên đường!

Yêu quái nghe xong chỉ vào Hành Giả nói:

- À, nhà ngươi vốn là thằng giặc già ăn trộm trên trời! Chớ có chạy, nếm một thương của ta đây!

Đại Thánh vung vậy lên đỡ. Hai bên đang đánh nhau. Bên này, Na Tra thái tử, Hỏa Đức tinh quân tức giận, lập tức cầm sáu thứ binh khí, cùng các hỏa khí ở bộ Hỏa ném xuống đầu yêu quái. Tôn Đại Thánh càng hăng hái. Mặt khác, lại thêm Lôi
Công sử dụng roi điện, Thiên Vương sử dụng đao, bất kể dưới trên, nhất tề xông vào đánh. Yêu quái vênh váo cười nhạt, ngấm ngầm rút chiếc vòng từ trong tay áo ra, tung lên trời, miệng hô “thu”, rồi nghe đánh xoảng một tiếng, lập tức sáu thứ binh khí, các vật ở bộ Hỏa, roi điện của Lôi Công, đao của Thiên Vương, gậy của Hành Giả đều bị cuốn đi hết. Các vị thần và Tôn Đại Thánh lại còn tay không. Yêu quái thắng trận về, cất tiếng gọi:

- Bọn nhỏ, mau khiêng đá xây cửa, gánh đất đổ nền, sửa sang lại nhà cửa. Bao giờ mọi việc xong xuôi ta sẽ giết ba thầy trò Đường Tăng tạ thần đất, rồi mọi người cùng thụ hưởng.

Lại nói chuyện Lý Thiên Vương dẫn mọi người lên đỉnh núi cao. Hỏa Đức trách Na Tra thái tử nóng nảy, Lôi Công bực Thiên Vương vội vàng. Duy Thủy Bá đứng bên cạnh chẳng nói năng gì. Hành Giả Thấy mọi người chẳng bằng mặt bằng lòng với nhau, trong bụng nghĩ ngợi không biết làm thế nào, đành nuốt giận gượng cười nói với mọi người:

- Các ngài không nên phiền não. Từ xưa đã có câu “Thắng bại là việc thường của nhà binh”. Luận về võ nghệ, thì giữa tôi và nó cũng chỉ đến thế. Nó chỉ hơn tôi một cái vòng, nên mới tai hại, cuốn hết binh khí của chúng ta đi. Các ngài cứ yên tâm, để lão Tôn đi tra cứu lại lịch của nó một lần nữa nhé!

Thái tử nói:

- Đại Thánh lần trước đã tâu với Thượng Đế kiểm tra khắp trời không hề tìm ra tông tích bây giờ đi kiểm tra ở đâu?

Hành Giả nói:

- Tôi thiết nghĩ Phật pháp vô viên, nay sang phương Tây hỏi Phật tổ Như Lai, nhờ ngài dùng đôi mắt tuệ nhìn khắp bốn đại bộ châu, xem yêu quái sinh trưởng ở nơi nào, quê quán ở đâu, chiếc vòng là bảo bối gì. Và dù thế nào, nhất định tôi cũng bắt bằng được nó, trả mối hờn này cho các ngài, để các ngài về trời
vui vẻ.

Các vị thần nói:

- Đã vậy không nên chậm trễ, phải đi ngay! Đi ngay!

Vừa dứt lời, Hành Giả dùng ngay phép cân đẩu vân đến thẳng núi Linh Sơn, dừng đám mây lành bước xuống, quan sát bốn phương. Thật là một nơi tuyệt đẹp:

Đỉnh Linh mờ mịt xinh tươi

Non tiên cao vút như mài tầng xanh.

Tây Phương riêng một cõi lành, Sẵn sàng đón kẻ tu hành vào ra.
Nguyên khí bàng bạc bao la, Bên đài hoa nở gió đưa dịu dàng. Tiếng chuông tiếng khánh ngân vang,
Tiếng kinh sớm sớm rộn ràng khắp nơi.

Rừng bách La Hán dạo chơi,

Ưu Bà giảng sách cạnh nơi gốc tùng.

Hạc trắng lượn múa quanh rừng, Loan xanh quấn quýt vui mừng nhởn nhơ. Khỉ đem tiên quả kính đưa,
Hươu thọ lễ phép dâng hoa ngát lừng.

Chim ca lanh lảnh xa gần,

Hoa thơm cỏ lạ cõi trần chẳng hay.

Quanh co núi vút tầng mây,

Dưới chân bằng phẳng đường xây vòng vèo.

Thực nơi tiên cảnh yêu kiều,
Trang nghiêm đại giác khác nhiều nhân gian.

Hành Giả đang gật gù ngắm nghía phong cảnh, bỗng nghe thấy tiếng người hỏi:

- Tôn Ngộ Không, ở đâu tới và định đi đâu?

Hành Giả vội quay đầu nhìn, thấy đó là vị Tỳ Kheo Ni tôn giả, bèn vái chào nói:

- Đang có một việc muốn gặp Như Lai. Vị Tỳ Kheo Ni nói:
- Nhà ngươi kỳ quặc thật! Đã muốn gặp Như Lai sao không vào bản soái, lại còn đứng đây nhìn ngắm mãi.

Hành Giả nói:

- Tôi vừa tới quý địa đây nên chưa dám đường đột. Vị Tỳ Kheo Ni nói:
- Ngài đi theo tôi.

Hành Giả đi theo vị Tỳ Kheo Ni tới ngoài cửa chùa Lôi Âm, đã thấy tám vị đại Kim Cương cực kỳ oai vệ, đứng ở hai bên chặn lại, vị Tỳ Kheo Ni nói:

- Tôn Ngộ Không tạm chờ ở đây một lát, để tôi vào thưa chuyện cho.

Hành Giả đành đứng ở ngoài cửa, vị Tỳ Kheo Ni đến trước mặt Phật tổ chắp tay thưa:

- Tôn Ngộ Không có việc muốn vào gặp Phật tổ.

Như Lai truyền lệnh mời vào, lúc ấy Kim Cương mới đứng dẹp ra cho vào. Tới nơi, Hành Giả cúi đầu thi lễ. Như Lai hỏi:

- Ngộ Không, trước ta được nghe nói có Quan Âm tôn giả cứu thoát cho, rồi quy y Thích Giáo, hộ vệ Đường Tăng đến đây cầu kinh. Thế mà tại sao hôm nay lại tới có một mình? Có việc
gì vậy?

Hành Giả cúi đầu, thưa:

- Bạch Phật tổ, đệ tử từ ngày theo đạo Thiền, cùng sư phụ Đường Tăng sang Tây, hiện giờ đi tới động Kim Đâu, núi Kim Đâu, gặp một con yêu quái hung ác tên gọi Tỷ Đại Vương, yêu quái này thần thông quảng đại, bắt mất cả sư phụ và sư đệ con vào trong động. Đệ tử tới đòi, nó xấu chơi không chịu trả. Đệ tử đánh nhau với nó, bị nó tung chiếc vòng trắng phau phau cướp mất cây gậy sắt. Con ngờ rằng nó là một vị thiên tướng nào đó nhớ cõi phàm trần, bèn lên thượng giới kiểm tra, nhưng không ra. Thượng đế sai cha con Lý Thiên Vương xuống giúp sức, cũng bị nó thu mất sáu thứ binh khí. Con mời cả Hỏa Đức tinh quân đến phóng hỏa đốt nó, cũng bị nó cướp mất cả hỏa cụ. Mời Thủy Đức tinh quân đến đổ nước dìm nó, nhưng chẳng ướt nổi một sợi lông của nó. Đệ tử hao tâm tổn sức ăn trộm lại được gậy sắt và mấy thứ binh khí, đánh nhau tiếp với nó, lại bị nó cướp hết vũ khí như lần trước. Đệ tử chẳng còn cách nào hàng phục được nó, nên phải đến thưa với Phật tổ, mong Phật tổ rủ lòng từ bi, tìm hiểu hộ xem nó xuất thân là vật gì, con sẽ đến bắt hết họ hàng hang hốc nhà nó lẫn cả nó, cứu thoát sư phụ, để rồi thầy trò cùng một tấm lòng thành, bái cầu chính quả.

Như Lai nghe xong, ngước đôi mắt tuệ nhìn ra xa, biết rõ đầu đuôi, bèn gói với Hành Giả:

- Yêu quái ấy tuy ta biết nhưng không thể nói cho ngươi biết được, chỉ sợ con khỉ không giữ mồm, đi nói là ta bảo, nó sẽ không ra đánh nhau với nhà ngươi nữa, rồi tới Linh Sơn làm ầm ĩ mang họa cho ta. Ta sẽ có pháp lực giúp nhà ngươi bắt nó.

Hành Giả cảm tạ rối rít, hỏi:

- Như Lai có pháp lực gì?

Như Lai lập tức sai mười tám bị La Hán mở kho báu lấy ra
mười tám hạt “Kim đơn sa” giúp sức cho Ngộ Không. Hành Giả nói:

- Viên “Kim đơn sa” này dùng thế nào? Như Lai đáp:
- Nhà ngươi đến ngoài cửa động, gọi yêu quái ra tỉ thí, dẫn nó ra ngoài để cho các vị La Hán ném “Kim đơn sa” giữ chặt nó lại, không sao cựa quậy, nhấc chân nhấc tay nổi. Lúc ấy mặc cho nhà ngươi trói, đánh.

Hành Giả cười, nói:

- Tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Xin cho ngay đi.

Các vị La Hán không dám chậm trễ, lập tức lấy “Kim đơn sa” mang ra. Hành Giả cảm ơn Như Lai, đoạn kiểm tra lại một lượt, chỉ thấy có mười sáu vị bèn giãy nảy nói:

- Còn thiếu mấy vị đâu, hay đem bán cho ai rồi? Các vị La Hán nói:
- Không có ai bán vị nào cả. Hành Giả nói:
- Tất cả mười tám vị, nay tại sao chỉ có mười sáu?

Vừa dứt lời, thấy hai vị Hàng Long và Phục Hổ ở trong đi ra, bước tới nói:

- Ngộ Không, sao nhà ngươi ăn nói điêu toa thế? Hai chúng tôi ở đằng sau nghe Như Lai dặn dò đấy chứ!

Hành Giả nói:

- Đúng là bán! Đúng là bán! Tôi mà kêu chậm một tý hẳn các ngài không ra đâu.

Các vị La Hán cười khà khà, cưỡi lên đám mây lành bay đi. Một lát sau, đã tới địa phận núi Kim Đâu, Lý Thiên Vương
nhìn thấy, dẫn mọi người ra đón, nói lại việc trước, La Hán nói:

- Bất tất phải lôi thôi, mau đi gọi nó ra ngay.

Đại Thánh nắm tay, bước tới cửa động quát mắng:

- Đồ yêu quái khốn khiếp chết trương kia, mua ra đây phân tài cao thấp với ông ngoại nhà ngươi!

Bọn tiểu yêu chạy như bay vào báo. Ma Vương tức giận hỏi:

- Con khỉ giặc ấy không biết lại mời thằng nào đến gây sự thế?

Bọn tiểu yêu thưa:

- Chẳng có ai cả, chỉ có mình hắn. Ma Vương nói:
- Cây gậy của hắn bị ta cướp mất rồi, thế mà hắn đến một mình à? Dám đấu quyền nữa chắc?

Bèn giắt theo bảo bối, tay vác thương dài, bảo bọn tiểu yêu vần những tảng đá ra, bước ra ngoài cửa quát lớn:

- Đồ khỉ giặc kia! nhà ngươi đã mấy phen thua trận phải bỏ chạy thoát thân, tại sao còn dám đến hò hét ầm ĩ?

Hành Giả nói:

- Đồ yêu quái khốn khiếp không biết hay dở kia! Muốn cho ông ngoại nhà ngươi không đến, thì trừ phi nhà ngươi chịu hàng có lễ tạ, đưa sư phụ sư đệ của ta ra, thì ta sẽ tha chết cho.

Ma Vương nói:

- Ba hòa thượng của ngươi, ta đã tắm rửa sạch sẽ, sắp sửa mổ thịt, nhà ngươi còn chưa biết hay sao? Biết điều thì xéo ngay!

Hành Giả vừa nghe đến hai tiếng “mổ thịt” mà đã nóng bừng, không nén được cơn giận bốc trong ruột, bèn đứng tấn, múa quyền, rồi chuyển thế bước tới nhằm mặt yêu quái đấm một quả.
Yêu quái vung thương đâm tới. Hành Giả nhảy phải né trái lừa yêu quái. Yêu quái không biết độc kế, đuổi ra ngoài cửa động về hướng nam. Hành Giả vội vàng vẫy các vị La Hán nhất tề ném “Kim đơn sa” vào yêu quái. Các hạt “Kim đơn sa” thật là tuyệt vời:

Như mây như khói mờ trời đất Lả tả trắng phau khắp mọi miền Mờ mịt người nhìn hoa mắt sáng Mê mẩn ai bước lạc đường quen Tiều phu đốn củi khôn tìm bạn Tiên đồng hái thuốc khó về yên Nhè nhẹ nhỏ tinh như phấn rắc Thô thô lả tả tựa nêm chèn
Thế giới mông lung mờ đỉnh núi Đất trời u ám tối vầng dương Trông giống bụi trần tung vó ngựa Khác nào lụa mỏng lót xe hương Vô tình là hạt Kim sa ấy
Đất trời che kín bắt Ma Vương Chỉ tại yêu ma xâm chính đạo A La vâng lệnh trổi oai cường
Trong tay một nắm minh châu ấy

Ném tới ai ai mắt khó tường.



Yêu quái thấy những hạ Kim sa bay mờ mắt, đầu bị đè xuống thấp, chân bị lún xuống sâu đến ba thước thì sợ quá vùng người nhảy lên được một tí, chân chưa kịp đứng miếng, trong giây lát lại lún sâu thêm một thước nữa. Yêu quái vội vàng rút chân lên, lôi ngay chiếc vòng ra tung lên trời, miệng hô “thu” nghe xoảng một tiếng, mười tám hạt Kim đơn sa đều bị cuốn đi hết. Đoạn yêu quái quay gót trở về động.

Các vị La Hán ai nấy tay không đứng trên mây, Hành Giả bước tới gần hỏi:

- Các ngài không ném Kim sa xuống à? Các vị La Hán thưa:
- Vừa nghe xoảng một tiếng, các hạt Kim sa không thấy đâu cả.

Hành Giả cười, nói:
- Lại bị món ấy cuốn mất rồi. Bọn thiên vương nói:
- Tên này khó trừ gớm nhỉ! Làm thế nào bắt nó bây giờ? Hôm nào quay về trời còn mặt mũi nào yết kiến Thượng Đế nữa!

Hai vị La Hán Hàng Long, Phụ Hổ đứng bên cạnh nói với
Hành Giả:

- Ngộ Không, ngài có hiểu tại sao hai chúng tôi ra chậm không?

Hành Giả nói:

- Lão Tôn chỉ trách các ngài tránh mặt không ra, chứ đâu biết tại sao?

La Hán nói:

- Như Lai dặn hai chúng tôi rằng: “Yêu quái ấy thần thông quảng đại. Nếu có bị mất Kim đơn sa thì bảo Ngộ Không lên chỗ Thái Thượng Lão Quân ở cung Đâu Suất trên tầng trời Ly Hận mà tìm tung tích, may ra có thể bắt được nó”.

Hành Giả nghe xong, nói:

- Bực thật! Bực thật! Như Lai còn giấu lão Tôn. Giá mà lúc ấy nói cho tôi hay, thì các ngài đỡ phải lặn lội đường xa.

Lý Thiên Vương nói:

- Như Lai đã chỉ bảo rõ ràng như vậy thì Đại Thánh đi ngay cho.

Vừa dứt lời, Hành Giả dùng phép cân đẩu vân tung người đến thẳng cửa Nam Thiên. Lúc ấy đã thấy bốn đại nguyên soái chắp tay cung kính hỏi:

- Việc bắt quái thế nào rồi? Hành Giả vừa đi vừa đáp:
- Chưa xong, chưa xong. Bây giờ phải đi tìm tận gốc rễ đây.

Bốn tướng không dám giữ lại, mặc cho Hành Giả đi vào cửa trời. Nhưng Hành Giả không đến điện Linh Tiêu, không vào cung Đẩu Ngưu, mà lên thẳng cung Đâu Suất ở tầng trời Ly Hận thứ ba mươi ba. Thấy hai tiên đồng đứng hầu. Hành Giả cũng chẳng thèm xưng họ tên, cứ xồng xộc bước vào. Hai tiên đồng hoảng quá ngăn lại hỏi:

- Nhà ngươi là ai? Định đi đâu? Hành Giả bấy giờ mới nói:
- Ta là Tề Thiên Đại Thánh, muốn gặp Lý Lão Quân. Tiên đồng nói:
- Sao ngài thô lỗ vậy? Hãy đợi đấy để chúng tôi vào báo đã.

Hành Giả chẳng thèm đếm xỉa, hừ một tiếng, bước thẳng vào trong, bỗng thấy Lão Quân từ trong đi ra, chạm trán ngay, bèn cúi người chào một tiếng thật to, nói:

- Kính chào Lão Quân, lâu lắm rồi không gặp mặt. Lão Quân cười, nói:
- Con khỉ này không đi lấy kinh lại đến chỗ ta có việc gì?

Hành Giả nói:













Lão Quân nói:

Lấy kinh, lấy kinh. Ngày đêm chẳng dừng. Có chút trở ngại.
Đến đây tỏ tình.

- Trời Tây trở ngại đối với ta có can hệ gì? Hành Giả nói:













Lão Quân nói:

Tây thiên, Tây thiên. Nói ra cũng phiền. Tìm được tung tích. Ngài cũng liên can.

- Nơi ta đây là vô thượng tiên cung, có tung tích gì mà tìm?

Hành Giả bước vào trong, mắt nhìn không chớp, ngó đông ngó tây, rồi đi qua mấy lớp nhà cửa, bỗng nhìn thấy một chú tiểu đồng ngủ gục bên chuồng trâu, không thấy con trâu xanh đâu cả. Hành Giả bèn nói:

- Thưa Lão Quân, trâu sổng mất rồi! Trâu sổng mất rồi! Lão Quân cả sợ hỏi:
- Con nghiệt súc này sổng từ bao giờ?

Đang ồn ào, chú tiểu đồng chợt tỉnh ngủ, quỳ xuống trước mặt Lão Quân nói:

- Thưa Lão tổ, đệ tử ngủ quên, không biết trâu sổng tự lúc nào.

Lão Quân quát mắng:

- Làm sao mà nhà ngươi lại ngủ gật như vậy? Tiểu đồng dập đầu thưa:
- Đệ tử nhặt được một hạt đơn trong phòng, bèn nuốt ăn, thế là ngủ một giấc như vậy.

Lão Quân nói:

- Hẳn là hôm trước ta luyện đơn “Thất phản hỏa đơn” đánh rơi mất một hạt, thằng nhỏ này nhặt được ăn. Thứ đơn này hễ ăn một hạt thì ngủ mất bảy ngày. Con nghiệt súc ấy, nhân khi tiểu đồng ngủ, không người chăn dắt, bèn thừa cơ trốn xuống hạ
giới, tới hôm nay là bảy ngày rồi.

Đoạn lập tức kiểm tra xem nó có lấy trộm bảo bối gì không. Hành Giả nói:

- Nó không có bảo bối gì đâu, chỉ thấy nó cầm một chiếc vòng cực kỳ lợi hại.

Lão Quân vội vàng kiểm tra, thấy mọi thứ đều đủ cả, chỉ không thấy chiếc “vòng kim cương” mà thôi, bèn nói:

- Con nghiệt súc ấy ăn trộm chiếc “vòng kim cương” của ta mang đi!

Hành Giả nói:

- Hóa ra là chiếc vòng ấy! Ngày xưa đánh lão Tôn cũng là cái này. Bây giờ nó tung hoành dưới hạ giới, cuốn đi không biết bao nhiêu binh khí của chúng tôi.

Lão Quân hỏi:

- Nghiệt súc ấy hiện ở đâu? Hành Giả thưa:
- Hiện ở động Kim Đâu, núi Kim Đâu. Nó bắt mất sư phụ tôi, cướp chiếc gậy sắt của tôi. Tôi mời thiên binh đến giúp sức, nó cướp luôn cả binh khí của thái tử. Mời Hỏa Đức tinh quân, nó cũng cướp luôn cả Hỏa cụ. Chỉ có Thủy Bà, tuy không dìm chết được nó, nhưng cũng không bị cướp vật gì. Sau đó tôi cầu cứu Như Lai. Như Lai sai La Hán tới ném Kim đơn sa, nó cũng cướp luôn cả Kim đơn sa. Vậy như Lão Quân đây, buông thả quái vật cướp của hại người như thế thì nên khép tội gì?

Lão Quân nói:

- Chiếc vòng kim cương ấy của ta là vật ta thu được khi qua cửa Hàm Quan khuyến hóa được của người Hồ. Đó là thứ vật báu luyện thành từ xưa. Cho dù nhà ngươi có thứ binh khí gì, kể
cả nước lửa cũng không gần được nó. Nếu nó mà lấy trộm cả chiếc quạt “ba tiêu” nữa, thì ngay cả ta cũng chẳng dám làm gì nổi.

Bấy giờ Hành Giả mới vui mừng đi theo Lão Quân. Lão Quân cầm quạt ba tiêu, cưỡi mây lành ra khỏi cung tiên, cùng đi. Đến ngoài cửa Nam Thiên, hạ thấp đám mây, đoạn bay thẳng đến địa phận núi Kim Đâu. Mười tám vị La Hán, Lôi Công, Thủy Bá, Hỏa Đức, cho con Lý Thiên Vương kéo cả ra đón và kể hết mọi chuyện. Lão Quân nói:

- Tôn Ngộ Không lại dụ nó ra để ta bắt nó.

Hành Giả từ đỉnh núi nhảy xuống, lại lớn tiếng quát:

- Đồ nghiệt súc phì nộn kia! Mau mau ra chịu chết! Bọn tiểu yêu chạy vào báo. Ma Vương nói:
- Con khỉ giặc ấy không biết lần này mời được thằng nào tới?

Bèn vội vàng vác thương giắt bảo bối bước ra cửa. Hành Giả quát mắng:

- Đồ yêu quái khốn khiếp kia, lần này nhất định phải chết! Chớ có chạy, nếm một đấm của ta đây!

Đoạn tung người nhảy tới, nhằm giữa mặt đấm một quả, rồi ngay đầu chạy miết. Yêu quái múa thương đuổi theo. Bỗng từ trên đỉnh núi cao có tiếng gọi:

- Con trâu kia không về nhà còn đợi đến bao giờ?

Yêu quái ngẩng đầu, nhìn thấy Thái Thượng Lão Quân, sợ hãi run cầm cập nói:

- Con khỉ giặc là giống quỷ dưới đất! Làm thế nào mà nó tìm và mời được ông chủ nhà mình tới nhỉ?

Lão Quân niệm thần chú, phe phẩy chiếc quạt một lát, yêu quái quẳng chiếc vòng ra, Lão Quân đỡ lấy và quạt tiếp một lát
nữa, yêu quái lúc ấy mới thịt nhũn gân mềm, hiện rõ bản tướng là một con trâu xanh.

Lão Quân cầm chiếc vòng kim cương, thổi khí tiên vào, xỏ vào mũi quái vật, cởi chiếc đai thắt áo ra, buộc vào cái vòng, đoạn lấy tay dắt trâu. Đến nay vẫn còn lối xỏ mũi dắt trâu, và lại có tên là “tân lang” chính là nói chuyện này.

Lão Quân từ biệt các vị thần, ngồi trên lưng con trâu xanh, cưỡi mây ngũ sắc, lên thẳng cung Đầu Suất trói yêu quái ở đó, rồi lên tầng trời Ly Hận.

Bấy giờ Tôn Đại Thánh mới cùng các thiên vương đánh vào trong động, tiêu diệt sạch hơn một trăm tiểu yêu, ai nấy nhận lại binh khí của mình, cảm ơn cha con Thiên Vương, rồi về trời. Lôi Công về phủ, Hỏa Đức về cung, Thủy Bá về sông. La Hán về phương Tây. Sau đó Hành Giả mới cứu thoát Đường Tăng, Bát Giới, Sa Tăng và thu lại gậy sắt. Ba người cảm tạ Hành Giả, thu xếp ngựa, hành lý, đoạnh thầy trò rời cửa động, tìm đường cái sang phương Tây.

Đang đi, bỗng nghe bên đường có tiếng gọi:

- Mời Đường thánh tăng xơi cơm chay! Đường Tăng giật mình.
Cuối cùng không biết là ai gọi, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ NĂM MƯƠI BA


Uống nước sông, Tam Tạng mang nghén quỷ


Đi lấy nước, Sa Tăng giải thai ma


Đức hạnh nên tu tám trăm, Âm công cần chứa ba ngàn. Quân binh ta - vật, thân - oan, Mới hợp Tây Thiên bản nguyện. Ma Tỷ đao binh chẳng chuyên, Mước phun lửa cháy không sờn. Lão Quân hàng phục tang thiên, Cưỡi dắt trâu xanh quay gót.
Tiếng gọi bên đường đó là ai? Chính là sơn thần, thổ địa núi
Kim Đâu bưng chiếc bát tộ màu tía, cất tiếng nói:

- Thưa Đại Thánh, bát cơm này ngài xin ở nơi lương thiện mang về. Tại sao sư phụ không nghe lời nói phải, sa vào tay yêu ma, làm cho Đại Thánh phải vất vả vô cùng, đến bây giờ mới cứu ra được. Vậy xin mời sư phụ lại xơi cơm, sau đó tiếp tục lên đường, kẻo phụ tấm lòng hiếu thảo của Tôn Đại Thánh.

Tam Tạng nói:

- Đồ đệ ơi, thật muôn sự đều trông nhờ vào con, nói sao cho xiết! Nếu biết sớm đừng ra khỏi vòng, thì đâu đến nỗi gặp tai nạn chết người này.

Hành Giả nói:

- Chẳng giấu sư phụ, chỉ vì sư phụ không tin cái vòng của
con, nên lại sa vào cái vòng của người khác xiết bao khổ sở. Tiếc thay! Tiếc thay!

Bát Giới nói:

- Làm gì có cái vòng nào nữa? Hành Giả nói:
- Toàn là tại cái đồ bị thịt tai to mồm dài nhà chú, nên sư phụ mới bị khổ sở. Lão Tôn lại phải một phen lao đao long trời lở đất, đi mời thiên binh, Hỏa Đức, Thủy Bà, cả Kim sa của Phật tổ… Nhưng mọi thức đều bị cái vòng trắng phau phau của yêu quái cuốn đi hết. Sau nhờ Như Lai mách kín với La Hán, nói cho lão Tôn biết lai lịch của yêu quái, lúc ấy tôi mới đi mời Lão Quân tới thu phục được nó, té ra nó là con trâu xanh tác quái.

Tam Tạng nghe xong, hết lời cảm tạ:

- Đồ đệ giỏi ơi, lần này đã trót như vậy, lần sau nhất định phải nghe lời con dặn dò.

Bốn người bèn chia nhau ăn cơm. Bát cơm nóng bốc hơi nghi ngút, Hành Giả hỏi:

- Cơm này xin từ lâu rồi, sao vẫn còn nóng thế? Thổ địa quỳ xuống thưa:
- Tiểu thần biết Đại Thánh xong công việc, nên hâm nóng lại đem dâng

Một lát sau ăn cơm xong, thầy trò thu dọn, từ biệt thổ địa, sơn thần. Sư phụ lúc ấy mới nhảy lên yên, vượt qua ngọn núi cao. Thực là:

Chay tịnh thành tâm theo chính giáo, Ăn sương nằm gió lại sang Tây.
Đi được ít lâu, đúng lúc tiết xuân sang.
Chỉ nghe thấy:




Yến tía líu lo, Oanh vàng thánh thót.
Yến tía líu lo hương đượm ngọt,

Oanh vàng thánh thót giọng ngân vang.

Mặt đất hoa rơi gấm phơi vàng, Đỉnh non chồi nẩy tầng thẳm biếc, Sườn núi thanh mai vừa ngậm hạt, Vách non cổ thụ ẩn mây vương.
Xóm thôn hoa khôi quyện mơ màng, Bãi cát nắng mai soi óng ánh.
Khắp chốn núi rừng hoa lấp lánh, Xuân về khóm liễu vẻ thanh tân.
Đang đi bỗng gặp một dòng sông nhỏ nước trong leo lẻo, sóng gợn lăn tăn, Đường Tăng dừng ngựa ngắm nghía, thấy xa xa bên bờ sông bên kia, thấp thoáng bóng mấy mái nhà tranh trong khóm liễu biếc. Hành Giả chỉ sang bờ bên kia, nói:

- Trong xóm bên kia hẳn có nhà lái đò. Tam Tạng nói:
- Ta xem bờ bên ấy cũng như bờ bên này, chẳng thấy bóng thuyền bè nào, nên không dám gọi.

Bát Giới đặt gánh hành lý xuống, lớn tiếng gọi:

- Bác lái đò ơi, cho sang với!

Gọi đến dăm lần, bỗng thấy trong khóm liễu có tiếng loạt soạt rồi một con đò hiện ra. Một lát sau, con đò đã sang tới gần bên này, thầy trò nhìn kỹ. Thật là:
Mái chèo ngắn khua sóng Cây sào nhẹ bơi tung. Mạn thuyền cuộn dây sắt, Sau thuyền bánh lái cong. Tuy là con đò nhỏ,
Kém gì thuyền biển sông Chẳng lèo tơ buồm gấm, Cũng chèo quế cột tùng. Chẳng vượt nơi biển rộng, Cũng giúp người qua sông Lại qua hai đầu bên,
Ra vào chỉ một dòng.

Trong khoảnh khắc, con đò cập bờ. Người lái đò nói:

- Ai qua sông thì xuống đò đi!

Tam Tạng giục ngựa tới gần nhìn, thấy người lái đò ăn mặc:

Đầu trùm khăn vuông gấm, Chân đi đôi hài tơ.
Áo vải bông trăm mảnh, Quần vá víu xác xơ.
Tay chai da khô cứng, Mặt rắn mắt lờ mờ. Giọng nói như oanh hót, Nhìn kỹ hóa mụ già.
Hành Giả tới sát con đò hỏi:

- Bà là lái đò đấy à?
Người đàn bà đáp:

- Thưa vâng. Hành Giả nói:
- Đàn ông đi đâu cả mà để đàn bà chèo đò?

Người đàn bà tủm tỉm mỉm cười không trả lời, hai tay bắc tấm ván làm cầu. Sa Hòa Thượng gánh hành lý xuống nước, Hành Giả đỡ sư phụ xuống cầu, đoạn bước lên thuyền, Bát Giới dắt ngựa bạch xuống sau rồi rút tấm ván. Người đàn bà đẩy con đò, khua mái chèo, trong khoảnh khắc đã sang tới bờ bên kia.

Lên bờ, Tam Tạng bảo Sa Tăng cởi hầu bao lấy tiền trả cho nhà đò. Người đàn bà chẳng chê ít nhiều, buộc đò vào chiếc cọc ở cạnh bờ, cười khúc khích rồi đi thẳng vào trong xóm. Tam Tạng thấy dòng nước trong vắt, lại đang lúc khát, bèn bảo Bát Giới:

- Con lấy bát ra múc một bát cho ta uống. Bát Giới nói:
- Con cũng đang khát đây.

Bèn lấy bát, múc một bát đưa cho sư phụ. Sư phụ uống non nửa, còn già nửa đưa cho Bát Giới. Bát Giới nhận lấy, làm một hơi hết sạch, đoạn đỡ Tam Tạng lên ngựa.

Thầy trò tìm đường sang Tây. Đi được chừng nửa tiếng, Tam
Tạng ngồi trên mình ngựa bỗng rên hừ hừ:

- Đau bụng quá!

Bát Giới đi sau cũng nói:

- Con cũng thấy bụng hơi đau. Sa Tăng nói:
- Hay tại uống nước lã?
Vừa dứt lời, thấy sư phụ kêu rống lên:

- Đau quá!

Bát Giới cũng kêu:

- Đau quá!

Hai người bụng đau dữ dội, bụng dần dần thấy to ra. Lấy tay sờ vào, thấy tựa như có hòn máu cục thịt cựa quậy không ngừng. Tam Tạng đau đớn ngồi không vững. Lúc ấy chợt thấy ven đường có một xóm dân, trên một ngọn cây có treo lơ lửng hai bó cỏ, Hành Giả bèn nói:

- Sư phụ ơi, tốt rồi! Chỗ kia có quán rượu, chúng ta vào đó xin cho sư phụ chút canh nóng ăn, và hỏi xem họ có bán thuốc không để mua cho sư phụ là thuốc cao chữa đau bụng.

Tam Tạng nghe nói mừng lắm, thúc ngựa đi. Một lát đã tới cổng thôn. Tam Tạng xuống ngựa, thấy một bà cụ đang ngồi ngay ngắn nối gai trên bãi cỏ ngoài cổng. Hành Giả bước tới nói:

- Chào bà, bần tăng từ nước Đại Đường bên phương Đông tới. Sư phụ tôi là em của vua Đường, nhân đi qua sông có uống một ngụm nước, bị đau bụng…

Bà cụ cười khà khà, hỏi:

- Các ngài uống nước ở bờ sông bên nào? Hành Giả đáp:
- Sư phụ tôi uống ít nước ở bờ phía đông. Bà cụ thích thú cười, nói:
- Chơi được đấy! Chơi được đấy! Ngài lại gần đây, tôi nói cho mà nghe.



Hành Giả bèn dìu Đường Tăng, còn Sa Tăng dìu Bát Giới. Hai người rên hừ hừ, bụng thì phưỡn ra, đau đến nỗi mặt mày nhợt nhạt, bước vào trong nhà ngồi xuống. Hành Giả nói:

- Bà làm ơn đun cho sư phụ tôi ít nước nóng, chúng tôi xin cảm tạ.

Bà cụ chẳng đi đun nước, chỉ cười hì hì chạy vào phía sau gọi:

- Mọi người lại mà xem! Lại mà xem!

Có tiếng dép lẹp kẹp vang lên, mấy người đàn bà đứng tuổi bước lại nhìn Đường Tăng cười tủm tỉm. Hành Giả thấy vậy, tức giận nghiến răng quát vang, khiến cho ai nấy sợ hãi run rẩy, chạy dạt ra đằng sau. Hành Giả chạy lại túm lấy bà già nói:

- Mau đi đun nước thì ta tha cho! Bà già run cầm cập nói:
- Thưa ngài, có đun nước cũng không làm gì được, cũng không chữa được bệnh đau bụng của hai ngài ấy đâu. Ngài buông tôi ra, tôi nói cho mà nghe…

Hành Giả buông ra, bà già nói:

- Xứ chúng tôi đây gọi là Tây Lương nữ quốc. Cả nước chúng tôi chỉ toàn là đàn bà, không có một người đàn ông nào, cho nên được thấy các ngài, chúng tôi mừng lắm. Còn sư phụ ngài uống phải thứ nước không hay rồi. Con sông ấy tên là sông Tử Mẫu. Ngoài kinh thành quốc vương chúng tôi, còn có một tòa Nghênh Dương quán dịch, cửa quán có suối chiêu thai. Người nước chúng tôi khi ngoài hai mươi tuổi mới dám đi uống nước sông ấy. Uống nước xong bèn thấy đau bụng và có thai. Độ ba hôm sau thì đến quán Nghênh Dương soi thai xuống dòng suối. Nếu soi thấy có hai bóng sẽ là đẻ con. Sư phụ ngài uống phải nước sông Tử Mẫu, nên đã mang thai, chẳng bao lâu sẽ đẻ con, nước uống chữa làm sao được?

Tam Tạng nghe xong sợ hãi tái mặt nói:

- Đồ đệ nói, làm thế nào bây giờ? Bát Giới ôm bụng quằn quại nói:
- Cha mẹ ơi, sắp đẻ con, mà chúng ta lại là đàn ông thì đẻ ở chỗ nào? Thai ra đằng nào được?

Hành Giả cười, nói:

- Cổ nhân có câu: “Quả chín tự rụng”. Đến lúc ấy nhất định ở nách sẽ rách ra một đoạn để thai chui ra chứ!

Bát Giới nghe xong sợ run lên, không chịu nổi đau đớn, nói:

- Thôi, thôi! Thế là chết rồi! Sa Tăng cười, nói:
- Anh hai ơi, chớ có quằn quại, lỡ lệch dạ con, cái thai sẽ
mang bệnh đấy.

Chú ngốc càng phát hoảng, nước mắt giàn giụa, túm tay Hành
Giả, nói:

- Anh ơi, anh hỏi bà cụ xem ở đâu có bà đỡ mát tay, tìm sẵn mấy bà. Em đau quặn từng cơn, cảm thấy hình như sắp đẻ đến nơi rồi. Mau lên! Mau lên!

Sa Tăng càng cười khỏe, nói:

- Anh Hai ơi, đã đau quặn như thế thì chớ có cựa quậy, kẻo vỡ nước ối đấy!

Tam Tạng rên hừ hừ nói:

- Bà lão ơi, ở đây có thầy lang không? Để tôi bảo đồ đệ đi mua thang thuốc trụy thai về uống cho ra thai.

Bà già nói:

- Có thuốc cũng không chữa được. Có điều là ở phía chính nam dãy phố này có ngọn núi Giải Dương, trong núi có động “Phá Nhi”, trong đọn có suối “Rụng thai”. Chỉ có uống nước suối ấy mới phá đượ cái thai. Nhưng bây giờ thì chẳng lấy được rồi. Năm ngoái có một đạo nhân xưng là Như Ý chân tiên đến đây, đổi tên động Phá Nhi thành am Tụ Tiên, chiếm giữ suối “Rụng thai”, không cho ai tự tiện đến lấy. Ai muốn xin thứ nước ấy phải sắm lễ hoa hồng, khay quả, rượu ngon chí thành dâng lên mà mới xin được có một bát. Các ngài là những nhà sư lang thang lấy đâu ra lắm tiền mà sắm lễ? Thôi đành tùy số phận, đợi đủ ngày mà đẻ vậy.

Hành Giả nghe nói như vậy, trong lòng mừng rỡ, hỏi:

- Thưa bà, từ đây đến núi Giải Dương có xa không? Bà cụ đáp:
- Khoảng ba mươi dặm.
Hành Giả nói:

- Tốt rồi! Tốt rồi! Sư phụ yên tâm, đợi lão Tôn đi mang nước về cho sư phụ uống.

Đoạn lại dặn dò Sa Tăng:

- Chú trông nom sư phụ cẩn thận. Nếu có ai vô lễ chòng ghẹo sư phụ thì chú cứ giở thủ đoạn ngày xưa hóa làm hổ cái dọa họ, để tôi đi lấy nước nhé!

Sa Tăng nghe lời. Bà cụ đưa chiếc bát sành cho Hành Giả, nói:

- Cầm cái bát này đi, lấy nhiều nhiều một chút thừa cho chúng tôi xin, có lúc cần dùng đến.

Hành Giả cầm chiếc bát sành, bước ra khỏi nhà, cưỡi mây đi luôn. Bà cụ ngửa mặt lên trời lạy nói:

- Cha mẹ ơi, vị hòa thượng này biết cưỡi mây!

Đoạn quay vào gọi mấy người đàn bà kia ra dập đầu lạy Đường Tăng và gọi Đường Tăng là La Hán, Bồ Tát. Một mặt sai người  đi  đun  nước  nấu  cơm  thết  đãi  Đường  Tăng.  Chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện Tôn Đại Thánh dùng phép cân đẩu vân bay đi, trong chớp mắt đã trông thấy ngọn núi cao vút tầng mây, bèn dừng mây, căng mắt xem xét. Thật là một ngọn núi tuyệt đẹp. Chỉ thấy:

Hoa rừng thêu gấm biếc, Cỏ nội phơi thắm xanh. Nước khe chảy róc rách, Mây núi vẫn bay quanh.
Tầng tầng hang hốc dây leo kín,
Lớp lớp non cao cây tựa thành.

Chim kêu nhạn bay lượn, Hươu uống, vượn đu cành. Núi xanh như mây sẫm, Non biếc tựa tóc xanh.
Bụi trần cuồn cuộn khôn đường tới, Nước chảy rì rào suối uốn quanh. Tiên đồng hái thuốc trên non thẳm, Tiều phu kiếm củi dưới ngàn xanh. So với Thiên Thai nào có kém,
Tây Hoa sơn nữa cũng khôn dành.

Đại Thánh đang ngắm nhìn ngọn núi, bỗng nhìn thấy một trang viên thấp thoáng trong lùm cây, và nghe thấy cả tiếng chó sủa, bèn hạ xuống sườn núi, đi thẳng vào trong trang viên. Quả là một nơi u nhã:

Cầu nhỏ vắt qua suối, Nếp tranh dựa núi xanh. Chó sủa bên gian vắng, Người đi cốt cách thanh.
Lát sau, Hành Giả đi tới trước cửa, thấy một đạo nhân già đang ngồi xếp bằng tròn trên bãi cỏ xanh, bèn đặt chiếc bát sành xuống, bước tới gần chào hỏi. Đạo nhân nghiêng người đáp lễ hỏi:

- Ở phương nào tới? Đến tiểu am có việc gì? Hành Giả thưa:
- Bần tăng là người vâng lệnh nhà vua nước Đại Đường bên
phương Đông sang phương Tây lấy kinh. Do sư phụ tôi uống lầm phải nước sông Tử Mẫu, hiện nay bụng trướng lên đau đớn vô cùng. Hỏi người địa phương, họ bảo là đã có thai không cách nào trị được. Tôi lại được họ mách rằng ở động Phá Nhi núi Giải Dương có suối “Rụng thai” có thể tiêu được thai đi, nên nay đến đây bái yết Như Ý chân tiên, xin ít nước suối mang về cứu sư phụ, phiền lão đạo nhân chỉ dẫn cho.

Đạo nhân cười, nói:

- Đây chính là động Phá Nhi, nhưng nay đã đổi thành am Tụ Tiên rồi. Ta chẳng phải là ai khác, chính là đồ đệ cả của Như Ý chân tiên. Nhà ngươi tên là gì để ta vào báo cho.

Hành Giả nói:

- Tôi là đồ đệ cả của pháp sư Đường Tam Tạng, tên gọi là
Tôn Ngộ Không.

Đạo nhân hỏi:

- Thế món lễ hoa hồng và rượu để ở đâu? Hành Giả đáp:
- Chúng tôi là những nhà sư lang thang, chưa biện được lễ vật.

Đạo nhân cười, nói:

- Sao mà nhà ngươi ngu si thế! Sư phụ ta chiếm giữ núi này, chưa từng cho không ai bao giờ. Nhà ngươi về sắm lễ vật tới đây, ta mới vào báo cho. Nếu không thì mời về đừng hòng! Đừng hòng!

Hành Giả nói:

- Tình người là trọn  [237]


, ngài cứ vào nói rõ họ tên lão Tôn,
ngài ấy chắc thông cảm, có khi cho cả suối ấy chứ!

Đạo nhân nghe thấy nói như vậy, bèn vào báo. Lúc ấy vị chân
tiên đang gảy đàn, đợi gảy đàn xong đạo nhân mới thưa:

- Thưa sư phụ, ngoài cửa có một hòa thượng nói là đồ đệ cả của Đường Tam Tạng, tên Tôn Ngộ Không muốn xin ít nước suối “Rụng thai” chữa cho sư phụ.

Vị chân tiên không những chẳng thèm để ý, mà còn vừa nghe đến tên Ngộ Không, cơn giận đã bốc bừng bừng, ác ý đã cao cuồn cuộn, vội vàng bật dậy quăng đàn, trút bộ đồ thường, mặc bộ đồ đạo sĩ, cầm chiếc móc câu như ý, chạy ra ngoài cửa am, cất tiếng quát:

- Tôn Ngộ Không đâu?

Hành Giả quay đầu nhìn, thấy vị chân tiên ấy ăn mặc:

Mũ sao sặc sỡ đội đầu,

Pháp y mình mặc một màu vàng au.

Hài vân thêu gấm đẹp sao, Ngang lưng đai báu đủ màu long vân. Xà cạp gấm đẹp vô ngần,
Quần nhung buông nửa đôi chân rõ ràng.

Móc câu như ý tay quàng,

Cán dài sáng quắc rồng vàng lượn bay.

Mày ngài mắt phượng đẹp thay,

Môi son, răng trắng sánh tày Kim Cương.

Dưới cằm râu bạc hơi sương,

Tóc mai xoăn tít nhẹ nhàng bước đi.

Hành Giả nhìn thấy, chắp tay làm lễ, nói:

- Bần tăng là Tôn Ngộ Không. Chân tiên cười, nói:
- Nhà ngươi đúng là Tôn Ngộ Không hay là giả danh Tôn
Ngộ Không đấy?

Hành Giả nói:

- Sao ngài lại nói như vậy? Thường có câu: “Quân tử đi không đổi tên, ngồi không thay họ”. Tôi chính là Tôn Ngộ Không, lẽ đâu lại làm trò giả mạo?

Chân tiên hỏi:

- Nhà ngươi có nhận ra ta không? Hành Giả nói:
- Tôi vì đã theo cửa Thiền, giữ nền tăng giáo, lâu nay trèo non lội suối, những bạn bè giao du từ thuở nhỏ, ít qua lại thăm non, tôn nhan chẳng gặp. Vừa rồi có hỏi những người trong xóm bờ tây sông Tử Mẫu, họ nói có ngài là Như Ý chân tiên, nên mới biết.

Chân tiên nói:

- Nhà ngươi đi theo đường của mình, ta tu theo đạo của ta, vậy hỏi ta có việc gì?

- Sư phụ tôi uống lầm phải nước sông Tử Mẫu, đau bụng mang thai, nên tôi phải tới tiên phủ đây xin bát nước suối “Rụng thai” về chữa cho sư phụ.

Chân tiên trợn mắt, hỏi:

- Sư phụ nhà ngươi có phải là Đường Tam Tạng không? Hành Giả đáp:
- Thưa vâng.

Chân tiên nghiến răng, căm giận nói:

- Nhà ngươi có biết ai là Thánh Anh đại vương không? Hành Giả nói:
- Có phải là con yêu quái tên là Hồng Hài Nhi ở động Hỏa Vân, khe Khô Tùng, núi Hiệu Sơn không? Ngài hỏi hắn có việc gì?

Chân tiên nói:

- Nó là cháu ta. Ta là em Ngưu Ma Vương. Trước đây anh ta có viết thư nói cho ta biết là có một tên xưng là Tôn Ngộ Không, đồ đệ cả khốn kiếp của Đường Tam Tạng đã làm hại nó. Ta ở đây chưa tìm được nhà ngươi báo thù, thì nhà ngươi dẫn xác tới tìm ta, lại còn định xin nước nữa cơ à?

Hành Giả cười ngất, nói:

- Ngài nhầm rồi. Lệnh huynh ngài cũng đã từng kết bạn với tôi, cả thảy gồm bảy anh em, từ ngày còn trẻ cơ. Lâu nay tôi chẳng biết nhà cửa của bác ấy ở đâu nên không đến thăm hỏi được. Nay thằng cháu ngài đã được ở chỗ hay, theo Quân Âm bồ tát làm Thiện Tài đồng tử, đến chúng tôi cũng chẳng bằng được, tại sao ngài lại trách tôi?

Chân tiên quát lên:

- Con khỉ già khốn kiếp kia lại còn nỏ mồm à? Thằng cháu ta làm vua tự do tự tại hơn, hay làm đầy tớ cho người ta hơn? Chớ có vô lễ, nếm một móc câu của ta đây!

Đại Thánh vung gậy gạt ra, nói:

- Ngài chớ nói chuyện đánh nhau hãy cho tôi một ít nước đi đã.

Chân tiên quát mắng:

- Con khỉ khốn kiếp chẳng hay sống chết! Nếu ba hiệp địch nổi ta thì ta cho nước, bằng không ta sẽ băm nát như tương, báo thù cho cháu ta.

Đại Thánh chửi lại:
- Đồ nghiệt súc không biết cứng mồm kia! Muốn đánh thì coi cây gậy đây!

Chân tiên vác móc câu như ý đánh lại. Hai người đánh nhau quyết liệt ở am Tụ Tiên:

Thánh tăng uống lầm, bụng mang thai

Hành Giả tìm đến tiên Như Ý. Đâu biết chân tiên là ma quái
Cậy mạnh giữ riệt quyết không cho.

Đến khi gặp gỡ kẻ oán thù,

Căm nhau quyết chẳng nhường nhịn nữa.

Điều qua tiếng lại thành đôi co Tính ác nổi lên thù muốn rửa Người này xin nước chữa cho thầy. Kẻ kia vì cháu chẳng chịu nhả,
Móc câu như ý như rắn vờn, Gậy sắt nạm vàng tựa rồng bổ. Nhắm ngực đâm bừa tỏ oai phong, Mác xiên vào đùi khoe tài cả.
Cánh tay gậy nện đau điếng người, Bả vai câu móc buốt tê lạ.
Khóa sườn một gậy ưng vồ sẻ.

Đè đầu ba móc cáo tha gà, Qua lại, lại qua tranh phần thắng. Tiến tiến lui lui chẳng chịu hòa. Câu móc, gậy đâm vung tới tấp,
Hai bên quyết chiến chẳng buông tha.

Chân tiên đánh nhau với Đại Thánh đến mười hiệp không địch nổi Đại Thánh. Đại Thánh càng đánh càng hăng, cây gậy bay loang loáng như sao băng quanh đầu chân tiên, chân tiên gân cốt rã rời, kéo lê chiếc móc câu như ý bỏ chạy lên núi.

Đại Thánh không đuổi theo mà quay vào trong am lấy nước. Cửa am bị chân tiên đóng chặt tự bao giờ. Đại Thánh cầm chiếc bát sành đuổi tới trước cửa, lấy hết sức đá một phát vỡ tung cửa am, xông thẳng vào, thấy chân tiên đang gục xuống lan can, bèn quát to một tiếng, vung gậy bổ xuống. Chân tiên chạy tọt ra đằng sau. Đại Thánh thu được chiếc gầu toan múc nước lại bị chân tiên xông đến cầm móc câu như ý móc vào cẳng, làm Đại Thánh ngã xoài ra đất. Đại Thánh bò dậy, cầm gậy đánh, chân tiên né người sang bên, cầm móc câu nói:

- Để xem nhà ngươi có lấy nổi nước của ta không nào! Đại Thánh quát:
- Nhà ngươi lại đây! Nhà ngươi lại đây! Ta sẽ giết chết cái đồ nghiệt súc nhà ngươi!

Chân tiên cũng không dám xông vào đánh, chỉ ngăn không cho Đại Thánh lấy nước mà thôi. Đại Thánh thấy hắn đứng im, bèn tay trái múa gậy, tay phải cầm dây gầu lộc cộc thả xuống. Lúc ấy chân tiên lại xông vào, Đại Thánh một tay cầm gậy chống đỡ không nổi, bị hắn lấy móc câu móc vào chân, ngã sóng xoài, rơi cả dây gầu xuống giếng.

Đại Thánh nói:

- Thằng cha này vô lễ quá lắm!

Đoạn đứng dậy, hai tay múa gậy, xông vào đánh túi bụi. Chân tiên lại bỏ chạy, không dám chống đỡ. Đại Thánh lại đi lấy nước, hiềm nỗi không có gầu, lại sợ chân tiên khoèo chân, bèn
nghĩ thầm trong bụng:

- Phải về gọi người giúp sức mới xong.

Đoạn nhảy vút lên mây, về thẳng đầu xóm cất tiếng gọi:

- Sa Hòa Thượng ơi!

Tam Tạng đang đau đớn rên rỉ. Bát Giới cũng đang rên hừ hừ. Nghe tiếng gọi, hai người mừng rỡ gọi:

- Sa Tăng ơi, Ngộ Không về rồi. Sa Tăng vội vàng ra cửa đón hỏi:
- Anh ơi, lấy nước về chưa?

Đại  Thánh  bước  vào  nhà  nói  hết  mọi  chuyện  với  Đường
Tăng. Tam Tạng nước mắt giàn giụa nói:

- Đồ đệ ơi thế thì làm thế nào? Đại Thánh nói:
- Con về nhà gọi chú Sa cùng đi với con. Đến am con đánh nhau với tên ấy, còn Sa Tăng thừa cơ lấy nước mang về chữa cho sư phụ.

Tam Tạng nói:

- Hai con không mắc bệnh gì cả, bỏ ta với Bát Giới bị bệnh ở lại lấy ai chăm nom?

Bà lão đứng cạnh nói:

- Xin lão La Hán cứ yên tâm, không cần đến đồ đệ của ngài đâu, người nhà chúng tôi sẽ cố gắng chăm sóc chu đáo. Hồi sớm, lúc các ngài mới đến, chúng tôi thực sự đã có lòng quý mến. Vừa rồi lại thấy vị Bồ Tát này biết đi mây về gió, mới biết các ngài là La Hán, Bồ Tát cả, nhà chúng tôi không ai dám hại đâu.

Hành Giả hừ một tiếng, nói:
- Các người là hạng đàn bà cả, dám hại ai? Bà cụ cười nói:
- Ngài ơi, các ngài còn gặp may là đến nhà chúng tôi đây. Chứ đến nhà khác thì các ngài không thoát được đâu!

Bát Giới rên hừ hừ, hỏi:

- Tại sao lại không thoát được? Bà cụ đáp:
- Nhà tôi có bốn năm người đều đã đứng tuổi cả rồi, không còn tơ vương chuyện gió trăng nữa, cho nên không động chạm tới các ngài. Giá mà ở nhà khác đông người trẻ tuổi, đời nào các cô ấy buông tha, bắt các ngài phải ăn nằm với mình. Nếu các ngài không chịu, họ sẽ hại đến tính mạng, lột da các nài làm túi thơm ngay!

Bát Giới nói:

- Nếu như vậy thì nhất định tôi chẳng bị hại. Các người mùi thơm phưng phức mới làm được túi thơm, chứ tôi là con lợn tanh hôi, có bỏ thịt đi cũng vẫn tanh, nên không bị hại rồi.

Hành Giả cười, nói:

- Chú đừng có nói mép nữa, giữ gìn hơi sức cho dễ đẻ. Bà cụ nói:
- Thôi đừng chậm trễ, đi lấy nước ngay thôi. Hành Giả nói:
- Nhà cụ có gầu không, cho mượn một chút?

Bà cụ ra đằng sau mang vào một chiếc gầu và cả cuộn dây đưa cho Sa Tăng.

Sa Tăng nói:

- Mang cả hai sợi dây đi, sợ giếng sâu phải dùng tới.
Sa Tăng cầm lấy cuộn dây, theo Đại Thánh ra khỏi thôn, cưỡi mây cùng đi. Lát sau đã tới địa phận núi Giải Dương. Hai người dừng mây bước xuống, đến thẳng bên ngoài cửa am. Đại Thánh dặn dò Sa Tăng:

- Chú cầm gầu và dây, đứng nấp một chỗ, để lão Tôn ra khiêu chiến, chờ khi nào tôi và nó mải mê đánh nhau, chú thừa dịp lẻn vào múc nước mang về nghe!

Sa Tăng vâng lời.

Đại Thánh bèn rút gậy sắt, đến trước cửa lớn tiếng quát:

- Mở cửa! Mở cửa!

Tên giữ cửa trông thấy vội trở vào báo:

- Thưa sư phụ, thằng cha Tôn Ngộ Không lại tới. Chân tiên trong lòng nổi giận nói:
- Con khỉ khốn kiếp thực ghê gớm! Trước kia ta từng nghe nói hắn có chút tài nghệ, quả nhiên ngày nay mới rõ. Cây gậy sắt ấy thực khó địch lắm!

Đạo nhân nói:

- Thưa sư phụ tài nghệ của hắn tuy cao, nhưng tài sư phụ cũng chẳng kém, thật là xứng đáng đối thủ.

Chân tiên nói:

- Hai lần vừa rồi ta thua hắn cả. Đạo nhân nói:
- Hai lần trước tuy nó được, chẳng qua do tính hung hăng. Hai lần sau lúc hắn múc nước, bị sư phụ móc ngã, chẳng phải là ngang tài đấy ư? Vừa rồi hắn chẳng làm gì nổi phải bỏ đi, bây giờ lại đến chắc là cái thai trong bụng Tam Tạng to ra, hắn bị sư phụ trách mắng dữ lắm, bất đắc dĩ phải quay lại, chắc hắn bực dọc với sư phụ hắn lắm. Sư phụ phen này giành phần thắng là
điều không còn nghi ngờ gì nữa.

Chân tiên nghe nói khấp khởi mừng thầm, cười oang oang để lấy khí thế, đoạn cầm chiếc móc câu như ý bước ra ngoài cửa, lớn tiếng quát:

- Con khỉ già khốn kiếp kia! Nhà ngươi lại đến có việc gì? Đại Thánh nói:
- Ta đến lấy nước. Chân tiên nói:
- Nước mạch trong giếng nhà ta, đến bậc đế vương tể tướng cũng phải sắm lễ vật rượu thịt đến cầu, ta cũng chỉ cho một ít, huống hồ nhà ngươi là kẻ thù của ta, mà dám tay không thiện tiện đến lấy hả?

Đại Thánh nói:

- Thật không cho chứ? Chân tiên nói:
- Không cho! Không cho! Đại Thánh quát mắng:
- Đồ nghiệt súc khốn kiếp! Không cho nước thì bây giờ coi cây gậy đây!

Bèn vào miếng, giữ thế, vung gậy nhằm đầu chân tiên bổ xuống. Chân tiên nghiêng người tránh, giơ cây móc câu lên đỡ. Trận này còn dữ dội hơn trận trước nhiều:

Gậy, móc đánh đỡ tương tàn,

Hò la vang động non ngàn ngút mây.

Cuồng phong cuồn cuộn xô cây, Bừng bừng sát khí phủ dày trăng sao. Yêu tiên pháp thuật tài cao,
Đại Thánh mưu trí khác nào yêu tiên.

Hai bên đánh trận triền miên,

Đấu trí đấu lực chẳng bên nào nhường.

Hai người nhảy nhót đánh nhau ở ngoài cửa am, đoạn kéo nhau xuống sườn núi đánh nhau rất dữ dội quyết liệt. Chuyện không nói nữa.

Trong khi ấy Sa Hòa Thượng cầm chiếc gầu xông vào trong cửa. Một đạo nhân ngồi bên miếng giếng ngăn lại quát:

- Nhà ngươi là ai mà dám lấy nước?

Sa Tăng đặt gầu, rút bảo trượng hàng yêu ra, chẳng nói chẳng rằng, bổ luôn xuống đầu. Đạo nhân tránh không kịp, cánh tay trái bị đánh gãy, lăn ra đất giãy giụa. Sa Tăng quát mắng:

- Đồ nghiệt súc này đáng lẽ phải đánh cho chết. Khốn nỗi nhà ngươi cũng là thân người, nên ta tha cho, hãy cút ngay đi để ta lấy nước!

Đạo nhân kêu trời kêu đất, bỏ ra đằng sau trốn mất. Sa Tăng mới lấy gầu dòng xuống giếng múc đầy một gầu, chạy thẳng ra ngoài am, nhảy vút lên mây, ngoảnh gọi Hành Giả:

- Sư huynh ơi, em đã lấy được nước rồi, tha cho nó, tha cho nó!



Đại Thánh nghe tiếng, vung gậy sắt, gạt cây móc câu ra nói:

- Đáng lẽ ta diệt cho tuyệt nòi, tuyệt giống nhà chúng bay, nhưng xét ra một là nhà ngươi cũng không phạm pháp, hai là nể tình lệnh huynh Ngưu Ma Vương ta tha chết cho. Lần trước ta bị nhà ngươi móc hai lần, không lấy được nước. Lần này ta dùng kế điệu hổ ly sơn, đánh lừa nhà ngươi ra tận đây đánh nhau để cho em ta lấy được nước mang về rồi. Nếu lão Tôn cứ đem hết tài ra đánh nhau với nhà ngươi, thì đừng nói một thằng Như Ý chân tiên, ngay đến dăm thằng ta cũng đánh chết hết. Nhưng đánh chết chẳng bằng phóng sinh. Ta tạm tha cho nhà ngươi sống thêm mấy năm nữa. Từ nay trở đi, có ai tới lấy nước, thì chớ có sách nhiễu người ta.

Chân tiên chẳng kể hay dở, lại giở trò vung móc câu khoèo vào chân Đại Thánh. Đại Thánh tránh thoát xông tới, quát mắng:

- Chớ chạy!
Chân tiên trở tay không kịp, bị ẩy một cái ngã đánh bịch, giãy giụa trên mặt đất. Đại Thánh cướp lấy cây móc câu bẻ gãy đôi, đoạn lại chập vào bẻ tiếp gãy làm bốn đoạn, rồi vứt xuống đất, nói:

- Đồ nghiệt súc khốn kiếp dám hỗn láo nữa không?

Chân tiên run cầm cập chịu nhục nín lặng chẳng nói năng gì. Đại Thánh cười khà khà, nhảy lên mây bay đi.

Có bài thơ làm chứng rằng:

Chân diên nấu luyện cần chân thủ  [238],

[239]
Chân thủy điều hòa chân hống ra        .

Chân hống, chân diên không khí mẹ, Tiên đơn tức linh dược, linh sa.
[240]
Anh nhi oan kết thai trong bụng        ,

Mẹ đất ra công khó chẳng nhòa[241]. Đánh đố bàng môn theo chính giáo, Lòng vua đắc ý mặt như hoa.
Đại Thánh nhảy lên đám mây lành đuổi theo Sa Tăng. Hai người lấy được nước, cười hể hả quay về xóm. Tới nơi, họ hạ mây đi thẳng vào trong nhà, thấy Trư Bát Giới bụng phưỡn ra, ngồi tựa bên cửa rên hừ hừ. Hành Giả rón rén bước lại, nói:

- Chú ngốc ơi, bao giờ ở cữ đấy? Chú ngốc sợ quá, nói:
- Sư huynh đừng đùa nữa, có lấy được nước không?

Hành Giả định trêu nữa, nhưng Sa Tăng đi đằng sau cười nói:

- Nước đây rồi, nước đây rồi.
Tam Tạng cố nén đau, cúi người nói:

- Các đồ đệ vất vả quá!

Bà già cũng vui lắm. Cả mấy người đều bước ra cúi lạy nói:

- Thưa Bồ Tát, thực là hiếm có! Hiếm có!

Bèn vội vàng mang ra chiếc chén con đưa cho Tam Tạng nói:

- Thưa lão sư phụ, uống chút xíu thôi, chỉ cần một ngụm là giải được cái thai.

Bát Giới nói:

- Tôi không uống chén, đưa cả thùng đây cho tôi. Bà già nói:
- Ngài ơi, chết người đấy! Uống cả thùng thì ruột gan sẽ tan hết!
Chú ngốc sợ quá không dám làm bừa, chỉ uống có nửa chén. Độ khoảng ăn xong bữa cơm, hai người thấy bụng quặn đau,
bụng sôi ùng ục đến dăm ba trận. Sau cơn sôi bụng, chú ngốc
chịu không nổi đau đái ỉa vung vãi cả ra. Đường Tăng cũng chịu không nổi cơn đau, muốn tìm chỗ kín đi ngoài. Hành Giả nói:

- Sư phụ đứng ra chỗ gió, sợ phải vía, lỡ ra bị trúng phong, thành bệnh sản hậu đấy.

Bà già vội đi lấy hai chiếc thùng sạch đến bảo hai người cứ đi vào đấy. Trong giây phút, hai người đi đến mấy lần, bấy giờ mới thấy đỡ đau, bụng trướng dần dần tiêu đi, tan hết máu cục, thịt hòn. Người nhà bà già lại nấu một nồi cháo hoa cho ăn để bổ hư. Bát Giới nói:

- Thưa bà, người tôi khỏe lắm, chẳng cần bổ hư. Bà đưa giùm ít nước nóng để tôi tắm rửa sạch sẽ rồi mới ăn cháo.

Sa Tăng nói:
- Anh hai ơi, không tắm được đâu. Ở cữ mà dầm nước là sinh bệnh đấy.

Bát Giới nói:

- Tôi có phải đẻ thực đâu. Chẳng qua chỉ là tiểu sản thì có sợ gì. Tắm cho sạch sẽ.

Bà già bèn đi đun ít nước nóng để hai người rửa ráy chân tay. Sau đó Đường Tăng ăn độ hai bát con cháo, còn Bát Giới ăn luôn mười bát vẫn còn muốn ăn nữa.

Hành Giả cười nói:

- Đồ bị thịt, hốc ít chứ! Người ta tưởng là cái “dạ dày bao tải”
còn ra quái gì!

Bát Giới nói:

- Không sao! Không sao! Em không phải là con lợn sề thì sợ quái gì!

Người nhà bà già lại sửa soạn nấu cơm. Bà già nói với Đường Tăng:
- Thưa lão sư phụ, cho tôi xin chỗ nước thừa kia. Hành Giả nói:
- Chú ngốc uống nước nữa không? Bát Giới nói:
- Bụng em đã hết đau, cái thai chắc tan hết, bây giờ cảm thấy nhẹ nhõm khỏe khoắn, còn uống nước làm gì?

Hành Giả nói:

- Hai người đã khỏi hẳn rồi, nước này xin biếu bà.

Bà già cảm ơn Hành Giả, bưng chỗ nước thừa trút vào chiếc vò sành, chôn đằng sau nhà, đoạn nói với mọi người:

- Vò nước này là món tiền sắm quan tài của tôi đấy!
Mọi người trong nhà ai cũng vui mừng, lau bàn dọn cơm mời khách. Thầy trò Đường Tăng ăn xong, thư thả khoan khoái ngủ lại một đêm

Sáng hôm sau, thầy trò cảm tạ bà già, ra khỏi xóm nhỏ. Đường Tam Tạng vịn yên lên ngựa. Sa Hòa Thượng gánh hành lý. Tôn Đại Thánh đi trước dẫn đường, Trư Bát Giới dắt dây cương. Thế mới thực là:

Rửa trôi khẩu nghiệt thân trong sạch, Tiên hết thai phàm thể tự nhiên.
Cuối cùng không biết vào tới nước Tây Lương còn xảy ra những việc gì, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ NĂM MƯƠI TƯ Tam Tạng sang Tây qua nước gái Ngộ Không lập mẹo thoát trăng hoa
Lại nói chuyện thầy trò Tam Tạng từ biệt mọi người trong
xóm, theo đường sang Tây, đi chưa đầy ba bốn mươi dặm, tới địa phận nước Tây Lương. Đường Tăng ngồi trên mình ngựa chỉ tay nói:

- Ngộ Không, trước mặt chúng ta là tòa thành trì, tiếng người ngoài phố nghe đã ồn ào huyên náo, chắc đó là Tây Lương nữ quốc. Các con phải giữ gìn khuôn phép cẩn thận, chớ có buông tuồng phóng đãng làm loạn giáo chỉ pháp môn.

Ba người nghe nói tuân thủ nghiêm ngặt lời dặn.

Vừa dứt lời, thầy trò đã đi tới đầu phố cửa đông. Mọi người ở đây đều mặc quần dài áo ngắn, đánh phấn bôi son. Già trẻ toàn là phụ nữ cả. Họ đang mua bán ở hai bên dãy phố, chợt nhìn thấy bốn thầy trò đi tới, tất cả bèn vỗ tay reo mừng, mặt mày hớn hở nói:

- Người giống đã tới! Người giống đã tới!



Tam Tạng hoảng quá ghìm cương ngựa không dám đi. Một lát sau, đường phố đã đặc kín người, chỉ nghe thấy tiếng cười nói ồn ào. Bát Giới kêu la loạn xạ:

- Tôi là con lợn thiến! Tôi là con lợn thiến! Hành Giả nói:
- Chú ngốc chớ có kêu nhặng lên, cứ vểnh cái bộ mặt cũ ấy ra là xong.

Bát Giới nghe theo, lắc lắc cái đầu sang hai bên, vẫy vẫy đôi tai quạt, trề cái mõm dài ra, họng phát ra tiếng ủn ỉn, làm chị em sợ quá, xô chạy ngã dúi dụi. Có bài thơ làm chứng rằng:

Thánh Tăng bái Phật đến Tây Lương, Chỉ gái không trai nước lạ thường! Nông, sĩ, công, thương toàn phái yếu, Ngư, tiều, canh, mục rặt hồng trang.
Gái tơ kén rể ngồi đầy chợ, Thiếu nữ cầu hôn đứng chật đường. Không có Ngộ Năng người xấu xí, Các nàng vây chặt khó mà đương.
Từ đấy mọi người sợ sệt không dám tới gần. Cô nào cô nấy xoa tay cúi người, lắc đầu, cắn móng tay, run rẩy khép nép đứng chật ních hai bên phố ngắm Đường Tăng. Tôn Đại Thánh cũng giơ bộ mặt xấu xí ra. Sa Tăng đóng giả làm hổ cái đi hộ vệ, Bát Giới dắt ngựa, vểnh mõm vẫy tai, cả đoàn cứ thế bước đi.

Phố xá nhà cửa nơi đây rất tề chỉnh, cửa hàng khang trang, nói chung có hàng muối, hàng gạo, quán rượu, quán nước. Khi lâu đài trống điểm kẻ buôn người bán qua lại buôn bán đông vui sầm uất, cờ treo trước quán cuốn rèm mây. Thầy trò đi tới một góc phố, chợt thấy một vị nữ quan đứng gác ngoài phố lớn tiếng gọi:

- Các vị sứ giả ở phương xa tới kia, không được tự tiện vào thành, xin mời vào quán dịch ghi tên vào sổ, đợi tiểu quan mang sổ vào tâu nhà vua, khám xét xong mới cho đi.

Tam Tạng nghe nói liền xuống ngựa, nhìn thấy trên cổng nha môn treo một tấm biển có viết ba chữ “Quán Nghênh Dương”, bèn nói:

- Ngộ Không này, người trong xóm nói quả không sai, đúng là có quán Nghênh Dương thật.

Sa Tăng cười, nói:

- Anh hai ơi, anh đến suối “Chiếu Thai” soi thử xem đúng có hai bóng không.

Bát Giới nói:

- Chú đừng có đùa! Tôi uống chén nước suối “Rụng thai”, cái
thai đã tan hết, còn soi làm gì?

Tam Tạng quay lại dặn:

- Ngộ Năng, ăn nói phải cẩn thận! Đoạn bước tới cúi chào vị nữ quan.
Vị nữ quan dẫn đường, mời thầy trò vào trong quán, ngồi ở gian giữa, rồi gọi pha trà. Người hầu hạ toàn là các cô gái tóc chải ba bím, mặc áo cánh xẻ hai bên, tay bưng trà miệng cười chúm chím. Một lát, uống trà xong, vị nữ quan cúi người hỏi:

- Sứ giả ở đâu tới ạ? Hành Giả thưa:
- Chúng tôi là người nước Đại Đường bên phương Đông vâng mệnh nhà vua sang phương Tây bái Phật cầu kinh. Sư phụ chúng tôi đây là ngự đệ của vua Đường, hiệu là Đường Tam Tạng. Tôi là đồ đệ cả, tên gọi Tôn Ngộ Không. Còn đây là hai sư đệ của tôi tên gọi Trư Ngộ Năng và Sa Ngộ Tĩnh. Cả đoàn bốn người, với con ngựa là năm. Chúng tôi mang theo cả điệp văn thông hành, xin ngài kiểm tra giùm rồi cho đi.

Vị nữ quan cầm bút ghi xong, bèn bước xuống dập đầu nói:

- Xin các ngài tha tội, hạ quan tôi giữ chức Dịch thừa, trông nom công việc ở quán Nghênh Dương này, thực không được biết các ngài bên thượng quốc để ra đón tiếp.

Đoạn đứng dậy sai người quản sự sửa soạn cơm nước thết đãi, rồi nói với thầy trò:

- Các ngài cứ thư thả ngồi đây một lát, đợi hạ quan vào thành tâu lên quốc vương, đổi điệp văn trao lại cho các ngài và tiễn các ngài sang phương Tây.

Tam Tạng mừng rỡ ngồi đợi. Chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện viên Dịch thừa mũ áo chỉnh tề, vào thẳng
trước lầu Ngũ Phượng nói với quan Hoàng môn:

- Tôi là Dịch thừa quán Nghênh Dương có việc cần vào tâu với Nữ vương.

Quan Hoàng môn lập tức vào tâu. Nữ vương truyền lệnh mời vào hỏi:

- Dịch thừa có việc gì cần tâu đó? Dịch thừa tâu:
- Tiểu thần ở quán đang tiếp ngự đệ của vua nước Đại Đường bên phương Đông là Đường Tam Tạng. Ông ta còn ba đồ đệ nữa tên là: Tôn Ngộ Không, Trư Ngộ Năng, Sa Ngộ Tĩnh và con ngựa nữa là năm. Cả đoàn muốn sang phương Tây bái Phật cầu kinh. Tiểu thần vào tâu với chúa công, xem có cho phép họ đổi điệp văn để họ đi không?

Nữ vương nghe tâu, trong lòng mừng rỡ, nói với các quan văn võ rằng:

- Quả nhân đêm đêm thường mơ thấy bình phong vàng mầu rực rỡ, tấm gương ngọc sáng long lanh, hóa ra là điềm mừng ngày hôm nay.

Các vị nữ quan quỳ rạp trước thềm son tâu:

- Thưa chúa công, tại sao chúa công biết đó là điềm mừng ngày hôm nay?

Nữ vương nói:

- Người đàn ông bên phương Đông ấy là ngự đệ của vua Đường.  Nước  ta  đây  từ  thuở  trời  đất  mở  mang  bao  đời  đế vương, chưa hề có một người đàn ông nào bước chân tới, may mắn hôm nay có ngự đệ vua Đường giáng hạ, khác nào trời ban cho Quả nhân, mang sự giàu sang của một nước, muốn kén ngự đệ làm vua, ta làm hoàng hậu, âm dương phối hợp, sinh con đẻ cháu, truyền mãi nghiệp đế, vậy đó, không phải là điềm lành
ngày hôm nay sao?

Các vị nữ quan nhảy múa tán thưởng, ai cũng vui mừng. Dịch thừa lại tâu:
- Lời bàn của chúa công thực là điều tốt đẹp truyền gia vạn đại, nhưng ngài ngự đệ có ba đồ đệ mặt mũi hung ác xấu xí lắm.

Nữ vương hỏi:

- Khanh thấy tướng mạo ngự đệ thế nào? Đồ đệ mặt mũi xấu xí ra sao?

Dịch thừa tâu:

- Ngự đệ tướng mạo đường đường, khôi ngô tuấn tú, thực là một đấng nam nhi thiên triều thượng quốc, một nhân vật nho nhã Nam Thiệm Trung Hoa. Còn ba đồ đệ kia mặt mũi hung dữ, tướng mạo yêu tinh.

Nữ vương nói:

- Đã như vậy, đổi điệp văn trả cho ba đồ đệ để bọn họ sang
Tây, chỉ lưu mình ngự đệ lại, có gì mà không được?

Các quan lạy tâu:

- Chúa công nói rất phải. Chúng thần xin tuân theo việc đó. Trong chuyện hôn phối, không có mối không xong. Xưa đã có câu: “Phối hợp vợ chồng nhờ lá thắm, ông tơ bà nguyệt nối dây hồng”.

Nữ vương nói:

- Trẫm theo lời tâu của khanh, cử quan Đương giá thái sư làm người mối, quan Dịch thừa quán Nghênh Dương làm chủ hôn, đến trước cầu hôn với ngự đệ ở quán dịch. Khi ngài ấy bằng lòng, trẫm sẽ ngự xa giá ra ngoài thành đón tiếp.

Thái sư, Dịch thừa vâng lệnh ra đi.
Lại nói chuyện thầy trò Tam Tạng đang ngồi trong quán trọ ăn cơm, chợt bên ngoài có người báo:

- Quan Đương giá thái sư và bà lớn bản quán chúng tôi đã tới. Tam Tạng hỏi:
- Quan thái sư đến có việc gì nhỉ? Bát Giới thưa:
- Chắc nữ vương đến mời chúng ta. Hành Giả nói:
- Không phải đến mời, mà là đến cầu hôn. Tam Tạng nói:
- Ngộ Không, nếu họ không cho đi, cưỡng bức cầu hôn, thì biết làm sao?

Hành Giả nói:

- Sư phụ cứ bằng lòng, lão Tôn khắc có cách xử lý.

Vừa dứt lời, hai nữ quan đã bước vào, cúi lạy Tam Tạng. Tam
Tạng đáp lễ lại từng người và nói:

- Bần tăng là người xuất gia, có đức hạnh tài năng gì đâu, không dám phiền hai vị hạ cố.

Thái sư thấy tướng mạo Tam Tạng đường đường mừng thầm trong lòng rằng:

- Nước ta thực là may mắn, một trang nam tử thế này xứng đáng làm chồng đức vua ta lắm!

Hai nữ quan lạy xong, đứng bên cạnh nói:

- Thưa ngài ngự đệ, thật là việc hỉ hiếm có! Tam Tạng nói:
- Tôi là người xuất gia, việc hỉ từ đâu tới?
Thái sư cúi người nói:

- Nước chúng tôi đây gọi là Tây Lương nữ quốc. Trong nước từ xưa không có đàn ông. Giờ đây may mắn có ngài ngự đệ giáng lâm. Thần vâng chiếu chỉ của nhà vua đến đây cầu hôn.

Tam Tạng nói:

- Tốt quá! Tốt quá! Bần tăng một thân tới quý quốc, không có trai gái đi theo, chỉ có ba đồ đệ xấu xí, không biết đại nhân đến cầu hôn thế nào?

Dịch thừa nói:

- Mới rồi hạ quan vào triều tâu rõ chuyện, đức vua tôi vô cùng vui mừng nói rằng: “Đêm đêm thường mơ thấy một giấc mộng lành: chiếc bình phong vàng mầu rực rỡ, tấm gương bằng ngọc sáng long lanh”, biết ngự đệ là bậc nam nhi bên thượng quốc Trung Hoa, nên đức vua tôi muốn đem sự giàu sang của một nước, kén ngự đệ lấy làm chồng, ngự đệ ngồi ngoảnh mặt về phương Nam xưng “cô”[242]  đức vua tôi xin làm hoàng hậu. Người đã xuống chiếu ra lệnh cử quan Thái sư làm người mối, hạ quan tôi làm chủ hôn, đến đây cầu hôn với ngự đệ.

Tam Tạng nghe xong, cúi đầu im lặng. Thái sư nói:

- Bậc đại trượng phu gặp thời, không nên bỏ lỡ. Như việc kén rể này, thiên hạ tuy có, nhưng được cả sự giàu sang của một nước, thì hiếm lắm. Mong ngự đệ bằng lòng sớm để chúng tôi còn về tâu.

Tam Tạng cứ như ngây như dại.

Bát Giới đứng bên dẩu cái mõm dài lên nói:

- Thưa quan Thái sư, ngài cứ về tâu với nhà vua rằng: Sư phụ tôi là một vị La Hán tu lâu đắc đạo, quyết không tham giầu sang nhất nước, cũng không mê gái đẹp nghiêng thành. Mau đổi điệp
văn để sư phụ tôi sang Tây, mà chỉ nên giữ mình tôi ở lại làm rể có được không?

Thái sư nghe nói sợ hãi chẳng dám trả lời. Dịch thừa nói:

- Ngài tuy là đàn ông thật, nhưng người ngợm xấu xí thô lậu, quốc vương tôi không mê đâu.

Bát Giới cười, nói:

- Ngài thật chẳng thông biến. Thường có câu: “Nồi tròn úp
vung tròn, nồi méo úp vung méo”[243]  trên đời có thấy ai xấu
trai mà ế vợ đâu?

Hành Giả nói:

- Chú ngốc chớ có nói lăng nhăng, để tùy ý sư phụ, đáng làm thì làm, không đáng làm thì thôi, đừng làm dây dưa công việc mối lái.

Tam Tạng hỏi:

- Ngộ Không, ý con thế nào? Hành Giả thưa:
- Theo con, sư phụ ở lại đây cũng được. Từ xưa đã có câu “Nhân duyên nghìn dặm như dây buộc”. Không bao giờ gặp lại lần thứ hai như thế này đâu.

Tam Tạng nói:

- Đồ đệ ơi, nếu chúng ta tham chuyện giầu sang ở đây, thì ai sang phương Tây lấy kinh? Há chẳng uổng lòng mong mỏi của vua Đường sao?

Thái sư nói:

- Thưa, trên có ngự đệ, tiểu thần không dám giấu. Ý quốc vương tôi chỉ muốn cầu hôn với ngự đệ thôi, còn ba đồ đệ khi nào dự tiệc cưới xong, sẽ đổi cho điệp văn, tiễn sang phương
Tây lấy kinh.

Hành Giả nói:

- Thái sư nói phải lắm. Chúng tôi chẳng làm khó dễ, bằng lòng lưu sư phụ lại làm chồng đức vua các ngài. Các ngài mau mau đổi điệp văn để chúng tôi sang phương Tây. Bao giờ lấy kinh về, lại tới đây lạy cha mẹ, xin ít tiền đi đường, trở về Đại Đường.

Thái sư và Dịch thừa cúi lạy Hành Giả, nói:

- Đa tạ công ơn tác thành của lão sư. Bát Giới nói:
- Thái sư chớ có hứa suông nhé. Chúng tôi đã ưng thuận, phải bảo nữ vương của các ngài bày một bữa tiệc, mời chúng tôi uống một ly rượu đính hôn chứ.

Thái sư nói:

- Có chứ! Có chứ! Sẽ bảo bày tiệc ngay đây.

Dịch thừa và Thái sư vô cùng mừng rỡ, quay vào triều tâu với nữ vương. Chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện Tam Tạng túm chặt lấy Hành Giả quát mắng:

- Con khỉ này làm chết ta rồi! Tại sao lại bảo ta ở đây làm rể, còn các ngươi sang phương Tây bái Phật? Ta chết cũng không dám làm như thế!

Hành Giả nói:

- Sư phụ cứ yên tâm, con há lại không biết tính tình của sư phụ sao? Nhưng đến xứ này, gặp người này, không tương kế tựu kế không xong.

Tam Tạng hỏi:

- Tương kế tựu kế thế nào?
Hành Giả thưa:

- Nếu sư phụ cứ khăng khăng không bằng lòng, họ sẽ không chịu đổi điệp văn, không cho chúng ta lên đường. Rồi lỡ họ bụng dạ độc ác, sai thật đông người lột da sư phụ ra làm cái túi thơm gì đó. Lúc ấy chúng con há chịu để yên không báo? Nhất định phải giở phép thần thông hàng ma bắt quái ra. Mà sư phụ đã biết đấy, chân tay chúng con nặng lắm, binh khí lại ghê gớm, động tay một cái, người cả nước này tất chết hết. Họ tuy ngăn trở việc của ta thật, nhưng không phải là yêu quái ma mãnh gì, cũng là thân người như ta thôi. Vả lại, sư phụ là người từ bi hiếu thiện, trên đường đi một con kiến cũng không nỡ hại. Vậy giết chết vô số mạng người, lòng sư phụ đâu nỡ? Bởi vì bất thiện quá lắm!

Tam Tạng nghe xong, nói:

- Ngộ Không ơi, con bàn phải lắm! Nhưng chỉ e nữ chúa mời ta vào, bắt ta làm cái chuyện của vợ chồng, làm mất hết khí nguyên dương, bại hoại đức hạnh của nhà Phật, để mất chân tinh, sa ngã cả thân người bản giáo thì sao?

Hành Giả nói:

- Hôm nay bằng lòng việc cầu hôn, nhất định họ phải dùng nghi lễ hoàng đế, mang xa giá ra ngoài thành đón sư phụ. Sư phụ đừng có chối từ gì cả, cứ việc ngồi lên xe rồng kiệu phượng bước vào điện báu, ngồi quay mặt về phương Nam, bảo nữ vương lấy ngự bảo ấn tín ra, gọi anh em chúng con vào, đóng dấu điệp văn đi đường, lại mời nữ vương đích thân ký vào, xong xuôi trao lại cho chúng con. Một mặt sư phụ cứ truyền bày yến tiệc cùng nữ vương ăn mừng và để tiễn chân chúng con. Tiệc xong, lại ra lệnh chuẩn bị xa giá, nói là đưa chúng con ra khỏi thành rồi quay về chung gối với nữ vương. Lừa cho vua tôi họ thật vui vẻ, khiến họ không hề có ý nghĩ ngăn trở, không nảy
sinh bụng dạ độc ác. Chờ khi nào ra khỏi thành rồi, sư phụ bước xuống khỏi xe rồng kiệu phượng, bảo Sa Tăng đợi sẵn bên cạnh đỡ sư phụ cưỡi lên con ngựa bạch. Lúc ấy con sẽ dùng phép định thân làm cho tất cả vua tôi không thể nhúc nhích được. Chúng ta cứ việc thuận đường sang phương Tây. Đi độ một ngày đêm con sẽ niệm chú, giải pháp thuật, để vua tôi họ tỉnh lại về thành. Làm như vậy một là không hại đến tính mạng của họ, hai là không tổn nguyên thần của sư phụ. Thế gọi là mẹo “vờ cầu hôn để thoát lưới” đó.

Tam Tạng nghe xong như người say chợt tỉnh, người ngủ mê vừa thức dậy, sung sướng quên hết cả ưu sầu, cảm tạ Ngộ Không rối rít, nói:

- Vô cùng cảm ơn đồ đệ có cao kiến.
Bốn thầy trò tâm đầu ý hợp bàn bạc. Chuyện không nói nữa. Lại nói chuyện Thái sư và Dịch thừa chẳng đợi tuyên chiếu,
vào thẳng trong điện, tới trước thềm bạch ngọc tâu:

- Giấc mộng đẹp của chúa công thật là ứng nghiệm. Niềm vui cả nước xum vầy sắp thành rồi.

Nữ vương nghe lời tâu, cuốn rèm châu bước xuống ngai vàng, hé cặp môi son, lộ hàm răng ngọc cười chúm chím, thỏ thẻ hỏi:

- Hiền khanh gặp ngự đệ, câu chuyện thế nào? Thái sư thưa:
- Bọn thần đến quán dịch, bái kiến ngự đệ xong là đi luôn vào câu chuyện cầu hôn. Ngự đệ tỏ vẻ chối từ. May có người đồ đệ cả khẳng khái nhận lời xin lưu sư phụ ở lại làm chồng chúa công, bằng lòng ngoảnh mặt về phương Nam xưng đế, chỉ cần chúa công đổi điệp văn để họ lên đường sang phương Tây. Chừng nào lấy kinh trở về họ sẽ tới đây lạy chào cha mẹ, xin chút tiền lộ phí rồi về Đại Đường.
Nữ vương cười, hỏi:

- Ngự đệ có nói gì nữa không? Thái sư thưa:
- Ngự đệ không nói gì thêm, bằng lòng lấy chúa công. Còn người đồ đệ hai đòi được uống rượu đính hôn trước.

Nữ vương nghe nói, lập tức sai quan Quang Lộc tự bày tiệc. Một mặt sai sắp đặt xa giá ra ngoài thành đón tiếp phu quân.

Các nữ quan vâng mệnh nhà vua quét dọn cung điện, trang hoàng đình đài. Nhóm đi bày tiệc, nhanh như hỏa tốc. Nhóm chuẩn bị xe, lẹ tựa sao băng. Cả nước Tây Lương tuy toàn là đàn bà, mà xe loan kiệu phượng rực rỡ chẳng kém Trung Hoa. Chỉ thấy:

Sáu rồng phun vẻ đẹp, Song phượng nhả mây lành.
Sáu rồng phun vẻ đẹp kéo xe nhanh, Song phượng nhả mây lành khiêng kiệu lướt. Mơ màng hương thơm ngát,
Tưng bừng khí ấm soi.

Đai báu cá vàng quan lại đông vui Tóc mây lược ngà cung phi đứng chật. Quanh xa giá quạt uyên ương phất phất, Trước ngai rồng rèm châu thúy đung đưa. Rộn rịp giọng sênh ca,
Vang lừng đàn sáo nổi.

Cảnh tượng tưng bừng vui như hội, Hỷ khí vô biên chẳng khác xuân.
Kiệu rồng, lọng báu rước đưa chân, Tinh kỳ phấp phới màu rực rỡ.
Tự cổ kim xứ này chưa có,

Nữ vương nay được lấy đàn ông.

Một lát sau, xa giá đã ra khỏi thành, thẳng đến quán dịch
Nghênh Dương. Chợt có người vào báo với thầy trò Tam Tạng:

- Xa giá đã tới.

Tam Tạng nghe báo, vội vàng cùng ba đồ đệ, quần áo chỉnh tề ra cổng đón xa giá.

Nữ vương cuốn rèm bước xuống xe hỏi:

- Vị nào là ngự đệ Đường Tăng?



Thái sư chỉ tay thưa:

- Người mặc chiếc áo dài đứng trước hương án ngoài cửa kia
đấy ạ.

Nữ vương chớp chớp đôi mắt phượng, nhíu cặp mày ngài nhìn ngắm kỹ càng, thấy quả là một bậc khác phàm:

Dáng người anh vĩ, Vẻ mặt hiên ngang. Răng trắng bạc dát, Miệng rộng môi son.
Đầu tròn trán phẳng thái dương nở, Mắt sáng mày thanh địa các trường.
Vành tai đầy đặn dường kiệt sĩ, Tấm thân thanh tú bậc hiền lương. Một đấng phong lưu và tuấn tú,
Lấy vua xinh đẹp nước Tây Lương.

Nữ vương ngắm nghía đến nỗi lòng dạ mê mẩn, sóng tình lai láng, lửa dục bừng bừng, miệng anh đào xinh xắn hé mở, cất tiếng gọi:

- Ngự đệ Đại Đường ơi, sao mãi chàng chưa tới cưỡi phượng đè loan?

Tam Tạng nghe nói, đỏ mặt tía tai, xấu hổ ngượng ngập, chẳng dám ngẩng đầu.

Trư Bát Giới đứng cạnh dẩu mõm, giương mắt ngắm nhìn nữ vương, thấy nữ vương cực kỳ xinh đẹp. Thật là:

Mày cong như lá liễu, Da trắng mịn tựa ngà. Má hoa đào đỏ thắm, Mịn màng làn tóc tơ.
Mắt sóng thu tình tứ, Tay búp măng nõn nà. Áo giải hồng lộng lẫy,
Trâm ngọc thúy sáng lòa. Chiêu Quân đâu dám sánh, Tây Thi còn kém xa.
Trở gót vàng kêu rộn. Quay bước ngọc ngân nga. Chị Hằng khôn đuổi kịp, Tiên nữ phải thua xa!
Điểm trang đẹp khác phàm ta, Hệt như Vương Mẫu khi ra Dao Trì.
Chú ngốc nhìn ngắm hồi lâu, miệng thèm rỏ dãi, bụng muốn cồn cào, gân cốt mềm nhũn, nhưng một lát sau lại chẳng khác nào sư tử tuyết gặp lửa, phút chốc tan thành nước hết.

Nữ vương bước lại gần, níu lấy Tam Tạng, nũng nịu cất tiếng thỏ thẻ:

- Ngự đệ chàng ơi, xin mời lên xe rồng, cùng thiếp về điện
Kim Loan kết đôi vợ chồng nào!

Tam Tạng run rẩy đứng không vững, như ngây như dại. Hành
Giả đứng bên cạnh nói:

- Sư phụ bất tất khiêm tốn quá, xin mời lên xe ngồi cùng nữ vương, để sơm sớm đổi điệp văn, cho chúng con còn đi lấy kinh.

Tam Tạng không dám nói lại, chỉ vuốt ve Hành Giả, đoạn cầm lòng không đặng, nước mắt trào ra. Hành Giả nói:

- Sư phụ không nên buồn rầu, giầu sang nhường ấy không hưởng thụ, còn đợi đến bao giờ?
Tam Tạng không biết làm thế nào, đành nghe theo, gạt nước mắt, miễn cưỡng tươi tỉnh rời gót lại gần, cùng nữ vương:

Hai tay ngà cùng dắt, Cùng ngồi trong xe rồng.
Nữ chúa lòng rộn ràng muốn kết vợ chồng, Tam Tạng bụng ngay ngáy chỉ mong bái Phật. Một người muốn động phòng ái ân trăng mật,
Một người mong tới Linh Sơn để yết kiến Thế Tôn.

Nữ vương thì thật lòng, Thánh tăng tìm cách dối.
Nữ vương thật lòng, mong tình nồng nàn duyên thắm mãi, Thánh tăng tìm cách dối, giấu êm, tình ý giữ nguyên thần.
Một người khấp khởi thấy đàn ông, giận chẳng được giữa ban ngày vui tình chồng vợ,

Một người phấp phỏng gặp nữ sắc, mong tức thời thoát lưới tình đến được Lôi Âm.

Hai người vui vẻ lên xe rồng, Ai biết Đường Tăng ý khác.
Các quan văn võ thấy chúa công và Đường Tăng sánh vai cùng ngồi trong kiệu phượng, thi ai nấy tươi cười hớn hở liền rước nghi vệ quay vào trong thành. Tôn Đại Thánh bảo Sa Tăng gánh hành lý, dắt ngựa bạch đi theo phía sau xa giá. Trư Bát Giới chạy rối lên ở đằng trước, đến trước lầu Ngũ Phượng lại kêu toáng lên:

- Khoái thật! Thành hiện thực rồi! Nhưng làm ăn thế này không được! Làm ăn thế này không được! Lẽ ra phải có chén rượu cầu hôn mới phải chứ!
Số nữ quan vác nghi trượng đi đón rước sợ quá, bèn chạy tới bên xa giá nói:

- Thưa chúa công, cái ông tai to mom dài kia, kêu toáng lên ở trước lầu Ngũ Phượng đòi uống rượu mừng.

Nữ vương nghe tâu, tựa vai thơm, áp má đào sát vào người
Tam Tạng, hé làn môi thơm ngát thủ thỉ nói:

- Ngự đệ chàng ơi, cái ông tai to mõm dài là đồ đệ nào của chàng đấy?

Tam Tạng đáp:

- Là đồ đệ thứ hai của tôi. Hắn sinh ra đã bụng to ruột lớn, cả đời chỉ muốn được ăn luôn miệng, nên sơm sớm bày tiệc mời hắn ăn trước thì mới xong việc.

Nữ vương vội vàng hỏi:

- Quan Quang lộc tự bày tiệc đã xong chưa? Nữ quan thưa:
- Đã xong ạ. Đặt cả hai loại tiệc chay và tiệc mặn ở điện Đông
Các.

Nữ vương lại hỏi:

- Tại sao lại hai loại? Nữ quan thưa:
- Thần e rằng ngự đệ nhà Đường và các đồ đệ thường ngày ăn chay, nên bày cả hai loại tiệc chay và tiệc mặn.

Nữ vương cười chúm chím, áp má thơm vào Tam Tạng hỏi:

- Chàng ăn mặn hay ăn chay? Tam Tạng đáp:
- Bần tăng ăn chay, nhưng vẫn không kiêng rượu. Nên có mấy chén rượu thuần khiết cho đồ đệ hai của tôi nhắp một chút.
Vừa dứt lời, quan Thái sư đến tâu:

- Xin mời chúa công và ngự đệ tới điện Đông Các dự tiệc. Đêm nay, ngày lành tháng tốt, có thể thành thân cùng ngài ngự đệ. Ngày mai vào giờ hoàng đạo mời ngự đệ bước lên điện báu, ngoảnh mặt về Nam đổi niên hiệu, lên ngôi vua.

Nữ vương mừng lắm, dắt tay Tam Tạng đỡ xuống xe rồng, cùng bước vào cửa Đoan môn. Chỉ thấy:

Nhạc tiên dìu dặt gió rung rinh, Kiệu thúy hoa kia đã tới sân.
Gác phượng mở toang ngời lấp lánh, Hoàng cung rộng cửa gấm long vân.
Kỳ lân bảo điện lư hương ngát, Khổng tước bình phong bóng gác gần. Đình các nguy nga như thượng quốc, Ngựa vàng nhà ngọc vẻ thanh tân.
Vào tới trong điện Đông Các, đã nghe thấy tiếng sênh ca du dương trầm bổng, hai hàng thiếu nữ xinh đẹp má phấn môi son. Chính giữa nhà bày hai dãy bàn yến tiệc thịnh soạn: Đầu bàn bên trái bày tiệc chay, đầu bàn bên phải bày tiệc mặn, phía dưới hai hàng là tiệc thường. Nữ vương vén tay áo bào gấm, mười ngón tay thon nhọn nâng chén ngọc ngồi vào bàn tiệc. Hành Giả bước tới gần nói:

- Thầy trò chúng tôi ăn chay cả. Xin mời sư phụ ngồi vào bàn tiệc chay ở đầu dãy bên trái, anh em chúng con chuyển xuống bàn thứ ba, chia nhau ngồi ở hai bên.

Thái sư vui vẻ nói:

- Chính phải, chính phải. Thầy trò như cha con, không được ngồi ngang vai nhau.
Các nữ quan vội vàng bày biện yến tiệc. Nữ vương rót rượu ra chén, mời ba anh em. Hành Giả đưa mắt ra hiệu cho Đường Tăng, bảo Đường Tăng đáp lễ. Tam Tạng bước xuống nâng chén ngọc mời Nữ vương. Trăm quan văn võ quay về phía Nữ vương cúi lạy tạ ơn, rồi ai nấy theo chức phẩm ngồi xuống hai bên. Âm nhạc vừa dừng, bắt đầu tiệc rượu.

Bát Giới chẳng kể hay dở, cứ việc phồng mõm chén. Bất kể bột lọc, cơm tẻ, bánh hấp, bánh đường, cho chí nấm hương, mộc nhĩ, rau cải, măng tre, củ từ, khoai lang, hoàng tinh, sơn dược… Cứ cắm đầu cắm cổ ngốn cho bằng sạch, lại uống đến dăm bảy chén rượu mà miệng vẫn còn gào:

- Mang thêm nữa ra! Cả cái cốc vại ấy, uống thêm mấy vại rồi ai làm việc nấy.

Sa Tăng nói:

- Tiệc to thế này không ăn, còn muốn làm việc gì nữa? Chú ngốc cười, nói:
- Người xưa nói: “Ai đẽo cung cứ đẽo cung, ai vót tên cứ vót tên”. Chúng ta hôm nay ai làm rể cứ làm rể, ai lấy chồng cứ lấy chồng, ai lấy kinh cứ việc đi lấy kinh, ai đi đường cứ việc đi đường, nhưng chớ có quá chén mà lỡ việc. Mau mau đóng dấu rồi trả điệp văn cho sớm một chút. Thế mới thực là: “tướng quân chưa xuống ngựa, ai nấy cứ tiến lên”.

Nư vương nghe noi lâp tưc sai mang côc vai tơi. Quan hâu cân vôi vang mang ra nao la chen Anh Vu, duôc Lô Tử, phêu Kim Pha, chen Lưu Ly, khay Thuy Tinh, bat Bông Lai, chung Hô Phach… rot đây thư rươu ngon quynh tương ngoc dich mơi moi ngươi uông môt tuân.

Tam Tang  đưng  dậy,  nghiêng  ngươi  chăp  tay  noi  vơi  Nư vương:
- Tâu bê ha, chung tôi đa ta bê ha cho hương tiêc lơn. Nay rươu đa say, xin mơi ê ha lên điên bau đong dâu đôi cho điêp văn đê kip sang mai tiên ba ngươi rơi thanh.

Nư vương nghe lơi, truyên bai tiêc rươu, đoan dăt tay Tam Tang, bươc lên điên Kim Loan, mơi Tam Tang lên ngôi. Tam Tang noi:

- Không nên! Không nên! Quan Thai sư vưa noi xong, ngay mai la ngay hoang đao tôt ngay, bân tăng mơi dam lên ngôi. Hôm nay hay đong dâu vao điêp văn đê mai cho bon ho đi đa.

Nư vương nghe lơi, ngôi lên ngai vang, sai lây chiêc ghê tưa nam vang mơi Đương Tăng ngôi bên, đoan nang goi mây đô đê mang tơ điêp văn đi đương lai.

Đai Thanh bao Sa Tăng cơi tay nai lây ra tơ điêp văn, Đai Thanh hai tay đệ tơ giây thông hanh lên. Nư vương xem ky môt lươt, thây trên co chin dâu ân bau cua hoang đê Đai Đương, dươi co dâu ân cua nươc Bao Tương, nươc Ô Kê, nươc Xa Tri. Nư vương xem xong cươi gion gia, noi:

- Ngư đê, chang ho Trân a? Tam Tang đap:
- Vâng, tuc gia ho Trân, phap danh la Huyên Trang. Đôi ơn sâu cua vua Đương nhân lam ngư đê, ban cho ho Đương.

Nư vương hoi:

- Trên tơ điêp văn sao không thây tên cac đô đê? Nư vương lai hoi:
- Không phai la ngươi nươc Đương, sao lai chiu đi theo chang tơi đây?

Tam Tang thưa:

- Đô đê ca la ngươi nươc Ngao Lai thuôc Đông Thăng thân
châu. Đô đê hai la ngươi thôn Ô Tư thuôc Tây Ngưu ha châu. Đô đê ba ơ sông Lưu Sa. Ca ba vi co tôi pham vao luât trơi, đươc đưc Quan Thê Âm bô tat ơ Nam Hai giai thoat cho, quy y lam  thiên,  chuôc  tôi  lâp  công,  tinh  nguyên  hô  vê  tôi  sang phương Tây lây kinh. Ho đêu đươc tôi thu phuc ơ doc đương, nên không co tên trong điêp văn.

Nư vương noi:

- Thiêp ghi thêm phap danh mây đô đê giup chang co đươc không?

Tam Tang noi:

- Vâng, tuy y bê ha.

Nư vương lâp tưc sai mang but mưc đên, mai đâm mưc thơm, châm đâm but thơm, viêt tên Tôn Ngô Không, Trư Ngô Năng, Sa Ngô Tinh vao măt sau tơ điêp văn, rôi lây ân ngư đong lên ngay ngăn, đoan tư tay ky vao rôi đưa tra lai. Tôn Ngô Không nhân lây, bao Sa Tăng goi lai cât đi cân thân.

Nư vương lai ban cho môt khay vang bac vun. Nang rơi ngai vang bươc xuông đưa cho Hanh Gia, noi:

- Ba vi hay câm lây tam lam lô phi sang phương Tây. Bao giơ cac vi lây kinh trơ vê, trâm se co trong thương.

Hanh Gia noi:

- Chung tôi la ngươi xuât gia, không nhân vang bac lam gi, chi doc đương xin cơm chay ăn la đu.

Nư vương thây Hanh Gia tư chôi, ben sai mang ra mươi tâm gâm noi vơi Hanh Gia:

- Cac vi đi đương vât va, may va chăng kip, câm tam lam quân ao doc đương cho đơ ret.

Hanh Gia noi:
- Ngươi xuât gia không đươc măc hang nhung lua, đa co ao vai che thân rôi a.

Nư vương thây Hanh Gia không nhân, ben truyên lênh:

- Lây ba thăng gao ngư đê cac ngai đi đương thôi tam bưa cơm.

Bat Giơi nghe thây tiêng “cơm”, ben đơ ngay lây, nhet vao tay nai.

Hanh Gia noi:

- Chu em, hanh ly hiên giơ đa năng, chu con đu sưc ganh gao
ư?

Bat Giơi cươi, noi:

- Sư huynh thi biêt quai gi! Ngân nay gao chi đu môt ngay.
Chen môt bưa la hêt ngay ây ma.

Đoan chăp tay cam ta Nư vương. Tam Tang noi:
- Dam phiên bê ha cung đi vơi bân tăng tiên ba ngươi ra khoi thanh, đê tôi dăn do ho mây lơi, cho ho yên long sang phương Tây, rôi tôi trơ vê cung bê ha hương vinh hoa phu quy mai mai, chăng lo chăng nghi mơi kêt ban phương loan đươc chư.

Nư vương không biêt đo la meo lưa, ben truyên săp đăt xa gia, cung Tam Tạng bước lên kiệu phượng, ngồi vào ghế êm đi ra khỏi thành. Khắp thành như chén thêm nước sạch, lò đốt hương thơm, đứng chật phố nghênh đón, một là xem xe loan của nữ vương, hai là xem ngự đệ là đàn ông. Mọi người bất kể già trẻ đều mặt hoa da phấn, mày phượng tóc mây. Một lát sau, xa giá ra khỏi thành, đến ngoài cửa Tây.

Hành Giả, Bát Giới, Sa Tăng đồng lòng hợp ý, nai nịt gọn gàng, đến thẳng bên xe loan lớn tiếng nói:
- Nữ vương chẳng cần phải đi xa. Chúng tôi xin cúi lạy từ biệt ở đây.

Nữ vương nghe nói, tái mặt sợ hãi, túm chặt lấy Đường Tăng, nói:

- Ngự đệ chàng ơi, thiếp xin đem sự giàu có của một nước đón chàng làm chồng, ngày mai lên ngôi báu, ngồi vào ngai vàng xưng vua, thiếp xin làm hoàng hậu của nhà vua. Chúng ta vừa mới ăn tiệc mừng xong, tại sao bây giờ chàng lại giở quẻ thế?

Bát Giới nghe nói, cơn điên bốc lên, mõm dài ngọ nguậy, tai to vẫy bừa, xông ngay đến trước xa giá quát tướng lên:

- Chúng ông là hòa thượng kết vợ chồng gì với những hạng đầu lâu bôi phấn nhà chúng bay! Buông ra để sư phụ ta lên đường!

Nữ vương thấy Bát Giới xấu xí hùng hổ như thế sợ quá, hồn bay phách tán, ngã lăn vào trong khoang xe. Sa Tăng lôi Tam Tạng ra khỏi đám đông, đỡ lên ngựa. Bỗng bên vệ đường một người con gái xộc tới quát to:

- Đường ngự đệ chạy đi đâu! Thiếp và chàng, ta cùng vui thú trăng hoa đi!

Sa Tăng quát mắng:

- Đồ giặc hỗn láo kia!

Đoạn  rút  bảo  trượng  nhằm  đầu  người  con  gái  bổ  xuống. Người con gái biến thành một trận gió lốc, thổi veo một tiếng, cuốn  Đường  Tăng  đi  mất  tăm  mất  dạng,  chẳng  biết  tha  về phương nào. Than ôi, thật là:

Vừa thoát lưới mây mưa, Lại gặp ma trăng gió.
Cuối cùng không biết người con gái ấy là yêu quái nào, tính mạng sư phụ sống chết ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ NĂM MƯƠI LĂM Dâm tà bỡn cợt Đường Tam Tạng, Đứng đắn tu trì chẳng hoại thân
Lại nói chuyện Tôn Đại Thánh và Trư Bát Giới đang định
dùng phép định thân giữ đám phụ nữ, bỗng nghe tiếng gió rít, tiếng Sa Tăng quát tháo, thì vội vàng quay đầu đã không thấy Đường Tăng đâu cả. Hành Giả hỏi:

- Kẻ nào cướp sư phụ đi rồi? Sa Tăng nói:
- Một người con gái biến làm một trận gió lốc, cuốn sư phụ đi mất

Hành Giả nghe nói, lập tức nhảy vút lên đám mây, lấy tay che ánh nắng chói, nhìn khắp bốn phía, thấy một đám bụi tro, gió lốc cuồn cuộn bay về hướng Tây Bắc, bèn quay đầu gọi:

- Các chú mau cưỡi mây theo tôi đi tìm sư phụ!

Bát Giới và Sa Tăng vội vàng chất hành lý lên lưng ngựa, rồi vút một cái, nhảy cả lên không trung.

Đám vua tôi đàn bà nước Tây Lương sợ quá, quỳ xuống đất nói:

- Họ là các vị La Hán bay lên trời giữa ban ngày, chúa công không nên sợ hãi ngờ vực. Đường ngự đệ đúng là bậc Thiền tăng đắc đạo. Chúng ta thật là có mắt như mù, nhận lầm là đàn ông Trung Hoa, uổng phí cả tấm lòng mơ tưởng. Thôi, xin công chúa lên xe về triều cho.

Nữ vương cảm thấy xấu hổ thẹn thùng, các quan đều quay về
triều. Chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện ba anh em Tôn Đại Thánh cưỡi mây đạp mù, theo hướng vệt gió lốc, đuổi theo đến một tòa núi cao, thấy tro bụi yên lặng, cơn gió tan hết không còn biết yêu quái ở phương nào nữa. Mấy anh em hạ mây bước xuống, vạch lối tìm đường, bỗng thấy vách núi bên kia đá xanh bóng lộn, trông hệt một tấm bình phong. Ba người dắt ngựa đi lại phía tấm bình phong đá. Đằng sau tấm bình phong là hai tấm cánh cửa đá, trên cửa đề sáu chữ đại tự “Núi Độc Dịch động Tỳ Bà”. Bát Giới không biết, định nhảy tới bổ đinh ba phá cửa. Hành Giả vội vàng ngăn lại, nói:

- Chú em chỡ vội. Chúng ta theo vệt gió đuổi tới đây, tìm mãi mới thấy cửa này, còn chưa biết ngô khoai ra sao. Giả sử không phải cửa này thì người ta oán trách cho không? Hai chú tạm dắt ngựa quay lại phía trước tấm bình phong đá kia đợi một lát, để lão Tôn vào nghe ngóng, xem xét thực hư thế nào, sau mới hành động được.

Sa Tăng nghe vậy mừng lắm, nói:

- Đúng! Đúng! Thế mới gọi là “trong cái thô có cái tinh, ở lúc khẩn cấp lại phải từ từ” chứ!

Đoạn hai người dắt ngựa trở lại

Tôn Đại Thánh trổ thần thông, bắt quyết niệm chú, lắc mình một cái, biến thành con ong mật thật là tuyệt diệu:

Cánh mỏng bay theo gió, Lưng eo dọi ánh dương. Vòi nhọn tìm hoa nhụy,
Đuôi sắc đốt thành thương.

Làm mật công đâu nhỏ?
Khiêm tốn trước quân vương.

Nay thi hành diệu kế. Bay vào động tìm đường.
Hành Giả chui qua khe cửa vào trong, bay qua hai tầng cửa, nhìn thấy một con nữ yêu ngồi chễm chệ giữa hai đình, hai bên có mấy đứa hầu gái quần là áo lượt, tóc tết đuôi sam đứng hầu. Bọn chúng đều vui mừng hớn hở, không biết đang bàn tán chuyện gì.

Hành Giả nhẹ nhàng bay đến tận nơi, đậu trên chiếc then cửa hoa đình, lắng tai nghe ngóng. Lại thấy hai đứa con gái búi tóc bưng hai mâm thức ăn bốc khói nghi ngút bước vào hoa đình, nói:

- Thưa bà, mâm này là bánh mặn làm bằng thịt người. Còn đây là mâm bánh chay làm bằng đường cát.

Nữ quái cười, nói:

- Bọn nhỏ, dìu Đường ngự đệ lại đây.

Mấy đứa hầu gái quần áo là lượt đi vào nhà sau đỡ Đường Tăng ra. Sư phụ mặt mũi tái nhợt, mắt khóc đỏ hoe. Hành Giả than thở ngầm trong bụng:

- Sư phụ trúng độc rồi!


[244] Nữ quái bước xuống đình, đưa mười ngón tay búp măng
thon thả đỡ lấy Đường Tăng, nói:

- Ngự đệ cứ yên tâm, nơi thiếp ở đây tuy không phải cung điện như Tây Lương nữ quốc, nên không dám so phú quý vinh hoa, nhưng lại thanh nhàn tự tại, tụng kinh niệm Phật thì rất hợp. Thiếp và chàng, ta làm đạo hữu với nhau, thật là trăm năm hòa thuận đấy.

Tam Tạng lặng thinh, nữ quá lại nói:
- Chàng đừng buồn phiền. Thiếp biết chàng khi dự tiệc ở nữ quốc chưa ăn uống gì. Đây có hai mâm, một mặt một chay, xin mời chàng xơi một chút cho đỡ đói.

Tam Tạng trầm ngâm nghĩ ngợi:

- Ta chẳng chịu nói, chịu ăn, thì nữ quái này không như nữ vương, nữ vương dầu sao cũng là người, cư xử lễ độ. Chứ con mụ này là yêu quái, e rằng nó giết hại ngay. Biết làm sao bây giờ?… Ba đồ đệ chẳng biết mình bị khốn ở đây, nhỡ ra bị nó hại, chẳng phải chết oan sao?

Tam Tạng lòng hỏi lòng, chẳng còn cách nào, đành miễn cưỡng lấy lại tinh thần, mở mồm hỏi:

- Thức ăn mặn là thế nào? Chay là thế nào? Nữ quái thưa:
- Mặn là bánh làm bằng nhân thịt người, chay là bánh làm bằng đường cát.

Tam Tạng nói:

- Bần tăng xin ăn chay

Nữ quái cười, nói:

- Con hầu! Mang trà nóng lại để ngài gia trưởng các ngươi xơi bánh chay.

Một đứa hầu gái bưng chén chè hương lại đặt trước mặt Tam Tạng. Nữ quái cắt một miếng bánh chay đưa cho Tam Tạng, Tam Tạng bưng nguyên cả mâm bánh mặn đưa Nữ quái. Nữ quái cười, nói:

- Ngự đệ, sao chàng không cắt ra cho em? Tam Tạng chắp tay nói:
- Tôi là người xuất gia, không dám đụng vào thức mặn.
Nữ quái nói:

- Chàng là người xuất gia không đụng thức mặn, thế tại sao
hôm trước uống được nước cao[245]


ở sông Tử Mẫu, mà hôm
nay chỉ ăn bánh nhân đường?

Tam Tạng nói:

- Nước cao thuyền đi vội, cát hãm ngựa từ từ.

Hành Giả đậu trên then cửa mắt thấy tai nghe hai người trò chuyện quyến luyến, sợ sư phụ rối loạn chân tính, không nhịn được, hiện nguyên hình, rút gậy sắt ra quát:

- Đồ nghiệt súc chớ có vô lễ!

Nữ quái thấy vậy, miệng phun ra một làn khói trùm kín cả hoa đình, đoạn hạ lệnh:

- Bọn nhỏ, giữ lấy ngự đệ!

Nữ quái rút ra cây cương soa ba mũi, nhảy lên nóc đình quát:

- Con khỉ hạ tiện khốn kiếp! Tại sao dám lẻn vào nhà ta, nhìn trộm dung nhan ta? Chớ có chạy, nếm một soa của bà đây!

Đại Thánh vung gậy lên đỡ, vừa đánh vừa lui.

Hai người đánh ra ngoài cửa động. Bát Giới, Sa Tăng đang đứng đợi ở trước tấm bình phong đá, bỗng thấy hai người đánh nhau, Bát Giới sợ quá dắt ngựa bạch giao cho Sa Tăng, nói:

- Sa Tăng, chú trông hành lý và ngựa để lão Trư đi đánh giúp anh cả.

Thế là chú ngốc hai tay vác đinh ba xông tới, nói:

- Sư huynh lùi lại, để em đánh con tiện tỳ này cho!

Nữ quái thấy Bát Giới xông vào, bèn giở thủ đoạn hét vang một tiếng, mũi phun lửa, miệng phun khói, đoạn lắc mình một cái, cây soa ba mũi múa vù vù đánh tới. Nữ quái cũng chẳng biết
mình có mấy tay, cứ xốc tới đánh túi bụi. Hành Giả, Bát Giới từ hai bên đánh ập vào, Nữ quái nói:

- Tôn Ngộ Không! Ngươi thật không biết tiến thoái! Ta đã biết nhà ngươi, nhưng nhà ngươi thì không nhận ra ta. Đến Phật Như Lai của nhà ngươi ở chùa Lôi Âm còn phải sợ ta. Huống hồ cái thứ rơm rác các ngươi thì đi đến đâu! Nào, lại cả đây, từng đứa cẩn thận coi ta đánh nhé!

Trận đánh nhau này thật ác liệt:

Uy phong nữ quái gớm ghê,

Hầu Vương khí khái kém gì yêu ma.

Thiên Bồng nguyên soái xông ra, Muốn phô tài nghệ đinh ba múa bừa. Nữ quái soa múa mây đưa,
Hai người gậy với đinh ba lượn rồng.

Nữ quái chỉ muốn có chồng, Đường Tăng nào chịu sống cùng lứa đôi. Âm dương duyên số chẳng bồi,
Quay ra đánh lộn một thôi ầm ầm.

Âm tĩnh dưỡng vinh động tâm, Dương thu tức vệ ưa lòng thanh thanh. Hai bên lúc chẳng hòa lành,
Soa, đinh, gậy sắt tranh giành được thua.

Giỏi thay gậy sắt, đinh ba, Cương soa nữ quái tài hoa kém nào? Núi Độc Địch đánh ào ào
Động Tỳ Bà ấy ai nào nhường ai!
Nữ quái muốn kết duyên hài

Hai đồ đệ quyết giữ người lấy kinh Đánh nhau trời đất chuyển mình, Càn khôn mù mịt các tinh u sầu.
Ba người đánh nhau hồi lâu, không phân thắng bại. Nữ quái bèn tung người, sử dụng cây độc đảo mã bất thình lình xỉa vào đầu Đại Thánh một nhát, Hành Giả kêu lên:

- Á, đau quá!



Rồi không chịu nổi, ôm đầu thua trận bỏ chạy. Bát Giới thấy việc không hay, cũng kéo lê cây đinh ba chạy theo. Nữ quái thắng trận thu cương soa lại.

Hành Giả ôm đầu, cau mặt nhăn nhó nói:

- Lợi hại thật! Lợi hại thật!
Bát Giới đến trước mặt hỏi:

- Sư huynh này, đang đánh nhau tới lúc quyết liệt, sư huynh lại kêu đau rầm trời rồi bỏ chạy là thế nào?

Hành Giả chỉ ôm đầu, nói:

- Đau quá! Đau quá! Sa Tăng nói:
- Hay là sư huynh bị trúng gió? Hành Giả giãy lên, nói:
- Không phải! Không phải! Bát Giới nói:
- Em có thấy sư huynh bị thương đâu mà lại đau đầu. Tại sao thế nhỉ?

Hành Giả rên hừ hừ, nói:

- Không hiểu được! Không hiểu được! Khi tôi đang đánh nhau với nó, nó thấy tôi phá được thế soa của nó, bỗng nó tung người, rồi không biết dùng thứ binh khí gì xỉa vào đầu tôi một phát, làm đầu tôi đau đớn không thể nào chịu được, phải chịu thua bỏ chạy.

Bát Giới cười, nói:

- Chỉ được cái khoác lác ở chỗ vắng người! Sao sư huynh bảo đầu đã được tôi luyện, thế mà không chịu nổi một nhát xỉa à?

Hành Giả nói:

- Đúng thế! Đầu tôi từ ngày tu luyện đắc đạo, ăn vụng được rượu tiên ở Hội bàn đào, kim đơn của Lão Tử, khi đại náo thiên cung, bị Thượng Đế sai Đại Lực quỷ vương, Nhị thập bát tú giải ra ngoài cung Ngưu Đàn xử trảm, các vị thần dùng đao, búa, kiếm, chùy, sét đánh lửa thiêu, sau lại bị Lão Tử bỏ vào lò bát
quái đốt cháy bốn mươi chín ngày mà không hề bị thương tổn gì. Nay không biết con mụ ấy dùng loại binh khí gì đánh lão Tôn bị thương ở đầu.

Sa Tăng nói:

- Sư huynh bỏ tay ra để em xem đầu có bị vỡ không? Hành Giả nói:
- Không vỡ đâu! Không vỡ đâu! Bát Giới nói:
- Em đến nước Tây Lương xin ít thuốc cao dán cho sư huynh nhé!

Hành Giả nói:

- Không sưng, không vỡ, dán cao làm gì? Bát Giới cười, nói:
- Sư huynh ơi, bệnh thai tiền sản hậu em cũng không bị, mà sư huynh lại bị mắc bệnh ung óc rồi

Sa Tăng nói:

- Hai anh đừng tếu nữa. Bây giờ trời đã tối, anh cả bị đau đầu, sư phụ không biết sống chết ra sao, biết làm thế nào?

Hành Giả rên rỉ, nói:

- Sư phụ không sao đâu. Lúc tôi biến thành con ong mật bay vào trong động thấy con mụ ấy ngồi trong hoa đình. Lát sau, hai đứa hầu gái để tóc đuôi sam bưng đến hai mâm bánh. Một mâm bánh mặn nhân thịt người, một mâm bánh chay nhân đường. Lại thấy hai đứa hầu gái khác đỡ sư phụ ra mời ăn bánh cho đỡ đói và nữ quái nói là muốn làm đạo hữu đạo hiếc gì đó với sư phụ. Thoạt đầu sư phụ chẳng trò chuyện gì với mụ ấy. Mụ ấy hỏi: “Sao chàng không cắt bánh ra?”. Sư phụ đáp: “Người xuất gia không đụng vào thức mặn”. Mụ ấy nói: “Không đụng vào thức
mặn sao hôm trước lại uống nước cao sông Tử Mẫu, mà nay chỉ thích ăn bánh chay nhân đường?”. Sư phụ không hiểu ý, trả lời nó bằng hai câu: “Nước cao thuyền chèo vội, cát hãm ngựa từ từ”. Tôi đậu trên then cửa nhìn thấy, nghe thấy như vậy, sợ sư phụ rối loạn chân tính, bèn hiện nguyên hình, rút gậy sắt đánh nữ quái. Nữ quái cũng sử dụng thần thông, phun khói mù mịt, miệng ra lệnh: “giữ lấy ngự đệ”, rồi múa cương soa đánh nhau với lão Tôn ra tận cửa động.

Sa Tăng nghe xong, cắn ngón tay, nói:

- Con tiện tỳ khốn kiếp ấy không biết theo dõi chúng ta từ đâu mà biết hết mọi chuyện!

Bát Giới nói:

- Nếu như vậy thì ta ngủ cũng không xong mất. Đã vậy, sá gì nửa đêm gà gáy, cứ đến tận cửa nhà nó khiêu chiến, làm ầm ĩ lên, quấy cho nó không ngủ được, đừng để nó chòng ghẹo sư phụ.

Hành Giả nói:

- Đau đầu lắm, không đi được! Sa Tăng nói:
- Không cần khiêu chiến, một là sư huynh còn đang đau đầu, hai là sư phụ là bậc chân tu, quyết không bị nữ sắc làm loạn chân linh đâu, tạm tìm chỗ kín gió bên sườn núi nghỉ qua một đêm, di dưỡng tinh thần, sáng mai sẽ hay.

Ba người buộc con ngựa bạch, cất giữ hành lý, nghỉ bên sườn núi, chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện nữ quái tạm dẹp lòng hung ác, lấy lại bộ mặt tươi tỉnh hớn hở ra lệnh:

- Bọn nhỏ, đóng chặt các cửa trước sau lại!
Đoạn cắt hai đứa ngồi canh phòng ngừa Hành Giả, dặn hễ nghe thấy tiếng động cửa, phải báo ngay. Sau đó nữa quái lại ra lệnh:

- Con hầu, thu xếp buồng ngủ cho chỉnh tề, thắp nến đốt hương, rồi mời ngài ngự đệ vào để chúng ta giao hoan.

Đoạn vào đằng sau đỡ Tam Tạng đi ra. Nữ quái làm ra vẻ nũng nịu tình tứ cầm tay Đường Tăng, nói:

- Thường có câu “Vàng ròng không đáng quý, ăn chơi mới đáng tiền”. Đêm nay thiếp cùng chàng làm vợ chồng, vui chơi cho thỏa thích.

Đường Tăng cắn chặt hai hàm răng, chẳng nói chẳng rằng, bụng không muốn đi, nhưng sợ nữ quái manh tâm hãm hại, đành cứ run cầm cập theo nữ quái bước vào buồng thơm. Đường Tăng như ngây như dại, đâu dám hé mắt ngẩng đầu, càng không dám nhìn xem giường nệm chăn màn, phấn son gương lược trên giường của nữ quái ra làm sao. Nữ quái thốt ra những lời mây mưa tình tứ, Đường Tăng tảng lờ như không nghe thấy.

Đường Tăng thực là:

Mắt chẳng nhìn nữ sắc, Tai chẳng nghe dâm thanh.
Coi châu báu, mặt đẹp như vại sành, Coi nhung lụa, dung nhan như đất sét Đất Phật đường dài chân bước miết, Cả đời tâm chỉ biết tham Thiền.
Còn đâu nghĩ tiếc ngọc thương duyên, Chỉ một niềm tu tâm dưỡng tính, Kìa nữ quái phây phây sức mạnh
Đây Đường Tăng quyết giữ Thiền cơ, Một người ngọc hương ấm thơm tho, Một người tựa cây khô lạnh lẽo,
Ả kia giọng hứng tình uốn éo, Người này giữ lòng dạ sắt son.
Ả kia muốn áp má, gác đùi quấn quýt phượng loan, Người này chỉ tâm niệm, Đạt Ma quay đầu về núi, Nữ quái cởi áo khoe tấm thân thơm tho mát rượi
Đường Tăng giữ quần, giấu tạng người da thịt cứng đơ.

Nữ quái nói “Gối chăn giường đệm sẵn, chàng vẫn làm ngơ” Đường Tăng rằng: “Ta đầu trọc áo sư, làm sao tương hỷ!” Nữ quái nói: “Thiếp muốn làm như Liễu Thúy Thúy”
Đường Tăng rằng: “Tôi chẳng phải giống Nguyệt Đồ Lê”.

Nữ quái nói: “Thiếp xinh đẹp, Tây Thi đâu dám kể” Đường Tăng rằng: “Việt Vương vì thế phải vùi thây!”
Nữ quái nói: “Thà rằng chết bên hoa, làm ma tinh phong tình vẫn giữ”

Đường Tăng nói: “Chân dương là quý nhất, đâu mê phường son phấn trăng hoa”…!



Hai người nói qua nói lại mãi đến canh khuya, Đường Tăng không chút xao xuyến, nữ quái một mực co kéo thuyết phục chăng chịu buông tha, sư phụ cũng một mực từ chối không chịu. Hai bên lằng nhằng mãi tới lúc nửa đêm, nữ quái phát cáu, nói:

- Bọn nhỏ, mang thừng lại đây!

Thật đáng thương, đem trói một người mà mình hằng yêu dấu như một con vượn vậy. Đoạn nữ quái lại sai vứt Đường Tăng vào một góc hành lang. Tắt hết đèn nến, ai nấy về chỗ ngủ. Một đêm yên tĩnh.

Chẳng mấy chốc tiếng gà đã gáy lần ba. Bên sườn núi, Ngộ
Không trở mình nói:

- Đầu tôi hôm qua đau, đến giờ chẳng đau đớn gì nữa, chỉ hơi ngưa ngứa thôi.

Bát Giới cười, nói:
- Ngứa thì lại bảo nó xỉa cho phát nữa có được không? Hành Giả nhổ bãi nước bọt nói:
- Buông! Buông! Buông! Bát Giới lại cười, nói:
-  Buông!  Buông!  Buông!  Đêm  qua  sư  phụ  ta  lại  Thả! Thả!Thả!  [246]

Sa Tăng nói:

- Đừng cãi vã nữa, trời sáng rồi, mau dậy đi bắt yêu quái! Hành Giả nói:
- Chú cứ ngồi đây giữ ngựa đừng có đi đâu, còn Trư Bát Giới đi theo tôi.

Chú ngốc phấn chấn tinh thần, thắt lại chiếc áo gấm đen, đi theo Hành Giả. Hai người giắt binh khí, nhảy lên sườn núi, đến thẳng chỗ bình phong đá. Hành Giả nói:

- Chú tạm đứng đây, chỉ sợ nữ quái đêm qua làm tổn hại sư phụ, giờ tôi vào trước nghe ngóng xem sao. Nếu sư phụ bị nó lừa, để mất khí nguyên dương làm nhơ nhuốc đức hạnh, thì mọi người bỏ về nhà. Còn như sư phụ tính tình không đổi, lòng Thiền vững vàng bấy giờ ta sẽ gắng sức kiên trì tìm cách giết chết yêu quái, cứu sư phụ sang phương Tây.

Bát Giới nói:

- Sư huynh khéo ngẩn ngơ! Thường có câu “mỡ để miệng
[247]
 thoát làm sao được. Không thể được đâu! Không thể
được đâu! Em véo cho sư huynh mấy cái bây giờ.

Hành Giả nói:

- Chớ có nghi ngờ ăn nói lăng nhăng, để tôi đi xem sao
Đoạn Đại Thánh rời khỏi tấm bình phong, chia tay Bát Giới, lắc mình một cái, biến thành con ong mật bay vào trong cửa, thấy hai đứa hầu gái canh cửa gác đầu lên cái lệnh đồng ngủ say tít, bèn bay thẳng vào hoa đình xem xét. Lũ yêu quái do thức tới nửa đêm con nào con nấy mỏi mệt, ngủ say lịm, chẳng hề hay biết trời đã sáng. Hành Giả bay ra phía sau, nghe văng vẳng tiếng Đường Tăng gọi, chợt ngẩng đầu, thấy sư phụ bị trói dúm bốn vó nằm ở góc hành lang. Hành Giả nhẹ nhàng đậu lên đầu Đường Tăng cất tiếng gọi:

- Sư phụ ơi!

Đường Tăng nhận ra tiếng Hành Giả, bèn nói:

- Ngộ Không đến đấy à? Mau mau cứu ta với! Hành Giả nói:
- Đêm qua việc tốt lành ấy thế nào? Tam Tạng nói:
- Ta thà chết chứ không chịu làm cái trò nhơ nhuốc ấy! Hành Giả nói:
- Hôm qua con thấy nó tỏ vẻ yêu mến, quyến luyến sư phụ lắm, tại sao hôm nay nó lại đày đọa sư phụ thế này?

Tam Tạng nói:

- Nó dỗ dành ta đến nửa đêm, ta áo không cởi dải, mình chẳng dính giường. Nó thấy ta không chịu nghe bèn trói ta quẳng vào đây. Muôn ngàn lần mong con cứu thoát để ta đi lấy kinh!

Thầy trò hỏi han chuyện trò làm nữ quái tỉnh giấc. Nữ quái tuy lòng lang dạ thú, nhưng vẫn có ý quyến luyến không rời Tam Tạng. Vừa trở mình tỉnh giấc nghe thấy tiếng “đi lấy kinh” nữ quái vội nhảy xuống giường, lớn tiếng nói:
- Làm vợ chồng đẹp đôi không muốn lại muốn đi lấy kinh!

Hành Giả phát hoảng, rời khỏi sư phụ, xòe cánh bay ra ngoài, hiện nguyên hình, cất tiếng gọi:

- Bát Giới!

Chú ngốc rời khỏi tấm bình phong bước tới hỏi:

- Câu chuyện ấy có thành không? Hành Giả cười, nói:
- Chưa hề! Chưa hề! Nó giỗ dành mãi sư phụ không nghe nên tức giận trói sư phụ vứt vào một xó. Sư phụ đang kể lại câu chuyện với tôi thì nó tỉnh giấc, tôi sợ quá vội bay ra.

Bát Giới nói:

- Sư phụ kể những gì? Hành Giả đáp:
- Sư phụ chỉ nói áo chưa cởi dải, mình chưa dính giường. Bát Giới cười, nói:
- Tốt! Tốt! Thế mới là một vị hòa thượng chân chính! Chúng ta mau đi cứu sư phụ thôi!

Chú ngốc lộp bộp, chẳng cần nói năng, vác ngay cây đinh ba nện choang một phát vào tấm cửa đá, làm tấm cửa vỡ ra mấy mảnh. Mấy tên nữ yêu canh cửa đang gối đầu lên chiếc lệnh đồng ngủ say sợ quá choàng dậy, chạy vào trong tầng cửa thứ hai gọi lớn:

- Mở cửa mau! Mở cửa mau! Cửa ngoài bị hai tên đàn ông xấu xí hôm qua phá vỡ rồi!

Nữ quái vừa ra khỏi phòng, đã thấy bốn năm đứa hầu gái chạy vào báo:

- Bẩm bà, hai tên đàn ông xấu xí hôm qua đến phá cửa ngoài
rồi ạ!

Nữ quái nghe nói, vội vàng gọi:

- Bọn nhỏ, đưa nước cho ta rửa mặt chải đầu. Đoạn ra lệnh:
- Cứ để ngự đệ bị trói nguyên như thế cất vào đằng sau, để ta ra đánh nhau với chúng

Nói xong, nữ quái bước ra, tay cầm cương soa ba mũi cất tiếng quát:

- Con khỉ khốn kiếp, con lợn nhà quê ngu xuẩn kia! Các ngươi lại dám đến phá cửa nhà ta hả?

Bát Giới chửi lại:

- Đồ tiện tỳ dâm đãng kia! Nhà ngươi giam giữ sư phụ ta còn dám nỏ mồm hả? Sư phụ ta mà nhà ngươi lừa bắt đem về định làm ông chồng ấy, nay phải mang ngay ra đây trả thì ta tha chết cho. Nếu nói nửa lời “không” lão Trư này sẽ bổ cho một chập đinh ba thì đến quả núi này cũng phải đổ sập!

Nữ quái chẳng them nói năng, lắc người hóa phép như lần trước, mũi miệng phun ra khói lửa mù mịt đoạn vác cương soa xông vào đâm Bát Giới. Bát Giới nghiêng người tránh, múa đinh ba đánh lại. Tôn Đại Thánh cũng vung gậy sắt lao vào đánh giúp. Nữ quái lại trổ thần thông, biến ra không biết bao nhiêu chân tay, đỡ phải che trái. Đánh nhau chừng dăm hiệp không biết nữ quái dùng vũ khí gì xỉa vào môi Bát Giới. Chú ngốc sưng vêu mồm, kéo lê cây đinh ba, chịu đau bỏ chạy thoát thân. Hành Giả cũng đã được nếm mùi phát rồi nên đánh dứ một phát rồi thua trận bỏ chạy. Nữ quái thắng trận quay về, gọi bọn nhỏ khuân đá chất kín cửa. Chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện Sa Tăng đang thả ngựa bên sườn dốc, bỗng nghe thấy tiếng lợn kêu rên hừ hừ, ngẩng đầu nhìn thấy Bát Giới
miệng sưng vều, rên rỉ bước lại, bèn hỏi:

- Làm sao thế kia? Chú ngốc rên rỉ đáp:
- Không xong rồi! Không xong rồi! Buốt quá! Buốt quá! Vừa dứt lời, Hành Giả cũng về tới nơi, cười nói:
- Chú ngốc đã biết chưa? Hôm qua còn rủa ta là ung óc, hôm nay thì mình bị nó đốt sưng vều mồm ra!

Bát Giới rên rỉ nói:

- Buốt quá không chịu nổi! Buốt quá không chịu nổi! Đau quá! Lợi hại thật! Lợi hại thật!

Ba người đang không biết xử trí ra sao, bỗng thấy một bà lão tay xách chiếc làn đan bằng trúc xanh đựng ít rau từ con đường núi phía nam đi lại. Sa Tăng nói:

- Anh cả ơi, có bà cụ tới gần kìa, để em hỏi cụ xem nữ quái là loại yêu tinh gì, sử dụng loại binh khí gì mà lợi hại thế nhé!

Hành Giả vội vàng căng mắt nhìn, thấy bà lão trên đầu mây lành bao phủ, quanh thân khí thơm tràn ngập, bèn nhận ra ngay, cất tiếng gọi:

- Các chú ơi, mau mau đến dập đầu lạy tạ. Bà lão ấy chính là
Bồ Tát đấy.

Trư Bát Giới vội vàng nén đau cúi đầu xuống lạy. Sa Hòa Thượng dắt ngựa nghiêng mình. Tôn Đại Thánh chắp tay quỳ xuống lạy:

- Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn linh cảm Quan Thế
Âm Bồ Tát!

Bồ Tát thấy họ nhận ra được mình, bèn cưỡi đám mây lành, bay lên không trung, hiện rõ bản tướng. Thì ra là tượng làn cá.
Hành Giả bay lên không trung, cúi lạy thưa:

- Bạch Bồ Tát. Xin Bồ Tát tha tội thất lễ đón tiếp. Chúng con đang gắng sức cứu sư phụ, không ngờ Bồ Tát hạ giáng. Nay sư phụ con gặp yêu quái nhưng chưa thu phục được, muôn ngàn lần mong Bồ Tát cứu với cho!

Bồ Tát nói:

- Yêu quái này vô cùng lợi hại. Cây soa ba mũi của nó lại thêm hai cái càng cắp. Đốt người đau đớn chính là cái móc ở đằng đuôi, gọi là “đảo mã độc”. Nữ quái này là con rết đã thành tinh. Trước đây, nó nghe Phật giảng kinh ở chùa Lôi Âm. Như Lai trông thấy không vừa ý, lấy tay ẩy nó một cái, nó quay cái móc lại đốt vào ngón tay cái bên trái Như Lai một cái. Như Lai đau quá cũng không chịu nổi, liền sai Kim Cương bắt lấy, nên nó phải lẩn ra đây. Vậy muốn cứu được Đường Tăng, nếu không mời được người này thì không xong. Ngay như ta cũng không đến gần nó được.

Hành Giả lại cúi lạy, nói:

- Mong Bồ Tát chỉ bảo dùm, phải đi mời vị nào, đệ tử xin đi ngay!

Bồ Tát nói:

-  Nhà  ngươi  phải  đến  cửa  Đông  Thiên,  vào  cung  Quang Minh, cầu cứu Mão Nhật tinh quan. Chỉ người ấy mới hàng phục được nó.

Nói xong, bèn hóa thành một đạo hào quang về thẳng Nam
Hải.

Tôn Đại Thánh bèn hạ mây bước xuống, nói với Bát Giới, Sa
Tăng:

- Các chú cứ yên tâm, sư phụ gặp cứu tinh rồi. Sa Tăng nói:
- Cứu tinh nào thế? Hành Giả đáp:
- Bồ Tát vừa mách xong, bảo ta đi gặp Mão Nhật tinh quan, lão Tôn đi đây

Bát Giới môi sưng vều rên rỉ nói:

- Sư huynh ơi, hỏi tinh quan xin một ít thuốc giảm đau mang về nhé!

Hành Giả cười nói:

- Không cần thuốc đâu, như tôi hôm qua ấy, qua một đêm là khỏi thôi.

Sa Tăng nói:

- Bất tất nói lôi thôi, sư huynh đi ngay cho sớm.

Hành Giả lập tức dùng phép cân đẩu vân bay đi. Trong giây lát đã đến bên ngoài cửa Đông Thiên, bỗng thấy Tăng Trường thiên vương bước tới trước mặt, cúi chào hỏi:

- Đại Thánh đi đâu đấy? Hành Giả thưa:
- Tôi hộ vệ Đường Tăng sang phương Tây lấy kinh, dọc đường gặp ma quái quấy nhiễu, phải đến cung Quang Minh gặp Mão Nhật tinh quan.

Rồi bốn đại nguyên soái: Đào, Trương, Tấn, Đặng đến cũng hỏi đi đâu. Hành Giả đáp:

- Đi mời Mão Nhật tinh quan xuống hàng yêu quái cứu sư phụ.

Bốn đại nguyên soái nói:

- Tinh quan sáng nay vâng lệnh Thượng Đế đi tuần tra ở Quan
Tinh đài rồi.
Hành Giả nói:

- Có thực vậy không? Tân thiên quân nói:
- Bọn tiểu tướng chúng tôi cùng xuống cung Đẩn Ngưu với ngài, đâu dám nói dối

Đào thiên quân nói:

- Đi đã lâu, hoặc có khi về rồi. Đại Thánh cứu đến cung Quang Minh trước đi, nếu ngài ấy chưa về thì cứ đến thẳng Quan tinh đài cũng được.

Đại Thánh mừng lắm, từ biệt mọi người đến cửa cung Quang Minh, thấy chẳng có ai bèn quay người đi luôn, chợt nhìn thấy trước mặt một đội quân hàng ngũ chỉnh tề, Tinh quan ở phía sau đang bước tới, toàn thân mặc bộ triều phục chầu vua một màu vàng nuột. Chỉ thấy:

Mũ trầm ngũ sắc vàng tươi Cầm hốt sơn hà ngọc sáng ngời. Áo đính thất tinh mây thấp thoáng Lưng đeo bát cực ánh hồng soi. Leng keng ngọc bội như dàn nhạc. Vi vút gió hòa tựa sáo trời,
Quạt thúy đung đưa sao Mão tới, Hương bay ngào ngạt khắp nơi nơi.
Quân sĩ đi trước thấy Hành Giả đứng ở ngoài cung Quang
Minh, vội vàng quay lại báo:

- Thưa chúa công, có Tôn Đại Thánh đứng kia ạ.

Tinh quan thu mây, sửa lại quần áo, truyền lệnh cho những người chấp sự dừng lại, sắp hàng hai bên, đoạn bước tới chào
Hành Giả và nói:

- Đại Thánh đi đâu đấy? Hành Giả thưa:
- Đến có việc phiền ngài đi cứu sư phụ thoát nạn. Tinh quan hỏi tiếp:
- Nạn gì? Ở đâu? Hành Giả đáp:
- Ở động Tỳ Bà, núi Độc Địch thuộc Tây Lương nữ quốc. Tinh quan nói:
- Động núi ấy có yêu quái gì mà phải gọi tới tiểu thần? Hành Giả nói:
- Quan Âm Bồ Tát vừa mới hiền hóa, bảo đó là một con rết thành tinh, chỉ có tiên sinh mới trị nổi, nên đến mời ngài.

Tinh quan nói:

- Đáng lẽ ta phải về tâu với Thượng đế đã. Nhưng hiềm Đại Thánh đã tới đây, hơn nữa lại được Bồ tát tiến cử, chậm trễ sợ lỡ việc, tiểu thần không dám mời Đại Thánh xơi nước. Đi hàng phục yêu quái với Đại Thánh về tôi sẽ tâu với Thượng đế sau.

Đại Thánh nghe nói, bèn dùng Tinh quan đi khỏi cửa Đông Thiên, đến thẳng nước Tây Lương. Khi nhìn thấy núi Độc Địch trước mắt, Hành Giả chỉ tay nói:

- Ngọn núi ấy kia!

Tinh quan hạ mây, cùng Hành Giả đi tới chỗ tấm bình phong đá bên sườn núi. Sa Tăng trông thấy nói:

- Anh hai dậy đi, anh cả đã mời Tinh quan về kìa. Chú ngốc môi vẫn sưng vều nói:
- Xin tha tội, tha tội! Trong người có bệnh không làm lễ được. Tinh quan nói:
- Ngài là nhà tu hành còn có bệnh gì? Bát Giới nói:
- Sớm nay đánh nhau với nữ quái, bị nó đốt một phát vào môi, giờ vẫn còn buốt.

Tinh quan nói:

- Ngài lại đây, tôi chữa cho.

Chú ngốc thõng tay, rên hừ hừ nói:

- Rất mong ngài chữa giúp, khi khỏi sẽ cảm tạ.

Tịnh quan đưa tay xoa vào môi Bát Giới mấy cái, đoạn hà hơi vào, lập tức hết đau ngay. Chú ngốc mừng quá sụp xuống lạy, nói:

- Tuyệt vời! Tuyệt vời! Hành Giả cười, nói:
- Phiền Tinh quan xoa lên đầu tôi một chút. Tinh quan nói:
- Đại Thánh chưa bị ngộ độc, xoa làm gì? Hành Giả nói:
- Hôm qua tôi cũng bị nó đốt. Qua một đêm, không buốt nữa nhưng vẫn ngưa ngứa, chỉ sợ nó đau ngầm, nhờ ngài chữa cho với.

Tinh quan lại xoa đầu, hà hơi giải hết nọc độc. Hành Giả thấy không hề ngứa nữa. Bát Giới nổi cáu, nói:

- Sư huynh ơi, phải đi nện cho con tiện tỳ ấy một trận! Tinh quan nói:
- Chính phải! Chính phải! Hai ngài đi gọi nó ra, để tôi trị cho.

Hành Giả, Bát Giới nhảy vút lên sườn núi, tới đằng sau tấm bình phong đá. Chú ngốc miệng thì chửi rủa, tay thì như bổ củi, nện một chập đinh ba vỡ vụn những tảng đá chồng chất ngoài cửa, đoạn xông vào tầng cửa thứ nhất bổ một chập nữa làm hai tấm cửa đá vụn ra như cám. Bọn tiểu yêu canh cửa sợ quá chạy như bay vào báo:
- Bẩm bà, hai tên đàn ông xấu xí phá vỡ cả hai tầng cửa rồi. Nữ  quái đang sai cởi trói tha cho Đường Tăng, mang nước
trà, cơm chay cho dùng, chợt nghe báo phi vỡ hai tầng cửa, bèn
nhảy ra khỏi hoa đình, múa cương soa ra đâm Bát Giới. Bát Giới giơ đinh ba lên đỡ, Hành Giả đứng bên cũng vác gậy sắt xông vào đánh giúp. Nữ quái đuổi sát tới nơi, định giở trò ngón độc thủ. Hành Giả, Bát Giới biết ý quay đầu chạy miết.

Khi nữ quái đuổi tới phía sau tấm bình phong đá, Hành Giả bèn gọi to:

- Mão tú ở đâu?

Tinh quan đứng trên sườn núi, hiện rõ bản tướng là một con gà trống lớn mào kép, vươn cổ dài tới sáu, bảy thước quay về phía nữ yêu quái gáy vang một tiếng. Nữ quái cũng hiện rõ bản tướng, té ra là một con rết thành tinh dài bằng cây đàn tỳ bà. Tinh quan gáy vang tiếng nữa, nữ quái toàn thân mềm nhũn, chết gục bên sườn núi.

Có bài thơ làm chứng, rằng:

Cổ dài mào đỏ lông mơ,

Cựa dài, móng sắc mắt đưa lộn sòng, Năm đức tỏ rõ oai phong,
Ba canh báo sáng, tiếng đồng xa ngân
Phải đâu tông giống gà trần Vốn là tinh tú ân nhân cõi trời. Rết độc tu luyện công toi
Hoàn nguyên bản tướng đi đời nhà ma!

Bát Giới sán đến giậm chân lên ngực nữ quái, nói:

- Đồ nghiệt súc, phen này xem mày có dùng được ngón “đảo mã độc” nữa không?

Nữ quái nằm im bất động. Chú ngốc lại bổ cho một chập đinh ba, con rết nát bét như mẻ. Tinh quan sẵn đó tụ hào quang, cưỡi mây bay đi. Hành Giả, Sa Tăng, Bát Giới ngước lên trời lạy tạ, nói:

- Phiền ngài quá! Phiền ngài quá! Khi khác sẽ tới cung nhà cảm tạ.

Ba người tạ ơn xong, bèn thu thập hành lý, dắt ngựa vào trong động. Cả bọn hầu gái lớn bé quỳ xuống hai bên, sụp lạy nói:

- Thưa các ngài, chúng tôi không phải là yêu quái mà là đàn bà nước Tây Lương bị nữ quái bắt vào đây. Sư phụ các ngài đang ngồi khóc trong phòng thơm đằng sau ạ.

Hành Giả nghe nói nhìn kỹ, quả nhiên không thấy yêu khí, bèn đi thẳng vào sau cất tiếng gọi:

- Sư phụ ơi!

Đường Tăng thấy mọi người kéo đến cả, vui mừng khôn xiết, nói:

- Các đồ đệ vất vả vì ta quá! Mụ đàn bà ấy thế nào rồi? Bát Giới nói:
- Mụ ấy hiện nguyên là một con rết độc to lắm. May có Quan
Âm Bồ Tát chỉ bảo. Anh cả phải lên thiên cung mới Mão Nhật
tinh quan xuống hàng phục nó. Vừa rồi nó bị lão Trư bổ cho một chập nát như bùn. Có thế chúng con mới dám vào tận đây, nhìn tận mặt sư phụ được chứ!

Đường Tăng cảm tạ khôn xiết.

Mọi người tìm ít gạo ngon, bột trắng thổi cơm chay, ăn no một bữa, sau đó chỉ đường cho những người con gái bị bắt xuống núi về nhà, đoạn châm một mồi lửa đốt cháy sạch sành sanh mấy gian nhà cửa hang động, rồi mời Đường Tăng lên ngựa, tìm đường cái sang Tây phương, thực là:

Cắt đứt trần duyên xa sắc tướng

Bể vàng đẩy hết thấy lòng Thiền.

Cuối cùng, không biết mấy năm nữa mới thành chính quả, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ NĂM MƯƠI SÁU


Điên lòng trừ giặc cỏ


Mê đạo đuổi Ngộ Không


Có bài thơ rằng:

Linh đài chẳng vật gọi là thanh, Tịch mịch an nhiên niệm chẳng sinh. Khỉ ngựa giữ gìn đừng thả lỏng,
Tinh thần cẩn thận chớ chênh vênh. Giặc trừ sáu đứa, Tam thừa ngộ,[248] Đoạn tuyệt muôn duyên mới hiển linh. Diệt hết sắc tà lên cõi Phật,
Tây Phương cực lạc chốn thanh bình.

Lại nói chuyện Đường Tam Tạng chịu đựng thử thách, thà
chết để giữ cho tấm thân không bị tổn hại, sau đó nhờ ơn bọn đồ đệ Hành Giả đánh chết con rết thành tinh, cứu thoát ra khỏi động Tỳ Bà, thẳng đường cái sang phương Tây. Thấm thoắt đã sang tiết mùa hè. Chỉ thấy:

Gió nồm thoang thoảng hương lan, Mưa rào vừa tạnh, trúc ngàn lại xanh. Dây non lá ngải hương thanh,
Hoa lau trắng xóa bên ghềnh đưa hương.

Ong bay cành lựu bên đường,
Sẻ vàng ríu rít khóm dương hoa hồng.

Đường xa ai gói bánh sừng,

[249]
Thuyền rồng đến viếng nơi dòng Mịch La

Thầy trò vừa đi vừa ngắm cảnh vào tiết Trung thiên, đúng ngày Đoan ngọ, bỗng nhìn thấy một trái núi cao chắn trước mặt. Tam Tạng ghìm ngựa quay đầu gọi:

- Ngộ Không ơi, phía trước có núi, sợ có yêu quái, phải cẩn thận phòng ngừa trước đấy!

Bọn Hành Giả nói:

- Sư phụ yên tâm. Chúng con quy y lòng thành, sợ gì yêu quái!

Tam Tạng nghe vậy mừng lắm, quất roi thúc tuấn mã, lỏng cương giục giao long. Lát sau, đã lên tới sườn núi, ngẩng đầu ngắm nghía. Thật là:

Đỉnh non tùng bách cao sát mây xanh, Vách đá dây leo vòng quanh từng đợt.
Muôn trượng chót vót

Nghìn tầng chênh vênh.

Lớp lớp rêu xanh phủ mờ mặt đá, Hòe cao gội cổ kết bạn rừng già. Chốn rừng thẳm chim núi líu lo,
Giọng thánh thót rừng sâu nghe khác lạ. Nước khe trong cuốn theo nhiều ngọc đá, Hoa rụng ven đường trông tựa vàng rơi.
Rừng núi hiểm, cất bước thế chơi vơi. Đi mươi bước gồ ghề hơi chán ngán,
Cầy cáo, hươu nai, từng đôi đùa giỡn, Hươu trắng, vượn đen, từng cặp lang thang. Bỗng vang lên tiếng hổ thét kinh hoàng,
Hạc nội kêu đêm vút lưng trời thẳm. Hồng hạnh, hoàng mai tha hồ yến ẩm, Cỏ nội hoa ngàn chẳng rõ tên cây.
Bốn thầy trò bước chậm chạp trong núi giờ lâu, rồi vượt qua đỉnh núi, tới một quãng đất bằng phẳng. Trư Bát Giới phấn chấn tinh thần, bảo Sa Hòa thượng gánh hành lý, còn mình hai tay cầm đinh ba, bước tới giục ngựa. Con ngựa chẳng hề sợ hãi, mặc cho Bát Giới hò hét một hồi vẫn cứ đủng đỉnh bước một.

Hành Giả nói:

- Chú Bát Giới này, thúc ngựa làm gì, cứ để mặc cho nó đi thong thả.

Bát Giới nói:

- Trời sắp tối rồi, suốt một ngày leo núi, bụng đói cồn cào, mọi người phải đi nhanh lên một tý, tìm nhà dân xin ít cơm chay ăn chứ.

Hành Giả nghe xong, nói:

- Đã như vậy, để tôi thúc cho nó phi nhanh.

Đoạn rút gậy sắt ra múa tít, miệng quát vang. Con ngựa lỏng cương, cứ thẳng con đường bằng phẳng phóng như tên bắn. Bạn xem, con ngựa không sợ Bát Giới, chỉ sợ Hành Giả là vì sao? Vì rằng năm trăm năm trước, Hành Giả được Thượng Đế phong cho chức Bật Mã Ôn nuôi ngựa ở Ngự mã giám trên trời, đến nay tiếng còn truyền, nên loài ngựa vẫn sợ khỉ. Tam Tạng cũng không ghìm được dây cương, đành nằm rạp xuống yên, mặc cho con ngựa phóng nước đại vượt qua một cánh đồng tới hai mươi
dặm, rồi mới chịu bước thong thả.

Đang đi, bỗng nghe tiếng thanh la vang dậy, hơn ba mươi người ở hai ven đường đổ ra, đứa nào đứa nấy lăm lăm thương, đao, côn, gậy, đứng cản đường quát:

- Hòa thượng kia đi đâu?

Đường Tăng sợ quá run cầm cập, ngồi không vững, ngã nhào xuống ngựa, lóp ngóp đứng trên đám cỏ bên đường nói:

- Xin đại vương tha chết cho! Xin đại vương tha chết cho! Hai tên thủ lĩnh lực lưỡng nói:
- Không thèm đánh nhà ngươi, có tiền thì để lại!

Tam Tạng bấy giờ mới tỉnh ngộ, biết chúng là một toán cướp, bèn khép nép ngẩng đầu nhìn. Chỉ thấy:

Một tên răng nhọn, mặt xanh như Thái Tuế Một thằng mắt tròn, ngươi trố tựa Tang Môn. Mái tóc đỏ quạch như lửa hun,
Chòm râu vàng khè tựa kim cắm.

Cả hai tên:




Đội mũ da hổ hoa lấp lánh, Mặc áo da điêu đẹp gấm là. Một tên tay cầm gậy lang nha,
Một thằng vai đeo dây mây cứng. Hổ Ba Sơn quả nhiên khó vững,
Rồng biển rộng thật sự vẫn thua.

Tam Tạng thấy chúng hung dữ như vậy, đành bước lên chắp tay trước ngực nói:

- Thưa đại vương, bần tăng là người bên phương Đông, được
vua Đường sai sang phương Tây lấy kinh. Từ ngày rời Tràng An đến nay năm tháng phôi pha, có chút tiền đi đường cũng đã tiêu hết. Người xuất gia chúng tôi toàn lấy việc ăn xin làm gốc, làm gì có của cải tiền nong. Muôn xin đại vương rủ lòng thương, tha cho bần tăng đi.

Hai tên cướp dẫn cả bọn đến gần nói:

- Chúng tao trấn giữ ở đoạn đường này, giở thói sài lang, chuyên cướp của cải, thương với tiếc cái gì! Nếu nhà ngươi không có tiền bạc, thì mau lột áo để ngựa lại đây ta cho đi qua!

Tam Tạng nói:

- A Di Đà Phật! Tấm áo này của bần tăng là do xin nhà này mảnh vải, nhà kia cái kim, mỗi nhà một tý mới thành cái áo, nay các ngài cướp đi thì chẳng hóa hại tôi lắm sao? Làm thế thì trong đời này tuy là hảo hán, nhưng kiếp sau thành hạng súc sinh đấy!

Bọn cướp nghe nói càng tức giận, vác gậy dài xông vào đánh. Đường Tăng chẳng nói chẳng rằng, trong bụng thầm nghĩ:

- Thương thay! Các ngươi chỉ biết cây gậy của mình, chưa biết tới cây gậy của đồ đệ ta.

Bọn cướp chẳng thèm nói năng, vung gậy đánh túi bụi. Tam Tạng cả đời chẳng biết nói dối, gặp tai nạn đột ngột này, chẳng biết làm thế nào, đành nói dối rằng:

- Mong hai vị đại vương đừng đánh vội. Tôi còn một tên đồ đệ đi đằng sau sắp đến, trong người hắn có giắt vài lạng bạc, tôi sẽ đưa biếu các ngài.

Tên cướp nói:

- Tên hòa thượng này không xực nổi. Trói hắn lại!

Bọn lâu la ra tay ngay, lấy thừng trói Đường Tăng rồi treo lủng lẳng trên cành cây cao.



Lại nói chuyện ba đồ đệ đi sau đuổi tới nơi. Bát Giới cười hềnh hệch, nói:

- Sư phụ đi nhanh quá, chẳng biết đợi chúng mình ở đâu rồi? Bỗng thấy Tam Tạng trên cành cao, Bát Giới lại nói:
- Mọi người nhìn kìa, sư phụ đợi thì đợi, chứ còn bụng dạ nào trèo lên cây, níu dây leo đu nghịch thế kia kìa!

Hành Giả thấy vậy, nói:

- Chú ngốc đừng nói lăng nhăng, sư phụ bị treo hay sao ấy. Các chú hãy thư thả, để tôi lên xem nào.

Đoạn nhảy lên sườn núi cao nhìn kỹ, biết đó là một toán cướp, trong bụng mừng thầm nói:

- May quá! May quá! Có món hời tới cửa rồi!

Bèn chuyển bước, lắc mình một cái, biến thành một chú tiểu mặc chiếc áo thâm, tuổi chừng mười sáu, vai khoác chiếc tay nải
màu chàm, rảo bước đi tới tận nơi nói:

- Sư phụ ơi, thế kia là nghĩa lý gì? Sao lại làm cái trò của hạng người xấu như thế?

Tam Tạng nói:

- Đồ đệ ơi, không cứu ta còn hỏi cái gì? Hành Giả nói:
- Sư phụ làm cái trò gì vậy? Tam Tạng đáp:
- Một toán cướp chặn đường ta, đòi tiền mãi lộ. Nhưng trên người ta chẳng có vật gì, chúng bèn treo ta lên cây, ta đành phải đợi con đến lo liệu. Ta vừa phải tống cả con ngựa cho chúng rồi.

Hành Giả nghe xong cười, nói:

- Sư phụ chẳng được tích sự gì. Thiên hạ khối hòa thượng, nhưng vô dụng như sư phụ thì ít thấy. Vua Đường Thái Tông sai sư phụ sang phương Tây bái Phật, ai bảo sư phụ đem con long mã nộp cho người khác?

Tam Tạng nói:

- Đồ đệ ơi, nhưng ta bị treo thế này, lại bị đánh nữa, thì biết làm thế nào?

Hành Giả nói:

- Sư phụ nói với chúng thế nào? Tam Tạng nói:
- Chúng đánh ta đau quá, chẳng còn cách nào, ta khai con. Hành Giả nói:
- Sư phụ không còn chỗ nào bấu víu sao, lại khai con làm gì? Tam Tạng nói:
- Ta nói con trong người có giắt ít tiền, để chúng đừng đánh. Đấy là câu nói đỡ đòn lúc ấy thôi.

Hành Giả nói:

- Tốt! Tốt! Cảm ơn sư phụ tiến cử, khai như vậy rất phải. Giả sử trong một tháng, sư phụ khai bảy tám chục lần như thế, lão Tôn càng có món hời.

Toán cướp thấy Hành Giả trò chuyện với sư phụ, bèn bủa ra vây chặt xung quanh, nói:

- Tiểu hòa thượng kia, sư phụ nhà ngươi nói trong người nhà ngươi có giắt tiền, vậy đưa ra cho sớm thì bọn tao tha chết cho. Nếu nói nửa lời “không”, thì cũng cho cả nhà ngươi toi mạng luôn một thể!

Hành Giả đặt tay nải xuống, nói:

- Thưa các vị trưởng quan, các vị đừng làm ầm ĩ lên, tiền thì có trong tay nải đây, không nhiều lắm đâu, vàng khoảng hai mươi thoi, bạc trắng độ ba chục nén, còn chỗ vụn thì chưa hề đếm. Các vị cần thì tôi đưa cả túi, nhưng đừng có đánh sư phụ tôi. Sách xưa có nói: “Đức là gốc, tiền là ngọn”. Những thứ ấy chỉ là ngọn thôi, người xuất gia chúng tôi sẽ có chỗ khuyến hóa được. Nếu gặp được các nhà trưởng giả bố thí, thì tiền bạc cũng có quần áo cũng có, có dùng tới bao nhiêu đâu! Chỉ mong các vị tha cho sư phụ tôi, tôi sẽ biếu tất cả.

Tụi cướp nghe xong, hớn hở nói:

- Lão hòa thượng già kia keo kiệt. Chú tiểu hòa thượng này còn khí khái hơn.

Đoạn ra lệnh:

- Cởi trói hạ xuống!

Tam Tạng thoát chết, nhảy vội lên ngựa, chẳng để ý đến Hành
Giả, gia roi phóng thẳng về lối cũ.
Hành Giả vội vàng gọi:

- Sư phụ lầm đường rồi.

Đoạn xách tay nải toan đi. Tụi cướp giữ lại nói:

- Đi đâu? Để tiền lại đã, chúng tao đỡ phải ra tay! Hành Giả cười, nói:
- Nói thực, tiền thì phải chia làm ba phần đấy. Tên tướng cướp nói:
- Chú hòa thượng nhóc này khôn vặt, định giấu sư phụ giữ riêng một phần hả? Cũng được. Nào, bỏ ra đây. Nếu nhiều, ta cũng chia cho chú một ít để ăn quà vụng.

Hành Giả nói:

- Ông ơi, tôi không nói như thế. Tôi đâu có tiền bạc gì! Mà là các ông có ăn cướp được vàng bạc của ai thì phải chia cho tôi ấy.

Tụi cướp nghe nói như vậy, giận lắm, quát:

- Tên hòa thượng này không biết sợ chết! Đã không chịu bỏ tiền ra, lại còn đòi hỏi chúng tao à? Hừ, coi chừng chúng tao nện đấy!

Đoạn vung chiếc gậy quấn mây nện túi bụi xuống chiếc đầu trọc của Hành Giả. Hành Giả vờ như không biết, lại còn tươi cười, nói:

- Các ông ơi, cứ đánh thế này, thì đánh đến tết cũng chẳng thấm tháp gì!

Toán cướp cả sợ, nói:

- Tên hòa thượng này đầu cứng gớm nhì! Hành Giả cười, nói:
- Không dám, không dám, các ngài cứ quá khen và cũng biết
được như vậy à?

Toán cướp chẳng thèm nói năng, dăm đứa lại xông vào đánh túi bụi. Hành Giả nói:

- Các vị bớt giận, tôi xin mang ra đây ạ.

Đoạn Đại Thánh gãi gãi mang tai, rồi rút ra một cây kim thêu, nói:

- Thưa các vị, chúng tôi là người xuất gia, không hề giắt tiền bạc bao giờ, chỉ có cây kim này biếu các vị.

Toán cướp nói:

- Xúi quẩy quá! Thả mất lão hòa thượng giầu sang, lại đi giữ cái con lừa trọc kiết xác này! Chúng tao có là thợ may đâu, lấy kim làm quái gì!

Hành Giả nghe thấy toán cướp bảo không lấy, bèn cầm trong tay, múa loang loáng, biến thành một cây gậy to bằng miệng bát. Toán cướp sợ hãi, nói:

- Hòa thượng này nhỏ người, lại biết cả pháp thuật. Hành Giả cắm cây gậy xuống đất, nói:
- Vị nào nhấc nổi, tôi sẽ biếu đấy.

Hai tên cướp bước tới cướp cây gậy. Đáng thương thay, chẳng khác nào chuồn chuồn lay cột đá, cây gậy chẳng nhúc nhích lấy nửa phân. Bởi lẽ cây gậy ấy vốn là cây gậy Như Ý nạm vàng cân nặng một vạn ba nghìn năm trăm cân, tụi cướp đâu có biết được điều đó. Đại Thánh bước lên, nhẹ nhàng cầm lấy, đứng thế rắn vươn mình chỉ tụi cướp nói:

- Các ngươi không may gặp phải lão Tôn rồi!

Tụi cướp lại sấn vào nện Hành Giả năm sáu mươi gậy nữa. Hành Giả cười, nói:

- Cho các ngươi đánh mỏi tay, rồi để lão Tôn đánh một gậy
cho biết sự thực.

Đoạn múa gậy loang loáng, cây gậy to bằng cái miệng giếng, dài tới bảy tám trượng, rồi giáng một gậy, một thằng lăn quay ra, mồm miệng dính đất, nằm im thin thít.

Một thằng khác mở mồm quát:

- Tên đầu trọc này vô lễ quá! Tiền đã không đưa lại còn đánh chết người của ta!

Hành Giả cười, nói:

- Chưa xong đâu! Chưa xong đâu! Ta còn đánh chết từng thằng, cho tuyệt giống nhà chúng bay đi!

Đoạn giáng một gậy nữa, tên thứ hai lại chết ngay. Bọn còn lại sợ quá, vứt thương quẳng gậy, bỏ chạy tán loạn.

Lại nói chuyện Đường Tăng cưỡi ngựa chạy về hướng đông. Bát Giới, Sa Tăng giữ lại hỏi:

- Sư phụ đi đâu? Lầm đường rồi. Tam Tạng ghìm cương nói:
- Đồ đệ ơi, đến ngay nói với sư huynh con rằng nên nhẹ nhẹ tay gậy một tí, đừng đánh chết bọn cướp nhé!

Bát Giới nói:

- Sư phụ đứng đây, để con đi cho.

Chú ngốc chạy một mạch lên phía trước lớn tiếng gọi:

- Sư huynh ơi, sư phụ dặn là đừng đánh chết người. Hành Giả nói:
- Chú em ạ, ta có đánh ai đâu! Bát Giới nói:
- Lũ cướp giạt đi đâu rồi?
Hành Giả nói:

- Bọn chúng chạy ráo cả. Chỉ có hai thằng đầu sỏ nằm ngủ ở đây.

Bát Giới cười, nói:

- Hai thằng chúng bay mắc ôn dịch hay sao mà ngủ ở đây khổ sở thế này? Sao không đi chỗ khác mà ngủ lại ở đây?

Chú ngốc bước tới bên cạnh, ngắm nghía hai tên cướp, rồi nói:

- Chẳng khác gì mình, ngủ cũng há hốc mồm, mũi dãi chảy ra nhoe nhoét.

Hành Giả nói:

- Chúng bị lão Tôn nện một gậy, phọt cả đậu phụ ra đấy. Bát Giới nói:
- Đầu người cũng có đậu phụ à? Hành Giả nói:
- Đánh phọt óc ra mà lị!

Bát Giới nghe nói đánh phọt óc ra, sợ quá chạy luôn về nói với Đường Tăng:

- Toán cướp tản đi rồi. Tam Tạng nói:
- Hay quá! Hay quá! Chúng chạy đi đường nào? Bát Giới nói:
- Đã đánh chết thẳng cẳng còn chạy đi đằng trời! Tam Tạng hỏi:
- Con nói tản đi thế nào? Bát Giới đáp:
- Đánh chết chẳng phải tản đi là gì? Tam Tạng lại hỏi:
- Đánh như thế nào? Bát Giới đáp:
- Đánh thủng hai lỗ to tướng ở đầu. Tam Tạng nói:
- Mở đẫy ra, lấy mấy đồng, đi mua ngay lấy hai lá cao dán cho họ.

Bát Giới cười, nói:

- Sư phụ chẳng có kinh nghiệm gì cả. Thuốc cao chỉ dán chỗ nhọt sưng của người sống, chứ đâu có dán được chỗ đầu thủng của người chết!

Tam Tạng nói:

- Đánh chết thật à?

Thế là Đường Tăng nổi giận, miệng càu nhàu không ngớt con khỉ nọ, con khỉ kia, đoạn quay ngựa cùng Sa Tăng, Bát Giới đến chỗ người chết, thấy xác họ lăn lóc bên sườn núi, máu me lênh láng.

Tam Tạng không nỡ nhìn, sai Bát Giới:

- Con mau lấy đinh ba đào huyệt chôn cất, để ta tụng kinh
Đảo đầu độ cho họ.

Bát Giới nói:

- Sư phụ bắt ức thế. Hành Giả đánh chết sao không bắt anh ấy chôn, lại bắt lão Trư làm phu đào huyệt?

Hành Giả bị sư phụ mắng đang bực mình, bèn quát Bát Giới:

- Đồ bị thịt khốn kiếp, đi chôn đi cho rảnh! Chậm trễ ta cho một gậy!
Chú ngốc sợ quá, đi xuống dưới sườn núi đào một cái hố sâu độ ba thước, gặp toàn đá, đinh ba bổ không xuống, bèn vứt đinh ba, lấy mõm dũi, dũi tới chỗ đất mềm, làm một dũi sâu được hai thước rưỡi, dũi thứ hai sâu được năm thước, đoạn ném xác hai tên cướp xuống đấy, đắp đất thành ngôi mộ.

Tam Tạng gọi:

- Ngộ Không, lấy hương nến ra thắp lên để ta tụng kinh cầu siêu.

Hành Giả quai mồm ra nói:

- Chẳng hiểu quái gì giữa lưng chừng núi, trước chẳng thôn xóm, sau không quán hàng, đào đâu ra hương nến, có tiền cũng chẳng mua được ấy chứ.

Tam Tạng đùng đùng nói:

- Con khỉ kia cút ngay đi, để ta vun đất thắp hương khấn khứa.

Đó là:

Tam Tạng xuống yên khóc mả lạc, Thánh tăng lòng thiện lễ mồ hoang.
Tam Tạng khấn rằng:

Kính lạy hảo hán, Nghe thấu nguyên nhân. Tôi đây đệ tử,
Nước Đường phương Đông. Vâng lệnh đức Thái Tông hoàng đế, Sang phương Tây để lấy kinh văn, Kíp đến đất này,
Gặp người đông quá,
Người phủ nào, châu nào, huyện nào khác lạ, Tụ tập thành đoàn giữa chốn rừng sâu.
Ta nguyện thỉnh cầu, Van lạy hồi lâu. Không nghe thì chớ, Lại còn càn rỡ.
Gặp phải Hành Giả, Một gậy nát thân.
Nghĩ tới thi hài chết lăn, Xót thương đắp thêm mộ kín. Bẻ tre tươi làm hương nến,
Không hương khói, cũng thành tâm.

Nhặt đá cuội để làm cơm, Không mùi vị, mà lòng kính. Nếu tới Sâm La đi kiện,
Truy cội nguồn tìm nguyên nhân.

Thì hắn họ Tôn, ta họ Trần, Riêng biệt mỗi người một họ. Oan trái có nơi, nợ nần có chủ Chớ đổ nhà sư đi lấy kinh văn.
Bát Giới cười, nói:

- Sư phụ rũ sạch sẽ nhỉ? Lúc anh ấy đánh chết người, không có hai chúng con ở đấy.

Tam Tạng lại vun đất khấn thêm:

- Hảo hán có tố cáo tội trạng thì chỉ tố cáo một mình Hành
Giả, chứ Bát Giới, Sa Tăng không có liên quan.

Đại Thánh nghe xong, không nhịn nổi, cười nói:

- Sư phụ già đời người rồi mà chẳng có tình nghĩa gì hết! Vì sư phụ đi lấy kinh mà con tốn biết bao công lao khó nhọc. Vừa rồi đánh chết hai thằng giặc cỏ, sư phụ nỡ lòng nào bảo chúng đi kiện lão Tôn? Tuy chính tay con đánh chết chúng thật, nhưng cũng chỉ vì sư phụ mà thôi. Sư phụ không sang phương Tây lấy kinh, con không làm đồ đệ của sư phụ, thì con đâu có tới đây? Đâu có đánh chết người? Sư phụ để con khấn chúng một lời.

Đoạn giơ gậy sắt vụt xuống mả ba phát, nói:

- Quân cường đạo ôn dịch này nghe đây! Ta bị các người đánh bảy tám gậy, sau lại đánh ta bảy tám gậy nữa. Đánh ta chẳng đau chẳng ngứa, chỉ làm ta điên tiết lên, một sai hai lỡ, trót đánh chết các ngươi. Cho các ngươi đi kiện đâu thì kiện, lão Tôn cũng cóc sợ. Thượng Đế cũng biết ta, Thiên Vương cũng quen ta, Nhị thập bát tú đều sợ ta, Cửu điệu tinh quan cũng hốt ta, thành hoàng các phủ, huyện phải quỳ lạy ta, Đông Nhạc thiên tề cũng khiếp ta, mười ngài Diêm Vương từng làm đầy tớ cho ta, Ngũ lộ xướng thần chỉ đáng là hậu sinh của ta, bất luận Tam giới ngũ ty, Thập phương chư tể đều là chỗ thân thiết với ta, cho các ngươi muốn đi kiện đâu thì đi!

Tam Tạng thấy Hành Giả nói ra những lời hung hăng như vậy càng sợ hãi, nói:

- Đồ đệ ạ, ta khấn khứa như vậy là dạy con mở lòng hiếu sinh, thành người lương thiện, thế mà con lại tin thực à?

Hành Giả nói:

- Sư phụ ơi, như thế không phải là trò đùa hay đâu. Thôi, chúng ta hãy sớm sớm đi tìm quán trọ.

Tam Tạng đành nén giận lên ngựa.
Tôn Đại Thánh trong lòng bực bội, Bát Giới, Sa Tăng cũng có ý ghen ghét. Thầy trò bằng mặt không bằng lòng, theo đường cái đi sang hướng Tây. Bỗng mọi người nhìn thấy một tòa trang viện ở phía bắc con đường. Tam Tạng giơ roi chỉ về phía trang viện, nói:

- Chúng ta tới đó ngủ trọ. Bát Giới nói:
- Phải đấy.

Mọi người bèn đến bên trang viện dừng ngựa ngắm nghía. Thật là một nơi êm đềm. Chỉ thấy:

Đầy đường hoa dại nở, Cửa rợp bóng cây che. Nước róc rách lòng khe, Ruộng nương xanh rờn lúa.
Khóm lau rậm rạp cò êm ngủ, Chòm liễu rung rinh sẻ mệt về. Tùng nhạt bách xanh phơi tán biếc,
Bông hồng ngổ tía thoảng hương quê.

Chó sủa vang vang gà gáy rộn, Trâu bò no bụng trẻ đưa về.
Mơ màng khói bếp nồi kê chín, Chính lúc nhà nông được thỏa thuê.
Tam Tạng bước lên trước, bỗng thấy một ông già từ trong cổng xóm đi ra, bèn vái chào và hỏi thăm. Ông già hỏi:

- Nhà sư từ đâu tới? Tam Tạng thưa:
- Bần tăng người nước Đại Đường bên phương Đông vâng lệnh nhà vua sang phương Tây lễ Phật cầu kinh, dọc đường qua xứ ta vừa lúc trời tối, vào nhà ta đây xin ngủ nhờ một đêm ạ.

Ông già cười, nói:

- Từ quý xứ của ngài đến chỗ chúng tôi đường sá xa xôi, làm sao một mình ngài trèo đèo lội suối tới đây được?

Tam Tạng nói:

- Bần tăng cùng đi với ba đồ đệ nữa. Ông già hỏi:
- Các vị cao đệ đâu cả rồi? Tam Tạng chỉ tay, nói:
- Họ đứng bên phía đường kia ạ.

Ông già ngẩng đầu nhìn, thấy anh em Hành Giả mặt mũi xấu xí, vội vàng quay người chạy tọt vào. Đường Tăng giữ lại nói:

- Thưa cụ, xin cụ rủ lòng từ bi cho ngủ nhờ một đêm. Ông già run cầm cập, lắc đầu xua tay, miệng lắp bắp:
- Không, không, không, không phải người, mà là mấy… mấy con yêu tinh.

Tam Tạng cười ngất, nói:

- Cụ đừng sợ, đồ đệ của tôi sinh ra đã có tướng mạo như vậy, chứ không phải yêu tinh đâu.

Ông già nói:

- Ngài ơi, một người như quỷ dạ xoa, một người mặt ngựa, một người như ông thiên lôi.

Hành Giả nghe thấy thế, bèn lớn tiếng nói:

- Thiên lôi chỉ đáng là cháu ta, Dạ xoa là chắt ta, mặt ngựa là chút ta thôi.
Ông già nghe nói như vậy hồn bay phách tán, mặt mũi tái xanh, chỉ chực chạy vào.

Tam Tạng nắm tay ông già cùng đi vào nhà tươi cười, nói:

- Cụ đừng sợ họ. Họ đều thô lỗ như thế cả, không biết trò chuyện gì đâu.

Đang khuyên giải, chợt thấy một bà cụ tay dắt đứa trẻ chừng năm sáu tuổi, ở đằng sau đi ra nói:

- Có điều gì mà ông sợ hãi thế? Lúc ấy ông già mới gọi:
- Bà ơi, mang trà lại đây.

Bà cụ buông đứa trẻ, quay vào trong nhà bưng ra hai chén trà. Uống trà xong, Tam Tạng mới quay lại chào bà cụ và nói:

- Bần tăng là người nước Đại Đường bên phương Đông, được nhà vua sai sang phương Tây lễ Phật cầu kinh, vừa mới tới quý xứ đây, vào nhà ta xin ngủ nhờ một tối. Chỉ vì ba đồ đệ của tôi mặt mũi xấu xí, ông nhà ta trông thấy có phần sợ hãi.

Bà cụ nói:

- Thấy người xấu xí mà sợ hãi như vậy, ngộ gặp hổ báo sói lang thì làm sao?

Ông cụ nói:

- Bà ơi, mặt mũi xấu xí còn khả dĩ, chứ ăn nói mới khiếp chứ! Tôi nói họ giống thiên lôi, mặt ngựa, Dạ xoa, họ quát lên thiên lôi chỉ đáng là cháu, Dạ xoa là chắt, mặt ngựa là chút. Tôi nghe vậy mới đâm hoảng.

Đường Tăng nói:

- Không phải, không phải. Người mặt giống thiên lôi là đồ đệ cả của tôi tên gọi Tôn Ngộ Không. Người giống mặt ngựa là đồ
đệ hai, tên gọi Trư Ngộ Năng. Người giống Dạ xoa là đồ đệ ba tên gọi Sa Ngộ Tĩnh. Tuy họ mặt mũi xấu xí nhưng theo đạo Sa môn, quy y thiện quả, không phải là ma thiêng quỷ dữ gì đâu, việc gì mà sợ!

Hai ông bà nghe nói đến tên hiệu của họ và rằng họ đã theo đạo Sa môn, quy y thiện quả, lúc ấy mới yên tâm bảo:

- Xin mời vào, xin mời vào!

Tam Tạng ra cửa gọi anh em Hành Giả vào và dặn dò:

- Vừa rồi ông bà rất ghét các con. Bây giờ vào gặp người ta, các con chớ có vô lễ, phải tôn trọng người ta mới được.

Bát Giới nói:

- Con đẹp trai, con nho nhã, không càn quấy như sư huynh con đâu.

Hành Giả cười, nói:

- Nếu không phải cái mõm dài, tai to, mặt xấu thì cũng bảnh trai đấy.

Sa Tăng nói:

- Đừng cãi vã nữa. Đây không phải là chỗ tranh hơn tranh kém. Vào đi! Vào đi!

Đoạn gánh hành lý, dắt ngựa vào nhà. Mấy anh em cùng chào một tiếng thật to rồi ngồi xuống. Bà cụ nom hiền lành dắt đứa trẻ quay vào dặn người nhà thổi cơm, dọn bữa cơm chay để thầy trò xơi cơm. Ăn cơm xong trời đã xâm xẩm tối, đèn được đốt lên, mọi người ngồi trong căn nhà tranh nói chuyện phiếm. Tam Tạng hỏi:

- Thưa cụ, cụ họ gì ạ? Ông cụ thưa:
- Tôi họ Dương.
Lại hỏi tuổi, ông cụ đáp:

- Năm nay tôi bảy mươi tư. Lại hỏi:
- Cụ được mấy người con? Ông cụ nói:
- Chỉ được một người con trai. Thằng nhỏ bà lão vừa dắt là cháu nội.

Tam Tạng nói:

- Xin mời cậu ấy ra để chúng tôi có lời chào. Ông cụ nói:
- Thằng ấy không đáng gặp, tôi đây xấu số không dạy nổi nó. Vả lại bây giờ nó cũng không có nhà.

Tam Tạng nói:

- Cậu ấy đi làm ăn ở đâu ạ? Ông già gật đầu, thở dài nói:
- Đáng thương! Đáng thương! Nếu nó chịu đi làm ăn thì đã phúc cho tôi. Đằng này nó chỉ chuyên làm điều ác, chẳng thiết làm ăn, rặt là ăn cướp đón đường, đốt nhà giết người, chơi bời giao du toàn những quân mèo đường chó điếm, đi suốt năm ngày nay chưa thấy về.

Tam Tạng nghe xong chẳng dám hé răng, trong lòng nghĩ thầm:

- Hay là tên cướp bị Ngộ Không đánh chết nhỉ? Tam Tạng sắc mặt lo lắng, nghiêng mình nói:
- Lạ nhỉ, lạ nhỉ! Cha mẹ hiền lành mà lại sinh con ngỗ ngược! Hành Giả bước tới gần nói:
- Cụ ạ, cái hạng con cái bất lương bất hiếu, trộm cắp tà dâm làm phiền lụy đến cha mẹ như thế dùng được việc gì, để tôi tìm về hộ cụ rồi đập chết quách cho rảnh!

Ông cụ nói:

- Tôi cũng muốn tống khứ nó đi, nhưng hiềm không có đứa thứ hai, nên tuy nó hư hỏng cũng vẫn phải nuôi để sau này nó đắp nấm mồ cho cái thân già này chứ.

Sa Tăng và Bát Giới cười, nói:

- Sư huynh ơi, mặc các cụ nói chuyện phiếm. Chúng ta chẳng phải quan phủ, nhà họ không muốn, mình dây vào làm gì! Hãy nói với cụ chủ nhà xin bó cỏ khô trải vào góc kia mà ngủ, sáng mai đi sớm.

Ông già bèn đứng dậy bảo Sa Tăng ra vườn sau lấy hai ôm rơm rồi bảo vào cả trong túp lều giữa vườn mà ngủ. Hành Giả dắt ngựa, Bát Giới gánh hành lý, cùng Tam Tạng vào ngủ cả trong lều. Chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện trong toán cướp có người con của cụ Dương. Bọn chúng bị Hành Giả đánh chết hai tên cầm đầu ở sườn núi lúc sáng sớm, những đứa còn lại bỏ chạy toán loạn, vào khoảng canh tư, chúng mới tụ tập rồi trở về nhà gọi cổng. Ông già nghe tiếng gõ cửa, vội vàng mặc áo vào nói:

- Bà ơi, cái lũ ấy về đấy. Bà cụ nói:
- Đã về à, ông ra mở cổng để chúng vào đi. Ông già ra mở cửa. Cả toán cướp kêu la ầm ĩ:
- Đói quá! Đói quá!

Thằng con cụ Dương ập ngay vào trong nhà gọi người vợ dậy, bắt lấy gạo nấu cơm. Nhưng dưới bếp hết củi, hắn phải ra vườn
sau kiếm củi, rồi trở vào bếp hỏi vợ:

- Con ngựa bạch ở vườn sau của ai đấy? Người vợ đáp:
- Của ngài hòa thượng người phương Đông đi lấy kinh, tối qua đến ngủ nhờ. Ông bà đã mời họ ăn cơm và bảo họ vào ngủ trong lều.

Người con trai cụ Dương chạy ra khỏi nhà, vỗ tay cười, nói:

- Anh em ơi, may quá! May quá! Lũ oan gia nằm trong nhà đây rồi!

Bọn cướp hỏi:

- Oan gia nào? Người con trai nói:
- Tên hòa thượng đánh chết thủ lĩnh của chúng ta đến ngủ nhờ ở nhà tôi, hiện chúng đang ngủ trong lều tranh.

Bọn cướp nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Phải bắt sống mấy con lừa trọc này băm nát từng thằng, một là cướp lấy hành lý, hai là báo thù cho thủ lĩnh chúng ta!

Người con trai nói:

- Đừng vội! Anh em cứ đi mài dao, để tôi nấu cơm, mọi người ăn no xong, ta nhất tề hạ thủ.

Thế là bọn cướp, đứa thì mài dao, đứa thì mài giáo.

Ông già nghe thấy bọn cướp bàn tán như thế, bèn len lén đi ra vườn sau, nói với bốn thầy trò Đường Tăng rằng:

- Thằng con tôi dẫn tụi cướp về, chúng biết các ngài ở đây, bụng muốn mưu hại. Tôi nghĩ các ngài ở xa đến, không nỡ nhìn các ngài bị hại. Vậy các ngài mau thu xếp hành lý, tôi đưa ra
cổng sau mà trốn đi!

Tam Tạng nghe nói như vậy, run rẩy dập đầu lạy tạ ông già, rồi vội vàng bảo Bát Giới dắt ngựa, Sa Tăng gánh hành lý, Hành Giả cầm gậy tích trượng chín vòng. Ông già mở cổng sau đưa thầy trò ra, đoạn lại rón rén quay về đi ngủ như cũ.

Lại nói chuyện bọn cướp giáo mác mài sáng loáng, chén một bữa no say, lúc đó vào khoảng canh năm, cả bọn bèn kéo nhau vào vườn xem xét, nhưng chẳng thấy bóng người, vội vàng đốt đuốc châm đèn, tìm kiếm hồi lâu, cũng chẳng thấy dấu vết, lại thấy cổng sau mở toang, bèn nói:

- Chúng trốn bằng đường cổng sau rồi!

Đoạn bọn chúng hét váng, hò nhau đuổi theo.

Cả bọn chạy như tên bắn đuổi theo cho tới khi mặt trời đằng đông đã mọc mới trông thấy Đường Tăng.

Tam Tạng nghe thấy tiếng hò hét bèn quay đầu nhìn, thấy đằng sau có khoảng hai ba chục người vác giáo mác cung tên đang đuổi tới, liền gọi:

- Các đồ đệ ơi, bọn cướp đuổi tới, biết làm sao bây giờ? Hành Giả nói:
- Sư phụ cứ yên tâm. Lão Tôn biết chúng đuổi theo rồi. Tam Tạng ghìm cương, nói:
- Ngộ Không ơi, chớ có giết người, chỉ dọa cho chúng rút là được.

Hành Giả đâu có chịu nghe, rút gậy sắt ra quay lại đón bọn cướp, nói:

- Các vị đi đâu? Bọn cướp quát:
- Thằng đầu trọc vô lễ, trả mạng đại vương ta đây!

Bọn cướp tản ra vây chặt Hành Giả vào giữa, vung gươm giáo đâm chém loạn xị. Đại Thánh cầm cây gậy sắt quay một vòng, to bằng miệng bát, rồi xông vào đánh bọn cướp như mây tan sao rụng, cây gậy đụng vào là toi mạng, quệt vào là hết đời, chạm vào là gãy xương, cọ vào là toạc da. Thằng nào nhanh chân còn chạy thoát, những đứa chậm chạp đều chầu Diêm Vương.



Tam Tạng ngồi trên mình ngựa thấy Hành Giả đánh chết nhiều người, sợ quá vội vàng phóng ngựa sang hướng Tây. Trư Bát Giới và Sa Hòa Thượng theo sát sư phụ cùng chạy.

Hành Giả hỏi một tên cướp bị thương chưa chết:

- Thằng nào là con cụ Dương? Tên cướp rên hừ hừ, nói:
- Thưa ngài, đứa mặc áo vàng kia ạ.
Hành Giả bước tới, giật lấy con dao, cắt ngay đầu tên mặc áo vàng, xách trong tay máu me đầm đìa, đoạn thu gậy sắt, rảo bước tới trước mặt Đường Tăng, giơ chiếc đầu lên nói:

- Thưa sư phụ, thằng nghịch tử nhà cụ Dương bị con cắt thủ cấp mang về đây.

Tam Tạng nhìn thấy, sợ hãi tái mặt, ngã lăn xuống ngựa, quát mắng Hành Giả:

- Con khỉ già khốn kiếp làm ta sợ hết hồn, mang đi mau! Mang đi mau!

Bát Giới bước lại đá chiếc đầu lâu lăn lông lốc xuống vệ đường, đoạn lấy đinh ba đào đất lấp lên.

Sa Tăng đặt gánh hành lý, đỡ Đường Tăng dậy nói:

- Mời sư phụ đứng dậy.

Đường Tăng đứng dưới đất định thần lại, bắt đầu niệm bài “khẩn cô nhi”, làm cho đầu Hành Giả như bị thắt lại, đỏ mặt tía tai, mắt lồi đầu váng, lăn lộn trên mặt đất, kêu la:

- Sư phụ đừng niệm nữa. Đừng niệm nữa!

Tam Tạng cứ niệm liền một mạch đến hơn mười lượt, mà vẫn chưa thôi. Hành Giả đau đớn nhào lộn như chuồn chuồn, không sao chịu nổi chỉ gọi:

- Sư phụ ơi tha tội cho con! Sư phụ trách gì thì cứ nói, đừng niệm nữa! Đừng niệm nữa!

Tam Tạng lúc ấy mới dừng niệm, nói:

- Chẳng có gì phải nói cả, ta không cần nhà ngươi đi theo ta nữa, nhà ngươi về đi!

Hành Giả nén đau, dập đầu nói:

- Sư phụ ơi, làm sao mà sư phụ đuổi con đi?
Tam Tạng nói:

- Nhà ngươi là con khỉ già khốn kiếp cực kỳ độc ác, chứ không phải là người đi lấy kinh nữa. Hôm qua ở sườn núi, nhà ngươi đánh chết hai tên tướng cướp, ta đã trách là bất nhân. Buổi tối tới nhà cụ Dương, được người ta cho ăn cho ngủ, lại mở cửa sau, bảo cho chạy thoát. Tuy con người ta hư hỏng, nhưng liên can gì đến ta, tại sao lại cắt bêu đầu, lại còn đánh bao nhiêu người, giết bao nhiêu sinh mạng, làm tổn thương bao nhiêu là hòa khí của trời đất nữa? Ta đã nhiều lần khuyên nhà ngươi mà nhà ngươi chẳng mảy may có một ý nghĩ lành nào, vậy dùng nhà ngươi làm gì! Cút ngay đi! Cút ngay đi! Không ta lại niệm chú nữa bây giờ!

Hành Giả sợ quá, vội nói:

- Sư phụ đừng niệm nữa! Đừng niệm nữa! Con đi đây!

Vừa dứt lời, Hành Giả đã nhảy vút lên mây, dùng phép cân đẩu vân bay đi mất tăm mất dạng, chẳng thấy đâu nữa. Than ôi, thế mới là:

Tâm tính hung cuồng linh đơn sượng, Tinh thần bất định đạo công toi.
Cuối cùng không biết Đại Thánh đi đâu, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ NĂM MƯƠI BẢY


Núi Lạc Già, Hành Giả thật kể khổ


Động Thủy Liêm, Hầu Vương giả đọc văn


Lại nói chuyện Tôn Đại Thánh rầu rĩ chán chường, đứng ngẩn
ngơ trên tầng không định trở về động Thủy Liêm, núi Hoa Quả, nhưng ngần ngại sợ bọn tiểu yêu chê cười “mèo lại hoàn mèo”, không có khí trượng của bậc đại trượng phu. Muốn lên thiên cung nhưng sợ thiên cung không cho ở lâu. Muốn ra hải đảo, nhưng cảm thấy ngượng ngập với các vị tiên ở ba đảo: Muốn xuống long cung, nhưng sĩ diện không muốn cầu cứu với Long Vương. Quả thực Hành Giả không biết dựa vào đâu, cay đắng nói:

- Thôi! Thôi! Trở về gặp sư phụ vẫn là tốt nhất.

Đoạn hạ mây bước xuống đến thẳng trước ngựa của Tam
Tạng, lễ phép nói:

- Sư phụ tha tội cho đệ tử một lần này, từ nay trở đi con không dám hành hung nữa, nhất nhất tuân theo lời dạy bảo của sư phụ, được hộ vệ sư phụ sang phương Tây như trước.

Đường Tăng nghe xong, chẳng nói chẳng rằng, ghìm cương ngựa lại, niệm ngay bài chú “khẩn cô nhi”.

Đường Tăng niệm đi, niệm lại tới hơn hai mươi lần, khiến Đại Thánh ngã lăn ra đất, đến nỗi cái vòng trên đầu hằn sâu vào trong thịt đến một tấc. Lúc ấy, Đường Tăng mới ngừng niệm, nói:

- Nhà ngươi không xéo đi, còn quay lại lằng nhằng với ta làm gì?
Hành Giả chỉ nói:

- Sư phụ đừng đọc! Đừng đọc! Con có nơi có chốn sinh sống rồi, chỉ sợ sư phụ không có con thì không sang nổi phương Tây thôi.

Tam Tạng nổi giận, nói:

- Con khỉ già sát nhân kia làm liên lụy đến ta bao nhiêu lần rồi, bây giờ ta không cần đến nhà ngươi nữa. Ta đi được hay không, không can gì đến nhà ngươi. Nhà ngươi cút ngay đi! Cút ngay đi! Chần chừ là ta lại niệm chú, mà lần này ta sẽ niệm mãi cho tới khi nhà ngươi phọt óc ra mới thôi!

Đại Thánh đau đớn không chịu nổi, thấy sư phụ không thay đổi ý định, chẳng biết làm thế nào, lại đành phải nhảy vút lên tầng không. Bỗng Đại Thánh tỉnh ngộ, nói:

- Hòa thượng kia phụ lòng ta, ta sẽ đến núi Phổ Đà nói với
Quan Âm Bồ Tát.

Đoạn dùng phép cân đẩu vân, chỉ mất độ một giờ đã tới Nam Dương Đại Hải, bèn hạ đám mây lành, đến thẳng núi Lạc Già, bước vào rừng trúc tía, chợt thấy Mộc Soa hành giả ra đón hỏi:

- Đại Thánh đi đâu đấy? Hành Giả thưa:
- Tôi muốn gặp Bồ Tát.

Mộc Soa lập tức dẫn Hành Giả đến cửa động Triều Âm, Thiện Tài đồng tử bước ra chào hỏi:

- Đại Thánh đến có việc gì? Hành Giả thưa:
- Tôi có việc muốn bẩm báo với Bồ Tát.

Thiện tài nghe tiếng “bẩm báo” bèn cười, nói:
- Con khỉ già điêu toa! Chẳng khác gì ngày nào ta bắt Đường Tăng bị nhà ngươi lừa dối. Đức Bồ Tát ta là một vị Bồ Tát thánh thiện đại từ đại bi, đại nguyên đại thừa, vô biên vô lượng, có chỗ nào không phải mà nhà ngươi định “bẩm báo” người?

Hành Giả đang lòng buồn rười rượi, nghe nói như vậy lại điên tiết lên, hừ một tiếng, quát Thiện Tài lùi ra:

- Thằng súc sinh vong ân bội nghĩa kia, ngày ấy nhà ngươi là yêu tinh tác quái, ta mời Bồ Tát đến thu phục quy y chính quả, nay được lên cõi trường sinh cực lạc, tự tại tiêu dao, thọ ngang trời đất, thế mà đã không cảm tạ lão Tôn thì chớ, lại còn khinh nhờn như thế! Ta có việc đến kêu cầu với Bồ Tát, tại sao dám nói ta điêu toa bẩm báo Bồ Tát cái gì?

Thiện Tài tươi cười, nói:

- Vẫn là con khỉ nóng nảy, tôi nói đùa một tí, làm gì mà trở mặt thế?

Đang nói chuyện, chợt con chim vẹt trắng bay đến, ai nấy biết ngay là Bồ Tát đang gọi, Mộc Soa và Thiện Tài bèn dẫn Hành Giả đến bên tòa sen. Hành Giả nhìn thấy Bồ Tát bèn cúi mình sụp lạy, rồi không ngăn được hai hàng nước mắt chứa chan, khóc òa lên. Bồ Tát bảo Mộc Soa, Thiện Tài đỡ dậy, nói:

- Ngộ Không, có việc gì thương tâm, nói ra xem nào. Thôi đừng khóc nữa, ta sẽ cứu khổ trừ tai cho nhà ngươi.

Hành Giả rơi nước mắt, lạy hai lạy, nói:

- Trước đây đệ tử làm người có bao giờ chịu bực thế này đâu? Từ ngày được đội ơn Bồ Tát cứu thoát nạn trời, theo đạo Sa môn, hộ vệ Đường Tăng sang phương Tây bái Phật cầu kinh, đệ tử xả thân liều mạng, đã bao lần cứu thoát sư phụ khỏi ma chướng, khác nào móc xương họng mồm hổ dữ, lột vẩy tươi lưng thuồng luồng, lòng những mong quy y chính quả, tẩy sạch yêu tà. Nhưng có ngờ đâu trưởng lão vong ơn bội nghĩa, chỉ mê
mẩn một tấm thiện duyên, chẳng xét trắng đen rõ ràng.

Bồ Tát nói:

- Hãy nói rõ nguyên nhân trắng đen cho ta nghe nào.

Hành Giả lập tức kể hết đầu đuôi chuyện đánh chết mấy thằng giặc cỏ. Lại nói rõ cả chuyện Đường Tăng thấy Hành Giả đánh chết nhiều người quá, sinh lòng oán giận, chẳng phân trắng đen, niệm ngay bài chú “khẩn cô nhi”, và một mực đuổi đi mấy lần, lên trời không lối, xuống đất không đường, đành phải đến bẩm báo với Bồ Tát. Bồ Tát nói:

- Đường Tam Tạng vâng lệnh nhà vua sang phương Tây, một lòng giữ điều thiện tu hành, quyết không khinh thường làm hại đến tính mạng một ai. Có vô lượng thần thông như nhà ngươi, cần gì phải mệt người đánh chết nhiều tên giặc cỏ đến thế? Bọn giặc cỏ ấy tuy là phường bất lương, nhưng rút cục chúng vẫn là con người, không nên đánh chết. Còn so với loài thú dữ chim hung, yêu ma quỷ quái thì lại khác. Đánh chết chúng, thì nhà ngươi có công. Nhưng đánh chết con người thì nhà ngươi bất nhân đấy. Chỉ cần dọa đuổi chúng chạy là tự nhiên cứu được sư phụ rồi. Cứ theo công luận thì nhà ngươi đúng là bất thiện.

Hành Giả nuốt nước mắt, dập đầu nói:

- Cho dù là đệ tử bất thiện đi nữa, thì cũng nên lấy công chuộc tội, chứ không nên đuổi đi như thế. Muôn xin Bồ Tát mở lòng đại từ đại bi, niệm bài chú “túng cô nhi”, tháo chiếc vòng kim cô ra để con trả lại cho Bồ Tát, rồi tha cho con về lánh mình ở động Thủy Liêm.

Bồ Tát cười, nói:

- Bài chú “khẩn cô nhi” vốn là của Như Lai truyền cho ta. Ngài ấy sai ta sang phương Đông tìm người lấy kinh, người trao cho ta ba thứ bảo bối, đó là chiếc áo cà sa gấm, cây gậy tích trượng chín vòng, và ba chiếc vòng vàng Kim-khẩn-cấm. Người
lại truyền riêng cho ta ba bài chú, nhưng không hề có bài chú
“Túng cô nhi” nào cả.

Hành Giả nói:

- Đã như vậy, con xin từ biệt Bồ Tát đi đây. Bồ Tát hỏi:
- Từ biệt ta con định đi đâu? Hành Giả đáp:
- Con sang phương Tây lạy đức Như Lai cầu xin Người niệm chú “túng cô nhi” cởi vòng ra cho con.

Bồ Tát nói:

- Hãy khoan, để ta xem lành dữ thế nào đã. Hành Giả nói:
- Không cần xem, chỉ có việc này là không lành thôi mà. Bồ Tát nói:
- Ta không xem cho nhà ngươi, mà xem lành dữ của Đường
Tăng cơ.

Đoạn ngồi ngay ngắn trên tòa sen mở lòng ra ba cõi, mắt tuệ nhìn ra khắp vũ trụ, trong giây lát lại mở mồm nói ngay:

- Ngộ Không, sư phụ nhà ngươi trong khoảnh khắc nữa sẽ gặp tai nạn ghê gớm, chẳng bao lâu sẽ phải tìm đến nhà ngươi. Nhà ngươi cứ ở đây, để ta nói với Đường Tăng lại cùng con đi lấy kinh cho thành chính quả.

Tôn Đại Thánh đành vâng lời, không dám nóng nảy, đứng hầu bên tòa sen. Chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện Đường Tăng từ lúc đuổi Hành Giả, bảo Bát Giới dắt ngựa, Sa Tăng gánh hành lý, cùng con ngựa là bốn, rảo bước sang phương Tây. Đi được chưa đầy năm mươi dặm, Tam
Tạng ghìm cương, nói:

- Các đồ đệ ơi, từ lúc canh năm rời thôn xóm, lại bị cái thằng Bật Mã Ôn làm bực mình thêm, nửa ngày trời đã đói lại càng đói, khát lại càng khát, ai đi xin ít cơm chay về cho ta ăn nào?

Bát Giới nói:

- Mời sư phụ tạm xuống ngựa, để con xem quanh đây, đâu có thôn xóm, đi xin ít cơm.

Tam Tạng nghe vậy, tụt xuống ngựa. Chú ngốc nhảy vút lên mây, đứng trên tầng không quan sát kỹ lưỡng, nhìn khắp núi non, tịnh không một bóng nhà, bèn hạ mây bước xuống, nói với Tam Tạng:

- Chẳng có chỗ nào để xin cơm đâu. Con nhìn khắp chẳng thấy bóng thôn xóm nào.

Tam Tạng nói:

- Không có cơm chay thì tìm cho ta ít nước uống đỡ khát cũng được.

Bát Giới nói:

- Để con đến con suối ở phía nam núi lấy nước mang về.

Sa Tăng lấy chiếc bát tộ ra đưa cho Bát Giới. Bát Giới cầm chiếc bát cưỡi mây bay đi. Tam Tạng ngồi xuống ven đường, chờ đợi hồi lâu chẳng thấy Bát Giới quay về, miệng khô, lưỡi đắng thật đáng thương. Có bài thơ làm chứng rằng:

Nuôi thần dưỡng khí gọi là tinh, Tán tụ xưa nay vẫn ở mình.
Tâm loạn thần hôn muôn bệnh nảy, Hình suy tinh bại đạo nguyên khuynh.
[250]
Ba hoa tàn lụi đành đau yếu,
Bốn đại tiêu điều uổng súc sinh.[251] Thổ mộc không công, kim thủy tuyệt, Biết thuở nào nên được pháp minh?
Sa Tăng đứng bên cạnh thấy Tam Tạng vừa đói vừa khát, mà Bát Giới thì đi lấy nước mãi chưa về, đành xếp hành lý cẩn thận, buộc con ngựa bạch chắc chắn, rồi nói:

- Sư phụ cứ yên tâm ngồi đây, để con đi giục anh ấy mang nước về.

Tam Tạng nuốt nước mắt chẳng nói năng gì, gật đầu bằng lòng. Sa Tăng vội vàng cưỡi đám mây lành, bay thẳng về phía nam ngọn núi.

Sư phụ ngồi một mình, cảm thấy rất đỗi cay cực, sốt ruột. Đang lúc bồn chồn buồn bực, bỗng nghe một tiếng kêu vang, Tam Tạng sợ quá nghiêng người xem xét, thì ra là Tôn Hành Giả đang quỳ ở vệ đường, hai tay bưng chiếc chén sành, nói:

- Thưa sư phụ, nếu không có lão Tôn thì sư phụ ngụm nước cũng không có mà uống. Chén nước mát lành đây, sư phụ uống đi cho đỡ khát, rồi con sẽ đi xin cơm chay.

Tam Tạng nói:

- Ta không thèm uống nước của nhà ngươi. Cho dù khát chết ngay ta cũng mặc cho số phận, không cần nhà ngươi. Nhà ngươi cút ngay đi!

Hành Giả nói:

- Không có con, sư phụ không sang phương Tây được đâu. Tam Tạng nói:
- Sang được hay không, không can gì đến nhà ngươi. Con khỉ khốn kiếp cứ lằng nhằng với ta làm gì!
Hành Giả kia liền trở mặt, nổi cơn giận dữ quát mắng Đường
Tăng:

- Tên đầu trọc khốn kiếp độc ác kia, khinh ta quá lắm!

Đoạn quẳng chiếc chén sành, vung gậy sắt, nhằm xương sống Tam Tạng nện một phát. Tam Tạng ngã lăn ra đất ngất lịm, chẳng nói được câu gì. Hành Giả kia nẫng luôn hai cái đẫy bằng mây không biết đi về phương nào mất hút.



Lại nói chuyện Bát Giới cầm chiếc bát, chạy xuống sườn núi, bỗng thấy trong thung lũng có một túp nhà tranh. Do lần trước Bát Giới nhìn, bị núi che khuất, nên không nhìn thấy, bây giờ đến gần mới nhận ra là nhà dân, bèn nghĩ thầm:

- Mình mặt mũi xấu xí thế này, chắc chắn làm họ sợ, thành ra nhọc lòng uổng công, cơm chẳng xin nổi … Cần phải khéo biến! Cần phải khéo biến mới được!

Chú ngốc bèn bấm quyết niệm chú, lắc mình đến bảy tám lần,
biến thành một hòa thượng ốm đói da vàng, miệng rên hừ hừ, lê đến trước cửa cất tiếng kêu:

- Các ngài ơi, trong bếp còn cơm thừa, ngoài đường có người đói… Bần tăng từ tận phương Đông sang phương Tây lấy kinh, sư phụ thì đang đói khát bên đường, trong nồi nhà ta còn cơm nguội cho xin một ít đỡ lòng.

Nguyên nhà này đàn ông đi làm đồng vắng cả, chỉ có hai người đàn bà ở nhà đang thổi cơm trưa, vừa dỡ cơm ra hai cái liễn to, sửa soạn mang ra đồng. Trong nồi vẫn còn ít cơm cháy chưa dỡ hết. Người đàn bà thấy nhà sư hình dung ốm yếu như vậy, lại nghe nói từ phương Đông sang phương Tây, chỉ lo là nhà sư đã hôn mê nói lảm nhảm, lỡ ngã lăn ra chết ở cửa nhà mình thì khốn, đành vội vàng vét ít cơm cháy, xới đầy một bát đưa cho Bát Giới. Chú ngốc cầm ngay lấy, hiện rõ nguyên hình, theo đường cũ về thẳng.

Đang đi, bỗng nghe có tiếng người gọi: “Bát Giới”. Bát Giới ngẩng đầu nhìn, thấy Sa Tăng đứng ở trên sườn núi gọi:

- Lại đây! Lại đây!

Đoạn lại đi xuống chân núi đón Bát Giới nói:

- Nước khe này trong mát thế kia không múc mà anh lại đi đâu?

Bát Giới cười, nói:

- Tôi tới đây thấy trong thung lũng có nhà dân, bèn tới đó xin được bát cơm nguội về đây.

Sa Tăng nói:

- Cơm cũng cần. Nhưng sư phụ đang khát khô cổ, sao không lấy nước về?

Bát Giới nói:
- Muốn nước thì có khó gì. Chú đưa vạt áo ra túm lấy chỗ cơm này, để tôi lấy bát đi múc nước.

Hai người hớn hở quay về bên vệ đường, thấy Tam Tạng nằm trên chỗ bụi rậm mặt úp xuống đất, con ngựa bạch thì tuột cương, lồng lộn hí vang, gánh hành lý thì chẳng thấy đâu cả. Bát Giới sợ quá, giậm chân vỗ ngực gào lên:

- Không cần nói! Không cần nói! Đúng là dư đảng của tụi cướp đuổi theo Tôn Hành Giả đến đánh chết sư phụ, cướp hành lý đấy mà!

Sa Tăng nói:

- Phải buộc con ngựa lại đã. Đoạn lại than thở:
- Làm thế nào bây giờ? Làm thế nào bây giờ? Thật là: Giữa đường đứt gánh, nửa chừng dở dang!

Lại cất tiếng gọi:

- Sư phụ ơi!

Rồi hai hàng nước mắt giàn giụa, khóc lóc thảm thiết. Bát Giới nói:
- Chú đừng khóc nữa, bây giờ cơ sự đã thế này, công việc lấy kinh đừng nói tới vội. Chú ngồi trông coi thi hài sư phụ, để tôi cưỡi ngựa đến phủ, châu, huyện, xa, thôn điếm nào đó, gom lấy hai lạng bạc mua cỗ quan tài về mai táng sư phụ, rồi sau đó hai chúng ta tìm đường kiếm ăn sinh sống.

Sa Tăng thực lòng không nỡ xa sư phụ, lật ngửa người sư phụ ra, lấy má mình áp vào má sư phụ, cất tiếng khóc:

- Sư phụ xấu số ơi!

Chợt thấy trong miệng, trong mũi sư phụ vẫn còn thở ra hơi ấm, ngực cũng vẫn còn nóng, bèn gọi:
- Bát Giới ơi, anh lại đây, sư phụ chưa chết đâu!

Chú ngốc bước lại đỡ lấy sư phụ. Sư phụ tỉnh lại thở khe khẽ một lúc rồi nói:

- Con khỉ già khốn kiếp ấy nó đánh chết ta! Bát Giới, Sa Tăng cùng hỏi:
- Con khỉ già nào?

Tam Tạng không nói, chỉ thở dài. Sau khi đòi nước, uống được mấy ngụm, sư phụ mới nói:

- Đồ đệ ạ, các con vừa đi xong, thì Ngộ Không lại quay về lằng nhằng với ta, nhưng ta dứt khoát chối từ, hắn bèn đánh ta một gậy, rồi cướp luôn cả chiếc tay nải bằng dạ xanh.

Bát Giới nghe xong, nghiến răng ken két, lửa giận bừng bừng nói:

- Con khỉ khốn kiếp quá quắt, dám vô lễ đến thế cơ à? Bèn bảo:
- Sa Tăng, chú hãy trông nom sư phụ để tôi đến tận nhà hắn đòi tay nải.

Sa Tăng nói:

- Anh hãy bớt giận, chúng ta hãy dìu sư phụ vào xóm dân trong thung lũng xin ít canh nóng, hâm nóng lại cơm đã xin hôm trước để sư phụ ăn cho đỡ mệt, rồi hãy tìm hắn sau.

Bát Giới nghe lời, đỡ sư phụ lên ngựa, đựng chút cơm nguội vào chiếc bát tộ, vào thẳng cổng ngôi nhà ban nãy. Trong nhà chỉ có một bà cụ ở nhà, thấy thầy trò Đường Tăng vào, vội vàng toan chạy trốn. Sa Tăng chắp tay nói:

-  Thưa  lão  mẫu,  chúng  tôi  người  nước  Đại  Đường  bên phương Đông, được nhà vua sai sang phương Tây. Sư phụ tôi hơi bị mệt, chúng tôi đến nhà ta đây xin lão mẫu ít canh nóng để
cho sư phụ tôi ăn chút cơm.

Bà cụ nói:

- Vừa rồi có một hòa thượng ốm yếu nói là từ tận phương Đông tới, tôi đã cho ít cơm, bây giờ lại còn phương Đông nào nữa. Nhà tôi đi vắng cả, xin mời sang nhà khác.

Tam Tạng nghe xong, vịn vào Bát Giới tụt xuống ngựa, nghiêng mình nói:

- Thưa cụ, đệ tử tôi có ba người tâm đầu ý hợp hộ vệ tôi sang chùa Đại Lôi Âm, nước Thiên Trúc bái Phật cầu kinh. Chỉ vì người đồ đệ cả của tôi tên gọi Tôn Ngộ Không, bản tính hung ác, không theo đạo thiện, bị tôi đuổi đi. Không ngờ hắn lại ngầm quay lại, nện vào lưng tôi một gậy, cướp mất cả y bát, hành lý. Bây giờ tôi muốn sai một đồ đệ đi tìm hắn đòi lại, nhưng giữa đường giữa chợ không tiện ngồi, nên tìm đến nhà cụ đây ngồi nghỉ nhờ một lát, khi nào lấy lại được hành lý là đi ngay, không dám ở lâu đâu ạ.

Bà cụ nói:

- Vừa rồi có một hòa thượng ốm yếu vàng bủng đến xin cơm đi rồi, cũng nói là ở phương Đông sang phương Tây. Vậy bây giờ là bọn khác à?

Bát Giới không nhịn được cười, nói:

- Chính tôi đây. Bởi vì tôi tai to mõm dài sợ người nhà ta sợ hãi, không chịu cho cơm, nên đành phải biến ra hình dạng như thế. Nếu lão mẫu không tin, thì chỗ cơm trong vạt áo chú em kia, chẳng phải cơm vớt nồi nhà lão mẫu là gì?

Bà cụ nhận ra đúng là cơm mình cho, lúc ấy mới không từ chối nữa, bằng lòng cho thầy trò ngồi lại, rồi đi đun một ấm trà nóng đưa cho Sa Tăng chan cơm, Sa Tăng chan vào bát cơm nguội đưa cho sư phụ. Sư phụ ăn vài miếng, lát sau định thần lại
hỏi:

- Ai đi lấy hành lý bây giờ? Bát Giới nói:
- Năm ngoái, hồi sư phụ đuổi anh ấy đi, con đã đi tìm anh ấy một lần, nên biết động Thủy Liêm, núi Hoa Quả. Để con đi! Để con đi!

Tam Tạng nói:

- Con không đi được. Con khỉ ấy với con không được hòa thuận. Vả lại con ăn nói thô lỗ, nói vài câu có gì thất thố, hắn lại đánh cho. Để Ngộ Tĩnh đi là hơn.

Sa Tăng bằng lòng, nói:

- Để con đi! Để con đi!

Tam Tạng dặn dò thêm Sa Tăng:

- Con đến đấy phải liệu tình thế. Nếu hắn bằng lòng trả lại hành lý, thì con cứ giả vờ cảm ơn nhận lấy. Bằng không, thì đừng có tranh chấp với hắn cứ đến thẳng Nam Hải gặp Bồ Tát, nói rõ chuyện cho người hay, mời người đến đòi hộ.

Sa Tăng nhất nhất vâng lời, đoạn quay sang nói với Bát Giới:

- Bây giờ em đi tìm hắn, muôn nghìn lần mong anh chớ có lơ đễnh, phải chăm sóc sư phụ thật chu đáo. Cũng không nên trêu ghẹo người trong nhà, e họ không cho cơm ăn. Em đi sẽ về ngay.

Bát Giới gật đầu, nói:

- Tôi biết rồi. Chú cứ đi đi! Tìm được hay không thì cũng về ngay, chớ có làm cái lối “bắt cá hai tay” xôi hỏng bỏng không nhé![252]

Sa Tăng bèn bấm quyết, nhảy vút lên mây, bay thẳng đến
Đông Thắng Thần Châu. Thật là:

Thân ở thần bay không giữ bỏ, Lò không lửa đỏ thuốc tồi ngay,
Hoàng Bà biệt chúa tìm Kim Lão,[253] [254]
Mộc Mẫu trông thầy dạ đắng cay.

Bao thuở quay về lần biệt ấy? Ngày nào trở lại chuyến đi này?
Ngũ hành sinh khắc tình không thuận,

[255]
Chỉ đợi Tâm Viên trở lại ngày.

Sa Tăng đi trên không trung mất ba ngày ba đêm mới tới Đông Dương đại hải, bỗng nghe tiếng sóng vỗ ầm ầm, bèn cúi đầu nhìn, thật là: ngất trời âm khí mây đen phủ, mờ mịt bể khơi ánh nhật che. Sa Tăng cũng chẳng có lòng nào ngắm cảnh, cứ nhằm ngọn núi tiên, vượt qua Doanh Châu, đi về hướng đông đến thẳng địa phận núi Hoa Quả. Lại cưỡi gió khơi, đạp thế nước một lúc lâu nữa, thì nhìn thấy ngọn núi cao lô nhô như kiếm dựng, vách núi đá dựng đứng tựa bình phong, bèn bước tới đầu núi, hạ mây theo đường xuống núi, tìm lối vào động Thủy Liêm. Sa Tăng bước tới gần xem xét, chỉ thấy khỉ yêu vô số đang hò reo ầm ĩ, bèn bước tới gần xem xét kỹ càng, thì hóa ra là Tôn Hành Giả ngồi ngất ngưởng trên một đài đá cao, hai tay cầm một tờ giấy, miệng đọc sang sảng:

“Hoàng đế họ Lý, vua nước Đại Đường ở phương Đông, trước xa giá, sắc mệnh cho Ngự đệ thánh tăng là Huyền Trang pháp sư sang chùa Đại Lôi Âm trên núi Sa Bà Linh Sơn nước Thiên Trúc bên phương Tây bái Phật tổ Như Lai, cầu chân kinh.

Trẫm do thân thể mắc bệnh, hồn chơi âm ty, may mắn tuổi thọ
còn dài, được vua Diêm Vương cho về dương thế. Trẫm bèn mở hội làm việc thiện, cho dựng đạo tràng cứu độ vong linh. Ơn nhờ Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn hiện rõ mình vàng, chỉ bảo cho biết phương Tây có Phật có kinh, độ cho u hồn siêu thoát. Vậy trẫm đặc sai pháp sư Huyền Trang lặn lội nghìn non, hỏi tìm kinh kệ. Thảng hoặc có đi qua các nước phương Tây, mong rằng không dứt thiện duyên, chiểu theo tờ điệp văn này cho thông hành.

Năm thứ mười ba niên hiệu Trinh Quán nhà Đại Đường, mùa thu ngày lành. Ngự tiền văn điệp. Từ lúc rời khỏi Đại Đường đã đi qua nhiều nước. Dọc đường thu nhận được người đồ đệ cả là Tôn Ngộ Không Hành Giả, đồ đệ hai là Trư Ngộ Năng Bát Giới, đồ đệ ba là Sa Ngộ Tĩnh Hòa Thượng”.

Tôn Hành Giả kia lại đọc từ đầu một lượt nữa. Sa Tăng nghe biết đó là tờ điệp văn thông hành, không nén được, bước lại gần lớn tiếng nói:

- Sư huynh ơi, đấy là tờ điệp văn của sư phụ, anh mang ra đọc làm gì?

Hành Giả nghe nói, vội vàng quay đầu lại, nhưng không nhận ra là Sa Tăng, bèn quát:

- Bắt lấy nó! Bắt lấy nó!

Lũ khỉ nhất loại vây chặt, bắt lôi xềnh xệch Sa Tăng đến gần quát hỏi:

- Nhà ngươi là ai mà dám tiện thiện vào sơn động của ta?

Sa Tăng thấy Hành Giả trở mặt, không thèm nhận nhau, đành bước tới cúi chào, nói:

- Thưa sư huynh, vừa rồi sư phụ quả có nóng tính lầm trách cứ sư huynh, có đọc chú mấy lần rồi đuổi sư huynh về nhà. Một là tại chúng em cũng chưa hề khuyên giải, hai là sư phụ đói khát
bảo chúng em đi xin nước xin cơm. Không ngờ sư huynh có lòng tốt quay trở lại, trách sư phụ giữ phép không lưu mình, đánh sư phụ chết ngất lăn ra đất, lại cướp cả hành lý mang đi. Chúng em đã cứu sống sư phụ và đến đây xin với anh. Mong anh nếu không giận sư phụ, còn nhớ tới công ơn sư phụ giải thoát, thì cùng em mang hành lý trở về với sư phụ, cùng sang phương Tây cho tròn chính quả. Nếu oán hận còn sâu, không chịu cùng đi, thì muôn ngàn lần mong anh cho em xin lại tay nải. Anh ở lại núi sâu vãn cảnh biển dâu, cũng là hai bề vẹn cả.

Hành Giả nghe xong, cười nhạt nói:

- Hiền đệ ạ, lời bàn ấy không hợp ý anh. Anh đánh Đường Tăng cướp hành lý, không phải là anh không muốn sang phương Tây, và cũng chẳng phải rằng anh thích sống ở đây. Vừa rồi anh đã đọc thuộc lầu tờ điệp văn, rồi tự anh sẽ sang phương Tây bái Phật cầu kinh mang về phương Đông. Như vậy là chỉ một mình anh có công, người Nam Thiệm Bộ Châu sẽ lập anh làm tổ, lưu danh muôn đời.

Sa Tăng cười, nói:

- Sư huynh nói sai rồi. Xưa nay làm gì có ai nói “Tôn Hành Giả đi lấy kinh”. Đức Phật tổ Như Lai viết ra ba tạng chân kinh, rồi sai đức Quan Âm Bồ Tát sang phương Đông tìm người đi lấy kinh, lại muốn chúng ta lặn lội nghìn non, hỏi tìm các nước, hộ vệ người đi lấy kinh cơ mà. Bồ Tát chẳng từng nói: “Người đi lấy kinh là môn sinh của Như Lai, hiệu là Kim Thiền trưởng lão. Chỉ vì người không nghe Phật tổ giảng kinh, nên bị đày ra khỏi Linh Sơn, thác sinh chốn Đông Thổ, bảo cho chính quả Tây phương, sửa lại đạo lớn, chịu đựng biết bao ma chướng dọc đường, giải thoát cho ba chúng ta để đi hộ pháp cho người. Sư huynh mà không đi với Đường Tăng, thì Phật tổ nào truyền kinh cho sư huynh, chẳng hóa ra uổng phí cả mọi tính toán sao?
Hành Giả nói:

- Hiền đệ ạ, chú còn ngu muội lắm! Chỉ biết một mà chưa biết hai. Cứ như chú nói, chú có Đường Tăng, cùng với tôi đi hộ vệ, thì chẳng lẽ tôi không có Đường Tăng chắc? Tôi sẽ chọn một vị chân tăng đắc đạo ngay tại đây rồi tự đi lấy kinh. Một mình lão Tôn hộ trì, lại không được hay sao? Tôi cũng đã chọn ngày mai lên đường rồi. Nếu chú không tin, để tôi mời sư phụ ra cho mà xem.

Bèn ra lệnh:

- Bọn nhỏ, mời sư phụ ra đây!

Bọn tiểu yêu chạy vào dắt một con ngựa bạch, mời cả một Đường Tam Tạng có cả Bát Giới đi theo gánh hành lý, Sa Tăng cầm tích trượng.

Sa Tăng thấy vậy, nổi giận nói:

- Lão Sa này đi không thay tên, ngồi không đổi họ, lẽ đâu lại có một Sa Hòa thượng nữa? Chớ có vô lễ! Nếm một trượng của ta đây!



Đoạn Sa Tăng hai tay vác bảo trượng hàng yêu nện một phát trúng đầu Sa Tăng giả. Tên này chết ngay, té ra là một con khỉ thành tinh, Hành Giả kia giận dữ, vung gậy sắt, chỉ huy đàn khỉ vây chặt lấy Sa Tăng, Sa Tăng tả xung hữu đột, đánh ra ngoài cửa động, nhảy vút lên mây chạy trốn, nói:
- Con khỉ khốn kiếp đểu giả kia, ta sẽ đi mách với Bồ Tát! Hành Giả thấy Sa Tăng đánh chết một tiểu yêu, và mình đã
đánh đuổi được Sa Tăng đi rồi bèn không đuổi theo nữa, quay
về động sai bọn tiểu yêu kéo xác con khỉ chết ra một nơi, lột da, lấy thịt đem rán, lại sai mang rượu dừa, rượu nho cùng đàn khỉ ăn uống, sau đó hắn chọn một con khỉ khác biết biến hóa, biến ra  một  Sa  Hòa  Thượng,  dạy  bảo  lại  từ  đầu,  sửa  soạn  sang phương Tây. Chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện Sa Tăng cưỡi mây rời Đông Hải, đi suốt ngày đêm đến Nam Hải. Đang đi, bỗng nhìn thấy núi Lạc Già trước
mặt, bèn hạ thấp đám mây dừng lại quan sát. Quả là một nơi tuyệt đẹp, chỉ thấy:

Bao cả trời cao, Gồm luôn đất rộng.
Hội trăm sông chỗ tinh tú tắm mình, Tụ muôn suối nơi gió trăng lay động. Cá côn hóa lúc triều dâng cuồn cuộn,
Con ngao bơi khi sóng dậy mênh mang. Bắc Hải, Tây Hải nguồn nước thông sang, Sóng nước chan hòa Đông Dương đại hải. Bốn biển thông nhau cùng đưa mạch giới, Non tiên thấp thoáng bóng tiên cung.
Cảnh Bồng Lai đừng vội hài lòng, Hãy xem động mây Phổ Đà đây đã. Cảnh đẹp quá!
Ráng đẹp đầu non vờn nguyên khí, Mây lành chân núi lượn vầng trăng.
Trong rừng trúc tía, khổng tước tung tăng, Trên ngọn dương xanh, chim thiêng ca hót.
Cỏ ngọc hoa ngà bốn mùa tươi tốt, Cây báu sen vàng suốt tháng đơm bông. Hạc trắng véo von chót đỉnh non tùng,
Loan xanh thánh thót bay quanh cung điện.

Cá bơi đến luyện tu chân tính, Vượt triều dâng tìm chốn nghe kinh.
Sa Tăng thong thả vừa bước, vừa ngắm cảnh núi Lạc Già, chợt thấy Mộc Soa bước tới trước mặt chào hỏi:

- Sa Ngộ Tĩnh không hộ vệ Đường Tăng đi lấy kinh, lại đến đây có việc gì?

Sa Tăng chào lại xong, nói:

- Có việc cần gặp Bồ Tát, phiền ngài dẫn vào hộ với.

Mộc Soa biết là đến tìm Hành Giả, nhưng cũng không nhắc đến, bèn vào trước nói với Bồ Tát:

- Bên ngoài có đồ đệ út của Đường Tăng là Sa Ngộ Tĩnh muốn gặp.

Tôn Hành Giả đứng bên đài nghe thấy nói như vậy bèn cười nói:

- Đúng là Đường Tăng gặp nạn, nên Sa Tăng mới đến mời Bồ
Tát đây.

Bồ Tát lập tức sai Mộc Soa ra ngoài cửa dẫn vào, Sa Tăng sụp xuống lạy. Lạy xong, bèn ngẩng lên định kể lại mọi chuyện vừa xẩy ra, bỗng nhìn thấy Tôn Hành Giả đứng bên cạnh, liền chẳng nói năng, rút luôn bảo trượng hàng yêu nện thẳng vào mặt Hành Giả.

Hành Giả cũng không đánh lại, chỉ nghiêng người né tránh. Sa Tăng luôn miệng chửi ầm ĩ:

- Con khỉ khốn kiếp độc ác phản bội kia! Nhà ngươi lại còn đến đây che giấu Bồ Tát hả?

Bồ Tát quát lên:

- Ngộ Tĩnh đứng im nào! Có việc gì nói cho ta nghe!

Sa Tăng bèn thu bảo trượng, lạy Bồ Tát hai lạy, nói với Bồ
Tát giọng vẫn bừng bừng:

- Con khỉ ấy dọc đường hành hung không biết bao nhiêu lần.
Mấy hôm trước, hắn đánh chết hai tên cướp đòi tiền mãi lộ ở bên sườn núi, sư phụ mắng quở hắn. Không ngờ buổi tối hôm ấy khi ngủ nhờ trong nhà một tên cướp, hắn lại cạn tầu ráo máng đánh chết cả bọn cướp, xách cả một cái thủ cấp máu me đầm đìa đến giơ lên cho sư phụ xem. Sư phụ sợ quá đến nỗi ngã ngựa, sau đó mắng hắn mấy câu, đuổi hắn đi. Khi chia tay rồi, sư phụ quá đói khát, sai Bát Giới đi tìm nước. Bát Giới đi mãi không về, sư phụ lại sai con đi tìm Bát Giới. Không ngờ Tôn Hành Giả thấy hai chúng con không ở đấy, bèn quay lại đánh sư phụ một gậy sắt, cướp cả hai chiếc tay nải bằng dạ xanh. Chúng con quay về, cứu chữa sư phụ tỉnh lại. Sau đó sư phụ sai con tới động Thủy Liêm tìm hắn đòi lại tay nải. Không ngờ hắn trở mặt, không thèm nhận con, lôi điệp văn thông hành ra đọc đi đọc lại. Con hỏi hắn đọc làm gì, hắn nói không thèm hộ vệ Đường Tăng, tự một mình hắn sang phương Tây lấy kinh mang về phương Đông, coi đó là công quả của mình hắn, người ta phải dựng hắn làm tổ, lưu danh muôn đời. Lúc ấy con nói: “Không có Đường Tăng thì ai truyền kinh cho anh?”. Hắn nói là hắn đã chọn được một vị chân tăng đắc đạo. Khi hắn mời ra, quả là có một con ngựa bạch, một Đường Tăng, theo sau có cả Bát Giới, Sa Tăng. Con nói: “Ta chính là Sa Hòa Thượng, làm gì có một Sa Hòa Thượng nào nữa?”, và con xông lên đập cho hắn một bảo trượng chết tươi, té ra là một con khỉ thành tinh. Hành Giả liền xua quân vây bắt con, thế là con phải đến đây tâu báo cho Bồ Tát biết. Không ngờ hắn có phép “cân đẩu vân” bay tới đây trước, và con chưa biết hắn đã nói trí trá những gì để che giấu Bồ Tát nữa.

Bồ Tát nói:

- Ngộ Tĩnh, không được vu vạ cho người. Ngộ Không đến đây đã được bốn hôm rồi, ta chưa từng thả cho hắn về một phút nào, vậy làm gì có chuyện hắn đi mời một Đường Tăng khác, có
ý tự đi lấy kinh một mình?

Sa Tăng nói:

- Hiện nay ở động Thủy Liêm có một Tôn Hành Giả thật, con đâu dám nói dối?

Bồ Tát nói:

- Đã vậy thì nhà ngươi chớ nóng nẩy, ta sẽ bảo Ngộ Không cùng đi với nhà ngươi về núi Hoa Quả xem sao. Sự thật thì khó dệt, giả dối sẽ dễ trừ, cứ đến đó tự khắc sẽ rõ.

Đại Thánh nghe lời, lập tức cùng Sa Tăng từ biệt Bồ Tát. Chuyến đi này, đến nơi sẽ:

Núi Hoa Quả phân rõ trắng đen, Động Thủy Liêm bày ra thật giả.
Cuối cùng không biết phân biệt thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ NĂM MƯƠI TÁM Nhị tâm làm loạn càn khôn rộng Một thể khó tu tịch diệt chân
Hành Giả và Sa Tăng vái chào từ biệt Bồ Tát, nhảy vút lên
hai đám mây lành rời khỏi Nam Hải. Do phép “cân đẩu vân” của Hành Giả đi nhanh, phép tiên vân của Sa Hòa Thượng đi chậm, Hành Giả muốn vượt đi trước, Sa Tăng ngăn lại, nói:

- Đại ca đừng giở trò giấu đầu hở đuôi, định đi trước để sắp đặt ổn thỏa phỏng? Phải đợi tiểu đệ cùng đi mới được.

Đại Thánh vốn là người có lương tâm, còn Sa Tăng lại có ý nghi ngờ. Thế là hai người đành cùng đi. Một lát sau, họ đã nhìn thấy núi Hoa Quả, cả hai hạ mây bước xuống bên ngoài cửa động xem xét, quả nhiên nhìn thấy một Hành Giả ngồi ngất ngưởng trên đài cao đang uống rượu vui vẻ với lũ khỉ, hình dạng giống hệt Đại Thánh: cũng tóc hung thắt vòng vàng, mắt vàng ngươi lửa, mình mặc một chiếc áo ngắn bằng vải bông, dưới mặc một chiếc quần da hổ, tay cầm gậy sắt nạm vàng, chân cũng xỏ một đôi giày da hươu, mặt cũng đầy lông lá, mồm như ông thiên lôi, má hóp khác Thổ tinh, trán giô và tai mỏng, răng nhọn chìa ra ngoài.

Đại Thánh nổi giận, gạt Sa Hòa Thượng ra, rút gậy sắt xông tới quát mắng:

- Nhà ngươi là hạng yêu quái nào mà dám biến ra hình dạng ta, cướp con cháu ta, chiếm động tiên của ta để tác oai, tác quái như vậy?

Hành Giả kia chẳng thèm trả lời, múa ngay gậy sắt nghênh
đón. Hai Hành Giả đứng gần nhau, không sao phân biệt được thật giả. Trận đánh thật dữ dội:

Hai gậy sắt, hai Hầu vương

Một phen đối địch hai đường cùng hăng.

Cùng là hộ vệ thánh tăng,

Cùng lập công trạng, tiếng tăm luu truyền.

Hành Giả thật theo đạo Thiền,

Hành Giả giả chẳng chính chuyên giúp thầy.

Hai người biến hoa kỳ tài,

Thần thông võ nghệ hai người đều quen.

Một người tiên thánh hỗn nguyên, Một người yêu quái ở miền nhân gian. Người này gậy sắt nạm vàng,
Kẻ kia cũng gậy ngang hàng với nhau.

Hai bên quyết liệt hồi lâu,

Ai thua ai thắng biết đâu phân rành.

Trước còn cửa động giao tranh,

Lát sau ngang dọc tung hoành tầng không.



Hai người bay lên mây, nhảy vút lên tận những đám mây trên chín tầng trời đánh nhau. Sa Tăng đứng bên cạnh không dám ra tay, bởi thấy hai người đánh lộn nhau không sao phân biệt được thật giả, muốn vung bảo trượng xông vào đánh giúp, nhưng sợ đánh lầm phải Hành Giả thật. Đứng một lúc lâu, Sa Tăng bèn tung người nhảy xuống sườn núi, rút bảo trượng hàng yêu ra đánh thốc vào cửa động Thủy Liêm, bọn yêu quái sợ chạy tán loạn. Sa Tăng bèn đạp đổ bàn ghế, đập nát vụn các dụng cụ đựng thức ăn rượu thịt, rồi đi tìm hành lý của mình, nhưng tìm mãi không thấy. Nguyên động Thủy Liêm là một thác nước bay xuống, xa trông tựa bức rèm bằng vải trắng, gần thì là một mạch nước, nên mới gọi là động Thủy Liêm, Sa Tăng không biết đường vào động, nên mới không tìm thấy, bèn lại nhảy lên không trung, đuổi theo tới tận những đám mây ở chín tầng trời, tay múa tít bảo trượng, nhưng cũng không dám xông vào đánh. Đại Thánh nói:
- Sa Tăng, chú không đánh giúp được thì về chỗ sư phụ, nói rằng bọn ta như thế như thế, để lão Tôn đánh nhau với yêu quái đến tận núi Lạc Già ở Nam Hải, nhờ Bồ Tát phân biệt rõ thật giả.

Hành Giả này nói xong, Hành Giả kia nói cũng hệt như vậy. Sa Tăng thấy hai người hình dạng, giọng nói giống hệt nhau, không sao phân biệt rõ trắng đen, đành vâng lời, chuyển mây về thẳng chỗ Đường Tăng. Chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện hai Hành Giả kia vừa đi vừa đánh kéo nhau tới núi Lạc Già đánh nhau, chửi nhau loạn xị, ầm ĩ một hồi làm kinh động các chư thiên hộ pháp. Lập tức chư thiên vào ngay động Triều Âm cấp báo:

- Thưa Bồ tát, quả thật có hai Tôn Ngộ Không đánh nhau tới tận đây.

Bồ Tát rời tòa sen cùng Mộc Soa hành giả, Thiện Tài đồng tử và Long nữ bước ra ngoài cửa quát:

- Nghiệt súc kia chạy đi đâu?

Cả hai người túm lấy nhau bước tới, nói:

- Thưa Bồ Tát, tên này giống hệt đệ tử, con đánh hắn từ động Thủy Liêm được một hồi lâu không phân biệt thắng bại, Sa Ngộ Tĩnh người trần tăm tối không phân biệt nổi, có sức cũng chẳng giúp nổi, con đành bảo hắn quay lại đường sang phương Tây gặp sư phụ. Còn con đánh nhau với hắn, kéo hắn tới núi báu này, nhờ tuệ nhãn của Bồ Tát phân biệt thật giả, biện minh chính tà giúp đệ tử.

Hành Giả này nói xong, Hành Giả kia cũng nói hệt như thế. Các vị người trời và Bồ Tát xem xét hồi lâu cũng không sao nhận ra được. Bồ Tát nói:

- Buông tay nhau ra, đứng sang hai bên để ta xem lại.
Hai Hành Giả liền buông tay nhau ra, đứng sang hai bên. Hành Giả này nói:
- Con là thật! Hành Giả kia nói:
- Hắn là giả!

Bồ Tát gọi Mộc Soa và Thiện Tài tới thì thầm dặn dò:

- Các con mỗi người giữ một đứa, để ta khẽ niệm chú “khẩn cô nhi”, người nào kêu đau là Hành Giả thật, người nào không đau là giả.

Hai người bèn giữ chặt lấy hai Hành Giả. Bồ Tát khẽ niệm chú, cả hai người đều kêu đau, đều ôm đầu lăn lộn trên mặt đất kêu la:

- Đừng niệm nữa! Đừng niệm nữa!

Bồ Tát ngừng niệm, hai người lại túm lấy nhau tranh cãi ầm ĩ. Bồ Tát chẳng biết làm cách nào, bèn ra lệnh cho các người trời, Mộc Soa xông vào giúp sức. Các vị thần lại sợ đánh trúng Hành Giả thật, nên không dám ra tay. Bồ Tát cất tiếng gọi:

- Tôn Ngộ Không!

Cả hai cùng trả lời. Bồ Tát nói:

- Trước kia nhà ngươi khi được phong chức Bật Mã Ôn, đại náo thiên cung, tất thẩy thần tướng đều biết nhà ngươi, bây giờ nhà ngươi lên thượng giới mà nhờ họ phân giải.

Đại Thánh này tạ ơn. Hành Giả kia cũng tạ ơn.

Hai người giằng co, luôn miệng cãi cọ, kéo thẳng đến bên ngoài cửa Nam Thiên. Quảng Mục thiên vương sợ quá dẫn bốn đại thiên tướng Mã, Triệu, Ôn, Quan, cùng các vị thần lớn nhỏ giữ cửa, ai nấy lăm lăm binh khí ngăn lại, nói:
- Các ngài đi đâu! Đây không phải là nơi cãi nhau! Đại Thánh nói:
- Tôi hộ vệ Đường Tăng sang phương Tây lấy kinh, dọc đường có đánh chết một toán cướp, Tam Tạng bèn đuổi tôi đi, tôi bèn đến thẳng núi Phổ Đà mách với Quan Âm bồ tát. Không ngờ yêu quái này biến ra hình dáng tôi từ bao giờ, đánh ngất Đường Tăng, cướp cả hành lý. Khi Sa Tăng đến núi Hoa quả đòi hành lý, đã thấy yêu quái này chiếm giữ sào huyệt của tôi. Sau đó Sa Tăng đến núi Phổ Đà cầu với Bồ tát, lại thấy tôi đứng hầu bên tòa sen, Sa Tăng bèn cho tôi là dùng phép “cân đẩu vân” bay đến núi Phổ đà trước để che giấu Bồ tát. Bồ Tát là người sáng suốt ngay thẳng không nghe lời Sa Tăng, sai tôi cùng đi với hắn tới núi Hoa Quả xem sao. Quả thật yêu quái này giống lão Tôn như hệt. Tôi bèn đánh nhau với nó từ động Thủy Liêm cho tới núi Lạc Già, rồi cùng vào gặp Bồ Tát. Bồ Tát cũng chịu không nhận ra được. Vì vậy tôi mới đánh nhau với hắn lên tận đây, phiền tới nhân lực của các vị người trời giúp tôi phân biệt thật giả.

Đại Thánh nói xong, Hành Giả kia cũng nói lại hệt như vậy. Các thiên thần xem xét hồi lâu, cũng không sao phân biệt nổi. Hai Hành Giả đành quát to:

- Các ngài đã không nhận ra thì dẹp ra để chúng tôi vào gặp
Thượng Đế.

Các vị thần giữ không nổi, đành mở cửa trời, để hai người vào thẳng điện Linh Tiêu. Mã nguyên soái cùng bốn thiên sư Trương, Cát, Hứa, Khâu tâu với Thượng Đế:

- Dưới hạ giới có hai Tôn Ngộ Không giống hệt nhau, đánh nhau lên tận cửa trời, muốn xin vào yết kiến.

Vừa  dứt  lời  đã  thấy  hai  người  cãi  nhau  ầm  ĩ  bước  vào. Thượng Đế sợ quá, bước xuống bảo điện nói:
- Hai người kia có việc gì mà dám tự tiện xông vào làm ầm ĩ cả thiên cung, om xòm nơi trẫm ngự, định tìm cái chết hả?

Đại Thánh nói:

- Vạn tuế! Vạn tuế! Lâu nay thần quy y theo đạo Sa Môn, đâu dám cả gan nói dối bề trên. Chỉ tại con yêu quái này biến ra giống hệt hình dạng thần…

Cứ thế, cứ thế, Hành Giả kể hết một lượt mọi chuyện:

-…Vậy mong Thượng Đế phân biệt thật giả giúp thần.

Hành Giả kia cũng nói giống y như vậy. Thượng Đế lập tức hạ lệnh cho tuyên gọi Thác Tháp Lý Thiên Vương vào, bảo:

- Mang ngay kính chiếu yêu ra soi, xem ai giả ai thật. Giả thì chết ngay, để lại Hành Giả thật!

Thiên Vương lập tức lấy kính chiếu yêu ra, mời Thượng Đế và các vị thần cùng xem. Trong gương thấy bóng cả hai Tôn Hành Giả, từ vòng vàng kim cô, đến quần áo, lông tóc giống nhau như đúc. Thượng Đế cũng chịu không phân biệt nổi, đánh đuổi cả hai ra khỏi điện.

Đại Thánh khà khà cười nhạt. Hành Giả kia cũng khà khà cười nhạt như thế. Cả hai lại túm đầu vặn cổ, đánh nhau kéo ra ngoài cửa trời, rồi hạ xuống con đường sang phương Tây, nói:

- Ta và nhà ngươi tới gặp sư phụ! Ta và nhà ngươi tới gặp sư phụ!

Lại nói chuyện Sa Tăng từ biệt hai người ở núi Hoa Quả, đi liền ba ngày ba đêm về tới xóm cũ, nói hết mọi chuyện với Đường Tăng. Đường Tăng lúc ấy mới hối hận nói:

- Lúc ấy ta ngỡ là Tôn Ngộ Không đánh ta một gậy, cướp mất hành lý. Có ngờ đâu Hành Giả ấy là do yêu quái biến ra!

Sa Tăng lại nói:
- Yêu quái còn biến ra một trưởng lão, một con ngựa bạch, một Bát Giới gánh hành lý, và biến ra một tên giống hệt con nữa. Con giận quá không kìm được phang một trượng chết tươi, hóa ra là một con khỉ đã thành tinh. Đàn khỉ sợ chạy tan cả. Con lại đến nói với Bồ Tát, Bồ Tát sai con và Tôn Hành Giả cùng đến núi Hoa Quả xem sao, quả thấy yêu quái kia quả giống hệt Tôn Hành Giả, con không dám đánh giúp, đành quay về với sư phụ.

Tam Tạng nghe xong, sợ hãi tái mặt. Bát Giới cười oang oang, nói:

- Đúng! Đúng! Thật ứng với lời bà cụ nhà ta đây. Cụ chẳng nói có mấy bọn đi lấy kinh. Họ chẳng phải là một bọn là gì!

Mọi người lớn bé trong nhà đều kéo tới hỏi thăm Sa Tăng:

- Ngài mấy hôm nay đi xin tiền lộ phí ở đâu đấy? Sa Tăng cười, nói:
- Tôi đến núi Hoa Quả ở Đông Thắng Thần Châu tìm sư huynh cả lấy lại hành lý, sau đó lại tới núi Phổ Đà ở Nam Hải yết kiến Quan Âm Bồ Tát, rồi lại tới núi Hoa Quả một lần nữa, sau đó mới quay về đây.

Bà già lại hỏi:

- Cả đi cả về độ bao nhiêu dặm đường? Sa Tăng đáp:
- Khoảng hơn hai mươi vạn dặm. Bà già nói:
- Cha mẹ ơi, mới có vài hôm mà đi nhiều như thế! Họa chăng là cưỡi mây thì mới nhanh được như vậy!

Bát Giới nói:

- Không cưỡi mây thì vượt biển sao được!
Sa Tăng nói:

- Chúng tôi đâu có phải đi bộ. Còn như sư huynh cả tôi ấy à, đi về như thế chỉ mất độ một hai ngày thôi.

Cả nhà nghe vậy đều cho là thần tiên. Bát Giới nói:

- Chúng tôi không phải là thần tiên. Thần tiên chỉ là hạng con cháu của chúng tôi.

Đang trò chuyện, bỗng nghe có tiếng cãi cọ ồn ào trên không trung. Cả nhà sợ quá chạy ra xem, thì ra là hai Hành Giả đánh nhau kéo đến. Bát Giới thấy vậy ngứa tay chịu không nổi, nói:

- Để tôi đi nhận mặt cho.

Chú ngốc bèn tung người nhảy vút lên không, lớn tiếng nói:

- Sư huynh đừng cãi lộn nữa, có lão Trư đến đây! Hai Hành Giả cùng đồng thanh trả lời:
- Chú tới đây đánh yêu quái! Tới đây đánh yêu quái! Cả nhà vừa mừng, vừa sợ nói:
- Hóa ra là mấy vị La Hán đằng vân giá vũ nghỉ ở nhà ta. Nhiều khi muốn phát nguyện cúng dâng các nhà sư, mà cũng chẳng được cúng dâng cho những người tốt như thế này.

Bèn từ nước uống cơm ăn, mọi thứ đều cúng dâng nhiều hơn. Họ lại nói:

- Hai ngài Hành Giả đánh nhau, chỉ sợ gây chuyện trời long đất lở, làm hại cho vùng này mất.

Tam Tạng thấy bà cụ trước mặt thì mừng, sau lưng lại sợ, bèn nói:

- Cụ cứ yên tâm, chớ có lo phiền than thở, bần tăng sẽ thu phục đồ đệ, bỏ ác theo thiện, họ sẽ cảm tạ cụ.

Bà cụ đáp lại rối rít:
- Không dám! Không dám! Sa Tăng nói:
- Xin cụ đừng nói nữa và sư phụ cứ ngồi ở đây để hai anh em con mỗi người giữ lấy một Hành Giả đưa họ tới trước mặt sư phụ. Sau đó sư phụ sẽ niệm chú, ai đau đớn thì người đó là thật, không đau là giả.

Tam Tạng nói:

- Con nói chí phải.

Sa Tăng nhảy lên không trung nói:

- Hai anh hãy dừng tay để tôi đưa đến trước mặt sư phụ cho sư phụ phân biệt thật giả.

Đại Thánh này ngừng tay. Hành Giả kia cũng ngừng tay. Sa
Tăng túm lấy một người, nói:

- Anh hai cũng giữ lấy một người.

Hai Hành Giả bị giữ chặt, cùng Bát Giới, Sa Tăng hạ mây bước thẳng xuống cửa nhà tranh. Tam Tạng trông thấy bèn niệm thần chú “khẩn cô nhi”. Hai người cùng kêu la:

- Chúng con đã đánh nhau khốn khổ mà sư phụ lại còn niệm chú nữa à? Đừng niệm nữa! Đừng niệm nữa!

Tam Tạng lòng vốn từ bi bèn không niệm nữa, nhưng cũng không sao phân biệt được thật giả. Hai người giằng tay ra thoát, lại xông vào đánh nhau. Đại Thánh này nói:

- Các chú hộ vệ sư phụ để ta đánh hắn tới tận Diêm vương, nhờ họ phân biệt thật giả giùm.

Hành Giả kia cũng nói như vậy. Hai người cứ giằng co đánh nhau. Trong giây lát chẳng thấy bóng họ đâu cả.

Bát Giới nói:
- Sa Tăng này, chú đã tới động Thủy Liêm, trông thấy Bát
Giới giả gánh hành lý, sao không cướp lấy hành lý mang về?

Sa Tăng nói:

- Yêu quái thấy em vung bảo trượng đánh chết Sa Tăng giả của hắn, hắn bèn dẫn quân vây chặt em lại định bắt sống, em phải liều chết mới chạy thoát. Khi kể chuyện với Bồ Tát xong, em cùng Hành Giả quay lại cửa động. Hai người mãi đánh nhau trên tầng không, em nhảy xuống đạp đổ ghế đá, đánh bạt lũ tiểu yêu, chỉ thấy một dải thác chảy xuống như suối bay, chẳng thấy cửa động ở chỗ nào, không sao tìm được hành lý, thế là em đành phải quay về gặp sư phụ.

Bát Giới nói:

- Chú không hiểu đấy thôi. Trước kia khi tôi đi mời anh ấy, lúc đầu tôi đứng nói chuyện với anh ấy ngoài cửa động. Sau đó anh ấy bị tôi thuyết phục bèn nhảy xuống, trở vào động thay quần áo. Tôi thấy anh ấy nhảy xuống nước. Thác nước ấy chính là cửa động đấy. Chắc là yêu quái giấu hành lý của ta trong đó.

Tam Tạng nói:

- Con đã biết cửa, nhân dịp hắn không có nhà, con đến ngay động ấy lấy hành lý về để chúng ta còn sang phương Tây. Hắn có về, ta cũng không dùng hắn nữa.

Bát Giới nói:

- Vâng, con xin đi. Sa Tăng nói:
- Anh hai, ngoài cửa động còn có hàng ngàn con khỉ, một mình anh e không đánh nổi, lại hóa công toi.

Bát Giới cười nói:

- Không sợ! Không sợ!
Bèn mở cửa đi ra, nhảy vút lên mây, thẳng tới núi Hoa Quả tìm hành lý. Chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện hai Hành Giả đánh nhau ầm ĩ, kéo nhau tới tận phía sau núi Bối Âm. Ma quỷ khắp núi sợ hãi run rẩy, lẩn trốn tất cả. Có con chạy về trước xộc vào trong cửa âm ty, lên thẳng bảo điện Sâm La cấp báo:

- Thưa đại vương, trên núi Bối Âm có hai Tề Thiên Đại
Thánh đang đánh nhau!

Tần Quảng Vương ở điện thứ nhất sợ quá vội truyền báo cho Sở Giang Vương ở điện thứ hai, Tống Đế vương ở điện thứ ba, Biện Thành vương ở điện thứ tư, Diêm La vương ở điện thứ năm, Bình Đẳng vương ở điện thứ sáu, Thái Sơn vương ở điện thứ bảy, Đô Thị vương ở điện thứ tám, Ngỗ Quan vương ở điện thứ chín và Chuyển Luân vương ở điện thứ mười. Điện nọ truyền điện kia, trong chớp mắt mười Diêm Vương tề tựu đông đủ. Lại sai người phi báo cho Địa Tạng Vương. Tất thẩy đều có mặt ở điện Sâm La điểm âm binh đợi bắt cả Hành Giả thật lẫn giả. Bỗng thấy gió bốc cuồn cuộn, mây thảm giăng giăng, hai Hành Giả vật lộn đánh nhau tới bên điện Sâm La.

Các vua âm ty bước tới gần, ngăn lại nói:

- Đại Thánh có việc gì mà làm ầm ĩ cõi u minh của ta? Đại Thánh này nói:
- Tôi hộ vệ Đường Tăng sang phương Tây lấy kinh, dọc đường vượt qua nước Tây Lương, đến một quả núi, có một toán cướp chặn đường ăn hiếp sư phục, bị lão Tôn đánh chết mấy thằng. Sư phụ trách cứ tôi, đuổi tôi đi. Tôi bèn tới Nam Hải nói với Bồ Tát. Không ngờ yêu quái này dám cả gan biến ra hình dạng tôi, đánh ngất sư phụ ngay ven đường, cướp luôn cả hành lý. Sư đệ tôi là Sa Tăng đến ngọn núi cũ của tôi đòi hành lý. Yêu quái giả này lại lập ra cả sư phụ định sang phương Tây lấy kinh.
Sa Tăng bèn trốn tới Nam Hải gặp Bồ Tát. Lúc ấy tôi cũng đang ở cạnh Người, Sa Tăng nói hết nguồn cơn. Bồ Tát lại sai tôi cùng Sa Tăng quay trở lại núi Hoa Quả xem sao. Quả nhiên là tên này chiếm sào huyệt của tôi. Tôi và hắn đến chỗ Bồ Tát phân giải. Nhưng hình dạng, giọng nói của hắn giống tôi quá, Bồ Tát cũng chịu không sao phân biệt được thật giả. Tôi lại cùng hắn đánh nhau, kéo lên tận thiên cung. Các vị thiên thần cũng chịu. Tôi lại kéo hắn về gặp sư phụ. Sư phụ niệm chú “khẩn cô nhi” để xem ai đau. Hắn cũng đau như tôi. Vì vậy, tôi phải kéo hắn xuống đánh nhau làm ầm ĩ cõi u minh, mong các vị Diêm vương kiểm tra sổ sinh tử giúp tôi, xem tên Hành Giả này xuất thân từ đâu, truy ngay hồn phách hắn, để đỡ phải lẫn lộn như vậy.

Yêu quái cũng nói lại hệt như thế. Các vua âm ty nghe xong, lập tức gọi viên phán quan giữ sổ sinh tử kiểm tra hết một lượt từ đầu chí cuối, nhưng không hề thấy tên một “Hành Giả giả” nào. Lại xem tới sổ các loài mao trùng, hơn một trăm ba mươi đều thuộc loài khỉ, từ ngày Tôn Ngộ Không còn trẻ đắc đạo, đại náo âm ty đã lấy bút gạch hết tên để thoát chết ra, còn trong số những loài khỉ phàm sau đó cũng không hề thấy có tên. Kiểm tra xong, phán quan lên điện tâu lại. Các vua âm ai nấy cầm hốt nói với Hành Giả:

- Thưa Đại Thánh, dưới cõi u minh không thấy có tên để kiểm tra, xin ngài trở về dương gian mà phân giải.

Đang nói chuyện, chợt có tiếng Địa Tạng Vương Bồ Tát nói:

- Hãy khoan! Hãy khoan! Để tôi sai con Đế Thính nghe rõ thật giả giúp cho.

Đế Thính vốn là một con thú núp dưới án xem kinh của Địa Tạng Bồ Tát. Khi nó nằm phục ở dưới đất, thì trong giây lát có thể soi rõ thiện ác, nghe rõ hiền ngu đối với tất cả các loài sâu bọ, loài có vẩy, loài lông mao, lông vũ, côn trùng, cho tới thiên
tiên, địa tiên, thần tiên, nhân tiên, quỷ tiên ở khắp núi sông xã tắc, đất phúc, động trời trong bốn đại bộ châu. Con thú ấy vâng lệnh Bồ Tát, bước vào trong sân điện Sâm La nằm phủ phục trên mặt đất. Một lát sau, nó ngẩng đầu nói với Địa Tạng:

- Tên yêu quái tuy có, nhưng không thể nói rõ ngay trước mặt, và cũng không đủ sức để bắt nó.

Địa Tạng hỏi:

- Nói ra ngay trước mặt nó thì làm sao? Con Đế Thính đáp:
- Nói ra ngay trước mặt, sợ yêu quái nổi xung, quấy phá bảo điện, cõi âm phủ không thể được yên.

Địa Tạng lại hỏi:

- Tại sao không đủ sức bắt? Đế Thính thưa:
- Yêu quái này thần thông chẳng kém gì Tôn Đại Thánh, quỷ thần cõi u minh có bao nhiêu pháp lực đâu, nên không thể bắt nổi.

Địa Tạng nói:

- Vậy thì làm thế nào diệt trừ được? Đế Thính nói:
- Phật pháp vô biên.

Địa Tạng nghe xong tỉnh ngộ ra ngay, bèn nói với Hành Giả:

- Hai người hình dáng giống hệt, thần thông ngang tài, muốn phân biệt phải đến chùa Lôi Âm, chỗ Thích Ca Như Lai mới rõ ràng được.

Hai Hành Giả cùng nói:

- Đúng lắm! Đúng lắm! Ta và nhà ngươi cùng sang phương
Tây, đến chỗ Phật tổ, nhờ ngài phân biệt giùm.

Mười vị Diêm vương tiễn chân hai Hành Giả, cảm tạ Địa Tạng, đoạn trở về cung Thủy Vân, sai quỷ sứ đóng cửa ải cõi u minh lại. Chuyện không nói nữa.
Hai Hành Giả bay trên mây đánh nhau sang tận Tây phương. Có bài thơ làm chứng rằng:

[256]
Người có nhị tâm ắt gặp tai,

Chân trời góc biển hẳn không sai. Bụng thèm ngôi báu tam công ấy, Lại muốn Kim Loan nhất phẩm đài.
Bắc chiến nam chinh không phút nghỉ, Đông ngăn tây chặn vẫn hoài hơi. Cửa Thiền phải học vô tâm quyết, Tĩnh dưỡng anh nhi kết thánh thai.
Hai người bay trên không trung giằng co lôi kéo, đánh nhau, kéo đến làm ầm ĩ tận bên ngoài bảo sái Lôi Âm núi Linh Thứu ở Tây phương. Lúc ấy, bốn vị đại Bồ Tát, tám vị Đại Kim Cương, năm trăm vị La Hán, ba nghìn vị Yết Đế, Tỳ Kheo ni, Tỳ Kheo tăng, Ưu Bà tắc, Ưu bà di và tất thảy các vị đại thành đều đến bên tòa sen báu lắng nghe Như Lai thuyết pháp. Như Lai đang giảng đến chỗ:

“Trong chỗ không có vẫn có, trong chỗ không không vẫn không. Trong chỗ không có sắc vẫn có sắc, trong chỗ không có không vẫn có không. Cái không phải là có vẫn là có, cái không phải là không vẫn là không. Cái không phải là sắc vẫn là sắc, cái không phải là không vẫn là không. Không chính là không, sắc chính là sắc. Sắc không phải là định sắc, sắc tức là không. Không không phải là định không, không tức là sắc. Biết cái
không không phải là không, biết cái sắc không phải là sắc, danh
[257]
được soi sáng mới đạt diệu âm        ”.

Mọi người đều cúi đầu quy y, truyền nhau tụng niệm. Lúc ấy Như Lai tung hoa trời bay ra lả tả phấp phới, rồi rời tòa sen báu, nói với mọi người rằng:

- Các ngài đều đã là nhất tâm cả rồi, xem nhị tâm tranh giành nhau đang đến kìa.

Mọi người ngẩng đầu nhìn, quả nhiên thấy hai Hành Giả đang kêu đất la trời, đánh nhau kéo đến tận thắng cảnh Lôi Âm.

Tám vị đại Kim Cương vội vàng bước tới, ngăn lại nói:

- Các ngươi định đi đâu? Đại Thánh này nói:
- Yêu quái này biến ra hệt hình dạng tôi, nên tôi muốn đến bên tòa sen, nhờ Như Lai phân biệt rõ hư thực.

Mấy vị Kim Cương ngăn không nổi, hai Hành Giả cãi cọ ầm ĩ xông đến tận bên tòa sen, quỳ xuống trước mặt Phật tổ, cúi lạy nói:

- Đệ tử hộ vệ Đường Tăng tới núi báu đây cầu lấy chân kinh, dọc đường tiêu trừ ma quái hao tổn không biết bao nhiêu tâm lực. Vừa rồi, đi tới giữa đường, gặp một toán cướp hành hung, quả thật đệ tử có hai lần đánh chết vài đứa, nên bị sư phụ quở trách đuổi đi, không cho cùng đến bái lạy mình vàng của Như Lai. Đệ tử không biết làm thế nào, đành sang Nam Hải kể lại với Quan Âm. Không ngờ tên yêu quái này biến ra thành người giống hệt đệ tử từ dáng người, giọng nói, đánh sư phụ chết ngất, lại cướp cả hành lý. Sư đệ là Ngộ Tĩnh tìm đến núi cũ của đệ tử, bị yêu quái này trí trá bịa đặt, lập ra một vị chân tăng đi lấy kinh. Ngộ Tĩnh trốn thoát được đến Nam Hải, lại đánh nhau kéo lên thượng giới, về gặp Đường Tăng, xuống tận âm phủ, nhưng
không ai phân biệt nổi. Hôm nay đệ tử mạo muội tới đây, muôn ngàn lần mong Phật tổ mở rộng cánh cửa phương tiện, rủ lòng thương xót từ bi, phân biệt rõ chính tà giúp đệ tử, ngõ hầu đệ tử hộ vệ được Đường Tăng, tự mình được bái lạy mình vàng, mang kinh sang phương Đông, mãi mãi hoàng dương đại giáo!



Mọi người nghe thấy hai người mở mồm nói một giọng giống hệt nhau nên cũng không sao phân biệt được. Chỉ có một mình Như Lai là biết rõ cả. Ngài đang định nói ra, bỗng nhìn thấy ở phía nam, nơi đám mây ngũ sắc, Quan Âm đang hạ xuống, bước tới lạy Phật tổ.

Phật tổ chắp tay nói:

- Quan Âm tôn giả, ngài xem hai Hành Giả này, ai thật ai giả? Bồ Tát nói:
- Vừa rồi họ có tới hoang sơn của đệ tử, đệ tử cũng không phân biệt nổi. Họ lại lên cả thượng giới, xuống cả âm phủ, cũng
không ai nhận ra. Vì vậy họ mới tới cầu với Như Lai, muôn ngàn lần mong Phật tổ phân giải giúp cho.

Như Lai cười nói:

- Các ngài pháp lực to lớn thật nhưng chỉ biết được mọi việc trong vòng trời, mà không biết hết các giống vật trong đó, và càng không biết rộng khắp các giống loài trong vòng trời.

Bồ Tát lại xin Phật tổ nói cho biết các giống loài trong vòng trời.

Như Lai nói:

- Trong khắp vòng trời có năm loại tiên: tiên trời, tiên đất, tiên thần, tiên người và tiên quỷ. Có năm loại trùng: loài khỏa trùng, loài có vẩy, loài tông mao, loài lông vũ và loài côn trùng. Yêu quái này không thuộc năm loại tiên: trời, đất, thần, người, quỷ; cũng không thuộc năm loại trùng: khỏa trùng, loài có vẩy, loài lông mao, loài lông vũ và côn trùng. Lại còn có bốn loài khỉ trà trộn ở đời không thuộc vào mười loài trên.

Bồ Tát nói:

- Xin hỏi Phật tổ bốn loài khỉ đó. Như Lai nói:
- Thứ nhất là loài khỉ có linh thông, giỏi biến hóa biết thiên thời địa lợi, đổi vật dời sao. Thứ hai là loài khỉ ngựa đỏ đít, hiểu âm dương, tinh nhân sự, giỏi xuất nhập, thoát chết sống lâu. Thứ ba là loài khỉ vượn tay dài cầm nắm cả mặt trời mặt trăng, thu nhỏ cả nghìn núi, phân biệt được dữ lành, đùa cợt cả trời đất. Thứ tư là loài di hầu sáu tai nghe hiểu âm thanh, xét thông lý lẽ, biết việc sau trước, muôn việc sáng thông. Bốn loài khỉ này không thuộc vào mười loài trên, nên không có tên trong mười loài đó. Ta xem ra thì Tôn Ngộ Không giả chính là loài di hầu sáu tai vậy. Con khỉ này đứng ở một nơi, biết được mọi việc nơi
ngoài nghìn dặm. Phàm khi người nói chuyện, nó cũng hiểu cả, cho nên nó nghe hiểu giọng nói, xét thông lý lẽ, biết việc trước sau, sáng thông vạn vật. Kẻ giống Ngộ Không thật từ hình dạng đến giọng nói kia chính là loài di hầu sáu tai ấy.

Con di hầu nghe Như Lai nói đúng bản tướng của mình, sợ quá run bần bật, vội vàng tung người nhảy đi định chạy trốn. Như Lai thấy vậy, lập tức hạ lệnh mọi người ra tay. Bốn vị Bồ Tát, tám vị Kim Cương, năm trăm vị La Hán, ba nghìn Yết Đế, Tỳ Kheo tăng, Tỳ Kheo ni, Ưu Bà tắc, Ưu Bà di, Quan Âm, Mộc Soa nhất tề vây chặt. Tôn Đại Thánh cũng định xông lên, Như Lai nói:

- Ngộ Không chớ động thủ, để ta bắt hộ cho.

Con di hầu sợ quá lông tóc dựng đứng, biết chừng khó thoát, vội vàng lắc mình một cái, biến thành một con ong mật, bay vút lên không, bị Như Lai tung ngay chính chiếc bát bằng vàng lên úp chụp, con ong rơi xuống. Mọi người không biết, cứ ngỡ con ong chạy thoát.

Như Lai cười, nói:

- Mọi người đừng nói nữa. Yêu quái chưa chạy thoát đâu, mà bị nhốt dưới chiếc bát úp kia kìa.

Mọi người bước cả lên, mở chiếc bát ra, quả nhiên thấy yêu quái đã hiện rõ bản tướng là một con di hầu sáu tai. Tôn Đại Thánh không kiềm chế nổi, vung gậy sắt nện một phát trúng đầu chết tươi. Đến nay giống này tuyệt chủng.

Như Lai thấy thế không nỡ, vội kêu:

- Thương thay! Thương thay! Đại Thánh nói:
- Như Lai không nên thương xót nó. Nó đã đánh ngất sư phụ con, cướp hành lý của con, cứ theo luật mà xử thì tội cướp của
giết người giữa ban ngày của nó cũng đáng xử chém rồi.

Như Lai nói:

- Nhà ngươi hãy đi ngay về hộ vệ Đường Tăng tới đây lấy kinh mau!

Đại Thánh dập đầu cảm tạ, nói:

- Đệ tử xin nói cho Như Lai rõ, sư phụ đã nhất quyết không cần con nữa. Con về chuyến này, nếu như sư phụ không giữ, chẳng hóa ra lại một phen nhọc lòng phí sức sao. Mong Như Lai mở lòng phương tiện, niệm bài chú “túng cô nhi” tháo chiếc vòng Kim Cô ra, để con trả lại cho Như Lai và mong Như Lai tha cho con được hoàn tục.

Như Lai nói:

- Nhà ngươi chớ có suy nghĩ vớ vẩn, ăn nói quẩn quanh. Ta sẽ bảo Quan Âm đưa nhà ngươi đi, không lo gì sư phụ không nhận. Gắng sức hộ vệ Đường Tăng đi đường, khi nào thành công được lên cõi cực lạc, thì nhà ngươi cũng được ngồi tòa sen.

Quan Âm đứng bên cạnh nghe nói như vậy, vội vàng chắp tay cảm tạ Phật tổ, đoạn dẫn Ngộ Không cưỡi mây bay đi, theo sau có cả Mộc Soa hành giả và con chim vẹt trắng. Chẳng mấy chốc đã tới ngôi nhà tranh giữa đường. Sa Tăng trông thấy vội vàng mời sư phụ ra ngoài cửa nghênh đón. Bồ Tát nói:

- Đường Tăng, hôm trước kẻ đánh nhà ngươi chính là con di hầu sáu tai biến thành Hành Giả giả. May nhờ đức Như Lai biết rõ và nó đã bị Ngộ Không đánh chết. Nay nhà ngươi hãy nhận lấy Ngộ Không. Ma chướng dọc đường chưa hết, phải cần tới hắn đi hộ vệ mới tới được Linh Sơn, bái Phật cầu kinh được. Chớ có trách cứ hắn nữa.

Tam Tạng dập đầu, nói:

- Xin vâng theo lời dạy bảo.
Đang lúc cúi lạy, bỗng ở hướng chính đông một trận cuồng phong nổi lên cuồn cuộn, Trư Bát Giới khoác chiếc tay nải cưỡi gió trở về. Chú ngốc trông thấy Bồ Tát, bèn nghiêng mình chào, rồi nói:

- Đệ tử hôm trước từ biệt sư phụ đến động Thủy Liêm núi Hoa Quả tìm hành lý, quả có một Đường Tăng giả, một Bát Giới giả. Chúng bị đệ tử đánh chết ngay, té ra là hai cái xác khỉ. Đệ tử phải vào động mới tìm thấy tay nải, sau khi kiểm tra thấy không thiếu vật gì, bèn cưỡi gió về đây, chưa biết tin tức hai Hành Giả ra sao.

Bồ Tát kể hết một lượt chuyện Như Lai biết rõ yêu quái. Chú ngốc mừng rỡ cảm tạ rối rít.

Thầy trò cảm tạ Bồ Tát. Xong Bồ Tát trở về biển. Thầy trò lại bỏ oan cởi giận, tâm đầu ý hợp như trước, đoạn cảm ơn mọi người trong xóm, rồi sửa soạn hành lý, yên cương, tìm đường cái sang phương Tây.

Thật là:

Dặm thẳm chia ly loạn ngũ hành, Hàng yêu tụ hội hợp nguyên minh.
Thần về tâm xả thiên kia định, Biết rõ nguồn dòng đơn luyện thành.
Cuối cùng, chuyến đi này không biết bao giờ Tam Tạng mới gặp được Phật, cầu được chân kinh, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ NĂM MƯƠI CHÍN

Tam Tạng gặp Hỏa Diệm Sơn nghẽn lối Hành Giả lần đầu mượn quạt ba tiêu Chúng tinh xưa nay vốn vẫn đồng,
Mênh mông biển rộng chứa vô cùng. Trăm nghĩ, nghìn suy thành vọng tưởng, Vô vàn sắc tướng thảy hòa dung.
Ngày nào công quả thành viên mãn, Pháp tính viên thông ắt sáng lòng. Thôi đừng phân biệt đông tây nữa, Khóa chặt ngay vào chớ thả rông. Đặt nơi lò nấu linh đơn ấy,
Quạ vàng luyện khéo đỏ màu lông. Sáng ngời lóng lánh nên kiều diễm, Ra vào rồng cưỡi cũng tùy lòng.
Lại nói chuyện Tam Tạng theo lời dạy của Bồ Tát, thu nhận
Hành Giả, cùng Bát Giới, Sa Tăng, cắt đứt nhị tâm, nhốt chặt vượn ngựa[258]  đồng tâm hiệp sức lên đường sang phương Tây. Nói sao hết bóng quang âm vùn vụt như tên bắn, mặt trời mặt trăng thấm thoắt như thoi đưa, trải qua tháng hè nóng bức lại sang cảnh sương gió tiết thu. Chỉ thấy:

Gió tây thổi bạt mây trời,

Tầng không hạc rít, núi đồi sương xông.
Cảnh vật nom thật não nùng,

Núi dài, sông rộng như cùng sóng đôi.

Sếu bay ải bắc xa xôi,

Những loài huyền điểu lại dời về nam.

Đường xa lữ khách cô đơn, Mỏng manh áo vá rét luồn buốt tê.
Bốn thầy trò bước đi, dần dần cảm thấy nóng nực oi bức, Tam
Tạng dừng cương ngựa nói:

- Bây giờ đang là lúc tiết thu, sao trời lại nóng nực thế nhỉ? Bát Giới nói:
- Sư phụ không biết, đường sang phương Tây có nước Tư Cáp Lý, nơi mặt trời lặn, tục gọi là “đầu trời hết”. Cứ đến giờ Thân, giờ Dậu, quốc vương sai người lên thành đánh trống thổi tù và để lẫn vào với tiếng biển sôi. Mặt trời là thái dương chân hỏa lặn xuống vùng biển phía Tây, khác nào cục than dìm xuống nước tiếng sôi sùng sục, nếu không có tiếng trống, tiếng tù và lẫn vào, thì trẻ con trong thành sẽ giật người lên mà chết. Xứ này khí nóng xông bốc con người tưởng như đến chỗ mặt trời lặn vậy.

Đại Thánh nghe xong, không nhịn được cười, nói:

- Chú ngốc chớ có nói lăng nhăng. Nếu bàn tới nước Tư Cáp Lý thì hãy còn sớm đấy. Cứ như sư phụ thay lên đổi xuống, chùng chà chùng chình thế này, thì có từ trẻ tới già, lại từ già tới trẻ, ba lần già trẻ như thế cũng chưa tới nơi.

Bát Giới nói:

- Sư huynh ơi, cứ như sư huynh nói không phải nơi mặt trời lặn, nhưng sao lại nóng quá thế?

Sa Tăng nói:
- Có lẽ là thời tiết không thuận, mùa thu mà vẫn oi như mùa hè.

Ba người đang tranh cãi, bỗng thấy bên đường có một tòa trang viện, nhà cửa mái ngói tường vách đỏ tươi, cánh cửa cũng sơn đỏ, giường phản cũng sơn son, tất cả chỉ một màu đỏ. Tam Tạng xuống ngựa nói:

- Ngộ Không, con vào nhà kia hỏi xem vì sao xứ này lại nóng thế.

Đại Thánh cất cây gậy sắt, thắt lại quần áo, cử chỉ làm ra vẻ nhà nho thanh nhã, rời khỏi đường lớn, bước tới trước cổng xem xét. Bỗng thấy một cụ già từ trong cổng đi ra. Chỉ thấy:

Mình mặc chiếc áo vải dài,

Đỏ chẳng ra đỏ, vàng thời cũng không.

Đầu đội chiếc mũ tơ rung,

Xanh thời không phải, xanh cùng lại sai.

Tay chống cây gậy trúc tươi,

Cong thời chẳng phải, thẳng thời cũng không.

Đôi giầy cao cổ cong cong,

Chẳng phải là mới cũng không phải vàng.

Mặt đỏ chẳng khác màu đồng,

Râu trắng như bạc rung rung bên cằm.

Mày rậm che mắt nhung ngăm,

Nụ cười thoáng nở hàm răng tươi vàng.

Ông già chợt ngẩng đầu nhìn thấy Hành Giả, giật mình chống mạnh cây gậy quát:

- Nhà ngươi là ma quái ở đâu, tới cổng nhà ta có việc gì? Hành Giả cúi chào, đáp:
- Thưa cụ, xin cụ đừng sợ. Tôi không phải là ma quái nào hết, mà là nhà sư ở phương Đông, được nhà vua nước Đại Đường sai sang phương Tây lấy kinh. Thầy trò chúng tôi gồm bốn người đến xứ ta đây, thấy khí trời oi bức, một là muốn vào hỏi nguyên nhân, hai là muốn biết địa danh xứ này, vậy xin vào bái kiến và xin cụ chỉ bảo cho chút ít.

Cụ già lúc ấy mới yên tâm cười, nói:

- Mong trưởng lão thứ lỗi, tôi đây nhất thời hoa mắt, không thấy tôn nhan.

Hành Giả nói:

- Không dám ạ. Cụ già lại hỏi:
- Thế sư phụ đang ở con đường nào? Hành Giả thưa:
- Sư phụ tôi đang đứng chỗ con đường lớn phía nam đằng kia. Cụ già bảo:
- Xin mời vào, mời vào.

Hành Giả mừng rỡ, vẫy vẫy tay. Tam Tạng cùng Bát Giới, Sa
Tăng dắt ngựa bạch, gánh hành lý, bước cả tới chào cụ già.

Cụ già nhìn thấy Tam Tạng dáng người đoan chính, và Bát Giới, Sa Tăng mặt mũi xấu xí thì vừa mừng vừa sợ, nhưng cũng đành mời cả vào ngồi trong nhà, sai người ở bưng trà, một mặt sai sửa soạn cơm nước. Tam Tạng nghe nói, đứng dậy cảm tạ, rồi nói:

- Dám xin hỏi cụ, tiết trời đã sang thu rồi mà sao ở xứ ta còn nóng thế?

Cụ già đáp:
- Vùng chúng tôi đây tên gọi là Hỏa Diệm Sơn. Chẳng có xuân thu gì đâu, bốn mùa đều nóng bức.

Tạm Tạng nói:

- Hỏa Diệm Sơn ở phía nào? Có cản trở đường sang phương
Tây không ạ?

Cụ già nói:

- Sang phương Tây thì không xong rồi. Ngọn núi ấy cách đây chừng sáu mươi dặm. Đường sang phương Tây phải đi qua đấy. Lửa bốc ngùn ngụt tám trăm dặm, bốn xung quanh một tấc cỏ cũng không mọc được. Đi qua ngọn núi ấy à, dù có mình đồng da sắt cũng chảy ra nước hết.

Tam Tạng nghe nói sợ hãi tái mặt không dám hỏi thêm.

Bỗng thấy ngoài cửa có một chàng trai trẻ đẩy chiếc xe mầu đỏ đỗ ở trước cửa, cất tiếng rao:

- Ai mua kẹo nào!

Đại Thánh nhổ một sợi lông biến thành một đồng tiền, hỏi người kia mua kẹo. Người kia nhận tiền, chẳng kể hay dở, mở tấm áo phủ xe, lấy ra một chiếc kẹo nóng hôi hổi đưa cho Hành Giả. Hành Giả đưa tay cầm lấy thấy nóng như một hòn than trong lò, bỏng tựa một chiếc đinh nung đỏ, vừa đảo chiếc kẹo sang tay trái, rồi lại tay phải, vừa nói:

- Nóng quá! Nóng quá! Không ăn được, không ăn được. Chàng trai trẻ cười, nói:
- Sợ nóng thì đừng đến đây. Ở đây nóng thế đấy. Hành Giả nói:
- Chàng trai này chẳng hiểu lẽ gì cả. Thường có câu: “Không hàn không nhiệt, ngũ cốc không kết”. Vùng này nóng dữ thế này, bột làm kẹo của anh lấy đâu ra?
Người kia nói:

- Muốn có bột làm kẹo phải cầu Thiết Phiến Tiên. Hành Giả hỏi:
- Thiết Phiến Tiên là thế nào? Người kia đáp:
- Thiết Phiến Tiên có quạt Ba Tiêu, mượn được về quạt một cái là lửa tắt, quạt hai cái là gió nổi, quạt ba cái là mưa rơi, nhờ thế chúng tôi mới gieo hạt, gặt hái kịp thời, cho nên mới có ngũ cốc nuôi người. Nếu không, một tấc cỏ cũng không mọc được.

Hành Giả nghe nói, vội vàng quay người bước vào nhà, đưa kẹo cho Tam Tạng, nói:

- Sư phụ yên tâm, chắc không phải chờ đợi lâu đâu, cứ ăn kẹo đi, con sẽ nói cho mà nghe.

Tam Tạng cầm kẹo trong tay, quay về phía cụ già mời:

- Mời cụ xơi kẹo. Cụ già nói:
- Nhà chúng tôi cơm nước chưa mời các ngài, đâu dám ăn kẹo.

Hành Giả cười, nói:

- Thưa cụ, cơm nước cũng chưa cần, tôi xin hỏi cụ: Thiết
Phiến Tiên ở chỗ nào?

Cụ già nói:

- Ngài hỏi có việc gì? Hành Giả nói:
- Người bán kẹo vừa rồi có nói rằng vị tiên ấy có chiếc quạt Ba Tiêu, nếu mượn được mang về, quạt một cái là lửa tắt, hai cái là gió nổi, ba cái là mưa rơi, nhờ vậy vùng ta đây mới có thể
gieo cấy gặt hái, mới có ngũ cốc nuôi người. Tôi muốn tìm vị tiên ấy mượn chiếc quạt về quạt tắt lửa Hỏa Diệm Sơn để vùng ta được gặt cấy đúng thời, dân lành yên vui.

Cụ già nói:

- Đúng là có chuyện như vậy đấy. Nhưng ngài không có lễ vật, thì vị thánh hiền ấy không cho mượn về đâu.

Tam Tạng hỏi:

- Vị tiên ấy đòi hỏi lễ vật gì? Cụ già đáp:
- Người vùng chúng tôi đây, mười năm mới cầu một lần. Lễ vật gồm: bốn lợn, bốn dê, hoa hồng thanh khiết, quả lạ hoa thơm, rượu ngang, gà ngỗng, tắm gội lòng thành, đến núi tiên ấy lạy cầu, mời vị tiên ấy ra khỏi động đến đây làm phép.

Hành Giả hỏi:

- Ngọn núi ấy ở nơi nào? Tên gọi là gì? Cách đây bao xa? Để tôi đến hỏi mượn quạt?

Cụ già đáp:

- Ngọn núi ấy ở về phía tây nam, tên gọi là núi Thúy Vân. Trong núi có một ngôi động, gọi là động Ba Tiêu. Thiện nam tín nữ vùng chúng tôi đi lễ núi tiên, cả đi cả về mất một tháng, khoảng chừng một nghìn bốn trăm sáu chục dặm gì đó.

Hành Giả cười, nói:

- Ăn thua gì, tôi đi một tí là về ngay.

- Khoan đã, hãy ăn chút cơm, làm ít lương khô và cần có hai người đi theo là ba. Đường đến đấy không có nhà dân, lắm hổ báo, không phải một ngày tới được đâu, chớ có coi làm trò đùa.

Hành Giả cười, nói:
- Không cần, không cần! Tôi đi đây!

Vừa nói xong đã không thấy Hành Giả đâu cả. Cụ già sợ quá, nói:

- Cha mẹ ơi, hóa ra là người thần biết đằng vân giá vũ.

Tạm không nói đến chuyện mọi người trong nhà chăm lo Đường Tăng chu đáo gấp bội. Lại nói chuyện Hành Giả trong nháy mắt đã đến núi Thúy Vân, bèn hạ đám mây lành, toan tìm đường vào động, bỗng nghe tiếng chan chát của người tiều phu chặt củi trong rừng, liền rảo bước đi đến, lại nghe thấy người ấy ngâm:

Trong mây rừng cũ nhận ra,

Sườn non cỏ ngập rườm rà khó trông.

Non tây buổi sớm mưa ròng, Chiều về đã thấy khe trong nước đầy.
Hành Giả bước tới chào, nói:

- Chào bác tiều phu, muốn hỏi bác một điều. Người tiều phu buông rìu đáp lễ, rồi hỏi:
- Trưởng lão đi đâu đấy? Hành Giả đáp:
- Xin hỏi bác một điều, đây có phải là núi Thúy Vân không ạ? Người tiều phu nói:
- Chính phải. Hành Giả nói:
- Động Ba Tiêu của Thiết Phiến Tiên ở nơi nào? Người tiều phu cười, nói:
- Động Ba Tiêu thì có, nhưng không có Thiết Phiến Tiên. Chỉ
có Thiết Phiến Công Chúa, và có tên nữa là bà La Sát thôi.

Hành Giả nói:

- Người ta đồn rằng vị ấy có cây quạt Ba Tiêu có thể dập tắt được lửa Hỏa Diệm Sơn có phải không?

Người tiều phu nói:

- Phải! Phải! Vị thánh ấy có thứ bảo bối có thể dập tắt lửa, bảo vệ cho người dân vùng ấy, nên ở vùng ấy người ta gọi là Thiết Phiến Tiên. Chứ người vùng tôi không cần đến vị thánh ấy, nên chỉ gọi theo tên là bà La Sát, vợ của Đại Lực Ngưu Ma Vương.

Hành Giả nghe nói sợ hãi tái mặt, nghĩ thầm trong bụng:

- Lại oan gia rồi!… Hồi nào thu phục Hồng Hài Nhi, nghe nói hắn chính do mụ này đẻ ra. Lại lúc trước gặp chú hắn ở động Phá Nhi, núi Giải Dương, chú hắn còn có ý báo thù không chịu cho nước. Nay gặp đích thân bố mẹ hắn, thì không biết có mượn được quạt không đây?

Người tiều phu thấy Hành Giả trầm ngâm nghĩ ngợi, than ngắn thở dài, bèn cười nói:

- Trưởng lão là người xuất gia thì có điều gì lo buồn? Cứ đi theo con đường này về hướng Đông không đầy năm sáu dặm là tới động Ba Tiêu. Việc gì phải lo nghĩ.

Hành Giả nói:

- Chẳng giấu gì bác, tôi là đồ đệ cả của Đường Tăng, được vua Đường bên phương Đông sai sang phương Tây lấy kinh, năm ngoái cũng có điều tiếng với Hồng Hài Nhi con trai của bà La Sát, nay sợ bà ấy còn thù không cho, nên mới sinh ra lo nghĩ.

Người tiều phu nói:

- Đại trượng phu xem xét sắc mặt, chỉ cốt được quạt mà thôi,
còn việc cũ vứt đi nghĩ làm gì, cứ cố mượn là được.

Hành Giả nghe lời, khe khẽ vâng một tiếng, rồi nói:

- Xin đa tạ bác chỉ giáo. Tôi đi đây.

Đoạn từ biệt người tiều phu, đến thẳng cửa động Ba Tiêu, chỉ thấy hai cánh cửa đóng chặt im ỉm, ngoài động cảnh vật xinh tươi. Thật là một nơi tuyệt đẹp. Chỉ thấy:

Núi lấy đá là xương, Đất là tinh của đá.
Mây khói thuần cây lá, Rêu biếc phủ xanh trong.
Nguy nga chót vót tựa non Bồng. U tĩnh hương bay như Doanh đảo. Hạc nội đậu cành tùng khô ráo, Oanh líu lo bên khóm liễu tơ. Chính nơi cổ tích tự bao giờ,
Thật chốn dấu tiên vạn năm trước. Khóm ngô đồng phượng hoàng vui hót, Dòng nước trong rồng quẫy tung tăng. Đường quanh co vướng vít dây rừng, Bậc đá núi mây song chằng chịt.
Vượn hú sườn non chim ríu rít. Dưới chòm cổ thụ thưởng trăng thanh. Trong rừng trúc mát tựa hương lành. Đường non hoa dại như phơi gấm.
Mây trắng lang thang vờn núi sẫm,
Gió thổi hiu hiu suốt dặm trường.

Hành Giả bước tới gọi:

- Ngưu đại ca, mở cửa! Mở cửa!

Kẹt một tiếng, tấm cánh cửa mở ra, một người con gái lông lá đi ra, tay xách một chiếc lẵng hoa, vai vác một cái cuốc. Thật là:

Khắp người lam lũ không trang điểm, Mặt mũi tinh thần vẻ đạo tâm.
Hành Giả bước lên, chắp tay nói:

- Chào nữ tiểu đồng, nhờ nàng vào tâu với công chúa một tiếng, rằng tôi là hòa thượng đi lấy kinh trên đường sang phương Tây, không qua được Hỏa Diệm Sơn, đến mượn quạt Ba Tiêu về dùng một chút.

Cô gái lông lá nói:

- Ngài là hòa thượng chùa nào? Tên gọi là gì? Tôi mới vào tâu báo cho được.

Hành Giả nói:

-  Tôi  từ  phương  Đông  tới,  tên  gọi  Tôn  Ngộ  Không  hòa thượng.

Cô gái lông lá lập tức quay người bước vào trong động, quỳ xuống trước mặt bà La Sát nói:

- Bẩm bà, ngoài cửa động có hòa thượng Tôn Ngộ Không ở phương Đông tới muốn yết kiến bà, mượn quạt Ba Tiêu để dùng khi vượt qua Hỏa Diệm Sơn.

La Sát nghe nói tới ba chữ “Tôn Ngộ Không”, khác nào muối bỏ vào lửa, lửa đổ thêm dầu, bụng hầm hầm nổi giận, mặt căm tức đỏ bừng, miệng hét lên:

- Con khỉ khốn kiếp hôm nay mới tới!
Đoạn gọi:

- Tụi nhỏ, mang áo giáp, binh khí ra đây!

Đoạn mặc áo giáp, nai nịt gọn ghẽ, hai tay cầm hai cây thanh phong bảo kiếm bước ra ngoài động. Hành Giả đưa mắt nhìn trộm xem mụ ấy ăn mặc thế nào. Chỉ thấy:

Đầu quấn chiếc khăn hoa, Mình áo bào vân gấm. Ngang lưng gân hổ quấn, Quần lụa thêu đẹp sao. Hài mỏ phượng vút cao, Xiên râu rồng vàng óng.
Bảo kiếm cầm tay, miệng thét rống, Dữ tợn khác nào mụ Nguyệt Bà.
La Sát ra ngoài cửa, lớn tiếng quát:

- Tôn Ngộ Không đâu?

Hành Giả bước tới nghiêng mình chào:

- Thưa bà chị, lão Tôn xin kính chào! La Sát hừ một tiếng, nói:
- Ai là chị của nhà ngươi! Ai cần nhà ngươi chào! Hành Giả nói:
- Tôn phủ Ngưu Ma Vương ngày xưa kết nghĩa với lão Tôn, gồm bảy anh em thân thích. Nay nghe nói công chúa là chính thất của Ngưu đại ca, vậy không gọi là chị thì gọi là gì?

La Sát nói:

- Con khỉ khốn kiếp kia, đã là tình anh em thân thiết, sao lại hại con ta?
Hành Giả vờ hỏi lại:

- Lệnh lang là ai cơ? La Sát nói:
- Con trai ta là Thánh Anh đại vương Hồng Hài Nhi ở động Hỏa  Vân,  khe  Khô  Tùng,  núi  Hiệu,  bị  nhà  ngươi  hãm  hại. Chúng ta đang chưa tìm được nhà ngươi để báo thù, thì nay nhà ngươi tới nộp mạng. Vậy ta đâu có thể tha cho nhà ngươi được!

Hành Giả cười ngất, nói:

- Bà chị chẳng xét lí lẽ gì cả, lại còn trách lão Tôn. Lệnh lang nhà chị định bắt sư phụ tôi đem về kho rán, may được Quan Âm Bồ Tát thu phục, cứu thoát sư phụ tôi. Hiện nay cậu ấy đã là Thiện Tài đồng tử chỗ Bồ Tát, theo chính quả của Người, bất sinh, bất diệt, bất cấu bất tịnh, thọ sánh ngang với trời đất, sống lâu như mặt trăng mặt trời, chị không tạ ơn cứu mạng của lão Tôn thì chớ, lại còn trách cứ lão Tôn là nghĩa lí gì?

La Sát nói:

- Nhà ngươi là con khỉ nỏ mồm! Con ta tuy không bị thiệt mạng, nhưng làm thế nào cho nó sống bên ta được, bao giờ ta mới được gặp nó?

Hành Giả cười, nói:

- Bà chị muốn gặp lệnh lang thì có gì khó? Cứ cho tôi mượn quạt để tôi quạt tắt lửa, đưa sư phụ tôi qua núi, sau đó tôi sẽ đến Nam Hải nói với Bồ Tát cho cậu ấy về gặp chị, trả quạt cho chị một thể, có gì mà chẳng được? Lúc ấy bà chị xem cậu ấy có bị tổn thương mảy may nào không. Nếu có chút tổn thương nào thì trách tôi mới có lí, còn béo khỏe hơn trước thì phải cảm ơn tôi đấy nhé!

La Sát nói:

- Đồ khỉ khốn kiếp! Múa lưỡi ít chứ! Cứ giơ đầu ra đây để ta
chém mấy nhát. Nếu chịu được đau đớn ta sẽ cho mượn. Bằng không thì nhà ngươi về chầu Diêm Vương sớm!

Hành Giả khoanh tay trước ngực, cười nói:

- Bà chị không cần lắm lời, lão Tôn xin vươn cái đầu trọc ra đây cho bà chị muốn chém bao nhiêu tùy ý, cho đến hết hơi thì thôi. Nhưng mà phải cho mượn quạt đấy.

La Sát chẳng thèm nói năng, hai tay múa kiếm, nhằm thẳng đầu Hành Giả chém xuống coong coong, mấy chục nhát liền. Đầu Hành Giả vẫn không hề gì. La Sát sợ quá, quay đầu toan chạy. Hành Giả nói:

- Bà chị chạy đi đâu? Mau đưa quạt cho tôi mượn! La Sát nói:
- Bảo bối của ta đâu có thể cho mượn dễ dàng thế? Hành Giả nói:
- Không cho mượn thì nếm một gậy của ông em đây!

Đoạn Hầu Vương một tay túm chặt lấy La Sát, một tay rút chiếc gậy sắt trong tai ra, múa một vòng, to bằng cái miệng bát. La Sát giật tay ra, giơ kiếm đón đỡ, Hành Giả rượt theo vung gậy đánh liền. Hai người ở trước núi Thúy Vân, chẳng còn thân tình, chỉ còn thù oán. Một trận đánh nhau dữ dội:

Quần thoa tu luyện thành yêu,

Vì con báo oán đánh liều Hầu Vương.

Hành Giả lòng giận không lường,

Vì thầy nghẽn lối phải nhường nữ yêu.

Lễ phép tìm mượn Ba Tiêu,

Hiền hòa khoan nhặt nói điều phải chăng.

La Sát vung kiếm chém phăng,
Hầu Vương đón đỡ, nói rằng thân xưa.

Nữ hung, nam chẳng chịu thua, Cuối cùng nam phải đánh bừa nữ yêu. Gậy sắt dữ dội đến điều!
Thanh phong bảo kiếm cũng nhiều đường hay.

Nện đầu mặt, chém chân tay,

Hai bên cố đánh chẳng ai chịu nhường.

Đỡ phải đón trái tỏ tường,

Đâm sau đánh trước khoe đường võ hay.

Đánh nhau mê mải hăng say, Mặt trời đã khuất núi tây lúc nào. La Sát rút quạt Ba Tiêu,
Phất lên một cái, quỷ yêu kinh hoàng.

La Sát đánh nhau với Hành Giả cho tới chiều, thấy cây gậy của Hành Giả quá nặng, các miếng đánh lại rất kín đáo, liệu không địch nổi, bèn rút cây quạt Ba Tiêu ra vung lên, phát ra một luồng gió âm đẩy Hành Giả đi đâu mất tăm mất dạng, không sao có thể bấu víu vào đâu được nữa. La Sát đắc thắng trở về.



Đại Thánh lên đênh trôi giạt, chìm sang bên trái nhưng không rơi xuống đất, tụt sang bên phải không sao giữ nổi mình, khác nào cơn gió lốc quay tròn chiếc lá khô, hệt như cánh hoa trôi theo dòng nước xoáy. Hành Giả bị lăn đi mất một đêm, đến nỗi sáng hôm sau mới rơi xuống một trái núi, hai tay ôm chặt một tảng đá, định thần giờ lâu mới để ý xem xét tỉ mỉ và nhận ra đây là trái núi Tiểu Du Di. Đại Thánh thở dài một tiếng nói:

- Mụ đàn bà ấy lợi hại thật! Làm sao mà mụ ấy lại tống mình tới tận đây nhỉ? À, ta nhớ ra rồi, hồi nào ta đã từng tới đây cầu cứu Linh Cát Bồ Tát thu phục con yêu quái Hoàng Phong cứu sư phụ. Từ núi Hoàng Phong tới đây thẳng về hướng nam độ hơn ba nghìn dặm. Mình vừa ở con đường phía Tây tới góc Đông nam này không biết là mấy vạn dặm. Hãy tạm xuống hỏi Linh Cát Bồ Tát xem về theo đường cũ lối nào tốt nhất.

Đang trù trừ bỗng nghe thấy tiếng chuông ngân nga, Hành
Giả bèn bước xuống sườn núi, vào thẳng thiền viện. Một vị đạo
nhân đứng trước cổng nhận ra Hành Giả lập tức chạy vào báo:

- Vị Đại Thánh mặt lông lá năm ngoài đến mời Bồ Tát đi hàng phục yêu quái Hoàng Phong bây giờ lại tới.

Bồ Tát biết là Ngộ Không, vội vàng bước xuống tòa báu ra nghênh đón, mời vào trong nhà cúi chào, nói:

- Xin có lời chúc mừng, đi lấy kinh về rồi chăng? Ngộ Không đáp:
- Chưa đâu! Còn xơi! Còn xơi! Linh Cát nói:
- Chưa tới Lôi Âm thì quay lại chốn hoang sơn này làm gì? Hành Giả nói:
- Từ ngày nhờ tấm thịnh tình của Bồ Tát hàng phục yêu quái Hoàng Phong, dọc đường đi trải qua biết bao vất vả. Hiện nay đi tới vùng núi Hỏa Diệm Sơn không sao qua được, hỏi thăm thổ dân ở đấy, họ bảo có Thiết Phiến Tiên quạt cây quạt Ba Tiêu thì lửa sẽ tắt. Lão Tôn tìm đến, hóa ra vị tiên ấy là vợ của Ngưu Ma Vương, mẹ của Hồng Hài Nhi. Mụ ấy nói rằng tôi đã bắt con mụ làm tiểu đồng cho Quan Âm Bồ Tát làm mụ chẳng được gặp mặt con, đâm ra thù tôi, không cho mượn quạt thì chớ, lại còn đánh nhau với tôi. Mụ thấy cây gậy sắt của tôi quá nặng khó bề chống đỡ, bèn rút cây quạt Ba Tiêu ra quạt tôi một phát, đẩy tôi lênh đênh trôi dạt đến tận đây mới rơi xuống. Vậy tôi mạn phép vào thiền viện để hỏi thăm đường về. Từ đây tới núi Hỏa Diệm Sơn xa chừng bao nhiêu dặm nhỉ?

Linh Cát cười, nói:

- Người đàn bà ấy tên gọi là bà La Sát, lại có tên nữa là Thiết Phiến Tiên Công Chúa. Cây quạt Ba Tiêu của bà ta vốn là một báu vật do trời đất sinh ra từ thuở còn hỗn độn hoang sơ ở sau núi Côn Lôn. Đấy là chiếc lá tinh túy của Thái Âm, nên mới dập
tắt được lửa khi quạt. Quạt vào người nào, thì người ấy phải bay đi xa tới tám vạn bốn nghìn dặm. Từ chỗ tôi tới núi Hỏa Diệm Sơn chỉ độ hơn năm vạn dặm. Đó là may Đại Thánh có tài giữ mây đấy, nên mới dừng lại  được. Còn như người phàm thì không sao dừng được đâu.

Hành Giả nói:

- Lợi hại thật! Lợi hại thật! Sư phụ tôi làm sao đi qua được vùng đó?

Linh Cát nói:

- Đại Thánh cứ yên tâm. Ngài tới đây cũng là do nhân duyên của Đường Tăng giúp Đại Thánh thành công.

Hành Giả nói:

- Thành công thế nào? Linh Cát nói:
- Trước đây tôi có vâng lời dạy của Như Lai. Ngài ban cho tôi một hạt “định phong đơn”, và một cây gậy “phi long”. Gậy “phi long” thì dùng để hàng phục yêu quái gió rồi. Còn viên “định phong đơn” này chưa dùng đến, nay xin đưa cho Đại Thánh. Cho dù bà ta có quạt bao nhiêu, Đại Thánh cũng bất động. Lúc ấy Đại Thánh đòi mượn quạt, quạt tắt lửa. Như thế chẳng thành công ư?

Đại Thánh cúi đầu chào cảm tạ không xiết. Bồ Tát lấy chiếc túi gấm trong tay áo ra, cầm hạt “định phong đơn” đưa cho Hành Giả nhét vào lần trong cổ áo, rồi khâu kĩ lại, đoạn tiễn Hành Giả ra ngoài cửa, nói:

- Không dám giữ Đại Thánh ở lại để khoản đãi. Đại Thánh cứ đi về hướng Tây bắc, đấy là vùng núi của bà La Sát đấy.

Hành Giả từ biệt Linh Cát, dùng phép cân đẩu vân tới thẳng núi Thúy Vân. Một lát sau đã tới nơi. Hành Giả nện gậy sắt vào
cửa động, gọi:

- Mở cửa! Mở cửa! Lão Tôn đến mượn quạt về dùng đây! Mấy đứa tiểu đồng gái giữ cửa sợ quá, vội vàng vào báo:
- Bẩm bà, người đòi mượn quạt lại tới ạ! La Sát nghe báo, trong bụng sợ hãi nói:
- Con khỉ khốn kiếp ấy tài giỏi quá! Bảo bối của ta quạt vào người nào, người ấy phải bay xa tám vạn bốn nghìn dặm mới dừng lại được. Thế mà hắn vừa bị quạt đã lại về được ngay rồi là cớ làm sao nhỉ? Phen này ta phải quạt hai ba cái liền cho hắn không sao tìm thấy đường về mới nghe!

Bèn đứng dậy, nai nịt gọn ghẽ, hai tay cầm kiếm bước ra ngoài quát:

- Tôn Hành Giả! Nhà ngươi không sợ ta, lại đến tìm cái chết hả?

Hành Giả cười, nói:

- Bà chị không nên khắt khe làm gì, cho tôi mượn về dùng, hộ vệ Đường Tăng qua núi xong, sẽ đem trả liền. Tôi là người quân tử, chí thành có thừa, không như hạng tiểu nhân mượn rồi không trả đâu.

La Sát lại quát mắng:

- Con khỉ già khốn kiếp lì lợm không hiểu đạo lý kia! Mối thù cướp con ta, ta chưa trả được, lẽ nào lại để cho ý muốn mượn quạt của nhà ngươi được thỏa mãn sao? Chớ có chạy, nếm mùi một kiếm của ta đây!

Đại Thánh bình tĩnh như không, đưa gậy sắt lên đỡ. Hai người qua lại đánh nhau chừng dăm bảy hiệp, La Sát thấy tay nhũn khó tránh, Hành Giả khỏe hơn đánh hăng. Mụ thấy tình thế gay go, vội vàng rút cây quạt ra nhằm người Hành Giả quạt một
phát, Hành Giả vẫn sừng sững đứng im, thu cây gậy sắt về, cười khành khạch nói:

- Lần này không giống lần trước nữa đâu, cho bà chị tha hồ mà quạt, lão Tôn nhúc nhích một ly thì không gọi là hảo hán!

La Sát quạt tiếp hai phát nữa, Hành Giả vẫn đứng bất động. La Sát sợ quá, vội vàng thu bảo bối, quay người chạy vào động, đóng chặt cửa lại.

Hành Giả thấy mụ ta đóng chặt cửa, bèn trổ tài nghệ, xé rách cổ áo, lấy viên “định phong đơn” bỏ vào miệng ngậm, đoạn lắc mình một cái, biến thành một con bọ mát, chui qua khe cửa mà vào, thấy mụ La Sát đang gọi:

- Khát quá! Khát quá! Mang nước trà lại đây mau lên!

Đứa tiểu đồng gái đứng hầu bên cạnh vội vàng bưng ấm trà tới, rót ồng ộc đầy một bát nước trà sủi bọt. Hành Giả trông thấy mừng lắm, vo ve bay lại đậu trên đám bọt trà. Mụ La Sát khát quá, đỡ lấy bát trà, ừng ực hai hơi uống cạn. Hành Giả đã chui được vào trong bụng bà La Sát rồi, bèn hiện rõ nguyên hình, lớn tiếng gọi:

- Bà chị ơi cho tôi mượn quạt về dùng nào! La Sát sợ hãi, tái mặt gọi:
- Bọn nhỏ, đóng chặt cửa vào chưa? Tất cả đều đáp:
- Đóng chặt rồi ạ. La Sát lại nói:
- Đóng chặt, tại sao Tôn Hành Giả lại vào được trong nhà, đang gọi ở đâu đó?

Tiểu đồng gái thưa:

- Gọi ở trong người bà đấy ạ.
La Sát nói:

- Tôn Hành Giả, nhà ngươi trổ pháp thuật ở đâu? Hành Giả nói:
- Lão Tôn cả người không biết trổ pháp thuật, dùng toàn thủ pháp chân chính thôi. Nói thực, lão Tôn đang đùa nghịch ở trong bụng bà chị và đã thấy hết cả ruột gan rồi. Tôi biết bà chị đang đói khát, xin mời trước bà chị một bát trà giải khát nhé!

Đoạn co cẳng đạp xuống một cái, khiến La Sát cảm thấy bụng dưới đau đớn vô cùng, ngồi bệt xuống đất kêu la.

Hành Giả lại nói:

- Bà chị không nên chối từ, tôi lại dâng bà chị một món điểm tâm lót dạ nữa nhé!

Đoạn lại húc đầu lên một cái, khiến cho La Sát cảm thấy phổi đau thắt lại đến nỗi nằm lăn ra đất quằn quại, mặt mày tái nhợt, lắp bắp gọi:

- Chú Tôn ơi, tha chết cho tôi!

Lúc ấy Hành Giả mới thu chân tay lại, nói:

- Bây giờ bà chị mới nhận ra lão Tôn là chú à? Tôi nể tình Ngưu đại ca, tạm tha chết cho chị, nhưng phải đem ngay quạt ra đây cho tôi mượn!

La Sát lập tức gọi hầu gái mang cây quạt Ba Tiêu ra đặt ngay bên cạnh. Hành Giả bò lên chỗ cổ họng trông thấy, bèn nói:

- Bà chị này, tôi đã tha chết cho bà chị, không chui ra ở đằng nách, mà chui ra ở đằng mồm. Bà chị hãy há rộng mồm ra ba lần ra ba lần đi nào.

La Sát bèn há mồm ra. Hành Giả lại biến thành con bọ mát, bay ra đậu trên cây quạt. La Sát không trông thấy cứ há miệng ra ba lần, rồi gọi:
- Chú chui ra đi!



Hành Giả hiện nguyên hình, cầm lấy cây quạt, nói:

- Tôi đây cơ mà! Xin cảm ơn bà chị cho mượn! Cảm ơn bà chị cho mượn!

Đoạn rảo bước đi luôn. Bọn nhỏ vội vàng mở cửa để Hành
Giả đi ra.

Đại Thánh nhảy vút lên mây, về thẳng con đường phía đông. Lát sau đã hạ mây bước xuống, đứng bên bức tường gạch đỏ. Bát Giới nhìn thấy, mừng quá nói:

- Sư phụ ơi, sư huynh về rồi! Sư huynh về rồi!

Tam Tạng lập tức cùng các cụ già trong xóm và Sa Tăng ra cửa đón, rồi cùng vào nhà. Hành Giả đặt chiếc quạt Ba Tiêu xuống bên cạnh, nói:

- Thưa các cụ, có phải chiếc quạt này không?
Cụ già đáp:

- Đúng rồi! Đúng rồi! Đường Tăng vui mừng nói:
- Công của con lớn quá! Cầu được bảo bối này thật là vất vả! Hành Giả nói:
- Khoan nói vất vả vội. Thế sư phụ có biết Thiết Phiến Tiên ấy là ai không? Bà ta hóa ra là vợ của Ngưu Ma Vương, mẹ của Hồng Hài Nhi, tên gọi là bà La Sát, còn gọi là Thiết Phiến Công Chúa. Con tìm tới cửa động mượn quạt, mụ ta lại giở chuyện hiềm thù ra nói, rồi chém con mấy nhát kiếm. Con múa gậy đánh lại, mụ liền rút quạt ra quạt con một phát, khiến con lênh đênh trôi dạt tới tận núi Tiểu Tu Di. May gặp Linh Cát Bồ Tát, ngài cho con một hạt “định phong đơn”, chỉ cho con đường về. Con lại tới núi Thúy Vân gặp bà La Sát. Mụ ta lại lấy quạt ra quạt, nhưng lần này con bất động chẳng nhúc nhích. Mụ sợ quá bèn chạy tọt vào động. Con liền biến thành con bọ mát bay theo vào, đúng lúc mụ đòi uống trà, thế là con đậu vào đám bọt trà chui vào trong bụng mụ, khua chân múa tay. Mụ ta đau quá, rối rít gọi: “chú ơi tha chết cho tôi, tôi bằng lòng cho mượn quạt”. Con bèn tha cho mụ, mang quạt về. Chừng nào vượt qua Hỏa Diệm Sơn rồi, con sẽ trả lại mụ ấy.

Tam Tạng nghe xong, cảm tạ khôn xiết. Bốn thầy trò bèn chào từ biệt cụ già, tiếp tục lên đường sang phương Tây. Đi chừng bốn chục dặm, dần dần mọi người thấy nóng bức như hun. Sa Tăng kêu lên:

- Gan bàn chân bỏng rộp rồi! Bát Giới lại nói:
- Móng chân cũng rát quá!

Con ngựa cũng đi nhanh hơn mọi ngày, vì lẽ mặt đất nóng
quá không dừng lại được.

Hành Giả nói:

- Mời sư phụ xuống ngựa, các chú khoan hãy đi, để tôi quạt tắt lửa đã. Sau khi có mưa gió rồi, mặt đất nguội lạnh, lúc ấy thì mới vượt qua núi được.

Hành Giả bèn cầm chiếc quạt, bước tới bên ngọn lửa lấy hết sức phất một cái. Ngọn lửa trên đỉnh núi bốc cao rừng rực. Hành Giả quạt lần nữa, ngọn lửa bốc cao hơn trăm lần. Lại quạt lần nữa, ngọn lửa bốc cao nghìn trượng, dần dần cháy lan bén cả vào người. Hành Giả vội vàng quay về, đám lông ở hai cẳng chân đã bị cháy sém. Hành Giả chạy đến trước mặt Đường Tăng gọi:

- Chạy nhanh lên! Chạy nhanh lên! Lửa cháy tới nơi rồi! Lửa cháy tới nơi rồi!

Sư phụ nhảy ngay lên ngựa cùng Bát Giới, Sa Tăng chạy mau về phía đông, hơn hai mươi dặm mới dừng lại, nói:

- Ngộ Không, thế là thế nào nhỉ? Hành Giả vứt xoạch chiếc quạt, nói:
- Hỏng! Hỏng! Bị mụ ấy lừa rồi!

Tam Tạng nghe nói lo nhíu lông mày, buồn đau tấc dạ, không kìm được hai hàng lệ chảy chứa chan, nói:

- Biết làm thế nào bây giờ? Bát Giới nói:
- Sư huynh ơi, sư huynh vội vàng bảo quay ngay trở về là vì sao?

Hành Giả nói:

- Tôi mang quạt ra quạt một phát, thấy lửa cháy ngùn ngụt, quạt phát thứ hai, lửa càng bốc cao, quạt phát thứ ba, ngọn lửa
bay cao nghìn trượng. Nếu không chạy cho mau, thì không bị cháy trụi lông à?

Bát Giới cười, nói:

- Sư huynh thường khoe sét đánh không chết, lửa cháy không đau, tại sao hôm nay lại sợ lửa?

Hành Giả nói:

- Chú ngốc chẳng biết cái quái gì! Những lúc ấy đã để ý đề phòng nên không việc gì. Còn hôm nay dùng quạt dập tắt lửa, không bắt quyết tỵ hỏa, không dùng phép hộ thân, nên lông ở hai cẳng chân mới bị cháy sém chứ!

Sa Tăng nói:

- Lửa cháy dữ dội như thế, không có đường sang phương Tây, làm thế nào bây giờ?

Bát Giới nói:

- Đành chọn phương nào không có lửa mà đi vậy. Tam Tạng nói:
- Phương nào không có lửa? Bát Giới nói:
- Phương Đông, phương Nam, phương Bắc không có lửa. Tam Tạng lại hỏi:
- Thế phương nào có kinh? Bát Giới đáp:
- Phương Tây có kinh. Tam Tạng nói:
- Ta chỉ muốn đến nơi nào có kinh thôi! Sa Tăng nói:
- Nơi có kinh thì có lửa, nơi không lửa lại không kinh, thực là tiến thoái lưỡng nan.

Thầy trò đang bàn tính quanh quẩn, chợt nghe thấy tiếng người gọi:

- Đại Thánh chớ buồn phiền, tạm xơi chút cơm chay rồi hãy bàn.

Bốn người quay lại nhìn, thấy một cụ già mình mặc áo lông chim, đầu đội mũ yển nguyệt, tay chống chiếc gậy đầu rồng, chân đi đôi giày da có đinh sắt, đeo sau lưng một cái làn đan mắt cáo bên trong đặt một chiếc chậu bằng đồng, bên trong chậu đựng ít bánh hấp, bánh nướng, cơm tẻ, bột kê. Cụ già đứng ở phía tây con đường, nghiêng mình nói:

- Tôi là thổ địa Hỏa Diệm Sơn, biết Đại Thánh hộ vệ thánh tăng chưa vượt qua được, nên đến dâng chút cơm chay.

Hành Giả nói:

- Ăn cơm là việc nhỏ, còn ngọn lửa này bao giờ mới tắt được để cho sư phụ ta đi qua?

Thổ địa nói:

- Muốn dập tắt ngọn lửa phải cầu đến quạt Ba Tiêu của bà La
Sát.

Hành Giả bước tới vệ đường nhặt chiếc quạt lên nói:

- Chiếc quạt này không phải hay sao? Tại sao càng quạt ngọn lửa càng bốc to?

Thổ địa xem xong cười, nói:

- Quạt này không phải quạt thật. Đại Thánh bị họ lừa rồi. Hành Giả hỏi:
- Thế nào là quạt thật?
Thổ địa lại khom lưng cúi mình cười tủm tỉm, đáp:

- Muốn mượn được quạt Ba Tiêu, phải cầu đến Đại Lực vương cơ.

Cuối cùng không biết Đại Lực Vương có tài nghệ gì, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ SÁU MƯƠI


Ma vương ngừng đánh đi dự tiệc rượu


Hành Giả lần hai mượn quạt ba tiêu


Thổ địa nói:

- Đại lực Vương tức là Ngưu Ma Vương đó. Hành Giả hỏi:
- Lửa ở núi này chính là do Ngưu Ma Vương phóng ra, rồi gọi
giả danh là Hỏa Diệm Sơn có phải không?

Thổ địa thưa:

- Không phải, không phải. Đại Thánh xá tội cho tiểu thần, thì thần mới dám nói.

Hành Giả nói:

- Nhà ngươi có tội gì, cứ nói thẳng ra không ngại gì cả. Thổ địa nói:
- Lửa ấy chính là do Đại Thánh gây ra đấy. Hành Giả tức giận, nói:
- Ta có ở đấy đâu mà nhà ngươi nói bậy như vậy? Ta mà lại là cái phường phóng hỏa à?

Thổ địa nói:

- Chính Đại Thánh cũng không nhận ra cả tôi đấy thôi. Vùng này vốn không có quả núi ấy, năm trăm năm về trước, hồi Đại Thánh đại náo thiên cung, bị Hiển Thánh bắt, mang giải tới chỗ Lão Quân. Lão Quân quẳng Đại Thánh vào lò bát quái nấu luyện. Luyện xong mở vạc ra, bị Đại Thánh đạp đổ cả lò luyện
đơn, mấy viên gạch có dính ít lửa bị rớt xuống và những tàn lửa ấy rơi xuống đây biến thành Hỏa Diệm Sơn. Còn tôi vốn là đạo nhân giữ lò ở cung Đâu Suất, bị Lão Quân trách tội không giữ nổi lò, bèn đẩy tôi xuống đây làm thổ địa núi Hỏa Diệm Sơn vậy.

Trư Bát Giới nghe xong tức giận, nói:

- Thảo nào nhà ngươi ăn mặc như vậy. Hóa ra là đạo sĩ biến thành thổ địa!

Hành Giả nửa tin, nửa ngờ, nói:

- Ngài vừa nói, tại sao phải tìm ngay Đại Lực Vương? Thổ địa nói:
- Đại Lực Vương là chồng bà La Sát. Lâu nay hắn bỏ mặc bà La Sát, hiện đang ở động Ma Vân, núi Tích Lôi. Núi ấy có Vạn Niên Hồ Vương. Hồ Vương chết đi, để lại một người con gái, tên gọi Ngọc Diện công chúa. Công chúa gia tư ức vạn không người quản lý. Hai năm trước đây, công chúa dò biết được Ngưu Ma Vương thần thông quảng đại, bèn tự nguyện mang cả gia tư kén về làm chồng ở rể. Thế là Ngưu Ma Vương bỏ mặc bà La Sát, lâu nay chẳng đoái hoài tới. Nếu Đại Thánh tìm được Ngưu Ma Vương, mời hắn về đây mới mượn được quạt thật. Như vậy, một là dập tắt được lửa hộ vệ được sư phụ đi qua, hai là vĩnh viễn diệt trừ hỏa nạn cứu vớt sinh linh vùng này, ba là tôi được tha tội về trời, giao lại pháp chỉ cho Lão Quân.

Hành Giả hỏi:

- Núi Tích Lôi ở chỗ nào? Cách đây bao xa? Thổ địa thưa:
- Ở phía chính nam. Từ đây tới đấy chừng hơn ba nghìn dặm.

Hành Giả nghe nói, bèn dặn dò Sa Tăng, Bát Giới hộ vệ sư phụ, lại dặn dò thổ địa cùng ở lại đừng về. Rồi bỗng nghe vút
một tiếng đã chẳng thấy Hành Giả đâu cả.

Chừng độ nửa tiếng sau, Hành Giả đã nhìn thấy một trái núi cao chót vót, bèn hạ mây đứng xuống đỉnh núi xem xét. Thật là một trái núi tuyệt đẹp:

Cao chẳng cao, chạm tầng vân hán, To chẳng to, rễ cắm suối vàng, Trước núi mặt trời ấm áp,
Sau non gió thổi mơ màng.
Trước núi mặt trời ấm áp, suốt ba đông câu cỏ vô tư, Sau non gió thổi mơ màng, trải chín hạ băng sương chẳng
hóa.

Đầm rồng thông mạch khe nước trôi êm ả, Hang hổ vách non cao hoa nở sớm trưa. Nước chảy nghìn dòng tựa ngọc quỳnh sa, Hoa nở một màu trông như gấm trải.
Suối uốn quanh non, cây quanh suối,

Tùng chênh vênh giữa vách chênh vênh.

Thật là:




Núi thẳm non xanh, Suối sâu vách dựng. Hoa thơm quả thắm, Trúc tía mây hồng. Liễu biếc tùng xanh, Xinh tươi cảnh vật.
Cảnh đẹp y nguyên tứ thời bát tiết,
Sắc mầu thắm mãi muôn thuở nghìn đời.

Đại Thánh ngắm nghía hồi lâu, bèn từ đỉnh núi bước xuống, đi vào trong rừng sâu tìm đường. Đang chưa có tin tức gì, chợt nhìn thấy dưới bóng tùng một cô gái, tay bẻ một cành hương lan đang thướt tha đi tới. Đại Thánh núp sau một tảng đá để ý quan sát, thấy cô gái ấy:

Thướt tha đẹp nghiêng nước, Yểu điệu gót sen rời.
Mặt Vương Tường xinh tươi, Đẹp như con gái Sở.
Hệt bông hoa hé nở, Khác nào ngọc đưa hương. Tóc mây rủ mịn màng,
Mắt long lanh thu thủy. Quần là hé lộ đôi hài thủy,
Áo bay trắng muốt ánh vân thêu. Nói làm chi mưa gió sớm chiều, Thật đúng hạng môi son má phấn.
Mày ngài mượt một đường con sẫm, Hơn cả Văn Quân, cả Tiết Đào.
Cô gái dần đàn bước tới bên tảng đá, Đại Thánh nghiêng mình cúi chào, từ tốn hỏi:

- Nữ Bồ Tát đi đâu đấy?

Cô gái chưa nhìn thấy người, nghe tiếng hỏi, vội ngẩng đầu, nhìn thấy Đại Thánh tướng mạo xấu xí, vô cùng sợ hãi, muốn lui cũng khó, tiến cũng không xong, đành run run miễn cưỡng trả lời:
- Ngài ở đâu tới, đến đây hỏi ai? Đại Thánh nghĩ thầm:
- Mình nói thật chuyện đi lấy kinh, mượn quạt, e cô gái này thân tình với Ngưu Ma Vương thì hỏng, Hay là cứ nói thác là chỗ thân thiết đến mời ma vương thì hay hơn…

Cô gái thấy Hành Giả không nói thì biến sắc mặt, bực tức quát lên:

- Ngài là ai mà dám đến đây hỏi tôi?

Đại Thánh nghiêng mình mỉm cười, nói:

- Tôi ở núi Thúy Vân vừa mới tới đây không biết đường, dám xin hỏi Nữ Bồ Tát nơi đây có phải là núi Tích Lôi không ạ?

Cô gái đáp:

- Phải.

Đại Thánh hỏi:

- Động Ma Vân ở chỗ nào ạ? Cô gái nói:
- Ngài hỏi động ấy có việc gì? Đại Thánh nói:
- Tôi được Thiết Phiến công chúa ở động Ba Tiêu, núi Thúy
Vân sai đến mời Ngưu Ma Vương.

Cô gái vừa nghe nói “Thiết Phiến công chúa mời Ngưu Ma Vương” đã nổi giận đùng đùng, đỏ mặt tía tai, mở mồm quát mắng:

- Con tiện tỳ này thực vớ vẩn! Từ ngày Ngưu Ma Vương ở nhà ta chưa đầy hai năm, mà ta đã đưa cho không biết bao nhiêu là vàng bạc châu báu, gấm vóc lụa là. Củi cấp hằng năm, gạo cung hàng tháng tha hồ tự do hưởng thụ, còn không biết xấu hổ,
lại còn mời với mọc gì!

Đại Thánh nghe xong, biết đây là Ngọc Diệu công chúa, bèn rút gậy sắt ra quát:

- Con tiện tỳ khốn kiếp này, đổ của ra để mua lấy Ngưu Ma Vương, thực là lấy chồng lại mất tiền, không biết xấu hổ, còn mở mồm mắng ai?

Cô gái thấy vậy sợ quá, hồn vía rụng rời, gót sen bước thấp bước cao, run rẩy quay đầu ù té chạy. Đại Thánh hò hét đuổi theo sau, luồn qua bóng tùng râm mát, đã thấy cửa động Ma Vân. Cô gái chạy tọt vào trong, đóng sầm cửa lại. Đại Thánh lúc bấy giờ mới thu gậy sắt đứng ngắm nghía. Thật là một nơi tuyệt đẹp:

Rừng cây mọc san sát, Vách núi dựng chon von. Dây leo cây cao vút,
Lan huệ ngát hương ngàn.

Suối trong như ngọc luồn rừng trúc, Đá trắng hoa rơi ngập vệ đường. Mây khói lồng đỉnh núi,
Sường non rọi ánh dương.

Rồng gào cùng hổ thét, Hạc hót với oanh đàn.
Một chốn nên thơ và u nhã, Hoa châu cỏ ngọc đẹp vô vàn. Kém gì tiên động Thiên Thai ấy,
Hơn cả Bồng Doanh chốn đào tiên.

Tạm gác chuyện Hành Giả đang đứng ngắm cảnh. Lại nói
chuyện cô gái kia chạy, đến nỗi son phấn đẫm mồ hôi, tim gan đập tán loạn, vào thẳng thư phòng. Lúc ấy Ngưu Ma Vương đang chăm chú đọc đơn thư[259]  bỗng thấy cô gái mệt nhọc ngã lăn vào lòng mình, vò đầu bứt tai, bật từng tiếng khóc nức nở, Ngưu Ma Vương cười ngất, nói:

- Người đẹp đừng buồn phiền nữa, có chuyện gì vậy? Cô gái giẫy nẩy, miệng quát:
- Con ma khốn kiếp giết chết ta rồi! Ngưu Ma Vương cười, nói:
- Có chuyện gì mà mắng ta thế? Cô gái nói:
- Chỉ vì thiếp cha mẹ mất sớm không nơi nương tựa, mới lấy chàng về chăm nom, giữ gìn cho thiếp. Đám giang hồ đều bảo chàng hảo hán, té ra chàng chỉ là một ông chồng tầm thường râu quặp!

Ngưu Vương nghe xong, ôm chặt cô gái, nói:

- Người đẹp ơi, ta có điều gì không phải, nàng cứ bình tĩnh nói ra nghe nào, ta sẽ xin lỗi nàng.

Cô gái nói:

- Vừa rồi thiếp đi dạo mát dưới bóng hoa ở ngoài động, đang bẻ lan ngắt huệ, bỗng thấy một hòa thượng mặt lông lá, mõm như ông thiên lôi, thình lình xông tới chào, dọa thiếp sợ hết hồn. Khi thiếp định thần lại hỏi hắn là ai. Hắn nói hắn là người của Thiết Phiến công chúa sai tới mời Ngưu Ma Thương, Bị thiếp nói cho mấy câu, hắn bèn chửi thiếp một chập, sau đó rút gậy sắt đuổi đánh thiếp. Thiếp mà không nhanh chân, thì có lẽ đã bị hắn đánh chết rồi. Đó chẳng phải kêu chàng về để gây họa là gì? Không giết thiếp là gì?
Ngưu Ma Vương nghe xong, nghiêm nét mặt xin lỗi cô gái, ôn tồn giờ lâu, nàng mới nguôi giận. Đoạn Ma Vương nổi giận, nói:

- Có người đẹp đây, ta đâu dám nói dối. Động Ba Tiêu tuy là nơi hẻo lánh, nhưng u nhã thanh cao. Người vợ quê của ta tu trì từ nhỏ, cũng là một tiên nữ đắc đạo, vả lại đạo nhà nghiêm cẩn, đến một đứa con trai bé tí cũng không có, làm gì có thằng đàn ông mõm như ông thiên lôi nào tới mời. Hẳn là yêu quái ở đâu tới, giả danh hiệu đến đây tìm ta. Để ta ra xem sao.

Đoạn Ma Vương rảo cẳng ra khỏi thư phòng, lên nhà trên lấy áo giáp nai nịt gọn ghẽ, cầm cây hỗn thiết côn, bước ra ngoài động, lớn tiếng gọi:

- Thằng nào đến nhà ta mà hỗn láo thế?

Hành Giả đứng bên thấy hắn khác hẳn năm trăm năm trước. Chỉ thấy:

Đầu đội mũ thiết khôi sáng loáng, Áo giáp choàng bằng gấm đẹp sao.
Giầy thơm đánh phấn da hươu, Ngang lưng đai thẳng khác nào tướng tinh. Hai con mắt sáng xanh gương tỏ,
Đôi lông mày cong tựa cầu vồng.

Miệng như chậu máu đỏ hồng,

Hàm răng chẳng khác bịt đồng đến kinh. Tiếng gầm rung rừng xanh chuyển động, Đi đến đâu gió lộng quỷ nhường.
Tên là Hỗn Thế Ma Vương,

Tây phương Đại Lực lẫy lừng tiếng tăm.
Đại Thánh sửa lại quần áo bước tới, dạ một tiếng thật to, rồi nói:

- Chào đạo huynh, đại huynh có nhận ra tiểu đệ không? Ngưu Vương đáp lễ nói:
- Nhà ngươi là Tề Thiên Đại Thánh Tôn Ngộ Không phỏng? Đại Thánh nói:
- Chính phải, chính phải. Xa nhau lâu ngày không gặp, tôi vừa tới đây hỏi thăm cô gái mới gặp, thấy đại huynh phong độ hơn xưa nhiều, xin có lời chúc mừng.

Ngưu Vương quát lên:

- Chớ có bẻm mép! Ta nghe nói nhà ngươi đại náo thiên cung, bị Phật tổ bắt giam dưới núi Ngũ Hành gần đây đã thoát tai nạn, hộ vệ Đường Tăng sang phương Tây bái phật cầu kinh, thế mà cớ sao lại nỡ hại con ta là Ngưu Thánh Anh ở động Hỏa Vân, khe Khô Tùng núi Hiệu? Ta đang căm giận nhà ngươi, thế mà nhà ngươi lại mò tìm đến ta!

Đại Thánh cúi chào, nói:

- Đại huynh chớ có trách oan tiểu đệ. Hồi ấy lệnh lang bắt mất sư phụ tôi định nấu thịt ăn. Tiểu đệ không trị nổi. May có Quan Âm Bồ Tát cứu thoát sư phụ, khuyên cậu ấy quy y. Hiện cậu ấy đã trở thành Thiện Tài đồng tử, ngôi cao hơn cả đại huynh, được hưởng phúc cực lạc, cõi thọ mãi tiêu dao, có gì phàn nàn đâu mà đại huynh trách mắng tôi?

Ngưu Ma Vương quát mắng:

- Đồ khỉ già nỏ mồm kia! Chuyện hại con ta nhà ngươi nói rồi. Còn vừa rồi nhà ngươi lừa người thiếp yêu của ta, đánh tới tận cửa nhà ta là cớ sao?

Đại Thánh cười, nói:
- Tôi tìm đại huynh không thấy, gặp cô gái ấy hỏi thăm, không biết đó là chị hai. Chị ấy chửi tôi mấy câu. Lúc ấy tiểu đệ cũng hơi thô lỗ, làm bà chị sợ, mong đại huynh tha cho!

Ngưu Vương nói:

- Đã như vậy, ta nể tình cố cựu, tha cho nhà ngươi đi. Đại Thánh nói:
- Đội ơn tha tội, cảm tạ khôn xiết, nhưng còn một việc muốn nhờ vả nữa, mong đại huynh giúp đỡ.

Ngưu Vương quát lên:

- Con khỉ già này thật quá thể! Ta đã tha tội cho không đi thì chớ, lại còn lằng nhằng đòi giúp đỡ cái gì?

Đại Thánh nói:

- Thực không dám giấu đại huynh, tiểu đệ nhân hộ vệ Đường Tăng sang phương Tây, dọc đường bị núi Hỏa Diệm Sơn làm trở ngại, không sao qua được. Hỏi người thổ dân, biết được bà chị là La Sát có cây quạt Ba Tiêu, muốn mượn về dùng một chút. Hôm qua tiểu đệ có tới nhà cũ mượn chị ấy, nhưng chị ấy một mực không cho. Vì thế hôm nay tới nói với đại huynh, mong đại huynh mở lòng trời, cùng đi với tiểu đệ đến chỗ chị cả, mượn giúp cho cây quạt về quạt tắt lửa, đưa Đường Tăng qua núi, sau đó xin trả ngay lập tức.

Ngưu Vương nghe xong, lửa giận ngùn ngụt, nghiến răng quát lớn:

- Nhà ngươi bảo nhà ngươi không vô lễ, hóa ra chỉ vì chuyện mượn quạt. Nhất định là nhà ngươi đã lừa người vợ quê của ta, rồi vợ ta không chịu, nên mới tới đây tìm ta, lại đuổi đánh ái thiếp của ta! Thường có câu: “Vợ cả bạn không được lừa, vợ lẽ bạn không được đánh.” Nhà ngươi đã lừa cả vợ cả của ta, đánh cả vợ bé của ta, không là đại vô lễ đó sao? Lại đây nếm một côn
đi!

Đại Thánh nói:

- Đại huynh muốn đánh nhau, tôi đâu có sợ. Nhưng mượn bảo bối là lòng thành của tôi, xin đại huynh cho mượn về dùng một chút!

Ngưu Vương nói:

- Nhà ngươi địch nổi ta ba hiệp ta sẽ bảo vợ ta cho mượn. Bằng không, ta sẽ giết chết nhà ngươi, trả thù cho con ta!

Đại Thánh nói:

- Đại huynh nói chí phải. Tiểu đệ lâu nay lười biếng, chưa được gặp gỡ đại huynh, không biết đại huynh những năm gần đây võ nghệ so với hồi xưa thế nào. Vậy anh em ta thử diễn lại vài đường gậy xem sao.

Ngưu Vương chẳng thèm nói năng, rút hỗn thiết côn nhằm đầu Hành Giả bổ liền, Đại Thánh cũng giơ gật sắt lên đón đỡ. Hai người đánh nhau dữ dội:

Gậy sắt bịt vàng, Cây côn hỗn thế.
Trở mặt chẳng coi bè bạn nữa.

Kẻ này nói: Mối thù hại con ta phải trả! Người kia nói: Lệnh lang đã đắc đạo trách gì? Kẻ này nói: Đồ ngu si sao dám đánh cửa ta? Người kia nói: Tôi chỉ nhân tìm đường thăm hỏi. Một người mượn quạt cứu trưởng lão,
Một kẻ không cho, giữ khư khư. Lời qua tiếng lại mất cả tình xưa, Cả nhà bất nghĩa thành ra thù oán.
Ngưu Vương côn vung như rồng giỡn, Đại Thánh gậy múa quỷ trốn luôn. Lúc đầu đánh ở sườn non,
Lát sau kéo lên tầng trời thẳm. Hai bên trổ thần thông ghê gớm, Trong mây thi thố phép kỳ tài.
Gậy côn đành loạn trước cửa trời, Khó đoán ai thua, ai được cuộc.
Đại Thánh đánh nhau với Ngưu Vương hơn một trăm mười hiệp không phân thắng bại. Đang lúc không biết phân giải ra sao, chợt nghe thấy trên đỉnh núi có tiếng người gọi:

- Thưa Ngưu đại vương, đại vương tôi tha thiết kính mời ngài, đến ngay cho để buổi tiệc được bắt đầu.

Ngưu Vương nghe nói, múa cây hỗn thiết côn gạt cây gậy sắt ra nói:

- Con khỉ già kia, tạm dừng tay đã, ta còn đi dự hội ở nhà người bạn.

Nói xong hạ mây vào thẳng trong động, nói với Ngọc Diện công chúa rằng:

- Người đẹp ạ, thằng đàn ông mõm như ông thiên lôi vừa rồi là con khỉ Tôn Ngộ Không, bị ta vung côn đánh cho một chập không dám đến nữa, nàng cứ yên tâm vui chơi, ta phải đi uống rượu ở nhà một người bạn nhé!

Đoạn cởi khôi giáp, mặc một áo nhung màu cổ vịt bước ra cửa, bảo bọn nhỏ giữ cửa cẩn thận, rồi cưỡi “con thú mắt vàng tránh nước”, bay trong khoảng nửa mây nửa mù, thẳng về hướng Tây Bắc.



Đại Thánh đứng trên đỉnh núi nhìn theo, trong bụng thầm nghĩ:

- Lão Ngưu này không biết đánh bạn với thằng nào, đi dự tiệc ở đâu, để lão Tôn đi theo xem sao.

Đoạn xoay tít người, biến thành một làn gió mát đuổi theo cùng đi, một lát sau, tới một quả núi, bỗng chẳng thấy Ngưu Vương đâu nữa, Đại Thánh tụ lại nguyên thân vào núi tìm kiếm, thấy trong dãy núi ấy có một cái đầm sâu nước trong veo, bên đầm có một tấm bia đá, trên viết sáu chữ đại tự “Đầm Bích ba, núi Loạn Thạch”, bèn nghĩ thầm:

- Nhất định lão Ngưu xuống nước thôi. Yêu Tinh dưới nước, nếu không phải là thuồng luồng, thì nhất định là loài rồng, cá, ba ba, đồi mồi gì đó. Để lão Tôn cũng lặng xuống xem sao.

Đoạn Đại Thánh bắt quyết, niệm chú, lắc mình một cái biến thành một con cua không to không nhỏ, nặng khoảng ba mươi
sáu cân, nhảy tùm xuống nước lặn thẳng xuống đáy đầm, bỗng nhìn thấy một tòa lâu đài long lanh trong vắt, dưới chân lầu buộc một thú mắt vàng tránh nước. Bò vào trong lầu thì không thấy có nước. Đại Thánh nhìn kỹ, thấy phía bên kia có tiếng âm nhạc thánh thót.

Chỉ thấy:

Lầu son cài cửa ngọc, Chẳng khác gì thế gian. Ngói lợp toàn bằng vàng, Then cửa bằng ngọc trắng. Lan can san hô thắm,
Bình phong khảm đồi mồi. Ráng đẹp mây lành dọi liên đài, Trên ánh tam quang soi cung điện.
Chẳng phải thiên cung hay đáy biển, Nơi đây nào khác chốn Bồng Lai, Tiệc đặt lầu cao khách chủ vui. Quan viên lớn nhỏ ngồi la liệt, Ngọc nữ bưng mâm ngả bầy tiệc, Tiên nga lựa phím dạo đàn tranh. Cá kình hò hát, cua múa quanh,
Ba ba thổi sáo, vừa đánh trống. Châu báu long lanh soi thứ đựng, Câu thơ nét chữ dán bình phong. Rèm râu tôm treo rủ cửa cung, Khúc tiên thiều bát âm réo rắt.
Tiếng bổng trầm vang tầng trời ngất, Cá lô xanh đàn sắt dạo theo.
Cá chày mắt đỏ thổi ống tiêu, Bà cá diếc dâng nem nai rán.
Cô long nữ cài trâm duyên dáng, Thức ăn toàn bát bảo cao lương.
Thức uống toàn mỹ tửu quỳnh tương…

Người ngồi trên cao là Ngưu Ma Vương, hai bên là ba bốn yêu tinh thuồng luồng, trước mặt là một con rồng già, hai bên rồng con, rồng cháu, rồng bà, rồng cô. Đang lúc mọi người nâng cốc chúc nhau, Tôn Đại Thánh bò vào gần, bị con rồng già trông thấy, liền quát:

- Bắt ngay con cua đồng kia lại!

Rồng con, rồng cháu xô cả đến bắt giữ Đại Thánh. Đánh Thánh nói ra tiếng người rằng:
- Xin tha tội! Xin tha tội! Rồng già nói:
- Nhà ngươi là con cua đồng ở đâu tới? Tại sao lại dám vào sảnh đường bò ngang bò dọc trước mặt tôn khách? Mau mau khai ngay, thì ta tha chết cho!

Đại Thánh bịa chuyện linh tinh, khai với mọi người:

Kiếm ăn vốn ở trong hồ,

Đào hang chân núi sống qua tạm thời.

Lần đầu thân được thảnh thơi, Hoàng hành giới sĩ chức thời được trao. Đội bùn đạp cỏ sớm chiều,
Từ xưa nghi lễ noi theo bao giờ.

Không ngờ phạm tới oai vua,

Cúi xin mở lượng dung tha cho thần.

Mọi người ngồi trên tòa nghe Hành Giả khai xong đều cúi mình vái chào con rồng già, nói:

- Giới sĩ cua mới vào cung ngọc, không biết nghi lễ nhà vua, muốn xin tôn công tha cho hắn về.

Rồng già khen phải, mọi người liền nói:
- Tha cho thằng ấy, tạm cho nợ đòn, ra đứng đợi ở bên ngoài. Đại Thánh dạ vâng một tiếng, chạy thoát ra ngoài thẳng tới
dưới lầu, nghĩ thầm trong bụng:

- Ngưu Vương mải đánh chén ở đây, đợi biết đến bao giờ mới tan tiệc. Mà có tan tiệc hắn cũng chẳng cho mình mượn quạt đâu mà, chi bằng ăn trộm con thú mắt vàng của hắn, biến thành Ngưu Ma Vương đến lừa mụ La Sát lấy quạt, đưa sư phụ qua núi là hay nhất.

Đại Thánh bèn hiện nguyên hình, cởi sợi cương buộc con thú mắt vàng nhảy phốc lên yên, phóng ra khỏi đáy nước, lên đến bờ đầm, lắc mình một cái biến thành Ngưu Ma Vương, quất con thú bay vút lên mây, Một lát sau đã tới cửa động Ba Tiêu. Núi Thúy Vân, cất tiếng gọi:

- Mở cửa!

Hai đứa hầu gái giữ cửa nghe tiếng mở cửa thấy là Ngưu Ma
Vương, bèn chạy vào báo:

- Bẩm bà, đức ông đã về.

La Sát nghe nói, vội vàng vuốt lại tóc mây, rời gót sen ra cửa đón tiếp. Đại Thánh nhảy xuống tay dắt thú, cả gan đánh lừa cô gái đẹp. Bà La Sát người trần mắt thịt đâu có nhận ra, vội vàng
dắt tay Đại Thánh dẫn vào, sai nàng hầu pha trà. Cả nhà thấy ông chủ về, ai cũng kính cẩn. Lát sau, hai người tỉ tê tâm sự.

“Ngưu Vương” nói:

- Xa cách phu nhân lâu quá rồi. La Sát nói:
- Đại Vương vạn phúc. Lại nói:
- Đại Vương quá yêu cô vợ mới, ruồng bỏ con ở này. Hôm nay trận gió lành nào đưa chàng về đấy?

Đại Thánh cười, nói:

- Ta đâu có ruồng bỏ, chỉ vì sau khi ở rể nhà Ngọc Diện công chúa, việc nhà bề bộn, bạn bè quấy rầy, nên mới lấn bấn ở đấy. Hơn nữa còn phải cai quản một cơ nghiệp lớn.

Lại nói:

- Gần đây ta nghe nói cái thằng cha Tôn Ngộ Không hộ vệ Đường tăng đi đến gần vùng núi lửa, sợ hắn đến mượn cây quạt. Ta lại đang tức giận vì mối thù hắn hại con mình chưa báo. Hắn có tới, phải sai người đi báo ta ngay, để ta bắt sống hắn phân thây muôn đoạn rửa mối thù cho vợ chồng chúng ta.

La Sát nghe xong, nước mắt lã chã nói:

- Đại Vương ơi, thường có câu: “Trai không vợ như của
[260]
không chủ, gái không chồng như rồng không vây”
mạng của thiếp suýt nữa bị con khỉ đó giết hại đấy!

Đại Thánh nghe xong làm ra vẻ tức giận, quát mắng:
- Con khỉ khốn kiếp ấy, bỏ đi lâu chưa? La Sát nói:

. Tính

- Vẫn chưa đi. Hôm qua hắn đến đây mượn quạt của thiếp,
nghĩ tới việc hắn đã hại con mình, thiếp mặc võ phục múa bảo kiếm xông ra cửa chém hắn. Hắn chịu đau, gọi thiếp là chị dâu, nói là trước kia có kết nghĩa anh em với Đại Vương.

Đại Thánh nói:

- Đúng là năm trăm năm trước, ta có kết nghĩa bảy anh em. La Sát nói:
- Thiếp mắng hắn, hắn cũng không dám cãi lại, chém hắn, hắn cũng không dám ra tay. Sau đó bị thiếp quạt cho một phát bay dạt đi. Rồi không biết hắn học ở đâu được phép định phong, sớm nay đến ngoài cửa gọi ầm ĩ, bị thiếp quạt cho mấy phát, nhưng hắn vẫn đứng im không nhúc nhích. Thiếp bèn tuốt kiếm ra chém. Lần này hắn không nhường nữa. Thiếp sợ cây gậy năng của hắn, bèn chạy tọt vào động, đóng chặt cửa. Chẳng biết hắn mò vào bằng lối nào chui vào bụng thiếp, suýt nữa làm thiếp mất mạng. Thiếp phải gọi nịnh hắn mấy tiếng “chú, chú” và đưa quạt cho hắn mang đi.

Đại Thánh giả vờ đấm ngực, nói:

- Tiếc quá! Tiếc quá! Phu nhân cho mượn mất rồi à? Tại sao lại cho con khỉ đó mượn quạt? Tức chết mất thôi!

La Sát cười, nói:

- Đại Vương hãy nguôi giận, thiếp chỉ đưa chiếc quạt giả cho hắn mượn thôi.

Đại Thánh hỏi:

- Quạt thật để đâu rồi? La Sát nói:
- Yên tâm! Yên tâm! Thiếp cất kỹ rồi.

Đoạn sai bọn hầu gái bày tiệc rượu cho thêm vui vẻ. La Sát nâng chén rượu, nói:
- Thưa Đại Vương, mong Đại Vương vui duyên mới, nhưng đứng bao giờ quên người bạn kết tóc này. Mời Đại Vương uống chén nươc quê nhà.

Đại Thánh không dám chối từ, cười khà khà, nâng chén rượu trên tay, nói:

- Xin mời phu nhân uống trước đi. Ta vì phải cai quản món gia sản ở ngoài, xa cách phu nhân đã lâu, sớm hôm nhờ có phu nhân trông nom cửa nhà cho, nay xin phu nhân uống chén rượu cảm tạ của ta.

La Sát lại rót tiếp chén rượu đưa cho Đại Vương, nói:

- Từ xưa có câu: “Vợ là người tề gia nội trợ, chồng là cha nuôi dưỡng thân mình”, Đại Vương còn cảm tạ cái gì?

Hai ngươi khiêm nhường trò chuyện một lúc, rồi mới ngồi xuống uống rượu. Đại Thánh không dám ăn tạp, chỉ ăn vài thứ hoa quả, rồi cùng nàng trò chuyện.

Rượu được vài tuần, La Sát đã hơi chuếnh choáng, dục tình rung động, bèn lả lơi nhả nhớt nắm tay Đại Thánh, nói năng nũng nịu, ngả mình vào Đại Thánh, thỏ thẻ giọng oanh. Hai người nâng chén, chàng uống một chén, nàng uống một chén, đoạn cùng ăn hoa quả.

Đại Thánh cũng giả vờ giả vịt tươi cười hớn hở, chẳng biết làm thế nào cũng đành cùng nàng kề ngực áp vai. Quả thật là:

Thơ hẹn ước, chổi quét buồn,

Phá trừ mọi sự, chẳng màng rượu ngon.

Nam thì lập mẹo tinh khôn,

Nữ kia chẳng biết miệng luôn tươi cười.

Mắt xanh, má ửng hồng tươi, Thân đưa lả lướt dáng người liễu tơ.
Ậm ờ, nũng nịu nhỏ to,

Lả lơi âu yếm mắt đưa sóng tình.

Tay tiên vuốt mái tóc xanh,

Làn da trắng muốt thon xinh vô ngần.

Mấy lần kiêng kiễng đôi chân, Mấy lần tay áo vén dần run run. Cổ tròn mịn phấn thấp dần,
Tấm thân tròn lẳn như gần chạm nhau

Lời ân ái nói vài câu,

Khuy vàng đã cởi, trắng phau ngực đầy.

Hai vầng núi ngọc mê say,

Mắt tình sóng sánh ngất ngây đợi chờ…

Đại Thánh thấy nàng say đắm mê mệt như thế, bèn ngấm ngầm để ý, gợi chuyện nói:

- Phu nhân ơi, quạt thật nàng cất ở đâu, nhớ phải sớm tối gìn giữ kẻo Tôn Hành Giả biến hóa trăm đường, lọt vào đánh lừa lấy mất đấy!

La Sát cười hi hí, nhè ra từ trong mồm một chiếc lá tí xíu đưa cho Đại Thánh, nói:

- Chả bảo bối là gì đây?

Đại Thánh cầm trong tay, nhưng vẫn chưa tin nghĩ bụng:

- Chẳng lẽ cái vật bé tí tẹo này lại dập tắt được lửa? Hay là của giả?

La Sát thấy người chồng ngắm nghía bảo bối, trầm ngâm suy nghĩ, bèn nhích sát người, áp má phấn vào mặt Hành Giả, nói:

- Mình ơi, hãy cất bảo bối đi, để còn uống rượu đã cứ mải mê
để tâm đến nó làm gì?

Đái Thánh liền gác chân lên, hỏi:

- Cái vật bé tí tẹo này làm sao quạt tắt được tám trăm dặm lửa?

La Sát rượu say la đà, chẳng còn kiêng dè gì nữa kể hết cách thức ra, nói:

- Đại Vương mới xa thiếp có hai năm, chắc đêm ngày mê mải cuộc vui, bị Ngọc Diên công chúa cướp mất hồn vía, nên cách thức sử dụng bảo bối của nhà mà cũng quên hết sạch. Chỉ cần lấy đầu ngón tay cái của bàn tay trái ấn vào nút tơ đỏ thứ bảy trên cán quạt, rồi niệm câu “hồi-hư-ha-hấp-hi-xuy-hô”, là cây quạt lập tức dài tới một trượng hai thước ngay. Bảo bối này biến hóa vô cùng, tám vạn dặm lửa kia cũng chỉ cần quạt một phát là tắt rụi.

Đại Thánh nghe nói, nhất nhất ghi nhớ trong lòng, đoạn bỏ chiếc quạt vào trong mồm, hiện rõ bản tướng, lớn tiếng quát:

- Bà La Sát kia! Nhà ngươi nhìn lại xem ta có phải là đức ông chồng của nhà ngươi không, mà lại giở đủ trò xấu xa với ta! Không biết xấu hổ! Không biết xấu hổ!

Ngươi đàn bà vừa nhìn thấy Tôn Hành Giả, sợ quá đạp đổ bàn tiệc, ngã lăn ra đất, thẹn thùng không biết nhường nào, chỉ kêu lên:

- Tức chết đi được! Tức chết đi được!

Đại thánh thì chẳng cần biết bà La Sát sống hay chết, vung tay rảo cẳng bước thẳng ra ngoài động. Ba Tiêu. Thật là:

Bụng không tham nữ sắc, Hớn hở thỏa lòng Thiền.
Đoạn này vút lên, đạp áng mây lành đứng trên đỉnh núi, nhè
cây quạt ra, theo đúng cách thức diễn lại, ngón tay cái bên bàn tay trái ấn nút tơ đỏ thứ bảy trên cán quạt, miệng niệm chú “hồi- hư-ha-hấp-hi-xuy-hô”, quả nhiên cây quạt dài ra một trượng hai thước. Hành Giả cầm lấy trong tay, xem kỹ một lượt, thấy đúng là có khác cây quạt giả lần trước, mây lành phơi phới, khí đẹp dâng dâng, trên có ba mươi sáu sợi tơ điều kết sợi dọc sợi ngang, trong ngoài dệt kín. Nguyên Hành Giả chỉ biết cách làm cho dài ra, mà không biết cách niệm chú thu nhỏ lại, loay hoay mãi cây quạt vẫn cứ to dài, chẳng biết làm thế nào, đành vác cây quạt lên vai tìm đường cũ ra về. Chuyện không nói nữa.



Lại nói chuyện Ngưu Ma Vương cùng mọi người ăn tiệc dưới đầm Bích Ba, tan tiệc ra về, ra khỏi cửa động không nhìn thấy con thú mắt vàng tránh nước đâu cả. Lão Long Vương tụ tập mọi người, hỏi:

- Kẻ nào ăn trộm con thú mắt vàng của ngài Ngưu?
Mọi người quỳ xuống, thưa:

- Không ai dám lấy trộm đâu. Chúng tôi đều ở cả trên tiệc rót rượu bưng mâm, đánh đàn ca hát, không một ai ở đằng trước cả.

Lão Long Vương nói:

- Người trong nhà chắc không dám, hẳn có người lạ mặt nào lẻn vào chăng?

Rồng con, rồng cháu nói:

- Đúng lúc mọi người vừa an tọa, có một con cua bò vào đây. Chỉ có hắn là người lạ.

Ngưu Vương nghe xong, tỉnh ngộ ra ngay nói:

- Không cần nói nữa, sáng nay hiền hữu sai người tới mời tôi, có thằng Tôn Ngộ Không hộ vệ Đường tăng đi lấy kinh, dọc đường gặp Hỏa Diệm Sơn không qua nổi, đến hỏi ta mượn quạt Ba Tiêu. Ta không cho mượn và cùng hắn đánh nhau một trận bất phân thắng bại, ta bèn bỏ hắn đi dự tiệc. Con khỉ ấy khôn ngoan lanh lợi, biến hóa trăm đường, chắc chắn hắn đã biến thành con cua đến đây để thám thính dò la, ăn trộm con thú rồi đến chỗ vợ ta lừa lấy cây quạt Ba Tiêu đây.

Mọi người nghe nói, ai nấy sợ hãi lo lắng hỏi:

- Có phải Tôn Ngộ Không đại náo thiên cung không? Ngưu Vương đáp:
- Chính phải. Các vị trên con đường sang phương Tây, nếu có chỗ không phải, nên tránh xa hắn ra.

Lão Long Vương nói:

- Nếu như vậy, con thú Đại Vương cưỡi thì tính làm sao? Ngưu Vương cười, nói:
- Không ngại, không ngại, các vị cứ về để tôi đuổi theo hắn.
Đoạn rẽ đôi làn nước nhảy ra khỏi đầm, cưỡi đám mây vàng đến thẳng động Ba Tiêu, núi Thúy Vân. Tới nơi đã nghe thấy bà La Sát giậm chân vỗ ngực, gào nhỏ khóc to. Ngưu Vương đẩy cửa bước vào, bèn cao tiếng gọi:

- Phu nhân, Tôn Ngộ Không chạy đằng nào rồi?

Đám hầu gái thấy Ngưu Vương vể, tất cả đều quỳ xuống chào:

- Đại Vương đã về!

Bà La Sát túm chặt lấy Ngưu Vương, dập đầu vỗ ngực, miếng mắng chửi:

- Cái thằng trời đánh khốn kiếp! Mà sao chàng lại hớ hênh để cho con khỉ ấy ăn trộm con thú mắt vàng, rồi biến thành chàng để đến lừa thiếp như vậy?

Ngưu Vương nghiến răng, nói:

- Con khỉ già ấy chạy đằng nào rồi? La Sát vỗ ngực đồm độp, mắng chửi:
- Con khỉ khốn kiếp ấy lừa lấy bảo bối của thiếp, rồi hiện nguyên hình đi mất. Tức chết đi được!

Ngưu Vương nói:

- Phu nhân hãy bình tĩnh, chớ nên nóng nảy, để ta đuổi theo con khỉ ấy cướp lại bảo bối, lột da róc xương nó ra, mổ bụng moi gan nó ra cho hả giận!

Bèn gọi:

- Mang binh khí ra đây! Người hầu gái nói:
- Binh khí của Đại Vương không để ở đây ạ. Ngưu Vương nói:
- Lấy binh khí của bà cũng được!

Thị tỳ bưng đến hai cây thanh phong bảo kiếm. Ngưu Vương cởi tấm áo nhung mầu xanh cổ vịt mặc đi dự hội ra, chỉ mặc mỗi chiếc áo lót mình, hai tay hai kiếm bước ra khỏi động Ba Tiêu, đến thẳng núi Hỏa Diệm Sơn. Thật là:

Gã vong ơn dối lừa ả đắm đuối,

Ma nóng tính đền gần người Mộc Soa.

Cuối cùng không biết chuyến đi này lành dữ ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ SÁU MƯƠI MỐT Bát giới giúp sức đánh bại yêu quái Hành giả lần ba mượn quạt ba tiêu
Lại nói chuyện Ngưu Ma Vương đuổi theo Tôn Đại Thánh,
thấy Tôn Đại Thánh vác cây quạt ba tiêu trên vai, bước đi mặt tươi hơn hớn, bèn sợ quá, nói:

- Con khỉ già này quả đã dùng pháp thuật lừa lấy được quạt rồi, mình hỏi vỗ vào mặt đòi quạt, nhất định hắn sẽ chẳng chịu trả, nhỡ ra hắn lại quạt cho mình một cái, bay dạt đi mười vạn tám nghìn dặm, thì chẳng hóa lại làm hắn đắc ý hay sao? Ta nghe nói Đường Tăng ngồi đợi hắn bên vệ đường. Đồ đệ hai là Trư yêu tinh, đồ đệ ba là Sa lưu tinh của hắn, hồi nào ta làm yêu quái cũng có biết chúng, vậy tạm biến thành hình dạng Trư yêu tinh lừa hắn một trận, chắc con khỉ già này đang khoái trá vì đắc ý, sẽ không cẩn thận phòng ngừa trước đâu.

Ma vương cũng có bảy mươi hai phép biến hóa, võ nghệ cũng chẳng kém gì Đại Thánh, chỉ phải cái thân thể thô nặng, thiếu nhanh nhẹn tháo vát mà thôi. Hắn bèn giấu bảo kiếm niệm chú, lắc mình một cái, biến giống hệt mặt mũi Bát Giới, đi tắt đường đón Đại Thánh, cất tiếng gọi:

- Sư huynh ơi, em đến đây!

Đại Thánh quả thật rất mừng. Người xưa nói: “Con mèo đắc thắng vui như hổ”, chỉ cậy vào sức mạnh của mình, chẳng để ý dò xét ý tứ của người mới đến, Đại Thánh thấy Bát Giới đến bèn gọi:

- Chú em đi đâu đấy?
Ngưu Ma Vương lựa đúng ý, nói:

- Sư phụ thấy sư huynh đi lâu không về, sợ Ngưu Ma Vương thủ đoạn cao, sư huynh địch không nổi, khó lấy được bảo bối của hắn, nên bảo em đến đón sư huynh.

Hành giả cười, nói:

- Không cần phải phí sức, tôi đã lấy được, cầm trong tay đây rồi.

Ngưu Ma Vương lại hỏi:

- Sư huynh làm cách nào lấy được? Hành giả đáp:
- Lão Ngưu đánh nhau với tôi hơn trăm hiệp không phân thắng bại, bèn bỏ tôi đến đầm Bích Ba, núi Loạn Thạch uống rượu với bọn yêu tinh rồng và thuồng luồng, tôi bèn ngấm ngầm đi theo hắn, biến thành một con cua, đánh cắp của hắn con thú mắt vàng tránh nước, biến thành Ngưu Vương, đến thẳng động Ba Tiêu lừa mụ La Sát. Mụ đàn bà ấy với lão tôn kết một keo vợ chồng hờ, rồi lão tôn bày kế lừa mụ lấy quạt mang về.

Ngưu Vương nói:

- Sư huynh vất vả mệt nhọc quá nhỉ? Đưa tạm quạt đây em cầm cho.

Tôn Đại Thánh đâu biết thật giả, mà cũng chẳng nghĩ tới nơi, bèn đưa quạt cho Ngưu Ma Vương cầm.

Nguyên Ngưu Ma Vương vốn biết cách thức gốc rễ gấp mở của chiếc quạt, hắn cầm chiếc quạt vào trong tay, niệm một câu thần chú gì đó, chiếc quạt nhỏ lại như một chiếc lá hạnh, rồi hiện nguyên hình, mở mồm mắng Hành Giả:

- Con khỉ khốn kiếp kia, không nhận ra ta à? Hành Giả thấy vậy, trong lòng hối hận nói:
- Mình làm hỏng việc rồi!

Đoạn hừ một tiếng, giậm chân kêu lớn:

- Than ôi, mình quanh năm đánh nhạn, nay lại bị con nhạn tí xíu bịt mắt!

Hành giả tức thì nổi trận lôi đình, rút ngay gậy sắt bổ xuống đầu Ngưu Ma Vương. Ngưu Ma Vương cầm quạt quạt một cái, không ngờ Đại Thánh lần trước biến thành một con bọ mát chui vào bụng bà La Sát, vẫn ngậm hạt định phong đơn trong mồm, và nuốt vào từ lúc nào, nên ngũ tạng vững chãi, xương thịt chắc bền, tha hồ cho Ngưu Ma Vương quạt Hành Giả vẫn không hề nhúc nhích. Ngưu Vương sợ quá, nhét bảo bối vào trong miệng, hai tay múa kiếm đánh Hành Giả. Hai người đánh nhau dữ dội trên lưng chừng trời:

Tề Thiên Tôn Đại Thánh, Hỗn thế Ngưu Ma Vương.
Vì quạt Ba tiêu trường, Gặp nhau là đánh lộn.
Đại Thánh sơ hở bị lừa miếng, Thấy thế Ngưu Vương cướp quạt liền.
Người này gậy sắt chẳng nề quyết vung lên, Kẻ kia song kiếm múa tít thật tài giỏi. Đại Thánh ra oai phun khí tới,
Ngưu Vương trổ phép nhả hào quang.

Sá kể gì tình nghĩa anh em

Lòng căm giận đánh nhau quyết liệt.

Đất lở bụi bay trời mù mịt, Đá lăn cát bốc quỷ rên la.
Người này nói: “Mày ngu si dám lừa dối ta!” Kẻ kia nói: “Vợ ta đâu để ngươi chung chạ!” Lời lại tiếng qua loạn xạ,
Tính hung muốn diệt nhau ngay.

Kẻ kia nói: “Ngươi lừa vợ ta đáng chết thay!

Ta kiện quan trên xử chém!” Hành Giả cực nhanh nhẹn, Đại lực càng hung hăng. Một lòng muốn băm vằm,
Chẳng thương lượng phí sức. Gậy bổ, kiếm đâm thật nguy cấp, Lơi là một chút về âm ty.
Tạm gác chuyện hai người đánh nhau bất phân thắng bại. Lại nói chuyện Đường tăng ngồi bên vệ đường, một là khí nóng thiêu đốt, hai là bụng đói cổ khô, bèn nói với thổ địa Hỏa Diệm Sơn:

- Dám hỏi tôn thần, pháp lực Ngưu Ma Vương thế nào? Thổ địa thưa:
- Ngưu Vương thần thông tài giỏi, pháp lực vô biên, xứng đáng địch thủ của Tôn Đại Thánh.

Tam Tạng nói:

- Ngộ Không giỏi đi đường lắm, thường đi hai nghìn dặm đường chỉ một loáng là về, tại sao hôm nay đi cả ngày? Hẳn là lại đánh nhau với Ngưu Vương rồi.

Bèn gọi:

- Ngộ Năng! Ngộ Tĩnh! Trong hai con, ai đi đón sư huynh?
Nếu có gặp địch, phải hết sức đánh giúp, để mượn được quạt về, quạt bớt khí nóng cho ta qua núi được sớm, mau chóng lên đường.

Bát Giới nói:

- Bây giờ trời đã tối, con muốn đi đón sư huynh nhưng không biết đường tới núi Tích Lôi.

Thổ địa nói:

- Tiểu thần biết. Tạm để Quyền Liêm tướng quân trông nom sư phụ, tôi và ngài đi đón.

Tam Tạng mừng lắm, nói:
- Tôn thần vất vả quá, khi nào thành công chúng tôi sẽ hậu tạ. Bát Giới phấn chấn tinh thần, thắt lại chiếc áo gấm đen, xách
cây đinh ba, cùng thổ địa nhảy lên mây mù, theo hướng Đông mà đi. Đang đi, bỗng nghe thấy tiếng hò hét ầm ĩ, cuồng phong cuồn cuộn, Bát Giới bèn dừng mây xem xét, hóa ra là Tôn Hành Giả đang đánh nhau với Ngưu Ma Vương. Thổ địa nói:

- Thiên Bồng không xông vào còn đợi đến bao giờ? Chú ngốc liền rút cây đinh ba, lớn tiếng gọi:
- Sư huynh ơi, có em đến đây! Hành Giả tức giận, nói:
- Đồ bị thịt nhà chú, làm lỡ mất bao việc lớn của người ta! Bát Giới nói:
- Sư phụ bảo em lại đón sư huynh, nhưng em không biết đường phải nhờ thổ địa dẫn, nên đến chậm, chứ đâu dám làm lỡ việc lớn.

Hành Giả nói:

- Không phải ta trách chú đến chậm, mà là con trâu khốn
khiếp ấy vô lễ quá lắm! Ta đến chỗ mụ La Sát lấy được quạt về rồi, nhưng lại bị thằng cha ấy biến thành hình dạng chú, mồm nói là đến đón ta. Ta đang lúc mừng rỡ, đưa ngay cây quạt vào tay hắn. Hắn bèn hiện nguyên hình, đánh nhau với lão Tôn, vì thế lỡ mất việc lớn.

Bát Giới nghe xong giận lắm, giơ đinh ba chỉ mặt Ngưu
Vương, quát mắng:

- Đồ ôn dịch sưng da ộc máu kia! Tại sao nhà ngươi dám biến thành hình ông tổ nhà ngươi để lừa sư huynh ta, để cho anh em ta bất hòa hử?

Đoạn chẳng nói chẳng rằng vung đinh ba bổ loạn xạ. Ngưu Vương một là đã đánh nhau với Hành Giả suốt một ngày, thân mệt sức yếu; hai là thấy Bát Giới múa đinh ba hung hãn quá, che chắn không xuể, thua trận bỏ chạy. Lúc ấy thổ địa Hỏa Diệm Sơn chỉ huy âm binh chặn ngay trước mặt nói:

-  Đại  Lực  Vương  tạm  dừng  tay,  Đường  Tam  Tạng  sang phương Tây lấy kinh, không có vị thần nào là không phù trì, không trời nào là không giúp đỡ, ba cõi đều hay, mười phương hộ vệ. Vậy ngài hãy mau mâng quạt Ba Tiêu quạt lửa tắt lửa dữ, để người hết chướng hết tai, sớm qua được núi. Bằng không Thượng Thiên trách tội, thì nhất định ngài sẽ bị xử chém đấy.

Ngưu Vương nói:

- Lão thổ địa kia chẳng xét lý lẽ gì hết! Con khỉ khốn khiếp ấy giết con ta, lừa vợ ta, bao phen làm điều vô đạo, ta giận không được nuốt cả người hắn vào bụng, để cho hắn tiêu hóa thành phân nuôi chó, chứ đâu lại chịu đưa bảo bối cho hắn mượn!

Vừa dứt lời, Bát Giới đuổi tới quát mắng:

- Đồ trâu toi ôn dịch kia, mau mang quạt ra đây thì ta tha chết cho!
Ngưu Vương quay đầu, vung bảo kiếm đánh nhau với Bát Giới, Tôn Đại Thánh cũng múa gậy xông vào đánh giúp. Trận đánh nhau này thật khủng khiếp:

Trâu tác quái, lợn thành yêu, Khỉ già đắc đạo góp vào là ba. Thiên tinh vốn luyện từ xưa,
Phải cần thổ hợp nguyên do mới thành

Đinh ba chín mũi nhọn kinh!

Bảo kiếm hai lưỡi sắc xanh sáng ngời.

Gậy sắt lợi hại nhất đời,

Thổ thần giúp sức bắt loài yêu ma.

Ba nhà hung khắc tranh đua Một phen thi thố tài ba cao cường Bắt trâu cày cấy ruộng nương
Mộc khí thu lại lợn tương vào lò

Tâm bất tại đạo khôn dò

Khỉ kia muốn trói thần lo giữ gìn

Đánh nhau động địa kinh thiên Xoang xoảng binh khí ba bên chạm vào Đinh ba song kiếm ào ào
Gậy sắt bổ xuống ào ào cầm dương

Đánh nhau suốt cả đêm trường

Một trời khí lạnh sao trăng mịt mờ

Ma Vương hăng hái suốt một đêm, vừa đi vừa đánh, đánh suốt một đêm không phân thắng bại. Chẳng mấy chốc trời đã hửng sáng. Trước mặt họ là cửa động Ma Vân, núi Tích Lôi. Cả
ba người cùng với thổ địa, âm binh lại làm ầm ĩ, ồn ào, kinh động tới Ngọc Diện công chúa. Nàng bèn gọi hầu gái ra xem kẻ nào cãi cọ ngoài đó. Bỗng thấy bọn tiểu yêu canh cửa vào báo:

- Ông nhà đang đánh nhau với cái lão mồm như thiên lôi ngày hôm qua, với một lão hòa thượng tai to mồm dài và thổ địa Hỏa Diệm Sơn!

Ngọc Diện công chúa nghe báo, lập tức sai bọn lâu la lớn nhỏ hộ vệ bên ngoài vác gươm giáo ra giúp sức, trước sau kể có đến hơn trăm tên. Tên nào tên nấy hùng hùng hổ hổ vung thương múa gậy, đồng thanh nói:

- Thưa đại vương, chúng tôi vâng lệnh đức bà đến giúp sức. Ngưu vương mừng lắm, nói:
- Đến thật đúng lúc! Đến thật đúng lúc!

Bọn yêu tinh nhất tề xông lên chém bừa. Bát Giới trở tay không kịp, kéo lê đinh ba thua trận bỏ chạy. Đại Thánh dùng phép cân đẩu vân, nhảy vút ra khỏi vòng vây. Bọn âm binh cũng bỏ chạy toán loạn. Lão ngưu đắc thắng, tập hợp yêu tinh trở về động, đóng chặt cửa. Chuyện không nói nữa.

Hành Giả nói:

- Thằng này kiêu dũng lắm! Suốt từ trước và sau giờ Thân ngày hôm qua đánh nhau với lão Tôn đến tận hôm nay vẫn chưa phân thắng bại. Giờ đây lại có hai chú giúp sức, suốt nửa ngày một đêm đánh nhau căng thẳng như vậy, mà vẫn không thấy hắn tỏ ra mỏi mệt. Đám tiểu yêu vừa rồi cũng rất hung tợn. Giờ đây hắn đóng chặt cửa không ra, biết làm thế nào?

Bát Giới nói:

- Sư huynh ơi, hôm qua sư huynh chia tay với sư phụ giờ Tỵ, tại sao mãi tới giờ Thân sư huynh mới đánh nhau với hắn? Hai ba giờ ấy, sư huynh đi đâu?
Hành giả nói:

- Sau khi chia tay chú, trong giây lát ta đã tới đỉnh núi này. Ta gặp một người con gái nên hỏi thăm, té ra ả này là Ngọc Diện công chúa, vợ yêu của Ngưu Vương. Ả bị ta giơ gậy sắt dọa một chập sợ quá, chạy thẳng vào động, gọi Ngưu Vương ra. Hắn lời qua tiếng lại cãi nhau với lão Tôn một hồi, rồi đánh nhau với ta đến một tiếng đồng hồ. Đang đánh nhau, có người mời hắn đi ăn tiệc. Thế là ta lại đi theo hắn tới đáy đầm Bích Ba, núi Loạn Thạch rồi ta biến thành một con cua dò la tin tức, đánh cắp của hắn con thú mắt vàng tránh nước, biến thành hình dạng Ngưu Ma Vương, quay trở lại động Ba Tiêu, núi Thúy Vân, lừa mụ La Sát lấy được chiếc quạt mang ra khỏi cửa, thử tập cách thức của hắn làm cây quạt dài ra, nhưng không biết cách thu bé lại. Đang vác quạt trở về, thì bị hắn biến thành hình dạng mặt mũi giống hệt như chú, lừa cướp lại được chiếc quạt, vì vậy mới bị lỡ mất hai ba giờ đấy.

Bát Giới nói:

- Thật đúng như câu tục ngữ nói: “Thuyền đầy qua cơn sóng
[261]
. Bây giờ không lấy được cây quạt của hắn, thì làm sao
hộ vệ sư phụ vượt qua núi được”. Thôi, hãy quay về tìm lối khác mà đi vậy!

Thổ địa nói:

- Đại Thánh chớ có sốt ruột, Thiên Bồng chớ có lung lay. Nếu đi lối khác thì tức là chui vào bàng môn, không phải là hạng người tu hành. Cổ ngữ có câu: “Không đi đường tắt”, lẽ nào chúng ta lại đi theo đường khác sao? Sư phụ của các ngài đang ngồi ở giữa đường kia, mắt nhìn đau đáu, chỉ mong các ngài bình tâm thôi!

Hành Giả bực mình nói:
- Phải đấy! Phải đấy! Chú ngốc chớ nói lăng nhăng nữa! Thổ địa nói có lý lắm, chúng ta lúc này chính phải cùng hắn:

Thua được quyết trổ tài ba Theo môn địa sát đợi ta trổ tài Tây phương đấu thủ nào ai
Ngưu vương cũng chỉ tâm này biến lên

Nguồn gốc gặp gỡ một phen Tranh giành chỉ cốt mượn xin quạt về Quạt gió dập tắt lửa kia
Yết kiến Phật tổ mới là nên công

Tây thiên cực lạc Thiền Tông

Long hoa yến hội ung dung dự ngồi

Bát Giới nghe xong càng phấn chấn hơn, ân cần nói:

Phải, phải, phải! Đi, đi, đi

Ngưu Vương quyết liệt, quản gì gian nan

Mộc sinh hợi thành lợn hiền

Dắt trâu quay mũi về miền thổ ngay

Thân sinh kim tức khỉ đây

Vô hình vô sắc nhiều thay khí hòa

Quạt Ba tiêu, thủy đó mà Tiêu trừ lửa dữ ắt là công nên Đêm ngày chí quyết lòng bền
Thành công dự “hội Vu Lan” vui vầy

Hai người bèn dẫn thổ địa, âm binh nhất tề xông lên, quay đinh ba, múa gậy sắt xoang xoảng, ầm ầm đập nát vụn tấm cửa
trước động Ma Vân. Bọn lâu la canh giữ bên ngoài sợ quá run như cầy sấy, chạy vào trong động báo:

- Thưa đại vương, Tôn Ngộ Không dẫn âm binh đến đập nát trước cửa rồi!

Ngưu Vương đang kể lể cho Ngọc Diện công chúa nghe, căm giận Tôn Hành Giả lắm, lại nghe nói trước cửa bị đánh vỡ, càng căm giận hơn, vội vàng mặc áo giáp, vác côn sắt, từ bên trong chạy ra quát mắng:

- Con khỉ già khốn khiếp kia! Nhà ngươi sức mấy mà dám giở trò bậy bạ phá vỡ cửa động của ta?

Bát Giới xông tới gần, chửi mắng loạn xị:

- Đồ đáng để lột da khốn khiếp kia! Nhà ngươi là cái giống gì mà dám định thi tài cao thấp! Chớ có chạy, nhìn cây đinh ba đây!

Ngưu Vương quát lại:

- Đồ bị thịt ăn cám kia mày thì biết quái gì! Mau mau gọi con khỉ lại đây!

Hành Giả nói:

- Đồ ăn cỏ không biết hay dở kia! Hôm qua ta còn giữ tình cảm anh em với nhà ngươi, hôm nay thì là kẻ thù rồi. Hãy cẩn thận nếm miếng gậy của ta này!

Ngưu Vương hiên ngang đón đỡ. Trận đánh này quyết liệt hơn trận trước nhiều. Ba kẻ anh hùng hỗn chiến:

Đinh ba, gậy sắt ra oai

Thêm âm binh nữa, đánh nhoài Ngưu Vương

Ngưu Vương hùng dũng phi thường

Một mình pháp lực giỏi giang trổ tài
Đinh ba choảng, côn sắt thoi Gậy sắt múa tít tiến lùi lẹ mau Loảng xoảng binh khí va nhau
Giao tranh quyết liệt ai nào nhường ai

Người này nói: “Ta có tài”!

Kẻ kia nói: “Khỏe nhất đời là ta” “Thổ binh phân giải khó là,
Thổ mộc tương khắc theo đà dưới trên Người này nói: “Sao quạt chẳng cho mượn liền? Kẻ kia nói: “Sao dám lừa gạt vợ hiền của ta?” “Hại con trẻ, dọa đàn bà”
Lại còn phá cửa phá nhà hành hung” Người này nói: “Mau mau cẩn thận ngừa phòng Gậy ta chạm phải rách bùng da ngay”
Kẻ kia nói: “Muốn sống tránh đinh ba này Một phát chín lỗ phun đầy máu tươi” Ngưu Vương đâu có nản rời
Côn sắt múa tít lao người đánh sang Mưa tuôn, mây phủ kinh hoàng Mù che gió rít lại càng sợ hơn Căm nhau sống mái liều thân
Oán hờn chất chứa chỉ cần hại nhau

Tranh tài đánh đỡ trước sau

Tả xung hữu đột nhường nhau đâu nào

Hai anh em gộp sức vào
Ngưu Vương đơn độc lộn nhào múa may

Đánh từ giờ Mão sang ngày

Ngưu Vương thua chạy vào ngay giờ Thìn

Ba người liều chết quên sống, lại đánh nhau hơn một trăm hiệp nữa. Bát Giới nổi tính ngốc lên, dựa vào thần thông của Hành giả, vung đinh ba bổ loạn. Ngưu Ma Vương đỡ không lại, thua trận quay đầu chạy thẳng về cửa động nhưng thổ địa, âm binh chặn ngay ở đó.

Thổ địa quát:

- Đại Lực Vương, chạy đi đâu! Có chúng ta ở đây!

Lão Ngưu không vào động được, vội vàng quay người lại, thấy Bát Giới, Hành Giả đuổi tới, sợ quá, cởi cả áo giáp, quăng cả côn sắt, lắc mình một cái, biến thành một con thiên nga, bay vút lên tầng không.

Hành Giả nhìn thấy cười nói:

- Bát Giới, lão Ngưu trốn rồi.

Chú ngốc ngẩn tò te chẳng hay, thổ địa cũng chẳng hiểu gì cả, ai nấy nhìn đông ngó tây, tìm khắp cả đằng trước đằng sau núi Tích Lôi. Hành Giả chỉ tay:

- Hắn bay trên không kia kìa! Bát Giới nói:
- Con thiên nga đấy chứ

Hành giả nói:

- Chính là Ngưu Vương biến ra đấy. Thổ địa hỏi:
- Như vậy thì làm sao bây giờ? Hành Giả đáp:
- Hai người đánh vào trong cửa, giết sạch bọn tiểu yêu, phá sạch sào huyệt, triệt đường về của hắn, để lão Tôn trổ tài biến hóa đấu với hắn.

Bát Giới và thổ địa y lời, xông vào phá cửa. Chuyện không nói nữa.

Đại Thánh thu gậy sắt, bấm quyết niệm chú, lắc mình một cái, biến thành một con chim hải đông thanh, vỗ cánh bay lên, chui vào làn mây, đoạn lại bổ nhào sà xuống mình con thiên nga, quắp chặt lấy cổ, định móc mắt. Ngưu Vương cũng biết đó là Tôn Hành Giả biến ra, vội vàng vỗ vỗ cánh, biến thành một con chim nhạn vàng, bay vòng lại, mổ con hải đông thanh. Hành Giả lại biến thành một con chim phượng đen đuổi theo con nhạn vàng. Ngưu Vương biết vậy, lại biến thành một con hạc trắng, hót vang một tiếng bay thẳng về phương nam. Hành Giả sững lại, đoạn vỗ vỗ cánh biến thành một con phượng đỏ, cao giọng hót vang. Con hạc trắng biết chim phượng là vua các loài chim. Mọi loài chim không loài nào dám đọ sức với nó, bèn xoải cánh sà xuống sườn núi, lắc mình một cái, biến thành một con nai tơ, ngơ ngơ ngác ngác gặm cỏ bên sườn non. Hành Giả nhận ra ngay, cũng bay sà xuống, biến thành một con hổ đói, cong đuôi tung vuốt chồm lên vồ con nai định ăn thịt. Ngưu Vương sợ quá, cuống quýt chân tay, lại biến ngay thành một con báo lớn có bộ lông văn hoa kim tuyến, định cắn xé con hổ đói. Hành Giả thấy vậy, vội vàng đón gió, lắc tít cái đầu, biến thành một con sư tử mắt vàng, gầm lên như sấm, trán sắt đầu đồng, quay ngoắt lại định ăn thịt con báo lớn. Ngưu Vương hấp tấp lại liền biến thành một con gấu người, xoải chân bước tới định bắt con sư tử. Hành Giả lộn một vòng lại biến thành một con voi to, vòi dài như con rắn lớn, ngà nhọn hoắt như búp măng tre, giương vòi, vểnh ngà xông vào, định quật con gấu người.

Ngưu Vương cất tiếng cười hi hi, hiện nguyên hình là một
con trâu trắng, đầu to như trái núi, mắt sáng tựa chớp nhoáng, đôi sừng như hai ngọn tháp sắt răng bày sắc như dao, từ đầu chí đuôi dài tới hơn một nghìn trượng, từ sống lưng tới gót chân cao hơn tám trăm trượng, lớn tiếng nói với Hành Giả:

- Con khỉ già khốn khiếp kia, bây giờ nhà ngươi định làm gì ta nào?

Hành Giả cũng hiện nguyên hình, rút gậy sắt ra, ưỡn người lớn tiếng quát:

- Dài ra!

Lập tức thân thể cao hơn vạn trượng, đầu như núi Thái Sơn, mắt như hai vầng nhật nguyệt, mồm tựa ao máu, răng như tấm cửa,  tay  cầm  gậy  sắt  nện  thẳng  xuống  đầu  con  trâu.  Ngưu Vương nghênh đầu, quay sừng lại húc. Trận đánh nhau thật là chuyển núi động ngân, kinh thiên động địa. Có bài thơ làm chứng rằng:

Đạo cao một thước ma nghìn trượng Tôn vượn giỏi giang cố sức hàng Muốn núi lửa kia không đỏ nữa Phải cầm quạt báu phẩy hơi tan Hoàng bà chí lớn phủ nguyên lão Mộc mẫu gan bền quét quái gian Hòa hợp ngũ hành theo chính phủ Diệt ma trai giới đến Tây phương
Hai người trổ hết thần thông đánh nhau ở trên sườn núi, kinh động cản trở cả sự đi lại trên tầng không, hết thảy các vị thần cùng Kim đầu Yết đế, Lục đinh Lục giáp, mười tám vị Hộ giáo Già Lam đến vây chặt lấy Ma Vương. Ma Vương điềm nhiên chẳng sợ, húc đông, húc tây, nghển cổ giương cặp sừng sắt bóng
lộn húc lia lịa, cái đuôi tua tủa lông cứng quất phải quất trái, quật nam quật bắc. Tôn Đại Thánh đánh ở trước mặt, các vị thần vây xung quanh. Ngưu Vương cuống quýt, lăn một vòng trên mặt đất, hiện lại nguyên hình, chạy tọt vào động Ba Tiêu. Hành Giả cũng thu phép thuật, cùng các vị thần đuổi theo luôn. Ma Vương chạy tuột vào động, đóng chặt cửa không ra nữa. Mọi người vây chặt núi Thúy Vân đến giọt nước cũng không tiết ra được.

Đang đánh phá cửa động, bỗng mọi người nghe thấy tiếng
Bát Giới, thổ địa, âm binh ồn ào đi tới. Hành Giả thấy thế hỏi:

- Sự thể ở động Ma Vân thế nào? Bát Giới cười đáp:
- Con vợ của lão Ngưu bị em cho một nhát đinh ba chết tươi, lột áo ra xem té ra là một con cáo mặt ngọc thành tinh. Còn bọn tiểu yêu rặt những loại lừa ngựa la nghé, cáo cầy, hươu nai, hổ báo, lạc đà,… cả. Bọn em đã diệt sạch sành sanh, lại phóng hỏa đốt trụi cả tòa động phủ. Thổ địa nói Ngưu Vương còn đám vợ con ở tại núi này, nên bọn em phải đến đây quét sạch nốt.

Hành Giả nói:

- Các chú đã lập công, giỏi lắm! Giỏi lắm! Mình lão Tôn đấu tài biến hóa với lão Ngưu chưa phân thắng bại. Hắn biến thành một con trâu trắng cực kỳ to lớn, tôi liền biến thành một tấm thân cao tựa đất trời. Đang đánh nhau với hắn, thì may mắn được các vị thần giúp sức, vây chặt hắn lại. Hắn đành phải hiện lại nguyên hình, chạy tọt vào trong động mất rồi.

Bát Giới hỏi:

- Đây có phải là động Ba Tiêu không? Hành Giả đáp:
- Chính phải! Chính phải! Mụ La Sát cũng đang ở đây.
Bát Giới nổi  giận nói:

- Đã vậy tại sao không đánh thốc vào, hoặc tiêu diệt hắn, hoặc hỏi mượn quạt, lại còn chần chừ để cho chúng có thời gian tình tự và nghĩ mẹo đối phó.

Đoạn chú ngốc tinh thần phấn chấn, giơ đinh ba bổ vào tấm cửa một nhát, đánh rầm một tiếng, cả một vạt sườn núi đá lẫn tấm cửa đổ sập một bên. Người hầu gái sợ quá, vội vàng chạy vào bảo:

- Bẩm đại vương, không biết người nào đã phá đổ tấm cửa trước rồi.

Ngưu Vương vừa chạy vào vẫn còn thở hổn hển, đang kể với La Sát chuyện đánh nhau với Tôn Hành Giả cướp lại chiếc quạt, nghe bảo như vậy thì trong lòng nổi giận, nhè chiếc quạt trong mồm ra đưa cho La Sát. La Sát cầm chiếc quạt trong tay, nước mắt giàn giụa, nói:

- Đại vương ơi, chàng hãy đưa cây quạt này cho con khỉ ấy, bảo hắn rút binh đi.

Ngưu Vương nói:

- Phu nhân ơi, vật này tuy nhỏ, nhưng mối thù thì lớn. Nàng hãy tạm ngồi đây, để tôi lại ra đánh nhau với hắn.

Đoạn Ngưu Vương nai nịt gọn ghẽ, cầm hai thanh bảo kiếm bước ra cửa, đúng lúc thấy Bát Giới đang vung đinh ba bổ xuống cánh cửa, bèn chẳng nói chẳng rằng, giơ bảo kiếm nhằm đầu Bát Giới chém xuống. Bát Giới giơ đinh ba lên đỡ rồi lui lại đằng sau mấy bước, ra khỏi cửa đã có Đại Thánh vác gậy đón đánh. Ngưu Vương lập tức cưỡi trận cuồng phong, rời khỏi động phủ, tiếp tục đánh nhau với hai người trên núi Thúy Vân. Các vị thần vây kín bốn mặt, quân của thổ địa đánh ập vào từ hai bên. Trận đánh này cực kỳ khủng khiếp:
Mây trùm vũ trụ

Mù kín đất trời

Âm phong ào ạt, cát đá tơi bời

Khí giận bừng bừng, biển khơi cuồn cuộn

Kiếm hai lưỡi sắc nhọn Áo giáp kín toàn thân Oán kết sâu bao lần Hận thù cao đến thế
Đại Thánh muốn lập công tựa biển Chẳng sá bạn thân từ thuở nào Bát Giới mưu lấy quạt Ba Tiêu Các thần hộ pháp bắt Ngưu quái
Ngưu Vương song kiếm múa quay lại Đỡ phải, che trái thật hung hăng Đến nỗi chim không sao bay đặng Cá không bơi được cụp đuôi vây Quỷ thần gào nhặng xị đó đây
Rồng sầu, hổ sợ, trời đất tối

Ngưu Vương liều chết quên bản thân đánh nhau hơn năm mươi hiệp, chống đỡ không nổi, thua trận, chạy về hướng Bắc, nhưng đã có vị Bát Pháp Kim Cương, thần thông quảng đại ở ngọn Bi Ma Nham, núi Ngũ Đài ngăn lại, quát lớn:

- Ngưu quái! Nhà ngươi chạy đi đâu! Ta được đức Phật tổ Thích Ca Mâu Ni sai đến chăng kín thiên la địa võng bắt nhà ngươi ở đây!

Đang nói đằng sau đã thấy Đại  Thánh, Bát Giới cùng các vị
thần  đuổi  tới,  Ma  Vương  sợ quá,  định  quay  người  chạy  về hướng Nam, nhưng lại gặp phải Thắng Chi Kim Cương, pháp lực vô lượng ở động Thanh Lương, núi Nga Mi ngăn lại, quát lớn:

- Ta vâng lệnh đức Phật, bắt sống nhà ngươi ở đây

Ngưu Vương sợ quá, chân tay bủn rủn, vội quay người chạy về hướng Đông, lại gặp phải Đại Lực Kim Cương, tì lư sa môn ở ngọn Ma Nhĩ Nham, núi Tu Di đón đường quát lớn:

- Ngưu quái chạy đi đâu? Ta vâng lệnh của đức Như Lai đến đây bắt sống nhà ngươi.

Ngưu Vương sợ quá thoái lui, chạy sang hướng Tây, lại gặp phải Bất Hoại tôn cương là Vĩnh Trụ Kim Cương ở ngọn Kim Hà Lĩnh, núi Côn Lôn chặn lại, quát lớn:

- Tên kia định chạy đi đâu? Ta vâng theo lời dặn của đức Phật ở chùa Đại Lôi Âm bên Tây phương chặn giữ nhà ngươi ở đây, đâu để nhà ngươi chạy thoát.

Lão Ngưu rụng rời hồn bay phách tán, hối cũng không kịp, thấy bốn phương tám hướng đều quân Phật, tướng trời vây bọc, khác nào lưới cạm chăng kín, không sao thoát lọt. Đang lúc bàng hoàng thảng thốt, lại thấy Hành Giả dẫn mọi người đuổi tới. Ngưu Vương bèn nhảy vút lên đám mây  định chạy lên trời. Lúc ấy đã có Thác Tháp Lý Thiên Vương cùng Na Tra thái tử dẫn Ngư Đỗ Dược Soa, Cự Linh thần tướng vây kín trên không, cất tiếng nói:

- Hãy khoan! Hãy khoan! Ta vâng lệnh Thượng Đế đến đây tiêu trừ nhà ngươi!

Ngưu Vương vội vàng, như lần trước lắc mình một cái, biến thành một con trâu trắng to, nghênh đôi sừng cứng như sắt, húc Thiên Vương. Thiên Vương vung đao chém lại. Hành Giả theo sau cũng vừa tới. Na Tra thái tử lớn tiếng nói:
- Thưa Đại Thánh, hôm nay tôi mặc áo giáp không thi lễ được xin bỏ qua cho. Hôm qua cha của tôi thấy đức Như Lại phát hịch tâu lên Thượng Đế, nói rằng Đường Tăng bị trở ngại ở Hỏa Diệm Sơn, Tôn Đại Thánh không hàng phục nổi Ngưu Ma Vương. Thượng Đế xuống chiếu sai phụ vương tôi dẫn mọi người đến giúp sức.

Hành Giả nói:

- Tên ấy thần thông tài giỏi, lại biến ra thân thể to thế kia, biết làm thế nào bây giờ?

Thái tử cười nói:

- Đại Thánh chớ nghi ngờ, hãy xem tôi bắt hắn đây!



Đoạn thái tử hét lên một tiếng “biến” lập tức biến thành ba đầu sáu tay, phi thân nhảy lên lưng Ngưu Ma Vương, vung kiếm trảm yêu nhằm đầu Ngưu Vương chém một nhát. Cái đầu lập tức rụng xuống. Thiên Vương buông đao, chạy đến làm lễ tương
kiến với Hành Giả. Chỗ vết chém nơi cổ Ngưu Vương lại mọc ra một chiếc đầu khác, miệng phun phì phì hắc khí, mắt phóng hào quang. Na Tra lại nhảy tới chém một nhát nữa, đầu rụng ngay nhưng lại mọc liền cái đầu khác. Na Tra chém mười mấy nhát, mười mấy cái đầu lại mọc ra. Na Tra bèn rút chiếc bánh xe lửa ra đeo vào sừng con trâu, đoạn thổi chân hỏa bốc cháy ngùn ngụt, đốt cho Ngưu Vương lăn lộn rống ầm lên, lắc đầu quẫy đuôi cuống quýt, định biến hóa thoát thân, lại bị Thác Tháp Thiên Vương lấy kính chiếu yêu ra soi rõ bản tướng, nên không có cách nào trốn thoát, đứng im không nhúc nhích, chỉ còn biết van xin:

- Đừng hại tính mạng tôi! Tôi xin tình nguyện quy y nhà
Phật!

Na Tra nói:

- Đã biết tiếc mạng thì mau mau mang quạt ra đây! Ngưu Vương thưa:
- Chiếc quạt hiện đang ở chỗ vợ tôi ở.

Na Tra nghe nói, bèn cởi sợi dây trói yêu ma ra quấn lên cổ, tay nắm chặt mũi, xỏ sợi dây qua lỗ mũi, cầm dây dắt đi. Tôn Hành giả tập hợp bốn vị Kim Cương, cùng các vị thần Lục đinh Lục giáp, Hộ giáo Già lam, Thác Tháp Thiên Vương, Cự Linh thần tướng, cùng Bát Giới, thổ địa, âm binh lũ lượt theo con trâu trắng quay về cửa động Ba Tiêu.

Lão Ngưu cất tiếng gọi:

- Phu nhân ơi, mang quạt ra cứu tính mạng cho ta!

Mụ La Sát nghe tiếng gọi, vội vàng xõa búi tóc, cởi sắc phục, buộc tơ xanh tựa đạo cô, vận nâu sồng như bà sãi, vác cây quạt Ba Tiêu dài hai trượng bước ra cửa, chợt nhìn thấy các vị Kim Cương, cùng cha con Thiên Vương thì sợ quá, quỳ mọp xuống
đất, dập đầu lạy, nói:

- Muôn xin Bồ Tát tha tội chết cho vợ chồng con, xin dâng quạt này để Tôn thúc thúc thành công.

Hành Giả bước tới đỡ lấy quạt, cùng mọi người cưỡi mây lành quay về con đường hướng Đông.

Lại nói chuyện Tam Tạng, Sa Tăng lúc đứng lúc ngồi, ngong ngóng mong Hành Giả đi lâu mà chẳng thấy về, vô cùng lo lắng. Bỗng thấy mây lành rợp tầng không, khí đẹp trùm mặt đất, các vị thần phơi phới đã tới gần, Tam Tạng sợ hãi nói:

- Ngộ Tĩnh ơi, đăng kia là thần binh nào ấy nhỉ? Sa Tăng nhận ra, nói:
- Sư phụ ơi, đó là Đại Kim Cương, Kim đầu Yết đế, Lục giáp Lục đinh, Hộ giáo Già lam và các vị thần qua đường đấy. Người dắt trâu là Na Tra thái tử, người cầm kính chiếu yêu là Thác Tháp Lý Thiên Vương. Sư huynh cả thì cầm quạt Ba Tiêu, sư huynh hai đi sau cùng thổ địa. Còn lại là các thần binh hộ vệ.

Tam Tạng nghe nói, liền đội mũ tỳ lư, mặc áo cà sa, cùng
Ngộ Tĩnh cúi lạy nghênh đón các vị thần, miệng nói lời cảm tạ:

- Đệ tử tôi có đức hạnh tài năng gì đâu mà phải làm các vị tôn thánh giáng phàm vất vả.

Bốn vị Kim Cương nói:

- Xin chúc mừng thánh tăng, mười phần công quả sắp hoàn tất rồi! Chúng tôi vâng lệnh Phật tổ đến giúp đỡ ngài. Mong ngài hãy gắng hết sức tu trì, chớ nên một giây lơi lỏng.

Tam Tạng kính cẩn cúi đầu, hết lòng vâng mệnh.

Tôn Đại Thánh cầm cây quạt, bước tới bên núi lấy hết sức quạt mạnh một cái, lửa trên Hỏa Diệm Sơn tắt dần, tắt dần, rồi lặng lẽ tắt ngấm. Quạt lần nữa, lại thấy gió mát thổi vi vút; quạt
lần thứ ba thì mây kéo đầy trời, mưa bay lất phất. Có bài thơ làm chứng rằng:

Tám trăm dặm Hỏa Diệm Sơn Lửa lan đất rộng lời đồn không ngoa Linh đơn luyện chín nẫu nà
Tam quan cháy rực, đường qua nóng hoài

Ba Tiêu phất nhẹ mưa rơi

Thiên binh thần tướng mọi người giúp nên

Dắt trâu theo Phật băng miền

Thủy hỏa liên kết binh yên chu toàn

Bây giờ Tam Tạng hết nóng hết phiền, tâm lý lâng lâng, bốn thầy trò quy y, cảm tạ Kim Cương, ai nấy về núi báu. Lục đinh Lục giáp lên tầng không hộ vệ. Các vị thần qua đường chia tay rải rác về bốn phía. Thiên Vương, thái tử dắt trâu về trả nơi đất Phật. Chỉ có thổ địa Hỏa Diệm Sơn áp giữ La Sát còn đứng đợi lệnh.

Hành Giả quát:

- Mụ La Sát kia không đi còn đứng đấy đợi cái gì? La Sát quỳ xuống thưa:
- Muôn xin Đại Thánh rủ lòng thương trả lại quạt cho tôi. Bát Giới quát:
- Con tiện tỳ khốn khiếp không biết thấp cao gì cả! Ta tha chết cho bà là tốt rồi, còn đòi quạt gì nữa! Chúng tao mang quạt qua núi, không biết bán lấy tiền ăn sáng hay sao? Chúng tao tốn biết bao tinh thần sức lực lại chịu trả cho mụ chắc? Mưa mù mịt rồi, lại chưa xéo đi phỏng!

La Sát cúi lạy, nói:
- Đại Thánh có nói là khi nào dập tắt lửa thì trả lại cho tôi. Cái việc ngày hôm nay có hối cũng đã muộn, chỉ vì không lường trước, nên phải vất vả sai quân khiển tướng. Chúng tôi bấy nay cũng tu theo đạo người, có điều chưa theo chính quả. Giờ đây chân thân hiện tướng đã về Tây, tôi không dám làm càn nữa. Xin Đại Thánh trả lại chiếc quạt, từ nay xin đổi khác, chỉ tu thân dưỡng tính mà thôi.

Thổ địa nói:

- Thưa Đại Thánh, người đàn bà này đã biết kỹ phép dập tắt lửa, trừ lửa tận gốc, vậy trả lại cho mụ ấy chiếc quạt. Tiểu thần xin tạm ở đây, cứu vớt sinh linh vùng này, cầu chút huyết thực, thật là vừa ơn, vừa tiện.

Hành Giả nói:

- Trước đây ta hỏi người trong làng thì họ nói: “Núi này có quạt tắt lửa thì cũng chỉ có cấy cày được có một năm, rồi lửa lại cháy”. Vậy làm thế nào mới trừ được tận gốc?

La Sát nói:

- Muốn trừ được lửa tận gốc thì phải quạt liền bốn mươi chín cái, lúc ấy lửa sẽ mãi mãi không bao giờ cháy lại nữa.

Hành Giả nghe nói, cầm chiếc quạt, lấy hết gân sức nhằm ngọn núi quạt liền bốn mươi chín cái, thấy trên ngọn núi ấy mưa rào sầm sập. Bảo bối ấy quả là:

Nơi có lửa trời mưa

Nơi không lửa trời tạnh



Bốn thầy trò đứng ở chỗ không có lửa, không bị mưa ướt, rồi ngồi lại một đêm, sáng hôm sau thu xếp hành lý, yên cương, trả lại cây quạt cho La Sát.

Hành Giả nói:

- Lão Tôn nếu không trả lại quạt cho mụ thì e người đời bảo ta bất tín. Vậy mụ mang quạt về núi, chớ có gây sự. Ta thấy mụ đã nên thân người nên tha cho mụ đi.

La Sát đỡ lấy cây quạt, niệm chú biến cây quạt nhỏ lại bằng một lá hạnh, ngậm vào trong mồm, lạy tạ các vị thánh rồi cáo lui. Từ đó tu hành, sau này cũng thành chính quả, lưu danh muôn thuở trong kinh tạng. Thổ địa cảm kích tạ ơn, tiễn chân thầy trò Đường tăng. Hành Giả, Bát Giới, Sa Tăng lại tiếp tục hộ vệ Đường Tăng lên đường, đất cát đượm nhuần, thân thể mát mẻ.

Thế mới gọi là:
Khảm ly kỷ tế chân nguyên hợ  [262]. Thủy hỏa quân binh đạo lớn thành.

Cuối  cùng  không  biết  mấy  năm  nữa  mới  quay  về  được phương Đông, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ SÁU MƯƠI HAI Tắm bụi rửa thân lên quét tháp Bắt ma về chủ ấy tu thân
Suốt mười hai giờ quên chẳng đặng Trăm nghìn trở ngại vượt nên công Năm năm mười vạn tám nghìn lượt Chớ để ngưng nước thần
Chớ để buồn lửa đỏ

Thủy hòa điều hòa không tổn phá Ngũ hành liên lạc tựa móc câu Âm dương hòa hợp trên lầu cao Cưỡi hạc đến Doanh Châu
Cưỡi loan lên phủ tía

Bài từ này tên gọi Lâm giang tiên, nói về chuyện bốn thầy trò
Đường Tam Tạng sau khi thủy hỏa đã vượt, bản tính thanh lương. Thầy trò sau khi mượn được quạt báu thuần âm, quạt tắt được ngọn lửa dữ ở núi xa, rồi đi không đầy một ngày, vượt qua tám trăm dặm đường, ung dung thảnh thơi nhằm hướng Tây tiến bước, vừa vặn gặp tiết cuối thu, đầu đông. Chỉ thấy:

Cúc dại hoa vàng rụng Mai sớm nụ đâm bông Nơi nơi thu thóc lúa
Chốn chốn canh thơm nồng
Rừng già cây đổ non xa hiện

Khe lượn mù sương nước cuộn vòng

Lạnh lẽo côn trùng chui kén ngủ

Âm dương thuần, tháng Thuấn mát trong Đức thủy thịnh, ngày Nghiêu bừng sáng Khí đất giáng xuống, khí trời xông
Cầu vồng bóng chẳng hiện

Ao hồ nước giá đông

Sườn non mây quấn hoa tàn lụi

Tùng trúc càng xanh tiết lạnh lùng

Bốn thầy trò đi được một hồi lâu, chợt thấy một tòa thành trì hiện ra gần trước mặt. Đường Tăng ghìm cương nói với đồ đệ:

- Ngộ Không này, con xem đám lầu các thấp thoáng nguy nga ở phía kia là nơi nào thế nhỉ?

Hành Giả ngẩng đầu quan sát, thì ra là một tòa thành trì. Thật
là:




Hình thế dáng rồng cuộn Thành vàng thế hổ ngồi Bốn mặt lọng báu rủ Phẳng phiu đẹp núi đồi
Cầu cuốn đá hoa hình thú lạ Điện dát vàng ròng ánh sáng soi Khác nào chốn thần tiên họp mặt Kinh đô vạn dặm đế vương ngồi Man di thần phục ơn vua khắp
Sông núi chầu về thánh hội vui Thềm son sạch bóng Đường phố tuyệt vời
Quán rượu ngân nga tiếng nhạc

Lầu hoa giòn giã giọng cười Bên cung Vị Ương cây thấm mãi Phượng kêu lanh lảnh ánh hồng soi
Hành Giả nói:

- Sư phụ ạ, tòa thành ấy chắc là nơi đế đô của một nước nào đó.

Bát Giới cười nói:

- Trong thiên hạ thì phủ có phủ lỵ, huyện có huyện thành, tại sao lại cho là nơi đế đô?

Hành Giả nói:

- Chú em cóc biết gì hết. Nơi ở của đế vương phải khác xa phủ huyện chứ. Chú em nhìn kìa, bốn mặt có mười mấy tòa cổng, chu vi tới hơn một trăm dặm, lâu đài cao ngất, mây mù bao quanh, nếu không phải là nơi kinh đô của một nước thì làm gì lại tráng lệ đến thế!

Sa Tăng nói:

- Sư huynh mắt tinh, tuy biết đó là nơi ở của đế vương, nhưng gọi là gì mới được chứ?

Hành Giả nói:

- Không có cờ quạt bài biển, thì làm sao biết được? Phải vào trong thành hỏi thăm mới biết chứ.

Tam Tạng quất ngựa, một lát đã tới cổng thành, bèn xuống ngựa, bước qua cầu tới bên cổng ngắm nghía, thấy phố xá chợ
búa buôn bán sầm uất, người dân quần áo sang trọng, có vẻ phong nhã hào hoa. Đang đi, bỗng thấy một đoàn mười mấy vị hòa thượng, người nào người nấy mang xiềng đeo gông, đi ăn xin dọc từng nhà, coi thực vô cùng lam lũ khổ sở. Tam Tạng than khẽ:

- Một con ngựa đau cả tàu chê cỏ[263]

Bèn gọi:

- Ngộ không, con lên hỏi họ một lời; rằng vì sao họ lại bị tội cực khổ đến thế?

Hành Giả vâng lời, bèn gọi:

- Này, những hòa thượng kia, các ngài tu ở chùa nào? Vì sao lại mang xiềng đeo gông như vậy?

Các nhà sư quỳ xuống thưa:

- Thưa ngài, chúng tôi là những hòa thượng bị oan ở chùa
Kim Quang.

Hành Giả hỏi:

- Chùa Kim Quang ở đâu? Các nhà sư đáp:
- Đi qua góc phố này là tới.

Hành Giả dẫn họ đến trước mặt Đường Tăng rồi hỏi:

- Cớ sao bị oan, nói ra ta nghe xem. Các nhà sư thưa:
- Thưa ngài, chẳng biết các ngài ở đâu tới, nhưng chúng tôi trông quen quen, không dám thưa chuyện ở đây, mời các ngài quá bộ đến hoang sơn, chúng tôi xin bày tỏ hết nỗi khổ.

Tam Tạng nói:
- Cũng được. Chúng ta tạm đến chùa đó hỏi kỹ duyên do.

Cả bọn kéo đến cổng ngôi chùa núi. Ngoài cổng treo bức
hoành đề bảy chữ vàng “Sắc kiến hộ quốc Kim Quang tự”[264]
Thầy trò bước vào cửa ngắm nghía. Chỉ thấy: Điện cổ đèn hương lạnh Sân quang lá rụng bay Tháp cao chọc trời mây Mấy gốc tùng sừng sững Khách vắng hoa ngàn rụng Hành lang nhện chăng tơ
Lầu chuông trống chỏng chơ Tượng phật bụi trần phủ Tòa vắng sư đâu cả
Chùa hoang chim đậu đầy Cảnh vật thê lương thay Thật vô cùng u tịch
Lư hương trước đài lạnh

Lặng không hương khói bay

Tam Tạng trong lòng chua xót, không ngăn được hai hàng nước mắt chứa chan. Các nhà sư đeo gông xiềng, mở cửa chính điện, mời trưởng lão lên điện lễ phật. Tam Tạng bước vào điện đàng hoàng, lạy ba lạy, đoạn chuyển bước về phía sau, lại thấy sáu bảy chú tiểu, hòa thượng bị trói ở cột phương trượng, lòng không nỡ nhìn. Tam Tạng bước vào phương trượng, các nhà sư đều dập đầu hỏi:

- Các ngài tướng mạo chẳng ai giống ai, có phải từ nước Đại
Đường bên phương Đông tới không ạ?

Hành Giả cười nói:

- Hòa thượng này biết cách bói tiên tri chăng? Chúng tôi đúng là như vậy, tại sao ngài biết?

Các nhà sư thưa:

- Thưa ngài, chúng tôi đâu có biết cách bói tiên tri, chỉ vì nỗi đau khổ bị oan uổng, chẳng có chỗ tỏ bày, ngày đêm chỉ biết cầu trời khấn đất, chắc là động đến thiên thần, nên đêm hôm qua, chúng tôi ai nấy đều nằm mộng được biết rằng có một vị thánh tăng nước Đại Đường bên phương Đông, cứu thoát được tính mạng cho chúng tôi, ngõ hầu nỗi oan này mới tỏ được. Hôm nay gặp ngài kỳ hình dị dạng thế này nên nhận ra ngay.

Tam Tạng nghe xong mừng lắm hỏi:

- Nơi các ngài đây là địa phương nào? Các ngài oan khuất ra sao?

Các nhà sư quỳ xuống thưa:

- Thưa ngài, thành này tên gọi nước Tế Trại, là nơi đường chính sang phương Tây. Trước đây có bốn nước rợ triều cống. Phía nam nước Nguyệt Đài, phía bắc: nước Cao Xương, phía đông: nước Tây  Lương, phía tây: nước Bản Bát. Hàng năm, các nước ấy tiến cống ngọc ngà châu báu, gái đẹp, ngựa hay. Nước chúng tôi đây chẳng động can qua, chẳng đi chinh phạt, những nước ấy tự nhiên tôn chúng tôi lên làm thượng bang.

Tam Tạng nói:

- Đã tôn làm thượng bang, đất nước các ngài nhà vua phải có đạo, văn võ phải hiền lương.

Các nhà sư nói:

- Thưa ngài, văn cũng chẳng hiền, võ cũng chẳng lương, nhà
vua cũng chẳng có đạo. Chùa Kim Quang chúng tôi trước đây trên ngọn bảo tháp có mây lành quấn quýt, khí đẹp dâng dâng, ban đêm ráng đẹp phóng hào quang, ngoài vạn dặm cũng có người trông thấy. Ban ngày khí lành tỏa rực rỡ, những nước ở xung quanh đều thấy tỏ tường. Vì thế đây là nơi thiên phủ thần kinh, bốn phương triều cống. Thế rồi, ba năm trước đây, vào lúc giờ Tý nửa đêm, ngày một tháng bảy, mùa thu, một trận mưa máu trút xuống. Sáng ra, nhà nhà sợ hãi, người người buồn lo. Các quan công khanh tâu lên quốc vương, rằng không biết trời khiển trách việc gì, bèn sai đi mời đạo sĩ cúng giải, mời hòa thượng đọc kinh, cầu trời khấn đất. Có biết đâu là ngọn bảo tháp hoàng kim trong chùa chúng tôi vấy bẩn, nên hai năm nay nước ngoài không đến triều cống nữa. Nhà vua chúng tôi định đi đánh dẹp, các quan can rằng do nhà sư trong chùa ăn trộm bảo bối trên tháp, vì vậy mây lành ráng đẹp biến mất, nước ngoài không triều cống. Hôn quân chẳng xét lý lẽ. Bọn tham quan ấy bèn bắt chúng tôi đi, tra khảo đủ cách, hạch sách đủ điều. Lúc ấy trong số chúng tôi có ba hạng hòa thượng: hai hạng trước không chịu nổi tra tấn đánh đập nên chết cả. Nay lại bắt đến bọn chúng tôi tra khảo xiềng xích. Có các ngài là bề trên, chúng tôi đâu dám dối trá, chúng tôi không lấy trộm bảo bối trên tháp. Muôn xin các ngài rủ lòng thương, người ba đấng của ba loài, mở lòng đại từ đại bi, thi thố pháp lực, cứu tính mạng cho chúng tôi với.

Tam Tạng nghe xong, gật đầu than thở:

- Sự việc này tối tăm ám muội lắm! Một là triều đình thiếu sót, hai là các vị gặp tai. Trời đã mưa ra máu, tháp đã vấy bẩn như vậy, lúc ấy sao không viết sớ tâu vua ngay, để đến nỗi chịu khổ thế này?

Các nhà sư nói:

- Thưa ngài, chúng tôi người phàm đâu có biết ý trời, vả lại những bậc tiền bối còn chưa làm nổi, bọn tôi còn làm được cái
gì!

Tam Tạng hỏi:

- Ngộ Không! Bây giờ là giờ gì? Hành Giả đáp:
- Khoảng giờ Thân. Tam Tạng nói:
- Ta muốn yết kiến nhà vua đổi điệp văn, hiềm nỗi gặp sự việc của các nhà sư đây, thật khó tâu bày với nhà vua quá. Trước đây khi ta rời khỏi Tràng An, ta có phát nguyện ở chùa Pháp Môn  rằng:  “Trên  đường  sang  Tây  phương,  thấy  miếu  thắp hương, gặp chùa lễ Phật, gặp tháp quét tháp”. Nay tới đây, biết chuyện các nhà sư mắc oan, liên lụy tới bảo tháp. Vậy con hãy đi tìm cho ta một cái chổi đót mới, ta tắm rửa chay giới, rồi lên tháp quét dọn, xem việc ô uế này thế nào, không phóng hào quang là vì sao, hỏi rõ đầu đuôi, lúc ấy mới gặp nhà vua thưa rõ chuyện, giải thoát tai nạn cho các nhà sư ở đây được.

Mấy hòa thượng mang xiềng gông nghe nói như vậy, vội vàng xuống bếp mang con dao phay lên đưa cho Bát Giới, nói:

- Ngài làm ơn lấy con dao này chặt đứt khóa sắt thả mấy chú tiểu, hòa thượng kia ra, để bảo họ đi nấu cơm đun nước, hầu hạ trưởng lão xơi cơm, tắm gội. Chúng tôi ra phố mua cây chổi đót mới để dâng trưởng lão quét tháp.

Bát Giới cười nói:

- Mở khóa thì khó gì, chẳng cần dao búa. Để ta bảo cái ông mặt đầy lông lá kia. Ông ấy là một tay mở khóa cừ khôi đấy.

Hành Giả bèn bước tới gần, dùng phép mở khóa, lấy tay vuốt một cái, mấy cái khóa rụng rời hết. Mấy chú tiểu chạy ngay vào trong bếp, bắc bếp, cọ nồi, sửa soạn cơm nước. Thầy trò Tam Tạng ăn cơm xong, trời đã chạng vạng tối, thấy đám hòa thượng
đeo gông mang hai cái chổi về. Tam Tạng mừng lắm. Đang trò chuyện, một chú tiểu mang đèn lên mời trưởng lão đi tắm. Lúc ấy, bầu trời trăng sao vằng vặc, trống canh đã điểm trên lầu. Chính lúc ấy:

Bốn vách gió lùa lạnh. Nhà nhà ánh đèn soi.
Phố phường cửa đóng chặt, Chợ búa cũng im hơi. Thuyền câu ghé bến nghỉ. Thợ cày về thôn rồi.
Tiều phu ngưng rìu búa. Tiếng trẻ học vang vui.
Tam Tạng tắm rửa xong, mặc chiếc áo ngắn tay, thắt chiếc hầu bao to, chân đi đôi hài nhẹ, tay cầm chiếc chổi đốt mới, nói với các nhà sư:

- Các ngài cứ nghỉ đi, để ta quét tháp. Hành Giả nói:
- Ngọn tháp đã bị trận mưa máu làm ô uế, lại lâu ngày tháp không phát sáng, sợ có thủ độc, đêm khuya gió rét chẳng ai đi cùng, e lỡ có xảy ra điềm gì chăng? Lão Tôn cùng lên với sư phụ được không?

Tam Tạng nói:

- Càng tốt! Càng tốt!

Đoạn hai người, mỗi người cầm một cái chổi, bước vào điện lớn, châm cây đèn bằng lưu ly, thắp hương khấn trước đài thờ phật:

- Đệ tử là Trần Huyền Trang vâng lệnh vua Đường sang Linh
Sơn bái đức Phật Như Lai cầu kinh, hôm nay đến chùa Kim Quang nước Tế Trại, được các nhà sư trong chùa cho biết tháp báu bị ô uế, quốc vương nghi ngờ các sư lấy trộm bảo bối chịu tội oan ức, đen trắng khó phân. Đệ tử lòng thành quét tháp. Mong đức Phật uy linh, sớm cho biết nguyên nhân tháp bẩn, để bọn người phàm giải trừ oan khuất.

Khấn xong cùng Hành Giả mở cửa tháp, quét từ tầng thấp lên tầng cao. Thấy ngọn tháp ấy thực là:

Cao vút lưng trời thẳm Sừng sững giữa tầng không Tháp lưu li ngũ sắc
Ngọn xá lị vàng ròng Thang cuốn như chui hố Sổ lỏng cửa mở tung
Bình báu soi bóng nguyệt Mõ vàng rộn gió rung Sao rọi bên cửa sáng
Đỉnh thẳm mây uốn vòng Đá đẽo xen hoa phượng Quanh tháp cuộn bóng rồng Nhìn tít xa ngàn dặm
Lên cao giữa chín tầng Đèn lưu li trong tháp Lửa tắt bụi bay nồng Bước bước lan can ngọc Rác rưởi phủ điệp trùng
Lòng tháp trước tòa Phật Hương khói vắng lạnh lùng Trước mặt thần bên cửa
Tơ nhện chăng mịt mùng Trong lò toàn cứt chuột Dưới đĩa vệt dầu loang Chỉ tại đồ thờ quý bị mất Đổ riệt cho sư thật ức oan
Tam Tạng lòng thành lên quét tháp

Vẻ xưa rực rỡ lại đường hoàng.

Đường Tăng cầm chổi quét hết tầng này đến tầng khác, cứ như thế quét đến tầng thứ  bảy. Lúc ấy vào quãng canh hai, Tam Tạng có phần mỏi mệt.

Hành Giả nói:

- Sư phụ mệt thì ngồi nghỉ tạm một lúc, để lão Tôn quét thay cho.

Tam Tạng hỏi:

- Tháp này bao nhiêu tầng? Hành Giả đáp:
- Có lẽ đến mười ba tầng. Tam Tạng gượng sức nói:
- Phải quét hết mới thỏa bản nguyện.

Đoạn lại quét thêm ba tầng nữa, nhưng lưng đau chân mỏi mệt bèn ngồi bệt xuống tầng thứ mười nói:

- Ngộ Không, con quét sạch nốt ba tầng nữa cho ta nhé.

Hành Giả phấn chấn tinh thần, trèo lên tầng mười một rồi
thoắt lại tới tầng mười hai. Đang quét bỗng nghe thấy trên đỉnh tháp có tiếng người. Hành Giả nói:

- Quái lạ! Quái lạ! Mới khoảng canh ba, làm sao lại có tiếng người nói trên đỉnh tháp nhỉ? Hẳn là tà ma đó thôi. Để ta lên xem sao.

Đoạn Hầu Vương xắn gọn quần áo, cắp chổi chui ra ngoài cửa trước, nhảy lên mây xem xét, thấy hai yêu tinh đang ngồi trong tầng tháp thứ mười ba, một mâm cơm, một cái bát, một bầu rượu đặt trước mặt. Chúng vừa đùa thụi nhau vừa uống rượu. Hành Giả bèn trổ thần thông, vứt cây chổi, rút gậy sắt ra, đứng chặn trước cửa tháp, quát lớn:

- Bọn yêu quái kia, hóa ra kẻ ăn trộm bảo bối trên tháp là chúng mày!



Hai yêu quái hốt hoảng, vội vàng đứng dậy, cầm bầu rượu, bát đũa ném lung tung, bị Hành Giả cầm ngang cây gậy sắt ngăn
lại, nói:

- Nếu ta đánh chết các ngươi, thì lấy ai khai cung!

Bèn chỉ dùng cây gậy ép sát chúng vào tường, khiến chúng không sao giãy giụa cựa quậy được, chỉ há miệng kêu:

- Xin tha chết! Xin tha chết! Việc ấy không can gì đến chúng tôi. Người lấy bảo bối ở kia cơ ạ.

Hành Giả đang dùng phép bắt người, một tay túm cả hai đứa kéo xuống thẳng tầng tháp thứ mười báo với sư phụ:

- Thưa sư phụ, bắt được bọn trộm lấy bảo bối rồi ạ!

Tam Tạng đang ngủ gật, chợt nghe thấy thế, vừa mừng vừa sợ, hỏi:

- Bắt được ở đâu?

Hành Giả lôi yêu quái tới trước mặt, bắt quỳ xuống, nói:

- Chúng đang uống rượu, đùa nhau trên đỉnh tháp. Lão Tôn nghe thấy tiếng loáng thoáng, bèn nhảy vút lên mây, rồi hạ xuống đỉnh tháp bắt giữ chúng. Con vẫn chưa dùng sức, sợ phang một gậy chúng chết mất thì không có người lấy khẩu cung. Vì vậy con bèn nhẹ nhàng túm chúng mang về đây. Sư phụ nên lấy khẩu cung, xem chúng là yêu quái ở đâu, lấy trộm bảo bối giấu ở chỗ nào?

Hai yêu quái run cầm cập, nói:

- Xin tha chết!

Đoạn khai hết sự thực:

- Hai chúng tôi là người của Vạn Thánh Long Vương ở đầm Bích Ba, núi Loạn Thạch được sai đến tuần tháp. Tên này là Bôn Ba Nhi Bá, còn tôi là Bá Ba Nhi Bôn. Hắn là yêu quái cá trê, tôi là yêu tinh cá sộp. Vạn Thánh Long Vương tôi có sanh được một người con gái, tên gọi Vạn Thánh công chúa. Công
chúa mặt hoa da phấn, tài giỏi hơn người, kén được một vị phò mã tên gọi Cửu Đầu phò mã, thần thông quảng đại. Năm ngoái Long Vương tới đây, trổ pháp lực giáng xuống một trận mưa máu làm ô uế bảo tháp, lấy trộm báu vật nhà Phật là xá lị đặt ở trong tháp. Công chúa lại lên tầng trời Đại La, đến điện Linh Tiêu, lấy trộm chín lá cỏ Linh Chi chủa Vương Mẫu mang về trồng ở đáy đầm, nên ráng đẹp hào quang chiếu rọi suốt ngày đêm. Gần đây nghe nói có tên Tôn Ngộ Không sang phương Tây lấy kinh, tên ấy thần thông quảng đại, dọc đường chuyên trừng trị những kẻ bất nghĩa, cho nên Long Vương thường sai chúng tôi đến đây tuần tra. Nếu biết tin có tên Tôn Ngộ Không ấy tới thì chuẩn bị đối phó.

Hành Giả nghe xong, khì khì cười nhạt, nói:

- Đồ nghiệt súc vô lễ kia! Thảo nào tên đó hôm nọ mời Ngưu Ma Vương đến ăn tiệc! Thật là bọn ma quái cấu kết với nhau làm chuyện bất lương!

Vừa dứt lời đã thấy Bát Giới và ba chú tiểu xách hai cây đèn lồng từ chân tháp trèo lên, nói:

-  Sư  phụ  quét  xong  tháp  không  xuống  đi  ngủ,  còn  ở  đó chuyện trò gì thế?

Hành giả nói:

- Chú đến đúng lúc quá. Bảo bối trong tháp bị Vạn Thánh Long Vương lấy trộm. Nay hắn sai hai tên tiểu yêu này đến tuần tra ở tháp, thăm dò tin tức bọn ta, vừa bị tôi bắt sống đây.

Bát Giới hỏi:

- Chúng tên là gì? Thuộc loại yêu tinh nào? Hành Giả đáp:
- Chúng vừa khai xong, một tên là Bôn Ba Nhi Bá, một tên là
Bá Ba Nhi Bôn. Một là yêu quái cá trê, một là yêu tinh cá sộp.
Bát Giới giơ đinh ba lên, toan đánh, nói:

- Đã là yêu tinh, lấy khẩu cung rồi, không đánh chết để làm gì?

Hành Giả nói:

- Chú em không biết. Để cho chúng tạm sống còn vào ra mắt nhà vua, rồi sai chúng dẫn đường tìm kẻ trộm lấy lại bảo bối chứ.

Chú ngốc bèn thu cây đinh ba về, đoạn mỗi người túm một đứa, bước xuống tháp.

Hai yêu quái kêu van:

- Xin tha tội! Bát Giới nói:
- Đang cần mấy chú cá trê, cá sộp nấu nồi canh giấm cho những vị hòa thượng bị oan uổng ở đây ăn.

Mấy chú tiểu khoái trá cười hỉ hả, xách đèn lồng đưa trưởng lão xuống tháp. Một chú tiểu chạy trước báo với mọi người:

[265]
- Hay lắm! Hay lắm! Chúng ta được tỏ nỗi oan rồi

! Bọn
yêu quái ăn trộm bảo bối bị các ngài đây bắt sống giải về đây này!

Hành Giả nói:

- Mang dây sắt ra xuyên vào xương quai xanh, buộc chúng ở đây để mấy ngài trông coi. Bây giờ chúng tôi đi ngủ, sáng mai sẽ phân xử.

Đám hòa thượng coi giữ cẩn thận để thầy trò Tam Tạng đi ngủ.

Chẳng mấy chốc trời đã sáng, Tam Tạng nói:

- Ta và Ngộ Không vào triều đổi điệp văn nhé!
Đoạn mặc áo cà sa gấm, đội mũ tì lư, dáng điệu đường hoàng, rảo bước vào triều. Hành Giả cũng mặc một chiếc khăn da hổ với chiếc áo ngắn bằng vải bông, cầm tờ điệp văn cùng đi.

Bát Giới nói:

- Không mang hai thằng trộm đi theo à? Hành Giả nói:
- Để chúng tôi vào tâu qua đã, rồi nhà vua có lệnh sai người dẫn chúng đến.

Hai người bèn đi tới trước cửa triều môn, thấy lầu son cửa tía, sẻ đỏ rồng vàng, vô cùng lộng lẫy. Tam Tạng tới cửa Đông Hoa, vái chào quan Các môn đại sứ rồi nói:

-  Phiền  ngài  vào  chuyển  tấu  giùm,  bần  tăng  ở  nước  Đại Đường bên phương Đông, vâng lệnh nhà vua đi lấy kinh, muốn vào yết kiến đức vua, xin đổi điệp văn.

Quân Hoàng môn đứng trước thềm tâu:

- Ngoài cửa có hai nhà sư quần áo hình dáng lạ lùng, nói là người nước Đại Đường bên phương Đông, thuộc Nam Thiệm Bộ Châu vâng lệnh nhà vua sang phương Tây bái phật cầu kinh, muốn vào chầu bệ hạ xin đổi điệp văn.

Quốc vương nghe xong truyền lệnh cho vào, Tam Tạng dẫn Hành Giả vào triều. Trăm quan văn võ nhìn thấy Hành Giả, ai cũng khiếp sợ. Người thì nói là hòa thượng khỉ, người thì nói là hòa thượng mõm thiên lôi, thấy đều sợ sệt, chẳng dám nhìn lâu. Tam Tạng làm lễ tung hô vạn tuế trước thềm. Đại Thánh khoanh tay cúi mình đứng bên cạnh chẳng hề nhúc nhích.

Tam Tạng tâu:

- Thần là nhà sư nước Đại Đường bên phương Đông, thuộc Nam Thiệm Bộ Châu, vâng lệnh nhà vua đến chùa Đại Lôi Âm, nước Thiên Trúc bên phương Tây bái Phật, cầu chân kinh. Dọc
đường qua xứ ta, không dám thiện tiện vượt qua, có điệp văn mang theo, xin bệ hạ xem xét rồi cho đi.

Quốc vương nghe xong mừng lắm, hạ lệnh đưa vị thánh tăng Đường triều lên điện Kim Loan, trải đệm gấm mời ngồi. Một mình Tam Tạng lên điện, dâng điệp văn lên, sau đó mới tạ ơn ngồi xuống.

Quốc vương cầm tờ điệp văn xem một lượt, trong lòng mừng rỡ nói:

- Cứ như vua nước Đại Đường có bệnh, cầu được cao tăng, chẳng ngại đường sá xa xôi, đi bái Phật cầu kinh, còn hòa thượng của quả nhân ở đây, chỉ chuyên nghề ăn trộm lừa vua hại nước mà thôi.

Tam Tạng nghe xong chắp tay hỏi:

- Tại sao lại lừa vua hại nước? Quốc vương nói:
- Nước của quả nhân liệt vào bậc thượng bang ở Tây vực, thường được các nước xung quanh triều cống. Chẳng là nước trẫm có chùa Kim Quang, trong chùa có một ngọn tháp báu bằng vàng, hào quang chiếu sáng rực trời. Gần đây bọn nhà sư trong chùa ăn trộm bảo bối trong tháp, ba năm nay tháp không phát sáng nữa. Và vì vậy ba năm nay nước ngoài cũng không tới triều cống. Quả nhân rất lấy làm căm giận.

Tam Tạng chắp tay cười, nói:

- Vạn tuế! Thật là “sai một ly đi một dặm”. Chiều qua, bần tăng tới quý quốc, vừa tới cửa thành gặp một đoàn hòa thượng mang xiềng đeo gông, có hỏi họ bị tội gì. Họ nói họ là những người bị oan khuất ở chùa Kim Quang. Chúng tôi bèn tới chùa tìm hiểu cặn kẽ, thấy việc ấy không can hệ gì tới các nhà sư trong chùa cả. Đêm ấy, bần tăng lên tháp quét dọn, đã bắt được
bọn yêu quái lấy trộm bảo bối rồi.

Quốc vương mừng lắm, hỏi:

- Bọn kẻ trộm ấy ở đâu? Tam Tạng thưa:
- Hiện bị đồ đệ của bần tăng giữ ở chùa Kim Quang.

Quốc vương lập tức giáng bài vàng: “Sai đội quân cẩm y vệ đến chùa Kim Quang giải bọn yêu quái kẻ trộm về, để đích thân quả nhân tra xét”. Tam Tạng lại tâu:

- Vạn tuế! Tuy có quân cẩm y, nhưng phải có đồ đệ của bần tăng đi cùng mới được.

Quốc vương hỏi:

- Đồ đệ của khanh đâu? Tam Tạng chỉ tay, nói:
- Người đứng ở bên thềm ngọc kia ạ. Quốc vương nhìn thấy cả sợ nói:
- Thánh tăng phong nhã thế này, mà đồ đệ lại xấu xí thế kia sao?

Tôn Đại Thánh nghe vậy lớn tiếng nói:

- Tâu bệ hạ, không nên “trông mặt mà bắt hình dong, nước biển chớ có lấy cong đo lường”. Nếu chỉ ưa người xinh đẹp thì làm sao bắt được yêu quái ăn trộm?

Quốc vương nghe xong, chuyển sợ thành vui, nói:

- Thánh tăng nói đúng lắm. Trẫm đây chẳng phải chọn nhân tài, chỉ cốt bắt được kẻ trộm, lấy lại được bảo bối về cho bảo tháp là được.

Đoạn sai quan Đương giá sắp xếp xe kiệu, cùng đội quân cẩm y đi theo thánh tăng giải yêu quái về. Quan Đương giá lập tức
sửa soạn một cỗ kiệu lớn, một cây lọng vàng, cẩm y vệ điểm quan hiệu úy, mời Hành Giả ngồi lên kiệu bát cống, tiền hô hậu ủng, đến thẳng chùa Kim Quang. Khắp thành biết tin, ai nấy kéo nhau đi xem thánh tăng và yêu quái đông như hội.

Bát Giới, Sa Tăng nghe thấy tiếng ồn ào, biết là Quốc vương sai người tới, vội vàng ra nghênh đón, thấy Hành Giả ngồi trên kiệu, chú ngốc cười ngất nói:

- Sư huynh vinh hạnh quá nhỉ!

Hành Giả xuống kiệu, kéo Bát Giới, hỏi:

- Tôi vinh hạnh cái gì? Bát Giới nói:
- Sư huynh đươc che lọng vàng, ngồi kiệu tám người khiêng, thật đáng mặt chức phận Hầu vương. Như thế không vinh hạnh là gì?

Hành Giả nói:

- Thôi đừng làm trò cười nữa.

Bèn cởi trói hai yêu quái, giải tới trình quốc vương. Sa Tăng nói:
- Sư huynh ơi, chúng em có được đi theo không? Hành Giả nói:
- Chú ở lại trông ngựa, hành lý: Các nhà sư mang gông nói:
- Các ngài cứ đi hưởng ơn vua cả đi, để chúng tôi ở đây trông giữ cho.

Hành Giả nói:

- Đã như vậy, chúng tôi vào tâu vua tha cho các ngài.

Bát Giới túm một tên yêu quái, Sa Tăng túm một tên. Tôn Đại
Thánh lại ngồi vào kiệu, dẹp đường mở lối, giải hai tên yêu quái vào triều.

Lát sau, đến trước thềm ngọc, Hành Giả tâu với quốc vương:

- Yêu quái ăn trộm đã bị giải về.

Quốc vương bước xuống ngai vàng, cùng Đường Tăng và các quan văn võ đưa mắt nhìn. Một tên mang cứng vẩy đen, mõm nhọn, răng sắc; một tên bụng ỏng, da trơn, mồm rộng, râu dài. Tuy chúng có chân đi được, nhưng cũng chỉ là giống hình người mà thôi. Quốc vương hỏi:

- Chúng bay là kẻ trộm ở đâu? Yêu tinh chốn nào? Vào nước ta đã mấy năm? Lấy trộm bảo bối của ta từ bao giờ? Cả bọn có bao nhiêu đứa? Họ tên là gì? Mau khai ra cho thực!

Hai yêu quái quỳ xuống, quanh cổ máu bê bết, mà vẫn không biết đau đớn. Chúng khai:

- Trước đây ba năm, vào ngày một tháng bảy, có người là Vạn Thánh Long Vương dẫn rất nhiều họ hàng thân thích đến cư trú ở phía đông nam bảo quốc, cách đây chừng một trăm dặm. Ấy là đầm  Bích  Ba,  núi  Loạn  Thạch.  Long  vương  sinh  được  một người con gái vô cùng xinh đẹp, và kén được một chàng rể tên là Cửu Đầu phò mã, quảng đại thần thông. Họ biết bảo tháp của bệ hạ có vật báu, bèn cùng với Long Vương tìm cách lấy trộm. Trước hết, giáng một trận mưa máu, sau sẽ lấy cắp xá lị. Hiện bây giờ bảo bối xá lị đang chiếu sáng rực rỡ long cung, đêm tối vẫn sáng tựa ban ngày. Công chúa lại trổ tài ngấm ngầm bí mật lên lấy cắp cỏ Linh Chi của Vương Mẫu mang về trồng làm báu vật ở trong đầm. Chúng tôi không phải là bọn thủ lĩnh, chỉ là tiểu tốt của Long Vương sai đến, bị bắt đêm qua. Chúng tôi khai thực đấy ạ.

Quốc vương hỏi:

- Đã khai cung tại sao lại không khai họ tên?
Yêu quái thưa:

- Tôi tên Bôn Ba Nhi Bá, tên này là Bá Ba Nhi Bôn. Bôn Ba
Nhi Bá là yêu quái cá trê, Bá Ba Nhi Bôn là yêu tinh cá sộp.

Quốc vương sai quân cẩm y giam giữ chúng cẩn thận, đoạn ra lệnh:

- Tha tội mang gông cho các nhà sư chùa Kim Quang. Truyền ngay cho quan Quang lộc tự đặt tiệc ở điện Kỳ Lân để trẫm thưởng công thánh tăng bắt trộm và nhờ thánh tăng đi bắt bọn đầu sỏ.

Quan Quang lộc tự lập tức sửa soạn hai loại tiệc chay, tiệc mặn. Quốc vương mời bốn thầy trò Đường Tăng lên điện Kỳ Lân ngồi và nói:

- Thánh tăng tôn hiệu là gì? Đường Tăng chắp tay thưa:
- Bần tăng vốn họ Trần, pháp danh là Huyền Trang, đội ơn nhà vua ban cho họ Đường, hiệu là Tam Tạng.

Quốc vương hỏi tiếp:

- Các đồ đệ của thánh tăng hiệu là gì? Tam Tạng đáp:
- Họ đều không có hiệu. Người thứ nhất là Tôn Ngộ Không, người thứ hai là Trư Ngộ Năng, người thứ ba là Sa Ngộ Tĩnh. Họ đều do đức Quan Thế Âm Bồ Tát ở Nam Hải đặt tên cho. Sau đó họ nhận bần tăng làm sư phụ, bần tăng đặt tên cho Ngộ Không là Hành Giả, Ngộ Năng là Bát Giới, Ngộ Tĩnh là Sa Hòa Thượng.

Quốc vương nghe xong, mời Tam Tạng ngồi ở trên, Tôn Hành Giả ngồi bên cạnh, chỗ hàng đầu bên trái; Bát Giới, Sa Tăng ngồi bên cạnh, chỗ hàng đầu bên phải. Các thức toàn là
món chay: hoa quả, rau dưa, trà thơm, cơm tẻ. Phía đằng trước là bàn tiệc mặn, có quốc vương ngồi trên; phía dưới là trăm bàn tiệc mặn nữa cho bá quan văn võ ngồi dự. Các quan tạ ơn vua, đồ đệ xin phép sư phụ rồi ngồi xuống. Quốc vương chuốc chén, Tam Tạng không dám uống rượu. Ba đồ đệ đều nhận chén rượu vào tiệc. Lại nghe thấy tiếng đàn sáo hòa nhau du dương. Đó là ty giáo phường tấu nhạc. Bát Giới mở to thực quản, ăn như rồng
[266]
cuốn, uống như rồng leo

. Chén sạch sẽ mọi thức hoa quả
rau dưa trên bàn tiệc. Một lát sau, cơm canh được mang lên thêm. Bát Giới cũng ăn nhẵn nhụi không còn một hột. Rượu hết tuần này đến tuần khác, Bát Giới cũng không từ chối một chén nào. Bữa tiệc vui vẻ kéo dài cho tới quá trưa mới dứt.

Tam Tạng cảm tạ nhà vua cho dự yến tiệc, quốc vương giữ lại, nói:

- Bữa tiệc này tạm gọi là buổi đầu ban thưởng công lao bắt yêu quái của thánh tăng.

Đoạn bảo với quan Quang lộc tự:

- Mau mau dọn tiệc sang cung Kiến Chương, để mời thánh tăng đến đó định mưu kế bắt bọn đầu sỏ, lấy lại bảo bối trả bảo tháp.

Tam Tạng nói:

- Nếu muốn bắt yêu quái lấy lại bảo bối, thì mong bệ hạ đừng phiền phức đặt tiệc nữa. Bần tăng xin từ biệt bệ hạ để đi bắt yêu quái đây.

Quốc vương không nghe, nhất định mời bằng được thầy trò đến cung Kiến Chương, dự một bữa tiệc nữa.

Quốc vương nâng chén rượu, hỏi:

- Vị thánh tăng nào dẫn tướng mang quân đi bắt yêu quái?
Tam tạng đáp:

- Sai đồ đệ cả là Tôn Ngộ Không đi.

Đại Thánh khoanh tay vâng lệnh. Quốc vương hỏi:

- Tôn trưởng lão đi thì cần bao nhiêu quân? Bao giờ rời khỏi thành?

Bát Giới không nhịn nổi, lớn tiếng quát:

- Dùng quân với lính làm gì! Mà cần quái gì giờ giấc! Nhân lúc này cơm lo rượu say, tôi cùng đi với sư huynh, ra tay bắt về luôn!

Tam Tạng mừng lắm, nói:

- Bát Giới dạo này siêng năng quá! Hành Giả nói:
- Đã vậy thì để Sa Tăng trông nom sư phụ, hai chúng con sẽ
đi.




Quốc vương nói:

- Hai vị trưởng lão không dùng quân lính thì cần binh khí gì? Bát Giới cười nói:
- Binh khí của bệ hạ, chúng tôi không dùng được. Anh em
chúng tôi đã có khí giới tùy thân rồi.

Quốc vương nghe nói, vội vàng rót chén rượu to tiễn Hành
Giả, Bát Giới lên đường.

Tôn Đại Thánh nói:

- Chúng tôi không uống rượu nữa, chỉ cần bệ hạ sai quân cẩm y giải hai tiểu yêu ra đây, để chúng tôi bắt chúng dẫn đường.

Quốc vương vừa hạ lệnh, hai tiểu yêu lập tức được dẫn ra. Hai người túm lấy hai tên tiểu yêu, cưỡi lên ngọn gió, sử phép nhiếp thân, đi thẳng về hướng đông nam. Chà! Thực là:
Vua tôi vừa thấy bay mây gió

Mới biết thầy trò bậc thánh tăng.



Cuối cùng chuyến đi này bắt quái như thế nào? Xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ SÁU MƯƠI BA Hai sư diệt quái náo long cung Các thánh trừ tà thu bảo bối
Lại nói chuyện quốc vương nước Tế Trại cùng công khanh
trong triều nhìn thấy Tôn Đại Thánh và Bát Giới túm hai tên tiểu yêu cưỡi gió mây phơi phới bay đi, thì ai nấy ngẩng mặt lên trời vái lạy, nói:

- Lời nói thật không sai! Ngày nay mới biết bậc thần tiên Phật sống!

Khi thấy hai người bay đi mất hút rồi, bèn quay lại vái lạy
Tam Tạng, Sa Tăng, nói:

- Quả nhân người trần mắt thịt, chỉ tưởng các vị đồ đệ có sức khỏe bắt bọn yêu quái ăn trộm thôi, biết đâu là bậc thượng tiên biết đi mây về gió.

Tam Tạng nói:

- Bần tăng chẳng có pháp lực ấy, dọc đường toàn nhờ cậy vào ba đồ đệ này cả.

Sa tăng nói:

- Chẳng giấu bệ hạ, sư huynh cả của tôi là Tề Thiên Đại Thánh đã quy y. Anh ấy từng đại náo thiên cung, sử dụng một cây gậy sắt nạm vàng, mười vạn thiên binh không sao địch nổi, đến nỗi Thái Thượng lão quân sợ hãi, Ngọc Hoàng Thượng Đế kinh hoàng. Sư huynh hai của tôi là Thiên Bồng nguyên soái cũng theo chính quả. Anh ấy đã từng chỉ huy tám vạn thủy binh ở Thiên Hà. Còn đệ tử tôi chẳng có pháp lực, chỉ là Quyền Liêm
đại tướng quân mà thôi. Anh em chúng tôi nếu bảo làm việc khác thì bất tài, chứ bảo làm những việc đại loại như trừ yêu tróc quái, diệt giặc trừ gian, khoét trời đào giếng, phục hổ hàng long, cho đến lật biển nghiêng sông thì cũng biết đôi chút. Còn những việc đi mây về mù, gọi gió kêu mưa, dời vật đổi sao, đuổi trăng gánh núi thì chỉ là việc xoàng, có gì đáng nói!

Quốc vương nghe nói càng thêm mười phần cảm phục, mời Đường Tăng lên ngồi trên, luôn miệng gọi là “Lão Phật”, gọi bọn Sa Tăng là “Bồ Tát”. Khắp triều văn võ mừng vui, cả nước thứ dân lạy tạ. Chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện Tôn Đại Thánh và Bát Giới cưỡi trận cuồng phong, cắp hai tên tiểu yêu tới đầm Bích Ba, núi Loạn Thạch, dừng mây, rút cây gậy sắt ra thổi một hơi tiên khí, miệng hô “biến”, biến thành một chiếc giới đao, cắt hai tai yêu quái cá sộp, cắt môi yêu tinh cá trê, đoạn thả hai con cá xuống nước, quát:

- Mau về báo cho Vạn Thánh Long Vương biết ta là Tề Thiên Đại Thánh Tôn Ngộ Không đang ở đây, bảo hắn phải trả ngay bảo bối trong tháp chùa Kim Quang, nước Tế Trại, thì ta tha chết cho cả lò cả ổ nhà hắn. Nếu nói nửa lời “không”, thì ta sẽ dốc cạn đầm này, giết sạch lớn bé già trẻ không còn một mống!

Hai tiểu yêu quái thoát chết, cắn răng chịu đau, mang theo cả dây trói lặn xuống nước, các loài thủy quái rùa, giải, ba ba, tôm, cua, cá trông thấy sợ quá, xúm lại hỏi:

- Hai anh làm sao mà tha lôi cả dây trói về đây thế?

Một tên bưng tai lắc đầu vẫy đuôi, một tên che mồm, giậm chân vỗ ngực, cả hai nhăn nhó la lối vào thẳng cung điện Long Vương bảo:

- Thưa đại vương, tai họa rồi!

Vạn Thánh Long Vương đang ngồi uống rượu với Cửu Đầu
phò mã, bỗng thấy hai tiểu yêu vào, bèn ngưng chén hỏi tai họa gì. Hai tên kia liền bảo:

- Đêm qua chúng tôi đi tuần tra, bị Đường Tăng, Tôn Hành Giả quét tháp bắt sống, dùng dây sắt trói nghiến lại, sáng nay mang giải đến trình quốc vương rồi lại bị Hành Giả, Bát Giới túm cả hai mang tới đây cắt tai, xẻo môi, ném xuống nước, bắt chúng tôi về báo, đòi trả bảo bối trên đỉnh tháp.

Hai tên kể hết đầu đuôi một lượt, Long Vương nghe nói đến Tôn Hành Giả Tề Thiên Đại Thánh thì sợ quá, hồn vía rụng rời, run rẩy nói với phò mã:

- Con ơi, người khác thì còn liệu kế được. Chứ đúng là hắn thì không hay rồi.

Phò mã cười nói:

- Nhạc phụ cứ yên tâm, con từ nhỏ học chút võ nghệ, cũng đã gặp gỡ nhiều hào kiệt trong thiên hạ, sợ cóc gì hắn! Để con ra đánh nhau với hắn ba hiệp, bắt hắn phải cúi đầu hàng phục, không dám nho nhoe.

Đoạn yêu quái đứng dậy mặc áo giáp, cầm một loại binh khí gọi là “xẻng nguyệt nha” ra khỏi cung, rẽ làn nước, đứng trên mặt đầm quát lớn:

- Thằng nào là Tề Thiên Đại Thánh mau ra nộp mình!

Hành Giả, Bát Giới đứng trên bờ đầm, nhìn yêu thấy yêu quái ăn mặc:

Đầu đội mũ bạc trắng Ngời ngời tựa tuyết rơi Giáp đâu mâu trên người Long lanh như sương sớm Bên ngoài khoác báo gấm
Đẹp tựa ngọc lông mày Lưng thắt đai tê dày Hệt mãng xà hóa biến
Tay cầm “nguyệt nha xẻng” Ráng bay chớp lóe theo Chân đi hài da heo
Sóng tung, nước không tụ Xa nhìn một đầu thú Gần: tứ phía mặt người Trước mắt, sau mắt soi
Tám phương nhìn thấu tỏ Trái, phải mồm sáng rõ Chín miệng đều nói năng Tiếng quát rộn không gian Tựa bạc kêu lanh lảnh.
Hắn chẳng thấy ai trả lời, lại quát câu nữa:

- Thằng nào là Tề Thiên Đại Thánh?

Hành Giả vuốt vuốt cây gậy sắt nạm vàng, nói:

- Lão Tôn đây! Yêu quái nói:
- Nhà cửa ở đâu? Xuất thân phương nào? Tại sao lại đến nước Tế Trại làm chân giữ tháp cho quốc vương, cả gan bắt lâu la của ta, lại còn dám hành hung đến núi báu của ta thách đấu?

Hành Giả quát lớn:

- Đồ yêu quái ăn trộm kia! Nhà ngươi lại đây nghe ta nói này:
Quê lão ở Hoa quả sơn

Tức Thủy liêm động giữa ngàn biển xa

Thuở nhỏ tu luyện công già

“Tề Thiên Đại Thánh” ấy là trời phong

Chỉ vì đại náo thiên cung

Thiên binh thần tướng khó lòng hàng Tôn.

Mời Như Lai trổ pháp môn

Vô biên pháp lực người trần tránh sao?

So tài thi đấu thấp cao

Ngón tay hóa núi đè sao nặng nề

Năm trăm năm trước xa xa

Quan âm khuyến thiện cứu ta thoát nào

Có vị Thánh tăng Huyền Trang

Cầu kinh bái Phật tìm đường sang Tây

Cứu ta, ta nhận làm thầy

Trừ ma bắt quái từ đây tu hành

Đến đây gặp Tế Trại thành

Tăng nhân oan khuất trăm vành thảm thương

Chúng ta hỏi rõ nguồn cơn

Hóa ra đỉnh tháp không còn hào quang

Sư phụ quét tháp tỏ tường

Canh ba khuya khoắt đêm đương vắng người

Bắt được yêu quái cung khai Biết rằng bảo bối các người lấy đi Thủ phạm chính Long Vương kia
Vạn Thánh công chúa cũng là liên danh

Gây trận mưa máu hôi tanh

Lấy trộm bảo bối để dành chẳng sai

Tội bay đã rõ mười mươi

Quốc vương hạ lệnh ta thời đến đây.

Tìm nhà ngươi bắt về ngay Cần gì phải hỏi lão này là ai Mau đem bảo bối chớ sai
Thì tha cả ổ nhà mày cho xong

Nhược bằng ngu tối hành hung

Ta làm núi đổ, đầm không tức thì!

Phò mã nghe xong, hi hi cười nhạt, nói:

- A, té ra nhà ngươi là hòa thượng đi lấy kinh. Vậy đừng có dây vào những chuyện không đâu! Ta lấy trộm bảo bối của họ đấy, nhà ngươi là người đi lấy kinh, thì có can gì, mà đến đây gây sự?

Hành Giả nói:

- Đồ yêu quái ăn trộm không biết lý lẽ kia! Ta tuy không chịu ân huệ gì của quốc vương, không dùng hạt cơm miếng nước nào của quốc vương, lẽ ra không cần phải gắng sức vì quốc vương làm gì. Nhưng nhà ngươi lấy trộm bảo bối, làm ô uế bảo tháp, gây oan khổ cho các nhà sư chùa Kim Quang từ mấy năm nay rồi. Họ là đồng môn, đồng khí với ta, tại sao ta lại không cố gắng giúp họ để tỏ bày nỗi oan uổng?

Phò mã nói:

- Nhà ngươi đã nói như vậy, hẳn là muốn thách đấu chăng? Thường có câu: “Võ không làm thiện”, chỉ sợ khi đã ra tay,
chẳng còn tình nghĩa, nhất thời ta hại tính mạng nhà ngươi, thì hỏng cả việc đi lấy kinh đấy!

Hành Giả cả giận, quát mắng:

- Đồ yêu quái ăn trộm khốn khiếp kia! Sức yếu sao mà dám to mồm như thế? Lại đây, nếm thử một gậy của lão Tôn!

Phò mã chẳng chút sợ hãi, giơ xẻng nguyệt nha lên đỡ. Bên sườn núi  Loạn Thạch một trận đánh nhau dữ dội diễn ra:

Yêu ma trộm bảo bối

Bảo tháp tối vô chừng

Hành Giả bắt yêu báo quốc vương Tha cho tiểu yêu về đáy nước Long Vương sợ hãi vội bàn bạc Cửu Đầu phò mã trổ uy phong
Mặc giáp ngoi lên giở thói hành hung Tề Thiên Đại Thánh nổi cơn giận dữ Gậy sắt vung lên thật đáng sợ
Yêu quái mười tám mắt, chín đầu Hào quang sáng rực phóng trước sau Hành Giả đôi tay nghìn cân nặng Xẻng tựa vầng trăng hồi đầu tháng Gậy như sương sớm sáng dặm dài
Người này nói:

“Nhà ngươi bất lương cắp bảo bối

Chớ có coi thường, đồ vô lại

Trả ngay bảo bối sẽ bình an!”
Gậy quay, xẻng đỡ giành phần hơn

Chưa rõ ai thua và ai thắng!

Hai người đánh nhau qua lại đến hơn ba mươi hiệp, không phân thắng bại. Trư Bát Giới đứng ở đầu núi thấy hai người đánh nhau mê mải, bèn vung đinh ba, nhằm lưng yêu quái bổ một nhát. Nguyên yêu quái có chín đầu, phía nào cũng có mắt nhìn thấy rõ ràng, thấy Bát Giới bổ vào lưng mình, bèn đưa lưỡi xẻng đỡ cây đinh ba, cán xẻng thì ngăn cây gậy. Đánh nhau thêm dăm bảy hiệp nữa, biết không thể cùng một lúc đón đỡ trước sau, bèn cuộn một vòng, nhảy vút lên tầng không, hiện rõ là một con trùng chín đầu, hình dạng cực kỳ dữ tợn, làm cho mọi người phải chết khiếp! Trông hắn:

Lông vũ màu như gấm Khắp mình mịn tựa bông Hình thù như chim sắt Móng chân cong nhọn hoắt Chín đầu vây lấy nhau
Vỗ cánh bay cực mau Đại bàng còn thua kém Tiếng kêu vang trời thẳm To hơn tiếng hạc tiên
Mắt lấp lánh hào quang

Chim chóc nào sánh nổi?

Bát Giới trông thấy sợ quá, nói:

- Sư huynh ơi, từ khi em làm người chưa từng trông thấy loài ác điểu nào như thế này bao giờ! Không biết khí huyết gì mà sinh ra loại cầm thú này vậy nhỉ?
Hành Giả nói:

- Thật là hiếm thấy! Thật là hiếm thấy! Để tôi đánh đuổi nó nhé!

Đoạn Đại Thánh nhảy vút lên đám mây lành, đứng trên không trung, vung gậy sắt nhằm đầu yêu quái bổ xuống. Yêu quái ưỡn người, vỗ cánh bay nghiêng, vèo một cái sà xuống sườn núi, nửa mình lại mọc ra một cái đầu, mồm ngoác rộng, đỏ lòm như chậu máu, ngoạm vào bờm Bát Giới lôi đi sềnh sệch, kéo xuống đáy đầm Bích Ba.



Đến ngoài long cung, yêu quái hiện rõ nguyên hình như lần trước, ném huỵch Bát Giới xuống đất, gọi:

- Bọn nhỏ đâu?

Các loài yêu tinh cá mè, cá trôi, cá rô, cá chép, rùa, giải, ba ba ùa cả đến, miệng hô:
- Có chúng tôi! Phò mã nói:
- Trói lão hòa thượng này vào đằng kia để báo thù cho mấy thằng tiểu tốt đi tuần của ta!

Bọn tiểu yêu reo hò ầm ĩ, khiêng Bát Giới đi. Long Vương vui mừng ra đón, nói:
- Con đã lập công rồi à? Làm thế nào con bắt được hắn đấy? Phò mã kể lại một lượt. Lão Long Vương lập tức sai đặt tiệc
rượu thưởng công con rể. Chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện Tôn Hành Giả thấy yêu quái bắt Bát Giới, trong lòng sợ hãi, nói:

- Thằng này lợi hại thật! Bây giờ về triều yết kiến sư phụ thì quốc vương sẽ cười cho. Nhưng ta mở mồm thách đánh, có một mình biết làm thế nào? Vả lại công việc dưới nước ta không quen. Chi bằng ta biến hóa ra loài gì chui xuống, xem yêu quái giam chú ngốc ở đâu đã. Nếu thuận lợi ta sẽ cứu hắn ra.

Đoạn Đại Thánh bắt quyết, lắc mình một cái, biến mình thành một con cua chui xuống nước, đến thẳng trước lầu. Do lần trước Đại Thánh ăn trộm con thú mắt vàng của Ngưu Ma Vương nên đã thuộc đường lối, bèn bò đến thẳng trước cung khuyết, thấy lão Long Vương cùng con thú chín đầu đang ngồi uống rượu hể hả. Hành Giả không dám tới gần, bèn bò sang phía hành lang bên đông, thấy mấy yêu quái tôm, cua đang tung tăng nô đùa. Hành Giả lắng nghe chúng trò chuyện một lát, học ngay được cách ăn nói của chúng bèn hỏi:

- Ngài phò mã bắt được lão hòa thượng mõm dài, hắn đã chết chưa nhỉ?

Bọn yêu quái đáp:

- Chưa. Vẫn bị trói rên ư ử ở hành lang phía tây kia kìa.
Hành Giả nghe nói, lại lẳng lặng bò sang hành lang bên tây, quả thấy chú ngốc bị trói vào chân cột đang rên hư hử, bèn tới gần hỏi:

- Bát Giới, chú nhận ra tôi không?

Bát Giới nghe tiếng, nhận ra Hành Giả, liền gọi:
- Sư huynh ơi, làm thế nào bây giờ? Hắn bắt được em rồi! Hành Giả thấy xung quanh không có người, bèn cắn đứt dây
thừng bảo Bát Giới chạy.

Chú ngốc được cởi trói, nói:

- Sư huynh ơi, binh khí của em đã bị nó lấy mất, biết làm thế nào?

Hành Giả hỏi:

- Chú biết hắn cất ở đâu không? Bát Giới đáp:
- Chắc là yêu quái mang cất vào cung điện. Hành Giả nói:
- Chú em ra ngoài cổng lầu trước, đợi ta nhé.

Bát Giới thoát chết, lẳng lặng đi ra. Hành Giả lại bò vào cung điện, thấy góc bên trái hào quang sáng chói, biết là cây đinh ba của Bát Giới phát sáng, bèn dùng phép ẩn thân, lấy trộm đinh ba đi ra, đến cổng lầu cất tiếng gọi:

- Bát Giới, cầm lấy binh khí!

Chú ngốc lấy lại được cây đinh ba, nói:

- Sư huynh ạ, sư huynh cứ ra trước đi, để lão Trư đánh thốc vào cung điện. Nếu thắng thì bắt cả ổ nhà nó. Nếu thua bỏ chạy, thì sư huynh đứng trên bờ đầm ứng cứu nhé!

Hành Giả mừng lắm, bảo phải cẩn thận, Bát Giới nói:
- Không sợ! Tài nghệ dưới nước em cũng biết đôi chút. Bát Giới thắt lại chiếc áo dài đen, hai tay nắm chiếc cây đinh ba, hét vang một tiếng, đánh thốc vào.

Các loài thủy tộc lớn nhỏ sợ quá, chạy thục mạng vào bảo:

- Hỏng rồi! Lão hòa thượng mõm dài dứt đứt dây thừng đang đánh vào đây!

Long Vương cùng con thú chín đầu và cả nhà trở tay không kịp, nhảy xổ chạy trốn. Chú ngốc chẳng kể nguy hiểm xông vào cung điện, vung đinh ba đập vỡ cánh cửa, bàn ghế, bao nhiêu đồ ăn thức uống đều đập nát vụn hết cả. Có bài thơ làm chứng rằng:

[267]
Mộc mẫu bị quái bắt đi

Tâm viên nghĩ cách cứu nguy chẳng đừng[268]

Khoe tài ngầm cởi dây thừng

Trổ thần thông giỏi hờn dâng ngút trời

Phò mã dắt vợ trốn rồi

Long vương run rẩy im hơi kinh hồn

Hãi hùng rồng cháu, rồng con

Thủy cung gác tía lầu son tan tành.

Lần này, Bát Giới đập nát tấm bình phong đồi mồi, ném vỡ vụn những cây san hô. Con thú chín đầu đem công chúa trốn biệt ở bên trong, rồi vội vàng cầm cây xẻng nguyệt nha chạy ra ngoài cung điện quát lớn:

- Con lợn khốn khiếp kia! Cớ sao dám càn rỡ làm kinh động gia quyến của ta?

Bát Giới quát mắng:

- Đồ yêu quái ăn trộm kia! Cớ sao nhà ngươi dám bắt ta? Lần
này không phải tại ta, mà chính nhà ngươi mời ta đến đánh nhé! Mau   mau đem bảo bối trả ngay để ta mang về trả cho quốc vương là xong việc. Bằng không, ta sẽ giết chết cả ổ nhà ngươi!

Yêu quái đâu chịu buông tha, nghiến răng nghiến lợi đánh nhau với Bát Giới. Long Vương vừa lúc trở lại hoàn hồn, dẫn rồng con, rồng cháu cầm thương xách đao, nhất tề xông vào đánh giúp. Bát Giới thấy sự thể bất lợi, bèn đánh nhử một miếng đinh ba, rồi quay người chạy miết. Long Vương dẫn quân đuổi theo. Một lát sau, bọn họ đã ngoi ra khỏi mặt nước, đánh nhau trên mặt đầm.

Lại nói chuyện Tôn Hành Giả đứng đợi trên bờ đầm, bỗng thấy bọn chúng đuổi theo Bát Giới ra khỏi làn nước, bèn nhảy vút lên mây, rút gậy sắt quát lớn:

- Chớ chạy!

Đoạn sà xuống đập một phát nát bét đầu Long Vương. Than ôi, máu me lênh láng đỏ ngầu cả mặt nước đầm, xác giạt vẩy trôi theo dòng nước. Rồng con, rồng cháu sợ quá, bỏ chạy tháo thân. Cửu Đầu phò mã vớt lấy xác Vạn Thánh, chạy thẳng về cung.

Hành Giả, Bát Giới cũng không đuổi theo, quay lên bờ kể lại chuyện trước.

Bát Giới nói:

- Tên ấy nhuệ khí đã nhụt! Hắn bị đường đinh ba của em đánh cho tới tấp nên phách tán hồn bay! Em đang đánh nhau với tên phò mã, lại bị Long Vương  đuổi tới. May nhờ có sư huynh đập chết hắn. Bây giờ thằng ấy quay về, nhất định hắn làm ma cúng tế, chẳng ra nữa đâu. Vả lại trời tối rồi, biết làm thế nào?

Hành Giả nói:

- Sợ gì trời tối! Nhân cơ hội này, chú cứ xuống đánh nữa đi, lấy cho bằng được bảo bối mới quay về triều.
Chú ngốc tỏ vẻ chán nản, ngần ngại ngập ngừng. Hành Giả thúc giục:

- Chú bất tất phải nghi ngại, cứ dẫn nó ra đây như vừa rồi, để tôi đánh cho.

Hai người đang bàn bạc, bỗng thấy cuồng phong cuồn cuộn, trời đất mịt mù, thổi thốc từ phương Đông sang phương Nam. Hành Giả để ý quan sát, hóa ra là Nhị Lang Hiển Thánh dẫn sáu anh em Mai Sơn, dắt chim ưng, chó săn, gánh một xâu cáo thỏ, khiêng lủng lẳng hươu nai, ai nấy lưng đeo cung ứng, tay cầm đao sắc, lướt gió theo mây, ầm ầm đi tới.

Hành Giả nói:

- Chú Bát Giới ơi, đó là bảy anh em Nhị Thánh của ta. Chú ra nói khéo giữ họ lại, đánh giúp chúng ta, may ra thành công thì là một cơ hội lớn đấy.

Bát Giới nói:

- Đó là anh em, thì sư huynh phải đi mời. Hành Giả nói:
- Nhưng trong đó có Hiển Thánh đại ca đã từng hàng phục ta, ta gặp không tiện. Chú cứ ra đón ở trên mây rồi gọi: “Chân Quân, xin ngài tạm dừng, có Tề Thiên Đại Thánh cúi chào ở đây”. Ngài ấy nghe nói đến ta nhất định dừng lại. Chờ ngài yên vị, ta sẽ đến gặp.

Chú ngốc nhảy vút lên mây, rồi đứng xuống đỉnh núi lớn tiếng gọi:

- Thưa Chân Quân, tạm dừng xa giá, có Tề Thiên Đại Thánh xin được gặp.

Hiển Thánh nghe thấy, lập tức hạ lệnh sáu anh em dừng lại, chào Bát Giới xong, bèn hỏi:
- Tề Thiên Đại Thánh ở đâu? Bát Giới đáp:
- Hiện đang ở dưới núi

Nhị lang nói:

- Các anh em đi mời Đại Thánh lại đây.

Sáu anh em: Khang, Trương, Diêu, Lý, Quách, Trực bước ra khỏi hàng quân cất tiếng gọi:

- Anh Tôn Ngộ Không ơi, đại ca có lời mời.

Hành Giả bước đến chào mọi người, rồi cùng lên đỉnh núi. Nhị Lang bước tới đón, nắm tay Hành Giả, nói:

- Nghe nói Đại Thánh đã thoát nạn lớn, thụ giáo Sa Môn, bao giờ thành công được ngồi tòa sen! Xin chúc mừng! Chúc mừng!

Hành Giả nói:

- Không dám! Trước đây đội ơn to chưa báo được mảy may. Tuy thoát nạn sang Tây, nhưng chưa biết công hạnh rồi sẽ thế nào. Hiện giờ đi qua nước Tế Trại, cứu các nhà sư thoát nạn, bắt bọn yêu quái ăn trộm bảo bối ở đây, may gặp xa giá sáu anh em, mạnh dạn xin anh em nán lại giúp sức. Không biết huynh trưởng từ đâu tới, có bằng lòng hay không?

Nhị Lang cười, nói:

- Ta nhân rảnh rỗi vô sự, cùng mấy anh em đi săn về, may gặp Đại Thánh quý mến giữ lại, thật cảm động về tình cố cựu ấy. Nếu được Đại Thánh cho hợp sức hàng yêu, thì đâu dám chối từ. Nhưng không biết yêu quái trộm cắp nào ở chốn này?

Sáu thánh nói:

- Đại ca quên rồi à. Nơi đây là núi Loạn Thạch, chân núi có đầm Bích Ba, là long cung của Vạn Thánh.
Nhị Lang kinh ngạc, nói:

- Vạn Thánh Long Vương sao lại gây sự, dám ăn trộm bảo bối?

Hành Giả nói:

- Gần đây hắn kén được một phò mã là một con thú chín đầu đã thành tinh. Bố vợ con rể hùa nhau làm giặc, giáng xuống một trận mưa máu ở nước Tế Trại, rồi ăn trộm bảo bối xá lị Phật ở đỉnh bảo tháp chùa Kim Quang. Quốc Vương không hay biết cứ bắt các nhà sư trong chùa tra khảo đánh đập. Sư phụ tôi từ bi thương xót, ban đêm lên quét tháp, và lúc ấy tôi bắt được hai tiểu yêu ngay ở đỉnh tháp. Bọn chúng được Long Vương sai tới tuần tra. Sáng nay chúng tôi đã giải bọn chúng vào triều, chúng đã thực thà cung khai hết. Quốc Vương bèn sai sư phụ tôi đi hàng phục yêu quái. Sư phụ lại sai chúng tôi đến đây. Trận đánh trước, con thú chín đầu ấy mọc một chiếc đầu ở sườn quắp đi mất Bát Giới. Tôi lại biến hóa chui xuống nước cứu Bát Giới. Vừa rồi đánh nhau một trận to, tôi đã giết chết được Long Vương rồi. Thằng con rể vớt xác về làm ma. Hai chúng tôi đang bàn cách đánh tiếp, thì thấy xa giá huynh trưởng tới, nên mới mạn phép thế này.

Nhị Lang nói:

- Đã giết được Long Vương rồi, thì phải đánh luôn, để tên ấy không kịp trở tay, tiêu diệt hết cả nhà, cả ổ nhà nó luôn.

Bát Giới nói:

- Đúng là như vậy, nhưng trời tối rồi biết làm sao được? Nhị Lang nói:
- Binh pháp có câu: “Việc đánh nhau không đợi giờ”, lo gì trời tối?

Bốn anh em Khang, Diêu, Quách, Trực nói:
- Đại ca chớ vội. Gia thuộc tên ấy ở cả đấy chắc chẳng đi đâu được. Tôn nhị ca lại là khách quý, Trư Cương Liệp cũng đã theo chính quả, trong doanh chúng ta còn đủ rượu ngon thực phẩm mang theo, sai bọn nhỏ nổi lửa, đặt tiệc ngay tại đây, một là để chúc mừng hai vị quý khách, hai là để chúng ta cùng nhau tâm sự, họp vui một đêm, sớm mai khiêu chiến cũng không muộn.

Nhị Lang mừng lắm, nói:

- Hiền đệ nói chí lý lắm!

Lập tức sai bọn tiểu hiệu đặt tiệc. Hành Giả nói:

- Đâu dám chối từ tấm thịnh tình của các vị. Nhưng từ ngày tôi làm hòa thượng, chỉ toàn ăn chay, sợ ăn mặn không tiện.

Nhị Lang nói:

- Có đủ cả oản phẩm, hoa quả và loại rượu thuần khiết.

Thế là dưới ánh trăng sao vằng vặc, chiếu đất màn trời, mấy anh em nâng chén giãi bày tình cũ.

Đêm khuya tịch mịch, dài đằng đẵng, nhưng quá vui nên dường như ngắn lại. Chẳng mấy chốc đằng đông đã hửng sáng. Bát Giới uống chén rượu, khiến lòng hăng hái phấn chấn, nói:

- Trời sắp sáng rồi, lão Trư nhảy xuống nước khiêu chiến đây. Nhị Lang nói:
- Nguyên soái cẩn thận, chỉ cần dẫn dụ hắn ra đây để anh em chúng tôi ra tay.

Bát Giới cười nói:

- Tôi hiểu! Tôi hiểu!

Đoạn thắt áo, cầm đinh ba, dùng phép rẽ nước nhảy xuống, đến thẳng cổng lầu hò hét đánh thốc vào trong điện.

Lúc ấy đám rồng con đang mặc áo xô, khóc lóc cạnh thi thể
Long Vương. Rồng cháu và tên phò mã đang sửa soạn quan tài ở phía sau. Bát Giới vừa chửi, vừa đánh thốc vào, tay vung lên cây đinh ba thực nặng, bổ một nhát thủng chín lỗ trên đầu rồng con. Long bà và mọi người sợ quá, bỏ chạy toán loạn vào bên trong khóc lóc:

- Tên hòa thượng mõm dài đánh chết con ta rồi!

Phò mã nghe nói lập tức cầm xẻng nguyệt nha, dẫn đám rồng cháu xông ra bên ngoài đánh Bát Giới. Bát Giới vung đinh ba đón đỡ, vừa đánh vừa rút nhảy ra khỏi mặt nước.



Tề Thiên Đại Thánh cùng bảy anh em đứng trên bờ nhất tề xông lên, thương đao chém loạn, đâm nát lũ rồng cháu thành một đống thịt nhầy nhụa. Phò mã thấy bất lợi, lăn một vòng trên đỉnh núi, hiện nguyên hình giang cánh bay lượn. Nhị Lang lập tức rút cung vàng, đặt mũi tên bạc, kéo căng cây cung, bắn vút một phát. Yêu quái bị bắn trúng cánh, sà xuống bên cạnh, định
cắn Nhị Lang. Nơi mạng sườn hắn lại mọc ra một cái đầu. Một con chó chồm đến, oẳng một tiếng, chiếc đầu đã bị cắn đứt rời, máu me lênh láng. Yêu quái nén đau bỏ chạy bạt mạng về phía Bắc Hải. Bát Giới định đuổi theo, Hành Giả cản lại, nói:

- Chớ có đuổi. Thường có câu: “Giặc cùng chớ đuổi”. Hắn bị con chó cắn mất đầu, tất biết là đến ngày tận số. Để ta biến thành hình dạng hắn, chú rẽ nước đuổi ta chạy xuống nước, tìm công chúa lừa ả lấy lại bảo bối.

Nhị Lang và anh em nói:

- Đừng đuổi hắn, bị thương là đủ rồi. Chỉ sợ giống này sót lại ở đời, di hại cho người sau.

Đến nay vẫn còn giống trùng chín đầu hút máu là do giống này sót lại đó vậy.

Bát Giới vâng lời, rẽ đôi làn nước. Hành Giả biến thành hình dạng yêu quái đi trước, Bát Giới hò hét đuổi theo sau, dần dần đuổi tới long cung. Vạn Thánh công chúa nhìn thấy hỏi:

- Phò mã có việc gì mà hoảng hốt như vậy? Hành Giả đáp:
- Bát Giới đánh thắng tôi, đuổi tôi về đây, tôi không thể địch nổi hắn. Nàng mau mau đưa bảo bối để tôi cất đi!

Công chúa trong lúc vội vã không phân biệt thật giả, bèn vội vàng bước vào điện sau lấy ra một cái tráp bằng vàng sáng óng ánh, đưa cho Hành Giả nói:

- Đây là bảo bối của nhà Phật đây.

Nàng lại lấy ra một cái tráp bằng ngọc trắng đưa cho Hành
Giả và nói:

- Đây là chín lá cỏ Linh Chi, chàng hãy đem giấu kỹ đi, để thiếp ra đấu với Bát Giới dăm ba hiệp ngăn hắn lại. Chàng cất
giấu bảo bối xong xuôi rồi ra cùng thiếp đánh hắn.

Hành Giả giắt hai cái tráp vào trong người xong bèn vuốt mặt một cái, hiện nguyên hình nói:
- Công chúa thử nhìn lại, xem ta có phải là phò mã không? Công chúa sợ quá, định cướp lại chiếc tráp, nhưng bị Bát Giới
xông lại, bổ một nhát đinh ba trúng vai, ngã quay ra đất. Còn mụ
long bà cắm đầu định chạy bị Bát Giới ngăn lại, giơ đinh ba định bổ.

Hành Giả nói:

- Khoan, đừng giết chết mụ! Để mang về báo công.

Bát Giới bèn lôi Long bà ra khỏi làn nước. Hành Giả đi sau bưng hai cái tráp, nhảy lên bờ nói với Nhị Lang:

- Nhờ uy lực của huynh trưởng, chúng tôi  đã lấy lại được bảo bối, quét sạch yêu ma.

Nhị Lang nói:

- Một là nhờ hồng phúc tày trời của quốc vương, hai là các anh em thần thông vô lượng, chứ tôi có công lao gì!

Mấy anh em đều nói:
- Tôn nhị ca đã thành công rồi, chúng tôi xin cáo biệt đây. Hành Giả cảm ơn khôn xiết, muốn lưu các thánh lại cùng yết
kiến quốc vương. Nhưng mấy anh em từ chối, về thẳng cửa
Quán Giang.

Hành Giả bưng tráp, Bát Giới lôi mụ long bà, bay trong khoảng nửa mây nửa mù, trong khoảnh khắc đã về tới nước Tế Trại. Lúc ấy, các hòa thượng chùa Kim Quang được tha tội đều đứng cả ở ngoài thành nghênh đón, bỗng thấy hai người từ trên mây bước xuống, bèn bước tới gần dập đầu vái chào, dẫn vào trong thành. Quốc vương cùng Đường Tăng đang ngồi đàm luận
trên điện. Trong đám hòa thượng có người đi trước, mạnh dạn vào cửa triều môn tâu:

- Vạn tuế! Hai ngài Tôn, Trư bắt được trộm, lấy được bảo bối mang về kia rồi!

Quốc  vương  nghe  tâu,  vội  vàng  bước  xuống  điện,  cùng Đường Tăng, Sa Tăng ra đón tiếp, khen ngợi mãi công lao, đoạn sai bày tiệc khoản đãi.

Tam Tạng nói:

- Bệ hạ hãy khoan, để đồ đệ của tôi đưa bảo bối về tháp xong xuôi, rồi hãy bày tiệc.

Tam Tạng lại hỏi Hành Giả:

- Các con đi từ hôm qua, tại sao hôm nay mới về?

Hành Giả đem chuyện đánh nhau với phò mã, Long Vương, gặp Chân Quân, đánh bại yêu quái, và việc biến hóa lừa lấy bảo bối kể tỷ mỉ một lượt. Tam Tạng, quốc vương cùng văn võ bá quan ai nấy đều vô cùng mừng rỡ.

Quốc vương lại hỏi:

- Long bà nói được tiếng người không? Bát Giới đáp:
- Đó là vợ Long Vương, mụ đã đẻ ra rất nhiều rồng con, rồng cháu, lẽ nào lại không nói được tiếng người?

Quốc vương nói:

- Đã nói được tiếng người, mụ hãy mau mau kể lại đầu đuôi câu chuyện ăn trộm ra sao?

Long bà nói:

- Việc lấy trộm vật báu nhà Phật, tôi hoàn toàn không biết, đều do chồng tôi là con quỷ Long Vương và phò mã là con thú
chín đầu gây ra cả. Họ biết ánh sáng phát ra trên đỉnh tháp của các ngài là hạt xá lị của Phật, bèn giáng xuống một trận mưa máu cách đây ba năm về trước, rồi thừa dịp đó lấy trộm bảo bối đem đi.

Quốc vương lại hỏi:

- Làm cách nào mà lấy được cỏ Linh Chi? Long bà thưa:
- Đó là do con gái tôi là Vạn Thánh công chúa lẻn lên tầng trời Đại La, đến trước điện Linh Tiêu, lấy trộm chín lá cỏ Linh Chi của Vương Mẫu. Hạt xá lị được tiên khí của đất rơi ra tức thì phát ra muôn đạo hào quang, nghìn tia khí đẹp. Nay bảo bối đã được các ngài lấy lại, tôi đã bị mất chồng, mất con, mất dâu mất rể, vậy muôn vàn lần xin tha tội chết.

Bát Giới nói:

- Tha thế nào được! Hành Giả nói:
- Không phải cả nhà đều phạm tội. Ta sẽ tha cho mụ, chỉ cần mụ mãi mãi trông tháp cho ta.

Long bà nói:

- Chết hay không bằng sống dở. Đã tha cho tội chết, thì bảo tôi làm gì cũng được.

Hành Giả bảo đưa dây sắt lại. Quan Đương giá lập tức lấy ra một sợi dây sắt xiên qua xương quai xanh của long bà. Hành Giả bảo Sa Tăng:

- Mời quốc vương đến coi chúng ta làm cho tháp được yên ổn.

Quốc vương lập tức sai sắp xa giá, rồi cùng Tam Tạng dắt tay nhau ra khỏi triều. Các quan văn võ cũng theo cả tới chùa Kim
Quang. Hành Giả đem chiếc bình đựng hạt xá lị đặt trên tầng tháp thứ mười ba, trói long bà vào chân cột ở giữa tháp, đoạn đọc châm ngôn, gọi thổ địa, thành hoàng và già lam ở bản chùa tới dặn cứ ba ngày phải mang tới cho long bà một bữa cơm, nếu có một chút sai sót sẽ xử chém ngay. Các vị thần lẳng lặng tuân lệnh. Hành Giả lại lấy cỏ Linh Chi quét hết mười ba tầng tháp, đoạn đặt cỏ vào trong bình để sưởi ấm hạt xá lị. Thế mới gọi là sửa cũ như mới. Muôn đạo hào quang, nghìn tia khí đẹp lại chiếu khắp tám phương, các nước ở bốn phía xung quanh đều lại nhìn thấy như trước.

Xuống tới cửa tháp, Quốc vương cảm tạ, nói:

- Nếu không có đức Phật cùng ba vị Bồ Tát tới đây, thì làm sao sáng tỏ được việc này?

Hành Giả nói:

- Tâu bệ hạ, hai chữ “Kim Quang” không hay, không phải là vật trụ lâu được. Bởi lẽ “Kim” là vật lưu động, “Quang” là khí lấp lánh. Bần tăng đã một phen khó nhọc vì bệ hạ, nay xin đổi tên chùa này là chùa Phục Long, để cơ nghiệp bệ hạ trường tồn mãi mãi.

Quốc vương lập tức sai đổi tên chùa, treo cao biển mới với tên gọi: “Sắc kiến hộ quốc Phục Long tự”[269]  lại sai sửa soạn yến tiệc, sai thợ vẽ ảnh, ghi tên bốn người, treo ở lầu Ngũ Phượng. Sau đó quốc vương sai sắp sửa xe loan đưa tiễn thầy trò Đường Tăng, lại ban cho vàng bạc tạ ơn, nhưng thầy trò nhất định không nhận một li. Thế mới thật là:

Yêu quái diệt trừ, muôn cảnh tĩnh

Như xưa, bảo tháp sáng trời xa.

Cuối cùng không biết lần đi này sẽ ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ SÁU MƯƠI TƯ Núi Kinh Cức Ngộ Năng gắng sức Am Mộc Tiên Tam Tạng làm thơ
Lại nói chuyện quốc vương Tế Trại cảm tạ công ơn thầy trò
Tam Tạng bắt yêu quái lấy lại được bảo bối, đưa tặng thầy trò vàng bạc châu báu, nhưng thầy trò không nhận. Quốc vương bèn sai quan Đương giá đo cắt quần áo cho bốn thầy trò, tặng mỗi người hai bộ, hai đôi xà cạp, hai chiếc hầu  bao. Ngoài ra, quốc vương lại sai chuẩn bị cho thầy trò đủ cả lương khô, bánh nướng, đổi cho điệp văn, đoạn sai sắp xa giá cùng văn võ bá quan,  trăm  họ  trong  thành  và  các  nhà  sư  chùa  Phục  Long, chuông trống rộn rã, tiễn đưa thầy trò ra ngoài thành. Đi xa chừng hai mươi dặm, thầy trò bèn từ biệt quốc vương. Mọi người lại đưa tiễn thầy trò hai mươi dặm nữa mới từ biệt quay về. Các nhà sư chùa Phục Long tiễn đưa đến năm sáu mươi dặm vẫn không chịu về. Có người muốn được cùng thầy trò Tam Tạng sang phương Tây! Có người muốn tu hành được theo hầu hạ. Hành Giả thấy họ không chịu quay về, bèn giở mẹo, nhổ ba bốn chục sợi lông tơ, thổi hơi tiên khí, hô “biến” tức thì biến thành một con hổ vằn hung dữ, chân nhảy, miệng gầm, chặn đường ngăn lối, các nhà sư sợ quá, không dám tiến bước. Bấy giờ Đại Thánh mới bảo sư phụ quất ngựa phóng đi. Lát sau thầy trò đã đi xa, lúc ấy các nhà sư mới gào khóc:

- Ôi các ngài có ơn có nghĩa ơi, chúng tôi vô duyên, các ngài chẳng độ cho chúng tôi rồi!

Tạm gác chuyện các nhà sư gào khóc lại. Lại nói chuyện bốn thầy trò đi tới đường cái. Hành Giả bấy giờ mới thu lông, và cả
đoàn thẳng hướng sang phương Tây.

Lúc này thời tiết đã thay đổi, thấm thoắt đông tàn xuân tới, tiết trời không nóng không lạnh, rất thuận lợi cho việc đi đường tiêu dao. Bỗng thầy trò nhìn thấy một cái đèo dài, trên đỉnh đèo là con đường đi. Tam Tạng ghìm cương quan sát, thấy đỉnh đèo gai góc quấn quýt, dây leo chằng chịt, tuy có dấu vết con đường nhưng hai bên gai góc um tùm nhọn hoắt. Đường Tăng hỏi:

- Đồ đệ ơi, đường đất thế kia làm sao đi được? Hành Giả đáp:
- Làm sao lại không đi được. Đường Tăng lại hỏi:
- Đồ đệ ạ, đường mòn ở dưới, gai góc phủ kín bên trên, họa là rắn rết bò sát đất mới đi được, các con bước thẳng lưng còn khó, bảo ta cưỡi ngựa làm sao?

Bát Giới đáp:

- Không hề chi, để con lấy đinh ba phạt gai góc mở lối, đừng nói là cưỡi ngựa, sư phụ có ngồi kiệu thì cũng qua được hết!

Tam Tạng nói:

- Con tuy khỏe, nhưng gai góc mọc dài không biết bao nhiêu dặm, làm sao đủ sức lực để phát quang được.

Hành Giả nói:

- Không cần bận vội, để con đi xem sao.

Đoạn tung người nhảy vút lên không trung quan sát, thấy mênh mông vô tận, thật là:

Đầy trời xông khí đất Khói đọng quyến mưa bay Ven đường cỏ mọc đầy
Khắp núi cây xòe tán

Rậm rậm rì rì đám lá non Chằng chằng chịt chịt mọc chồi xanh Xa trông thấy ngút mắt mênh mông Gần nhìn tựa mây bay bát ngát
Um tùm rậm rạp Ngăn ngắt xanh tươi Tiếng gió vi vút reo vui
Ánh dương tia ngời lấp lánh Có tùng, có bách trúc tươi tắn Lắm mai, lắm liễu, lắm tang dâu Dây leo chằng chịt quấn cây cao Bìm sắn lan man quanh cành liễu Đan xen như giá kiệu
Xoắn xuýt tựa chõng giường

Thấp thoáng hoa cười gấm huy hoàng Thoang thoảng hương đưa phô nhụy biếc Làm người ai chẳng hay đói rét
Nào biết Tây phương đường góc gai!

Hành Giả xem xét hồi lâu rồi hạ mây bước xuống nói:

- Sư phụ ạ, lối này xa lắm! Tam Tạng hỏi:
- Xa bao nhiêu? Hành Giả đáp:
- Mênh mông vô tận, tới đến nghìn dặm!
Tam Tạng sợ lắm, nói:

- Biết làm thế nào bây giờ? Sa Tăng cười, thưa:
- Sư phụ chớ có buồn, chúng con cũng học được cách đốt rẫy, cứ cho một mồi lửa đốt trụi sạch gai góc mà vượt qua!

Bát Giới nói:

- Chú đừng nói lăng nhăng! Đốt rẫy phải làm vào tháng mười cỏ nỏ cành khô mới bén được lửa. Chứ bây giờ đang độ tháng giêng, cây cỏ tươi tốt, đốt làm sao được!

Hành Giả nói:

- Vẫn cứ đốt được! Chỉ sợ người thôi. Tam Tạng nói:
- Làm thế nào qua được bây giờ? Bát Giới cười, thưa:
- Qua được, cứ phải nghe con.

Chú ngốc bèn bắt quyết niệm chú, ưỡn người lên hô “dài”, thân người liền cao đến hai mươi trượng, rồi múa đinh ba, hô “biến”, cây đinh ba liền dài tới ba mươi trượng, đoạn rảo cẳng bước tới, hai tay vung đinh ba phạt gai góc bỏ sang hai bên, miệng nói:

- Mời sư phụ đi theo con!



Tam Tạng thấy thế mừng lắm, vội vàng quất ngựa đi theo liền ngay đằng sau. Sa Tăng gánh hành lý, Hành Giả cũng dùng gậy sắt phạt gai góc mở lối. Suốt một ngày liền không ngừng tay, thầy trò đi được độ trăm dặm. Lúc này trời đã chạng vạng tối, thầy trò bỗng nhìn thấy một bãi đất trống, ngay giữa đường có một  tấm  bia,  trên  tấm  bia  có  ba  chữ  đại  tự:  “núi  Kinh
[270]
Cức

“phía dưới có hai hàng mười bốn chữ nhỏ: “Gai góc
lan man tám trăm dặm, xưa nay có lối ít người đi”. Bát Giới thấy vậy, cười nói:

- Để lão Trư này viết thêm vào hai câu nữa: Nay có lão Trư này khai phá
Thênh thang đường rộng đến Tây phương. Tam Tạng vui vẻ xuống ngựa nói:
- Đồ đệ vất vả quá! Chúng ta nghỉ đêm ở chỗ này đã, sớm mai
mặt trời mọc lại đi tiếp.

Bát Giới nói:

- Sư phụ đừng nghỉ lại, nhan lúc đêm trăng vằng vặc, chúng con đang hăng hái, cứ mở lối đi suốt đêm thôi!

Tam Tạng đành nghe theo Bát Giới lại xông lên cố gắng mở đường, bốn thầy trò người không dừng tay, ngựa không dừng vó, đi liền suốt một đêm, một ngày nữa. Lúc này trời lại tối xẩm, trước mặt gai góc chằng chịt, gió thổi trúc reo xào xạc, tiếng tùng vi vu, thầy trò chợt lại thấy trước mặt có một bãi đất trống, giữa bãi có một ngôi miếu cổ, ngoài cửa miếu tùng bách tươi tốt, mai đào xanh um. Tam Tạng xuống ngựa, cùng ba đồ đệ ngắm nghía. Chỉ thấy:

Bên suối lạnh một ngôi miếu cổ Lòng khói mây mưa gió buồn tênh Hạc trắng đùa với mây xanh
Cỏ hoa chân miếu dập dềnh tháng năm Trúc xào xạc tưởng trăm người nói Chim líu lo như gợi cơn sầu
Dấu chân người thấy đâu nào

Hoa tươi cỏ tốt quanh đầu tường hoang

Hành Giả nhìn, nói:

- Nơi này lành ít dữ nhiều, không nên ngồi lâu. Sa Tăng nói:
- Sư huynh nghĩ sai rồi. Nơi này hoang vắng chẳng dấu chân người, lại không có cầm thú quái yêu thì sợ cái gì?

Vừa dứt lời, bỗng thấy một trận âm phong cuồn cuộn, một cụ già đầu chít khăn, mình mặc một áo màu xám nhạt, tay chống
gậy lê, chân đi hài cỏ, theo sau là một quỷ sứ mặt xanh nanh vàng, râu tía mình trần từ phía sau cửa miếu đi ra, quỳ xuống nói:

- Thưa Đại Thánh, tiểu thần là thổ địa núi Kinh Cức, biết Đại Thánh đến đây, không có gì tiếp đãi, có mâm bánh hấp xin dâng lên trưởng lão, mời mỗi người xơi một chút. Vùng này suốt tám trăm dặm tịnh không bóng người, xin mời các ngài xơi tạm đỡ đói.

Bát Giới vui vẻ bước tới, thò tay định lấy bánh ăn không ngờ
Đại Thánh biết rõ tường tận, quát vang một tiếng:

- Hãy khoan! Tên này không phải người tốt! Chớ có vô lễ! Nhà ngươi là thổ địa ở đâu mà dám lừa dối lão Tôn? Nhìn cây gậy đây!

Cụ già thấy Hành Giả định đánh, bèn quay người, biến thành một làn gió âm, hét vang một tiếng, cắp ngay Tam Tạng mang đi đâu mất tích. Đại Thánh sợ quá không biết tìm đâu. Bát Giới, Sa Tăng tái mặt ngơ ngác; con ngựa bạch sợ hãi hý vang. Ba anh em và con ngựa là bốn, hốt hốt hoảng hoảng, nhìn xa ngó gần không hề thấy một mảy may dấu vết nào, tìm quẩn tìm quanh, chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện lão già cùng tên quỷ sứ khiêng Tam Tạng đến trước một ngôi nhà đá, mây khói lờ mờ, rồi nhẹ nhàng đặt xuống, cầm lấy tay Tam Tạng nói:

- Thánh tăng đừng sợ. Chúng tôi không phải là hạng người xấu, mà là Thập Bát Công núi Kinh Cức, nhân đêm nay gió mát trăng thanh, mời thánh tăng tới đây họp bạn ngâm thơ, tiêu khiển nỗi mong nhớ vậy thôi.

Lúc ấy, Tam Tạng mới định thần, mở mắt quan sát kỹ càng. Thực là:

Lẳng lặng khói mây man mác
Lâng lâng phong cảnh nhà tiên Đáng nơi chay lòng tu luyện Giữa vùng hoa trúc mơ màng Vách thẳm hạc tiên ẩn hiện
Ao trong ếch ộp kêu vang Bếp luyện linh đơn nghi ngút Non tiên Hoa Nhạc mây vàng Nói gì cày mây câu nguyệt Chính nơi ẩn dật ni tăng
Ngồi buồn thẳm sâu tựa biển

Song sa lấp ló vầng trăng

Tam tạng gật gù ngắm nghía, dần dần trăng sáng sao trong, và đã nghe thấy tiếng người trò chuyện. Họ nói:

- Thập Bát Công đã mời được Tam Tạng tới rồi.

Tam Tạng ngẩng đầu nhìn, hóa ra là ba ông già. Ông ngồi phía trước phong tư sương tuyết, ông thứ hai tóc xanh lòa xòa, ông thứ ba nhàn nhã thư thái. Mỗi người mỗi vẻ, quần áo cũng chẳng giống nhau. Cả ba ông đều bước tới, cúi chào Tam Tạng.

Tam Tạng chào đáp lễ xong, nói:

- Đệ tử có đức hạnh gì đâu mà dám phiền các vị tiên ông hạ cố?

Thập Bát Công cười nói:

- Từ lâu chúng tôi nghe nói thánh tăng có đạo, chờ đợi đã lâu, nay may mắn được tương kiến. Nếu quả không tiếc lời châu ngọc, xin thư thả ngồi chơi trò chuyện để thấy được chân phái của Thiền môn.

Tam Tạng cúi người, nói:
- Xin cho được hỏi tôn hiệu của tiên ông? Thập Bát Công nói:
- Vị phong tư sương tuyết đây hiệu là Cô Trực Công; vị tóc xanh là Lăng Không Tử, vị hư tâm đây là Phất Vân Tẩu; còn lão quê mùa tôi đây hiệu là Kinh Tiết.

Tam Tạng hỏi:

- Bốn vị tôn ông tuổi thọ bao nhiêu ạ? Cô Trực Công đáp:
Tuổi tôi trải đã nghìn xuân

Bốn mùa xanh tốt sánh gần trời xanh

Cành thơm rồng rắn hiện hình

Tinh thần thấm đượm muôn vành tuyết sương

Sinh ra cứng cỏi khang cường

Đến nay chính trực theo đường quy chân

Phượng bay về ngủ khác trần

Thâm nghiêm lỗi lạc nhọc nhằn sá chi

Lăng Không Tủ cười, nói:

Phong sương ngạo nghễ nghìn xuân Thân cao cành lớn tinh thần dẻo dai Đêm khuya vi vút sương rơi
Thu về bóng mát rợp trời như mây

Phép trường sinh học bấy nay Thêm phương bất lão mệnh này dài lâu Hạc hóa rồng giống tục đâu
Phong tư thanh sảng khác nào tiên ông
Phất Vân Tẩu cười nói:

Tuế hàn chắc đã nghìn thu

Vẻ già quắc thước thanh u bội phần

Điềm đạm chẳng nhuốm bụi trần

Trải bao sương tuyết thêm phần khoan thai

Thất hiền kết bạn vui chơ  [271] Giao du lục dật đủ mùi từ chương Chan chan tiếng ngọc lời vàng
Tự nhiên giữ tinh, thần tiên bạn cùng Kinh Tiết Thập Bát Công cười nói: Tuổi tôi nghìn lẻ có dư
Xanh tươi hùng tráng vẫn như thưở nào

Tuyết sương tăng tuổi thọ cao Tùy cơ tạo hóa vui theo đất trời Muôn khe mấy gió sao dời
Bốn mùa tiêu sái cuộc đời ung dung

Tán xòe mời mọc tiên ông

Sách xem, đàn dạo, chơi chung cuộc cờ

Tam Tạng cảm tạ nói:

- Bốn vị tiên ông tuổi thọ đều cao. Ngài Kinh Tiết Thập Bát công đây tuổi thọ nghìn năm có lẻ, tuổi cao đắc đạo, phong thái
[272]
thanh kỳ, thật chẳng khác nào “tứ hạo”

Bốn ông già nói:

 đời Hán vậy.

- Ngài thật quá khen! Thật quá khen! Chúng tôi đâu được là
“tứ hạo”, chỉ là bốn người tiết tháo trong núi sâu thôi. Xin hỏi
lại thánh tăng tuổi thọ được bao nhiêu?

Tam Tạng chắp tay, nghiêng người thưa:

Bốn mươi năm trước chào đời Mệnh gặp tai ách từ thời chưa sinh Trôi theo sóng gió lênh đênh
Kim Sơn trưởng lão thương tình cứu cho

Tụng kinh dưỡng tính sớm trưa Thành tâm kính Phật bấy giờ đến nay Đội ơn hoàng thượng sang Tây
Tiên ông hạ cố hôm nay thỏa lòng

Bốn ông già đều ngợi khen nói:

- Thánh tăng ngay từ lúc lọt lòng mẹ đã theo Phật giáo, tu hành từ nhỏ nên quả là một bậc thượng tăng đắc đạo chân chính. Chúng tôi may mắn được gặp tôn nhan, thỉnh cầu đại giáo, mong được chỉ bảo cho một hai điều về Thiền pháp, thỏa nỗi ước mong.

  Tam Tạng nghe nói như vậy, điềm nhiên thẳng thắn nói với mấy ông già rằng:

- Thiền tức là tĩnh, Pháp tức là qua. Qua với cái tĩnh, không giác ngộ thì không thành. Ngộ tức là rửa lòng, giũ lo, xa trần thoát tục. Than ôi, nhân thân khó thành, trung thổ khó sinh, chính pháp khó gặp. Trọn vẹn được cả ba điều ấy thì may mắn nào bằng. Đức tốt đạo hay, mênh mông man mác, lục căn lục
[273]
thức

, thảy khả quét trừ. Bồ đề là bất sinh bất tử, chẳng
thiếu chẳng thừa, không sắc bao la, kẻ thánh người hiền đều sai khiến cả. Hỏi rõ cả công cụ của Nguyên Thủy, biết rõ cả thủ
[274]
đoạn của Mâu Ni, phát huy tượng võng

, đạp vỡ Niết Bàn.
Cần phải giác rõ sự giác, ngộ rõ sự ngộ, một điểm linh quang giữ trọn vẹn, phóng luồng lửa đỏ chiếu bà sa, dọc ngang pháp giới riêng hiển lộ. Rất u vi, càng kiên cố, cửa huyền nói suông ai kẻ độ? Ta vốn tu hành đại giác thiền, có duyên có chí nên giác ngộ.

Bốn ông già lắng tai nghe lời dạy, vô cùng mừng rỡ, ai nấy cúi đầu quy y, nghiêng mình cúi lạy nói:

- Thánh tăng thật là bậc giác ngộ tận gốc rễ cơ thiền. Phất Vân Tẩu nói:
- Thiền tuy tĩnh, pháp tuy độ, nhưng phải định tính thành tâm. Dù có vào bậc đại giác chân tiên, cũng chỉ ngồi vào cái đạo vô sinh mà thôi. Đạo huyền của chúng tôi thật khác nhiều lắm.

Tam Tạng nói:

- Đạo là phi thường, nhưng cách thức giống nhau, tại sao lại còn khác?

Phất Vân Tẩu cười, nói:

Chúng tôi sinh ra bền chắc Thể dụng khác hẳn ngài đây Cảm trời đất sinh thân này Nhờ mưa móc mà tươi tắn Ngạo cười mưa nắng
Tháng ngày phôi pha Một lá chẳng rụng qua Nghìn cành vươn cứng cỏi
Như lời đây cõi xung hư chẳng tới

Phạn ngữ ngài chấp trừ luôn luôn. Kia đạo này vốn Trung Quốc có nguồn
Sao còn cầu Tây phương cõi khác

Hai cỏ kia phí uổng

Chẳng biết tìm cái chi?

Sư tử đá móc hết ruột gan đi Chú cáo rừng rưới tràn xương vóc Tham thiền quên gốc
Phật quả vọng cầu

Hệt mê ngữ dây leo Mọc trên non Kinh Cức Loại quân tử ấy
Tiếp dẫn làm gì

Quy mô thế kia

Ấn trao sao được?

Tất nhiên phải soi rọi mặt mày phía trước

Trong tĩnh kia có sự sinh nhai Nước đựng làn tre chảy phí hoài Nở hoa từ cây sắt không rễ
Đỉnh Linh Bảo bước đi vững thế

Trở về dự hội đến Long Hoa

Tam Tạng nghe xong cúi đầu lạy tạ, Thập Bát Công đưa tay dìu. Cô Trực Công vươn người đỡ. Lăng Không Tử cười khà khà, nói:

- Lời của Phất Vân tiết lậu hết cả. Xin mời thánh tăng đứng dậy và đừng tin hết. Chúng tôi chỉ nhân đêm nay trăng sáng, muốn tiêu dao ngâm nga, cho thỏa tâm tình mà thôi, chứ không phải giảng bàn về sự tu hành đâu.
Phất Vân Tẩu cười, chỉ gian nhà đá nói:

- Nếu muốn ngâm nga, xin mời vào tiểu am dùng trà đã. Các ngài thấy thế nào?

Tam Tạng nghiêng người ngắm nhìn mặt trước gian nhà đá, thấy trên cửa đề ba chữ đại tự “am Mộc Tiên”, bèn cùng bốn ông già bước vào, chia thứ tự ngồi xuống. Bỗng thấy một tên quỷ sứ mình trần bưng một mâm cao phục linh, cùng năm chén trà thơm dâng lên. Bốn ông già mời Đường Tăng xơi trước. Tam Tạng nghi ngại không dám ăn, chờ bốn ông già ăn cả, rồi mới ăn hai miếng. Mọi người uống trà hương xong, khay chén đã được dọn dẹp, bấy giờ Tam Tạng mới để ý nhìn trộm, thấy bên trong long lanh rực rỡ, chẳng khác gì bóng trăng:

Nước từ khe đá chảy ra

Hương từ hoa thắm thoảng qua mơ màng

Khắp nhà u nhã lâng lâng

Tuyệt không nửa hạt bụi trần nơi đây

Tam Tạng thấy cảnh tiên như vậy, lấy làm đắc ý, tình vui ý đẹp, hoan hỉ vô cùng, cao hứng đọc một câu:

 Lòng thiền trăng chiếu thanh thanh,

Kim Tiết Lão cười tươi nói:

Hứng thơ bát ngát, vờn quanh mây trời

Cô Trực Công đáp:

Câu hay chẳng kể vắn dài

Lăng Không Tử đọc tiếp:

Văn hay chẳng lọ lời lời phun châu

Phất Vân Tẩu đọc tiếp:

Phồn hoa rửa sạch lầu lầu
Nhã tụng đây mới nên câu tuyệt vời.

Tam Tạng nói:

- Đệ tử lỡ lời một chút, nói nhăng mấy câu, khác nào “múa rìu qua mắt thợ”. Vừa rồi được nghe những lời thanh tân phiêu dật của các vị tiên đây mới thật là những bậc thi nhân vậy.

Kinh Tiết Lão nói:

- Thánh Tăng bất tất phải quá khen. Người xuất gia toàn trước vẹn sau, đã có câu mở sao không có câu kết? Mong được hoàn tất nốt cho.

Tam Tạng nói:

- Đệ tử bất tài, phiền Thập Bát Công làm nốt câu kết cho thành cả bài là hay nhất.

Kinh Tiết nói:

- Ngài nghĩ hay thật! Đã làm được câu mở, tại sao lại không chịu làm câu kết? Tiếc lời châu ngọc, không phải đạo đâu.

Tam Tạng đành đọc nốt hai câu sau rằng:

Trà thơm nửa gối tùng soi

Ngâm nga tiêu sái một trời đầy xuân.

Thập Bát Công nhắc lại:

-”Ngâm nga tiêu sái một trời đầy xuân”, hay quá! Cô Trực Công nói:
- Kinh Tiết, ngài thẩm thi sâu sắc, mở miệng thành thơ, sao không làm một bài nữa?

Thập Bát Công cũng khẳng khái không chút chối từ, nói:

- Tôi xin làm theo lối “đỉnh châm”[275] rằng:

Xuân chẳng tươi, đông chẳng khô,
Mây qua mù lại vẫn là như không

Lăng Không Tử nói:

- Tôi cũng xin làm hai câu đỉnh châm:

Không gió lay bóng trắc tùng

Có khách phúc thọ mơ mòng bấy nay.

Phất Vân Tẩu cũng làm hai câu đỉnh châm:

Nay mơ đứng vững núi Tây

Trong như Nam quốc lòng đây sạch lầu

Cô Trực Công cũng làm hai câu đỉnh châm:

Lầu mong lá thắm thân cao

Làm rường làm cột khác nào hiến   [276] Tam tạng nghe xong tán thưởng không ngớt:
- Thật là những khúc dương xuân bạch tuyết, khí lớn ngút trời! Đệ tử bất tài cũng xin làm thêm hai câu nữa.

Cô Trực Công nói:

- Thánh tăng là bậc hiền sĩ hữu đạo, là người đại nhân đại dưỡng, bất tất phải làm lại hai câu liên cú nữa, xin cho cả một bài toàn thiên, để chúng tôi cố gắng họa theo.

Tam Tạng bất đắc dĩ đành mỉm cười ngâm một bài thơ luật rằng:

Chống gậy sang Tây bái Pháp vương Nguyện cầu kinh điển để truyền dương Cỏ thơm ba lá thơ nên vẻ
Cây báu nghìn hoa sen ngát hương

Trăm thước ngọn tre nên tiến bước
Mười phương thế giới tự hành tàng Tu thành báo tượng trang nghiêm thế Cực lạc miền kia chính đạo tràng.
Bốn ông già nghe xong, hết sức khen ngợi. Thập Bát Công nói:
- Tôi tuy vụng về bất tài, cũng xin cố gắng mạnh dạn họa theo một bài:

Tiết cứng vươn cao cợt Mộc vương Cây xuân chẳng giống tiếng danh dương Núi cao trăm trượng rắn rồng lượn
Suối chảy nghìn năm hổ phách hương

Trời đất mở toang sinh khí bốc Gió mưa mừng gặp hóa hành tàng Suy tàn tự thẹn không tiên cốt
Duy chỉ linh cao kết thọ tràng.

Cô Trực Công nói:

- Bài thơ câu mở hào hùng, câu đối có khí lực, nhưng câu kết tự khiêm quá. Hay lắm! Hay lắm! Tôi tuy vụng về cũng xin họa một bài:

Phong tư mừng được đậu cầm vương Tứ nguyệt nha kia đại khí dương Sương nặng giải châu xòe tán rộng Gió đưa vách đá lạnh mùi hương Hiên dài đêm vắng thơ ngâm khẽ Điện cổ thu buồn bóng nhạt tàng
Nguyên đán đón xuân từng hiến thọ

Già về ngạo nghễ tại sơn tràng.

Lăng Không Tử mỉm cười nói:

- Thơ hay quá! Thơ hay quá! Khác nào trăng sáng giữa trời! Tôi vụng về biết họa lại thế nào đây? Nhưng lỡ nào lại bỏ qua, vậy cũng xin có mấy câu sau:

Lương đống tài cao sát đế vương Thái thanh cung ấy rộn thanh dương Hiên quang sáng sủa tràn thanh khí Tường vắng tầm thương ngát thúy hương Tiết cứng nghìn năm coi lẫm liệt
Rễ sâu chín suối hết tiềm tàng

Tán xòe lơ lửng mây cao bóng

Chẳng giống muôn hoa diễm lệ tràng

Phất Vân Tẩu nói:

- Thơ của ba ông cao nhã thanh khiết, khác nào mở túi gấm thêu. Tôi tuy bất lực bất tài, nhưng được ba ông chỉ giáo, dạ tối bỗng sáng bừng, bất đắc dĩ cũng có vài câu, mong các ông chớ cười!

Thơ rằng:

Trong chốn Kỳ Viên lạc thánh vương Vị Xuyên nghìn mẫu mặc phân dương Trúc xanh chẳng nhiễm Tương Nga lệ Măng đốm đâu truyền Hán Sứ hương Sương gội lá kia màu chẳng đổi
Mù rơi ngọn nọ sắc còn tàng
Tử du tạ thế tri âm ít

Muôn thuở lưu danh bút mực tràng.

Tam Tạng nói:

- Thơ của các bậc thần tiên thực là nhả ngọc phun châu, dù
đến Tử Du, Tử Hạ[277]


cũng còn kém, tứ cao tình sâu, cực kỳ
cảm động. Nhưng đêm đã khuya, ba đồ đệ không biết đang chờ tôi ở đâu. Vì vậy, đệ tử không dám ở lâu, dám xin cáo từ tìm đường về, được như vậy mối tình chí thiết càng nồng thắm lắm. Mong các lão tiên chỉ dùm cho lối về.

Bốn ông già cười nói:

- Thánh tăng chớ lo. Chúng ta gặp nhau thật là “sự gặp gỡ nghìn năm mới có một lần”. Huống hồ trời trong mây sáng, tuy đêm đã khuya nhưng vằng vặc sáng trăng. Vậy thánh tăng hãy ngồi chơi thư thả, đợi trời sáng sẽ đưa tiễn qua núi, lúc ấy chắc cũng gặp đồ đệ thôi.

Đang trò chuyện, bỗng thấy bên ngoài gian nhà đá có hai người tiểu đồng gái áo xanh gánh một đôi đèn lồng bằng sa, và dẫn một tiên nữ tới. Tiên nữ cài một cành hoa hạnh, cười chúm chím, bước vào cửa cúi chào.

Trông nàng:

Dáng thanh như cánh trả

Má đỏ tựa yên chi Long lanh đôi mắt phượng Cong vút một hàng mi Quần hồng thêu ngũ sắc Áo lụa màu đỏ hây
Hài nhỏ cong mỏ phượng
Tất gấm ánh lưu ly Gái Thiên Thai kiều diễm Nào kém gì Đán Ky (Cơ)!
Bốn ông già cúi mình hỏi:

- Hạnh Tiên đến có việc gì?

Cô gái chúc vạn phúc mọi người, rồi nói:

- Biết có khách quý ở đây thù tạc, nên Hạnh Tiên này đến tìm gặp, dám xin được tương kiến.

Thập Bát Công chỉ Đường Tăng nói:

- Khách quý ở đây, phải vất vả tìm đâu!

Tam Tạng cúi người, chẳng nói chẳng rằng. Cô gái cất tiếng gọi:

- Mau mang trà vào đây!

Lại thấy hai tiểu đồng gái áo vàng bưng chiếc khay sơn son, trong khay đặt sáu chén trà nhỏ bằng đá và một ít phẩm quả lạ, một chiếc thìa, và xách một chiếc ấm trà bằng đồng thau nạm thiếc trắng. Hương trà từ trong ấm bay ra ngào ngạt. Tiểu đồng rót trà. Cô gái khẽ đưa ngón tay búp măng thon thả nhấc chén trà mời Tam Tạng, sau đó mời bốn ông già, rồi mình cũng cầm một chén tiếp đãi.

Lăng Không Tử nói:

- Hạnh Tiên sao lại không ngồi?

Cô gái lúc ấy mới ngồi xuống. Uống trà xong nàng nghiêng người hỏi:

- Các tiên ông đêm nay vui quá, xin ban cho một vài câu đẹp được chăng?

Phất Vân Tẩu nói:
- Chúng tôi văn chương thô thiển, chỉ có thơ Thánh tăng đây mới xứng thơ Thịnh Đường, rất đáng thưởng thức.

Cô gái nói:

- Nếu không tiếc ngại xin cho nghe một chút.

Bốn ông già bèn đọc lại cho cô gái nghe hết một lượt những bài thơ và những lời bàn về thiền pháp của Tam Tạng. Cô gái mặt mày hớn hở, tươi cười nói với mọi người:

- Hạnh Tiên bất tài, không nên phô dở. Nhưng được nghe câu hay, chẳng nhẽ bỏ qua. Vậy xin miễn cưỡng họa một bài sau cùng xem sao.

Nàng bèn cất giọng ngâm sang sảng:

Muôn thuở lưu danh Hán Vũ Vương Thời Chu Khổng Tử lập đàn dương Đổng Tiên yêu mến nên rừng cả
Tôn Sở sững sờ tiếc vị hương Mưa đượm vẻ hồng non lại mượt Khói lồng sắc thắm hiển rồi tàng Biết rằng quá chín thành chua đấy
Rụng xuống năm năm bạn mạch tràng.

Bốn ông già nghe xong ai nấy đều tán thưởng, nói:

- Thanh nhã thoát trần. Câu thơ chứa đựng ý xuân. Nhất là câu “Mưa đượm vẻ hồng non lại mượt”, “Mưa đượm vẻ hồng non lại mượt”!

Cô gái chúm chím cười khẽ trả lời:

- Hú vía! Hú vía! Vừa nghe thơ của thánh tăng, thật là lòng như gấm, miệng như thêu, nếu không tiếc lời, xin ban dạy một bài nữa được không?
Đường Tăng không dám trả lời. Cô gái dần dà tỏ vẻ đáng yêu, nhích dần, nhích dần, ngồi sát cạnh người Đường Tăng, khe khẽ nói:

- Khách quý chớ bỏ hoài đêm đẹp thế này không chơi xuân còn đợi cái gì? Đời người ta quang âm thấm thoắt, phỏng được mấy khi vui?

Thập Bát Công nói:

- Hạnh Tiên đã tỏ hết tình cảm ngưỡng mộ, chẳng lẽ thánh tăng lại không có ý đáp lại hay sao? Nếu không yêu đương là không biết thú rồi.

Cô Trực Công nói:

- Thánh Tăng là bậc hiền sĩ có danh có đạo, chắc không cẩu thả hành sự. Sắp đặt như thế là chúng ta có lỗi đấy. Làm nhơ nhuốc thanh danh người ta, bại hoại đức hạnh của người ta, không phải là biết nhìn xa đâu. Nếu quả Hạnh Tiên có ý, thì xin Phất Vân Tẩu và Thập Bát Công làm mối, tôi và Lăng Không Tử chủ hôn, để thành gia quyến, lại không tốt hơn sao?

Tam Tạng nghe nói như vậy thì biến sắc mặt, đứng phắt dậy quát lớn:

- Các người đều là một loài yêu quái dụ dỗ ta! Vừa rồi chỉ lấy lời nông cạn bàn huyền bàn đạo còn được, chứ bây giờ lại dùng mỹ nhân kế hãm hại bần tăng là nghĩa lý gì?

Bốn ông già thấy Tam Tạng nổi giận, ai nấy cắn móng tay sợ hãi, chẳng dám nói năng. Tên quỷ sứ mình trần sừng sộ gầm lên như sấm:

- Lão hòa thượng này chẳng biết cân nhắc gì cả! Bà chị ta đây có chỗ nào không tốt? Dáng người thanh nhã, chất ngọc diễm kiều, chưa cần nói tới công dung ngôn hạnh, chỉ cần một bài thơ như vừa rồi cũng đủ lấy được người hơn nhà ngươi. Vậy mà
ngươi sao còn từ chối? Chớ có bỏ qua! Lời của Cô Trực Công chí lý lắm. Nếu quả không muốn cầu hợp, thì để ta làm chủ hôn cho nhà ngươi.

Tam Tạng sợ hãi tái mặt, mặc cho bọn họ nói nhăng nói cuội, chỉ một mực không nghe. Tên quỷ sứ lại nói:

- Lão hòa thượng kia, chúng ta khuyên nhủ tử tế mà nhà ngươi không chịu nghe. Giả sử chúng ta nổi tính cục cằn lên, cứ cắp nhà ngươi đi thì nhà ngươi làm hòa thượng cũng chẳng nổi, lấy vợ cũng chẳng xong, không uổng cả một đời sao?



Tam Tạng lòng vững vàng như đá, một mực không nghe, nghĩ thầm rằng:

- Không biết mấy đồ đệ đang tìm ta ở đâu?

Nói xong, không ngăn được hai hàng lệ chứa chan.

Cô gái tươi cười, nhích sát người cạnh Tam Tạng, rút trong
tay áo ra một chiếc khăn lụa ướp hoa dùng để lau mồ hôi, lau nước mắt cho Tam Tạng, nói:

- Khách quý chớ buồn phiền, thiếp cùng chàng tựa ngọc ướp hương, ta chơi xuân nào!

Tam Tạng hừ to một tiếng,  đứng phắt dậy định bỏ chạy, nhưng bị bọn người kia kéo lôi túm giữ ồn ào cho tới sáng.

Chợt nghe thấy đâu đó có tiếng gọi:

- Sư phụ ơi! Sư phụ ơi! Sư phụ đang nói ở đâu đấy?

Số là Tôn Đại Thánh, cùng Bát Giới, Sa Tăng dắt ngựa, gánh hành lý, đi suốt đêm, xuyên qua gai góc, tìm đông tìm tây, đi trong khoảng nửa mây, nửa mù vượt qua tám trăm dặm núi Kinh Cức, bỗng nghe tiếng Đường Tăng quát tháo, nên mới cất tiếng gọi.

Tam Tạng giằng tay chạy ra ngoài cửa, gọi to:

- Ngộ Không ơi, ta ở đây, mau đến cứu ta với! Mau đến cứu ta với!

Bốn ông già và tên quỷ sứ, cô gái và người tiểu đồng gái, vèo một tiếng đã biến mất tăm không thấy đâu cả.

Một lát sau, Bát Giới, Sa Tăng bước cả tới, hỏi:

- Sư phụ, tại sao sư phụ lại ở đây? Tam Tạng túm chặt lấy Hành Giả nói:
- Đồ đệ ơi, các con vất vả quá! Cái ông già gặp chiều hôm qua nói là thổ địa dâng cơm chay ấy, bị con quát một tiếng toan đánh, thế là hắn vác ta tới đây. Hắn chào ta rồi dắt tay vào nhà, thấy cả ba ông già nữa đến đây gặp ta và đều gọi ta là “thánh tăng”. Ai nấy ăn nói thanh nhã, thơ phú cực hay. Ta cùng họ làm thơ xướng họa với nhau mãi tới nửa đêm, lại thấy một người con gái xinh đẹp xách đèn hoa cùng đến dự, họa một bài thơ và gọi
ta là “khách quý”, rồi thấy ta nho nhã muốn kết vợ chồng, ta mới tỉnh ngộ ra. Đang lúc ta không chịu, lại bị bọn họ, người nhận làm mối, người nhận làm chủ hôn, ta một mực từ chối. Đang giằng tay ra toan bỏ chạy, làm ầm ĩ lên, thì bất ngờ các con kéo tới. Chắc một là trời sáng rõ, hai là họ sợ con, nên vừa giành giật ta xong, mà thoắt một cái đã không thấy họ đâu cả.

Hành Giả nói:

- Sư phụ đã cùng họ đàm đạo ngâm thơ, vậy sư phụ không hỏi tên họ sao?

Tam Tạng nói:

- Ta cũng có hỏi tên bọn họ. Cái ông già ấy gọi là Thập Bát Công, hiệu là Kinh Tiết. Người thứ hai là Cô Trực Công, người thứ ba là Lăng Không Tử, người thứ tư là Phất Vân Tẩu; còn cô gái tên là Hạnh Tiên.

Bát Giới hỏi:

- Yêu quái ấy ở đâu? Vừa đi về phương nào?

Cả ba người cùng sư phụ xem xét chỉ thấy một tòa miếu vách đá, trên vách có ba chữ đại tự “Am Mộc Tiên”.

Tam Tạng nói:

- Chính chỗ này đây.

Hành Giả xem xét kỹ lưỡng thì thấy ở đây có một cây đan phong. Lại thấy ở bên kia vách đá còn có một cây hạnh già, một cây lạp mai, và hai cây đan quế. Hành Giả cười hỏi:

- Chú đã nhìn thấy yêu quái chưa? Bát Giới đáp:
- Chưa.

Hành Giả nói:
- Chú không biết. Chính là mấy cây gỗ thành tinh đây này. Bát Giới hỏi:
- Tại sao anh biết đó là mấy cây gỗ thành tinh? Hành Giả đáp:
- Thập Bát Công là cây tùng, Cô Trực Công là cây bách, Lăng Không Tử là cây gội, Phất Vân Tẩu là cây trúc, tên quỷ mình trần là cây phong, Hạnh Tiên là cây hạnh, tiểu đồng gái là cây đan quế, và cây lạp mai.

Bát Giới nghe xong, bất luận hay dở, dùng đinh ba bổ một chập, lấy mõm dài dũi năm cái, làm cho mấy cây lạp mai, đan quế, lão hạnh, phương dương đổ lăn kềnh trên mặt đất, quả nhiên thấy máu tươi đầm đìa nơi gốc. Tam Tạng bước tới ngăn lại nói:

- Ngộ Năng, đừng đánh chết họ! Họ tuy thành tinh nhưng chưa hề hại ta. Chúng ta tìm đường đi thôi.

Hành Giả nói:

- Sư phụ đừng thương tiếc chúng, sợ sau này chúng thành quái già, hại người không nhỏ đâu.

Chú ngốc được thể, bổ một chập đinh ba nữa, khiến cho mấy cây gội, bách, trúc, tùng bật cả rễ lên, rồi mới mời sư phụ lên ngựa. Theo đường lớn cả đoàn tiếp tục sang phương Tây.

Cuối cùng không biết chuyến đi sắp tới ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI THỨ SÁU MƯƠI LĂM Yêu ma bày đặt Lôi Âm giả Thầy trò đều gặp ách nạn to
Nhân quả hồi này, Khuyên người làm thiện, Nhất thiết đừng làm việc ác,
Một niệm sinh, thần minh chứng giám, Cứ mặc mà làm thiện.
Ngu xuẩn ngạnh ương sao anh học?

Cả hai đều vẫn thuốc vô tâm Lúc sống, việc đạo phải tu hành. Đừng lênh đênh,
Nhận căn nguyên Thoát bản xác Muốn trường sinh Nên nắm chắc
Phải luôn luôn sáng suốt, Đê hồ rót uống luô  [278]
Quán triệt tam quan lấp biển đen.

Để cho người thiện cưỡi loan hạc,

Nơi ấy đáng thương càng từ bi, lên miền cực lạc.

Lại nói chuyện Đường Tam Tạng một lòng thành kính, chưa
nói đến việc thiên thần bảo hộ, mà cả đến cỏ cây linh thiêng cũng tới dẫn đưa, qua một đêm hội đẹp, thoát khỏi núi gai góc rậm rì, qua khỏi miền dây leo chằng chịt. Bốn thầy trò lại tiếp tục sang phương Tây, đi được một dạo lâu, gặp lúc đông tàn, đụng độ ba xuân:

Vật hoa hồi giao thái, Cán sao quay hướng Dần, Búp cỏ khắp đồng xanh, Chồi liễu ven đê thắm
Khắp núi hoa đào như phơi gấm

Nửa khe hoa khói lụa trong xanh.

Mưa gió lất phất buông mành

Mối tâm tình vô hạn Trời nắng hoa xán lạn Én ngậm rêu nhẹ bay
Cảnh núi đẹp tựa tranh Vương Duy

Tiếng chim líu lo giọng Quý Tử. Hoa hương sắc không người thưởng dự Bướm múa, ong ca thật hữu tình.
Bốn thầy trò tìm hoa đạp cỏ, vó ngựa khoan khoan. Đang đi, bỗng thấy một ngọn núi cao, xa trông như chạm tới trời. Tam Tạng giơ roi chỉ, nói:

- Ngộ Không ơi, ngọn núi kia không biết cao tới chừng nào mà như chạm tới trời xanh, tiếp liền tiêu hán.

Hành Giả nói:

- Thơ cổ chẳng có câu: “Chỉ có trời trên hết, núi nào cũng chẳng bằng” là gì. Núi dù có cao tới đâu, cũng không thể sánh
với trời, làm sao lại liền trời được.

Bát Giời nói:

- Nếu không liền trời, thì sao lại gọi núi Côn Luân là “trụ trời”?

Hành Giả nói:

- Chú không biết. Từ xưa “trời không kín ở góc tây bắc”, núi Côn Luân mọc ở góc Càn hướng tây bắc, có nghĩa là chống trời lấp chỗ trống, nên có tên là “trụ trời”.

Sa Tăng cười, nói:

- Sư huynh đừng nói câu chuyện hay này cho anh ấy nghe, anh ấy nghe xong lại đi lòe người khác. Chúng ta cứ đi thôi, tới đỉnh núi sẽ biết cao thấp ngay.

Chú ngốc đuổi bắt Sa Tăng đấm đá nô đùa. Ngựa của sư phụ phi như bay, một lát sau đã tới chân núi. Cả bọn từng bước đi lên. Chỉ thấy ngọn núi ấy:

Trong rừng gió vi vút, Đáy khe nước rì rào
Chim bay qua chẳng đặng Thần tiên cũng khó vào Muôn vách nghìn hang hốc, Trăm suối vạn đèo cao.
Bụi cuốn người không vết, Đá lởm chởm ghế sao?
Xứ ấy mây vờn soi bóng nước, Phương kia chim hót giọng thấp cao. Hươu ngậm cỏ chi, co cẳng chạy,
Vượn vin đào chín  chẳng ai rào. Cầy cáo lại qua leo vách nhảy, Hươu nai ẩn hiện đỉnh non  cao. Bỗng nghe hùm thét người run rẩy, Báo đốm lang xanh chặn lối vào.
Đường Tam Tạng thấy vậy sợ hãi. Tôn Hành Giả thần thông quảng đại, rút ngay cây gậy sắt nạm vàng, hét vang một tiếng, bọn lang trùng hổ báo đều khiếp sợ hết. Hành Giả mở đường, dẫn sư phụ trèo thẳng lên núi cao, vượt qua đỉnh núi, đi xuống phía Tây bằng phẳng, bỗng thấy hào quang rực rỡ, khí đẹp huy hoàng, một khu lâu đài điện các ẩn hiện, tiếng chuông khánh thánh thót ngân nga. Tam Tạng nói:

- Đồ đệ ơi, các con nhìn xem kia là xứ gì nhỉ?

Hành Giả ngảng đầu, lấy tay che ánh nắng chói, xem xét kỹ càng, thấy phía ấy thật là một nơi tốt lành:

Lầu vàng cung tỏa ngọc, Chùa nức tiếng dồn vang.
Vi vút gió lùa hang, Ngan ngát hương tịch mịch,
Tùng thắm đượm mưa che gác ngất, Trúc xanh mây phủ rợp giảng đường Long cung ráng đẹp chiếu mênh mang. Hào quang rực rỡ trùm sa giới
Lầu son và gác tía Cột chạm với kèo hoa Giảng kinh hương ngát tòa
Đọc sách trăng lồng bóng Chim kêu trên núi thẳm Hạc uống nước khe sâu
Vườn Kỳ Viên hoa nở muôn màu Thành Xá Vệ mở toang sáng sủa Lâu đài chót vót bên sườn đá
Chuông khánh ngân nga vẳng lầu không.

Cửa mở gió lùa song, Rèm treo vờn mây khói Vị tu thiền sảng khoái
Y thoát tục lâng lâng

Cõi tiên chẳng vướng chút bụi trần

Tịch Thổ nơi đây đạo tràng tuyệt!

Hành Giả xem xong, quay lại nói:

- Sư phụ ạ, nơi ấy là một tòa tự viện, nhưng không hiểu sao trong đám khí lành hào quang ấy lại có chút hung khí? Xem cảnh tượng này thì chính là chùa Lôi Âm, nhưng đường lối thì không phải. Chúng ta đến đấy, chớ có tự tiện bước vào phòng ngừa gặp hung thủ.

Đường Tăng nói:

- Đã là cảnh chùa Lôi Âm, mà lại không phải Linh Sơn sao? Con chớ có nghi ngờ tấm lòng thành của ta làm lỡ cả ý muốn đến đấy của ta.

Hành Giả thưa:

- Không phải! Không phải! Đường đến Linh Sơn, con cũng đã đi qua mấy lần, không phải thế này đâu!
Bát Giới nói:

- Dù không phải, thì cũng là chỗ ở của người tốt. Sa Tăng nói:
- Bất tất phải đa nghi. Đằng nào đi đường cũng không tránh khỏi việc qua cửa ấy. Đúng hay sai, cứ tới khắc biết.

Hành Giả nói:

- Ngộ Tĩnh nói có lý đấy.

Tam Tạng bèn vung roi quất ngựa phóng thẳng tới cửa chùa thấy ba chữ đại tự “Chùa Lôi Âm”, tức thì sợ quá, ngã lăn xuống đất, miệng chửi bới:

- Con khỉ già khốn kiếp kia! Nhà ngươi giết chết ta rồi, rõ ràng ba chữ “Chùa Lôi Âm” mà vẫn nói dối ta!

Hành Giả cười ngất, nói:

- Sư phụ đừng buồn, cức đọc lại xem nào. Trên cửa là bốn chữ, sư phụ đọc thành ba, rồi trách con?

Tam Tạng run rẩy lồm cồm bò dậy nhìn lại, thấy rõ ràng là bốn chữ “Chùa Tiểu Lôi Âm”, bèn nói:

- Đúng là chùa Tiểu Lôi Âm, thì chắc chắn cũng phải có Phật tổ ở trong. Trong kinh có nói ba nghìn chữ Phật, chẳng lẽ ở cả một phương? Như đức Quan Âm ở Nam Hải, đức Phổ Hiền ở Nga Mi, đức Văn Thù ở Ngũ Đài. Đây không biết là đạo tràng của vị phật tổ nào. Người xưa nói: “Có Phật có kinh, chẳng phương nào là không có báu vật”, chúng ta vào đi thôi!

Hành Giả can ngăn:

- Đừng vào. Chỗ này lành ít dữ nhiều. Nếu có tai họa, đừng có trách con.

Tam Tạng nói:
- Không có Phật thì cũng có tượng Phật. Đệ tử tôi đã phát nguyện: Gặp Phật bái Phật, không trách gì con đâu.

Bèn sai Bát Giới lấy áo cà sa, đội mũ tỳ lư, áo mũ chỉnh tề khoan thai bước vào. Bỗng thấy phía trong cửa chùa có tiếng người quát, hỏi:

- Đường Tăng, nhà ngươi từ phương Đông tới đây bái kiến đức Phật ta, tại sao còn trễ nải như thế?

Tam Tạng nghe nói, lập tức sụp xuống lạy. Bát Giới cũng dập đầu. Sa Tăng cũng quỳ gối. Chỉ có mình Đại Thánh dắt ngựa, thu xếp hành lý ở đằng sau.

Vào tới tầng cửa thứ hai là Như Lai đại điện. Dưới chân bảo đài bên ngoài cửa thấy đứng năm trăm vị La Hán, ba nghìn vị Yết Đế, bốn vị Kim Cương, tám vị Bồ Tát, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, và vô số thánh tăng, đạo sĩ. Thực là hương hoa ngào ngạt, khí đẹp chan hòa. Tam Tạng sợ quá vội vàng cùng Bát Giới, Sa Tăng đi một bước lạy một bước, chạy tới tận Linh đài. Hành Giả vẫn điềm nhiên chẳng lạy. Bỗng nghe thấy từ trên tòa sen có tiếng quát vang:

- Tên Tôn Ngộ Không kia, tại sao thấy Như Lai mà không lạy?

Không ngờ Hành Giả quan sát kỹ lưỡng, biết hết thật giả, bèn bỏ cả con ngựa, hành lý, rút gậy sắt ra lăm lăm trong tay, quát lớn:

- Đồ yêu quái nghiệt súc kia! Chúng bay thật to gan dám giả danh cả Phật tổ, làm bại hoại cả đức sáng Như Lai! Chớ có chạy!

Đoạn hai tay múa gậy sắt, xông lên toan đánh. Bỗng nghe thấy từ trên không trung đánh xoảng một tiếng, một cái não bạt bằng vàng rơi xuống, từ đầu tới chân Hành Giả bị nhốt trong đó. Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng sợ quá, vội vàng rút đinh ba, bảo
trượng liền bị số A La Hán, Yết Đế, thánh tăng, đạo sĩ, xông cả vào vây chặt, hai người không kịp trở tay, đều bị bắt sống.



Bọn chúng bắt cả Tam Tạng, lấy dây trói chặt tất cả mấy người lại. Nguyên tên giả danh Phật tổ ngồi trên tòa sen là một ma vương, số A La Hán đều là tiểu yêu cả. Bọn chúng bèn thu thế tượng Phật tổ, hiện rõ nguyên hình, khiêng ba người giam giữ ở phía sau. Nhốt Hành Giả trong não bạt không mở ra làm gì, rồi cất trên bảo đài, hết hạn ba ngày ba đêm là sẽ hóa ra máu dịch hết. Đợi Hành Giả chết rồi, bọn chúng mới đem ba người bỏ lò quay chín mang đánh chén. Thật là:

Hành Giả mắt tinh biết rõ rành Đường Tăng thấy tượng lạy cho nhanh. Sa Tăng mù quáng hùa theo lạy,
Bát Giới ngu si vội cúi mình.
Yêu quái ra oai lừa bản tính, Ma vương tính ác dối thiên linh. Thực là đạo nhỏ yêu ma lớn,
Lầm gặp bàng môn, uổng phí mình.

Lúc đó, bọn yêu ma đem ba thầy trò Đường Tăng nhốt ở đằng sau, buộc cả con ngựa ở trong ấy. Nhét áo cà sa, mỹ tỳ lư vào trong gói hành lý cất một chỗ, rồi đề phòng cẩn mật, chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện Hành Giả bị nhốt vào trong chiếc não bạt bằng vàng, tối om om, nóng nực đến nỗi mồ hôi vã ra như tắm, xô phải đẩy trái, không sao thoát ra được, vội vàng cầm gậy sắt đánh loạn xạ, nhưng cũng chẳng động đậy một ly. Hành Giả chẳng biết làm cách nào, bèn giãy giụa lao ra bên ngoài, định phá vỡ não bạt, tay bắt quyết miệng đọc chú, thân người tức thì dài tới trăm nghìn trượng, chiếc não bạt cũng theo thân người dài ra, không hề le lói một chút ánh sáng nào. Hành Giả lại bắt quyết, niệm chú biến thân người nhỏ lại bằng hạt cải, chiếc não bạt cũng theo thân người nhỏ lại, không một chút lỗ hổng. Hành Giả lại giơ gậy sắt thổi khí tiên, hô “biến”, liền biến thành như một cây cán cờ, chống nắp não bạt lên, đoạn sờ vào đám lông tơ ở sau gáy, chọn sợi dài, nhỏ hai sợi, hô “biến”, biến thành một bông hoa mai năm cánh như mũi khoan, bắt vào đốc cây gậy, khoan xuống trăm nghìn lần, nhưng chỉ nghe thấy tiếng khoan xoang xoảng, chẳng thủng một ly nào Hành Giả lại vội vàng bắt quyết, niệm chú câu “Úm-lam-tĩnh-pháp-giới, càn-nguyên-hanh- lợi-trinh”, gọi hết Ngũ Phương Yết Đế, Lục Đinh Lục Giáp, cùng mười tám vị Hộ giáo Già Lam đến cả bên ngoài não bạt.

Các vị thần hỏi:

- Thưa Đại Thánh, chúng tôi đang hộ vệ sư phụ ngài, không để cho yêu ma hãm hại, vậy ngài gọi chúng tôi đến có việc gì?
Hành Giả đáp:

- Sư phụ tôi không nghe tôi khuyên giải, cho ông ấy chết cũng đáng đời! Nhưng các người phải mau mau tìm cách mở được cái não bạt này cứu thoát tôi, thì tôi mới có cách xử trí. Trong này chẳng có một tý ánh sáng, người tôi nóng bức lắm, để tôi chết à?

Các thần xúm vào nhấc chiếc não bạt lên, nhưng não bạt như mọc rẽ, không nhúc nhích một ly. Kim Đầu yết đế nói:

- Đại Thánh ạ, chiếc não bạt này không biết là thứ bảo bối gì, từ trên xuống dưới hợp thành một khối, bọn thần sức yếu, không sao nhấc nổi.

Hành Giả nói:

- Tôi ở trong này, trổ không biết bao nhiêu phép thần thông cũng chẳng nhúc nhích.

Yết Đế nghe nói, bèn sai thần Lục Đinh hộ vệ Đường Tăng, thần Lục Giáp trông giữ não bạt, các vị Già Lam quan sát sau trước, còn mình nhảy vút lên đám mây lành, một lát sau đã lên tới cửa Nam Thiên chẳng đợi tuyên chiếu, vào thẳng điện linh tiêu yết kiến Thượng Đế, phủ phục xuống tâu:

- Tâu chúa công, thần là Ngũ Phương yết đế sứ, nay có Tề Thiên Đại Thánh hộ vệ Đường Tăng đi lấy kinh, dọc đường gặp một trái núi tên gọi chùa Tiểu Lôi Âm, Đường Tăng nhận lầm là Linh Sơn vào bái Phật, nhưng chính là do yêu ma bày đặt ra để hãm hại thầy trò họ, nhốt Đại thánh vào trong chiếc não bạt bằng vàng, tiến thoái vô phương, xem ra sắp chết, vậy thần tâu rõ cho chúa công biết.

Thượng Đế lập tức ra lệnh:
- Sai hai mươi tám vị tinh tú mau xuống hàng yêu giải ách. Các vị tinh tú, không dám chậm trễ, theo Yết Đế ra khỏi cửa
trời, xuống ngay cổng chùa. Lúc ấy khoảng canh hai, yêu tinh
lớn bé, do bắt được Đường Tăng, được lão yêu khao thưởng, con nào con ấy lăn quay ra ngủ. Các vị tinh tú không dám làm kinh động, tới bên não bạt nói:

- Thưa Đại Thánh, chúng tôi là hai mươi tám vị sao được
Thượng Đế sai xuống cứu ngài.

Hành Giả nghe mừng lắm, nói:

- Cứ lấy binh khí đập vỡ để lão Tôn chui ra! Các vì sao nói:
- Không dám đánh đâu. Vật này là thứ bảo bối làm toàn bằng vàng, đập vào tất kêu vang, kinh động tới yêu ma, càng thêm khó cứu. Để chúng tôi dùng binh khí nhấc nó lên. Đại Thánh ở trong đó thấy chỗ nào có ánh sáng thì chui ra.

Hành Giả nói:

- Được rồi.

Các vị sao bên người có thương dùng thương, người có kiếm dùng kiếm, người có đao búa dùng đao búa, khiêng khiêng bẩy bẩy thì hục đến canh ba, chiếc não bạt vẫn không nhúc nhích, vẫn là một vật đúc nguyên vẹn chẳng suy chuyển tí gì. Hành Giả ở bên trong, ngó đông nhìn tây, lăn qua bò lại vẫn chẳng hề nhìn thấy chỗ nào có ánh sáng lọt vào.

Cang Kim Long nói:

- Đại Thánh đừng sốt ruột, xem ra bảo bối này chắc là vật như ý, có thể biến hóa được. Đại Thánh ở trong ấy sờ tìm vào những đường ghép để tôi lấy sừng khoan vào. Đại Thánh biết biến hóa, theo lỗ ấy mà chui thoát ra nhé!

Hành Giả nghe lời, sờ soạng loạn xị ở bên trong. Vị sao ấy biến thân nhỏ lại, dùng chiếc sừng nhọn hoắt như một mũi kim lựa theo chỗ ghép nối của chiếc não bạt xoáy vào trong. Vị sao dùng hết sức ngàn cân của mình xuyên vào, mới chọc thủng
được vào bên trong, đoạn dùng cả bản thân và chiếc sừng làm phép, hô “Dài! Dài! Dài!”, chiếc sừng bèn dài ra, to bằng miệng bát. Nhưng chỗ thủng của cái não bạt lại không giống đồ đúc bằng vàng khác, tựa như da thịt nở ra khít liền vào, ngậm chặt vào quanh chiếc sừng của Cang Kim Long, từ phía không một khe hở. Hành Giả sờ vào sừng của Cang Kim Long nói;

- Không xong rồi! Trên dưới chẳng có tý lỗ thủng nào cả. Thôi ngài đành chịu đau một tý mang tôi ra vậy.

Đại Thánh lập tức biến cây gậy sắc thành một chiếc khoan sắt, khoan một lỗ nhỏ ở mũi sừng, biến thân hình bé như hạt cải, ngồi gọn trong lỗ khoan, cất tiếng nói:

- Rút sừng ra đi! Rút sừng ra đi!

Vị sao mất không biết bao nhiêu sức lực mới rút được sừng ra, do dùng quá sức đến nỗi gân cốt mềm nhũn, ngã lăn ra đất.

Hành Giả từ trong lỗ khoan ở mũi sừng nhảy ra, hiện nguyên hình, rút ngay gậy nhằm chiếc não bạt đập choang một phát, khác nào núi đồng sụp lở, mỏ vàng vỡ tung. Đáng thương thay, bảo khí ở cửa nhà Phật bị đập vỡ vụn thành muôn nghìn mảnh khiến cho hai mươi tám vị sao hoảng vía, Ngũ Phương Yết Đế kinh hồn. Bọn yêu quái lớn nhỏ đều giật mình tỉnh dậy. Lão ma vương đang ngủ cũng giật mình, vội chồm dậy mặc áo nổi trống tập hợp yêu quái, con nào con nấy lăm lăm khí giới. Lúc này trời đã tờ mờ sáng. Lão yêu vương đuổi tới chân bảo đài thấy Tôn Hành Giả và các vị sao đứng vòng trong vòng ngoài xung quanh chiếc não bạt bị đánh vỡ tan từng mảnh, thì cả sợ tái mặt, lập tức ra lệnh:

- Bọn nhỏ, đóng chặt cửa trước lại, không được để chúng thoát!

Hành Giả nghe ma vương nói như vậy, vội vàng cùng các vị sao nhảy vút lên tận chín tầng mây. Ma vương nhặt nhạnh mảnh
vàng vụn, đoạn dàn bọn tiểu yêu bày trận trước cửa chùa.

Ma vương căm giận lắm, nai nịt gọn gàng, cầm một cây Lang nha bổng ngắn, mềm, bước ra cửa doanh lớn tiếng quát:

- Tôn Hành Giả! Bậc nam nhi không nên cao chạy xa bay, mau lại đây cùng ta giao chiến ba hiệp!

Hành Giả không kìm được cùng dẫn các vị sao hạ mây bước xuống xem xét yêu tinh hình thù ra sao. Chỉ thấy:

Tóc xõa rối bay tung, Vàng vàng quấn mỏng dính. Mắt lấp la lấp lánh,
Lông mày vàng uốn quanh.

Mũi túi mật rủ thòng, Hãi lỗ to thông thống.
Mồm hình vuông chằn chặn Răng nhọn hoắt sáng xanh Áo thụng xõa xung quanh Lưng thắt sợi tơ nõn,
Chân hài da đen sẫm

Gậy lang nha tay cầm, Vừa giống người vừa không, Khác thú, mà như thú!
Hành Giả giơ thẳng cây gậy sắt quát lớn, hỏi:

- Nhà ngươi là yêu quái nào mà dám giả trang làm Phật tổ, chiếm cứ vùng núi này, bày đặt ra chua Tiểu Lôi Âm như vậy?

Ma vương đáp:

- Con khỉ kia không biết tên họ ta, cho nên mới phạm tới núi
tiên. Chốn này gọi là Tiểu Tây Thiên. Còn ta do tu hành đắc đạo, nên trời ban cho ta gác ngọc lầu vàng. Tên ta là Hoàng Mi Lão Phật, người vùng này không biết vẫn gọi ta là Hoàng Mi đại vương, Hoàng Mi gia gia. Từ lâu ta đã biết nhà ngươi sang phương Tây, có chút tài, nên ta mới trổ tài bày đặt, quyến rũ thầy trò nhà ngươi vào, và muốn thách đấu với nhà ngươi. Nếu nhà ngươi thắng được ta, thì ta tha cho thầy trò nhà ngươi, để cho các người tu thành chính quả. Bằng không ta sẽ giết chết các ngươi, tự ta sẽ đi gặp Như Lai để lấy kinh, để thành chính quả ở Trung Hoa

Hành Giả cười, nói:

- Yêu quái chớ có ba hoa khoác lác! Thích đấu thì lại đây nếm thử một gậy!

Ma vương mừng hớn hở, giơ gậy lang nha lên đón đỡ. Trận đánh rất dữ dội:

Hay cây gậy chẳng giống nhau, Là do hình dáng sắc màu mà lên Một bên gậy Phật ngắn bền,
Một bên sắt cứng giữa miền biển xa.

Cả hai biến hóa tài hoa,

Phen ngày gặp gỡ quyết ra tranh tài

Lang nha như gấm đẹp tươi

Gậy sắt cứng chắc như loài giao long

Nhỏ to thay đổi tùy lòng

Ngắn dài, bấm quyết hai đằng ra oai

Khỉ ma quyết chí đua tài,

Trận này khủng khiếp ai người nói ngoa
Khỉ kia theo đạo giỏi mà

Ma vương xảo trá dối lừa trời cao

Hầm hầm chẳng chút tình nào Hùng hùng hổ hổ xông vào đánh ngay Kẻ kia chẳng chút nhẹ tay
Người này cũng chẳng mảy may chịu nhường.

Nhả mây tối đất đen đường

Phun mù lam chướng bốn phương đất bằng

Hai gậy đánh đỡ càng hăng

Quên chết cũng bởi Đường Tăng thôi mà!

Hai người đánh nhau đến năm mươi hiệp không phân thắng bại. Ngoài cửa chùa, bọn tiểu yêu đánh trống gõ chiêng, phất cờ hò hét. Bên này hai mươi tám vị sao cùng Ngũ Phương yết đế, ai nấy đều vác binh khí quát vang một tiếng, xông vào vây chặt ma vương vào giữa. Bọn tiểu yêu ngoài cổng chùa thấy vậy, sợ hãi run rẩy, chân tay mềm nhũn chẳng thể gõ trống khua chiêng nổi.

Ma vương vẫn điềm nhiên chẳng sợ, một tay sử dụng lang nha bổng đánh đỡ với mọi người, còn một tay thò vào mạng sườn lấy ra một chiếc túi bằng vải trắng cũ, ném vút lên không, khẽ rào một tiếng, cuốn tất cả Tôn Hành Giả, hai mươi tám vị sao, Ngũ Phương yết đế vào trong túi, đoạn ma vương vác túi lên vai, rảo bước trở về. Yêu quái lớn nhỏ, con nào con nấy khoái chí vì thắng lợi cũng về theo. Ma vương sai bọn tiểu yêu lấy dăm chục sợi dây gai, cởi miệng túi, bắt từng người trói nghiến lại. Ai nấy xương nhũn gân tê, thịt da lõm xuống. Bọn tiểu yêu trói xong, khiêng cả về đằng sau, bất kể sang hèn, đều quẳng cả xuống đất. Sau đó ma vương sai bày tiệc ăn uống suốt từ sáng đến tối mới tan, ai nấy về buồng nghỉ ngơi, chuyện không nói nữa.



Lại nói chuyện Tôn Đại Thánh và các thần bị trói tới nửa đêm, bỗng nghe thấy tiếng khóc bi thiết. Đại Thánh lắng tai nghe thì hóa ra là tiếng khóc của Tam Tạng.

Tam Tạng khóc than rằng:

- Ngộ Không ơi!

Ta hối hận chẳng nghe con

Để nay đến nỗi sa vòng tai vương.

Con trong não hạt hết đường

Còn ta cũng chịu thảm thương trói ghì

Số thầy rò chẳng ra gì

Ba nghìn công quả đến thì suy vong.

Cách nào thoát khỏi nạn cùng.

Tây phương đường phẳng thong dong theo về?
Hành Giả nghe lời than, trong lòng thương xót, nói:

- Sư phụ dẫu chẳng nghe lời ta, nhưng trong lúc gặp nạn, vẫn nhớ tới lão Tôn. Ta phải nhân lúc đêm khuya yêu quái ngủ cả, không phòng bị gì, đi cứu thoát mọi người đã.

Nói xong, bèn dùng phép độn thân, làm cho mình nhỏ lại, tụt ra khỏi sợi dây trói, bước tới bên Đường Tăng, cất tiếng gọi:

- Sư phụ ơi!

Tam Tạng nhận ra giọng Ngộ Không, bèn hỏi:

- Con làm cách nào đến được đây thế?

Hành Giả thì thầm kể hết mọi việc cho Tam Tạng nghe. Tam
Tạng mừng lắm, nói:

- Đồ đệ mau cứu ta với! Từ nay về sau, mặc con xử trí, ta không dám cưỡng nữa đâu!

Hành Giả lúc ấy mới ra tay, cởi trói cho sư phụ, thả cả Bát Giới, Sa Tăng, cùng hai mươi tám vị sao, Ngũ Phương yết đế, ai nấy đều được giải thoát hết. Hành Giả lại dắt con ngựa đến, bảo phải đi ra ngay. Cửa vừa mở, nhưng không biết hành lý để ở chỗ nào, Hành Giả lại quay vào tìm.

Cang Kim Long nói:

- Sao ngài trọng của khinh người thế? Cứu được sư phụ là tốt rồi, lại còn quay vào tìm hành lý làm gì?

Hành Giả nói:

- Người cố nhiên là trọng, nhưng y bát lại càng trọng hơn. Trong tay nải còn có cả tờ điệp văn, cà sa gấm, bát tộ vàng, đó đều là những vật chí bảo của nhà Phật, tại sao lại không cần?

Bát Giới nói:

- Sư huynh cứ vào tìm đi, còn chúng em ra đường cái đợi sư huynh.
Lúc ấy các vị sao dùng phép nhiếp thân, xúm vào dìu đỡ Đường Tăng, lại trổ thần thông hóa thành một trận gió đưa cả ra ngoài tường, chạy thẳng tới đường cái, đi xuống sườn núi, tìm chỗ bằng phẳng chờ đợi.

Vào khoảng canh ba, Tôn Đại Thánh khẽ khẽ rón rén bước vào bên trong. Lúc này mọi tầng cửa đều đóng chặt im ỉm. Đại Thánh bèn bò lên lầu cao xem xét, thấy các cửa sổ cũng đóng kín cả, muốn đi trở xuống lại sợ then cửa cọt kẹt, không dám đẩy ra. Hành Giả bèn bấm quyết niệm chú, lắc mình một cái, biến thành một con chuột tiên, lục tục gọi là con dơi. Trông hình dạng:

Đầu nhọn khác nào chuột, Mắt cũng sáng như sao Tối trời giang cánh lượn, Sáng ngày trú cho mau
Ẩn mình trong kẽ ngói

Bắt muỗi kiếm ăn lâu Thích nhất đêm trăng sáng Bay lượn khắp trời cao
Hành Giả theo khe gỗ dưới mái ngói chui xuống, vượt cửa qua phòng vào thẳng giữa nhà xem xét, thấy dưới cửa sổ tầng lầu thứ ba hào quang phát ra rực rỡ. Thứ hào quang đó không phải là thứ ánh sáng nến đèn, không phải là ánh sáng đom đóm, cũng không phải là ánh sáng ráng mây, ánh sáng của sấm chớp. Hào quang như bay như nhảy, đến gần cửa sổ nhìn, thì hóa ra là hào quang từ tay nải phát ra. Yêu tinh đã lôi cả áo cà sa của Đường Tăng ra, nhưng không xé, rồi lại nhét bừa vào trong tay nải. Áo cà sa vốn là bảo bối của nhà Phật, bên trên áo có ngọc như ý, ngọc ma ni, mã não đỏ, san hô tía, hạt xá lỵ, ngọc dạ
minh, nên mới phát sáng rực rỡ như thế. Hành Giả thấy y bát, trong lòng mừng lắm, bèn hiện nguyên hình, vồ luôn lấy, cũng chẳng đểy ý dây lệch hay cân, gánh ngay lên vai, đi xuống dưới nhà. Không ngờ một đầu bị tuột dây, chiếc tay nải rơi đánh phịch xuống đất. Lão yêu đang ngáy khò khò ở dưới lầu, tiếng tay nải rơi làm hắn giật mình tỉnh dậy, chồm ngay lên hô hoán:

- Có trộm! Có trộm!

Yêu quái lớn nhỏ đều dậy cả, chúng đốt đèn châm lửa, hò hét ầm ĩ, tìm trước tìm sau. Bỗng có tên tới báo:

- Đường Tăng chạy mất rồi! Lại có tên tới báo:
- Hành Giả và những tên khác cũng chạy cả rồi! Lão yêu vội vàng truyền lệnh:
- Các cửa phải canh giữ cần thận!

Hành Giả nghe nói, sợ lại vấp phải cạm bẫy của chúng, không dám gánh hành lý, co người nhảy vút qua cửa sổ chạy miết.

Yêu tinh tìm khắp trước sau, không thấy bọn Đường Tăng đâu, lại thấy trời sắp sáng, bèn vác gậy, dẫn bọn tiểu yêu đuổi theo, đã thấy bọn hai mươi tám vị sao Ngũ Phương yết đế, mây khói cuồn cuộn, đang đứng ở sườn núi. Ma vương quát vang:

- Chạy đi đâu! Ta đã đến đây! Vị sao Giác Mộc Giả vội hô to:
- Các anh em, yêu quái đã đến!

Thế là hai mươi tám vị sao gồm: Cang Kim Long, Nữ Thổ Bức, Phòng Nhật Thố, Tâm Nguyệt Hồ, Vĩ Hỏa Hổ, Cơ Thủy Báo, Đẩu Mộc Giai, Ngưu Kim Ngưu, Để Thổ Lạc, Hư Nhật Thử, Nguy Nguyệt Yến, Thất Hỏa Trư, Bích Thủy Du, Khuê Mộc  Lang,  Lâu  Kim  Cẩu,  Vị  Thổ  Trệ,  Mão  Nhật  Kê,  Tất
Nguyệt Ô, Chủy Hỏa Hầu, Sâm Thủy Viên, Tỉnh Mộc Hầu, Quỷ Kim Dương, Liễu Thổ Chương, Tinh Nhật Mã, Trương Nguyệt Lộc, Dực Hỏa Xà, Chẩn Thủy Dẫn đem các vị thần Kim Đầu yết đế, Lục đinh Lục giáp, Hộ giáo Già Lam cùng Bát Giới, Sa Tăng để Đường Tam Tạng và con ngựa bạch lại, còn ai nấy cầm chắc binh khí, xông ùa cả lên.

Ma vương thấy vậy, khà khà cười nhạt, thổi một tiếng còi, bốn năm nghìn con yêu tinh lớn nhỏ hùng hùng hổ hổ, xông lên hỗn chiến ở sườn núi phía Tây. Trận đánh thật khủng khiếp:

Ma vương độc ác lừa chân tính Chân tính ôn nhu địch khó là Trăm kế trổ ra không thoát khổ
Nghìn phương điệu dụng chẳng sao hòa

Chư thiên đến ủng hộ Các thánh giúp can qua Bát Giới không nang nể Sa Tăng cũng chẳng tha
Hỗn chiến kinh trời cùng động đất Bao nhiêu thủ đoạn trổ vung ra Bên kia phất cờ và hò hét
Bên này đánh trống gõ thanh la Thương đao xoang xoảng vầng ô lạnh Kiếm kích ầm ầm sát khí da
Tiểu yêu thật dữ tợn Thần binh đến ghê là! Mây sầu che nhật nguyệt
Mù thảm kím sơn hà

Hai bên chịu khổ ra công đánh

Chỉ tại Đường Tăng bái Phật mà!

Ma vương thêm phần dũng mãnh, dẫn bọn tiểu yêu xông lên quyết đánh. Đang lúc bất phân thắng bại, bỗng nghe Hành Giả quát vang:

- Lão Tôn đã đến!

Bát Giới chạy lại đón hỏi:

- Hành lý thế nào? Hành Giả đáp:
- Đến tính mạng lão Tôn còn suýt toi, còn hỏi hành lý! Sa Tăng vác bảo trượng, nói:
- Thôi đừng bàn bạc nữa, mau đi đánh yêu quái đã.

Các vị sao cùng các thần Yết Đế, Lục Đinh Lục Giáp bị bọn tiểu yêu vây chặt vào giữa. Lão yêu vác gậy xông vào đánh cả bọn họ. Hành Giả, Bát Giới, Sa Tăng múa gậy sắt, bảo trượng, đinh ba lao vào đánh đỡ. Thật là trời đất tối sầm, không sao thắng được. Đánh nhau mãi tới lúc mặt trời lặn xuống non Tây, mặt trăng phương Đông đã hiện, ma vương thấy trời tối, bèn thổi một tiếng còi, bảo cho bọn tiểu yêu biết phải để ý, đoạn rút bảo bối ra. Tôn Hành Giả nhìn thấy rõ ràng yêu quái cởi túi cầm trong tay, bèn quát lớn:

- Hỏng rồi, chạy thôi!

Đoạn mặc kệ Bát Giới, Sa Tăng, và các vị thần, co người nhảy vút lên chín tầng mây.

Các vị thần và Bát Giới, Sa Tăng không hiểu ý, bị ma vương tung túi lên không trung, cuốn tất cả vào trong túi, chỉ có một mình Hành Giả chạy thoát.
Ma vương thu quân quay về chùa, sai lấy thừng ra trói tất cả như lần trước. Treo Đường Tăng, Bát Giới, Sa Tăng lên xà nhà, buộc con ngựa vào đằng sau. Các thần ai nấy đều bị trói, quẳng xuống hầm, khóa chặt lại. Bọn tiểu yêu tuân lệnh nhất nhất thi hành. Chuyện không nói nữa.

Lại nói chuyện Tôn Hành Giả nhảy lên không trung thoát chết, thấy bọn tiểu yêu quay về, cờ quạt cuốn lại, biết mọi người đã bị bắt, bèn hạ mây lành bước xuống đỉnh núi phía đông, nghiến  răng  căm  giận,  nước  mắt  lã  chã  nhớ  thương  Đường Tăng, đoạn lại ngửa mặt lên trời, cất tiếng khóc thất thanh ai oán:

- Sư phụ ơi, sư phụ tạo nghiệp truân chuyên từ đời kiếp nào, mà kiếp này mỗi bước đi đều gặp yêu tinh? Hoạn nạn này khó thoát quá, biết làm thế nào bây giờ?

Hành Giả ngồi một mình than thở hồi lâu, rồi định thần suy nghĩ, lòng lại hỏi lòng:

- Không biết cái túi của ma vương là vật gì mà chứa được nhiều người đến thế? Bây giờ các thiên tướng, thiên thần đều bị bắt cả, mình mà lên trời cầu cứu, e Thượng Đế sẽ quở trách. Mình còn nhớ có vị Bắc phương Trấn Vũ, hiệu là Đăng Ma Thiên Tôn hiện đang ở núi Vũ Dương thuộc nam Thiệm Bộ Châu, có lẽ ta phải đến mời ngài ấy đến cứu nạn cho Đường Tăng mới xong.

Thật là:

Tiên đạo chưa thành khỉ ngựa tán, Tâm thần vô chủ ngũ hành khô.
Cuối cùng không biết chuyến đi  này ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét